Ngôn ngữ là phương tiện để con người xuyên qua đó giao tiếp, bằng cách kết hợp các từ ngữ theo các quy tắc rồi nhờ hệ âm thanh phát ra hay dùng ký hiệu diễn đạt thông báo theo thời thường hay sử dụng có tính bác học như thi ca...truyện Kiều...
PHÂN LOẠI
Trong tiếng Việt ta có thể phân làm hai loại là
từ cụ thể và
từ trừu tượng.
1/-Từ cụ thể gọi tên vật, vật đây là đối tượng của ngũ quan, nên âm thanh cũng xem như là vật. Giác quan khi tập trung vào đâu thì vật rõ ra có thể là con trâu hay cái sừng lúc lắc, cái đuôi đong đưa…; loại từ này lại chia làm hai nhóm:
-Nhóm thứ nhất gọi là
từ cụ thể vô cảm, chỉ để gọi tên vật và không mang một ý nghĩa nào khác, ví dụ như: chó,mèo,nhà, cửa, vàng, xanh…
-Nhóm thứ hai là
từ cụ thể hữu cảm khi gọi lên cho ta một cảm giác hay cảm xúc ngay, ví dụ như “ giọt mưa tí tách “ , tạo sự hữu cảm về âm thanh khi gợi lên từ tí tách do ghi nhận của lỗ tai và khi “ rầu rầu ngọn cỏ…” cũng là từ hữu cảm khi gợi lên “ rầu rầu” cho ta thấy trạng thái của ngọn cỏ có chất chứa cảm xúc của người nhìn cỏ.
2/-Từ trừu tượng cũng chia làm hai nhóm:
-Nhóm thứ nhất gọi là
từ trừu tượng khái niệm, để nói lên một khái niệm như: đất nước, quê hương, dân tộc, văn hóa, khoa học, tôn giáo…
-Nhóm thứ hai là
từ trừu tượng tâm trạng không tả cảnh vật mà chú ý vào diễn tả tâm trạng của con người, như: băn khoăn, bứt rứt, bịn rịn, ngẩn ngơ, bẽ bàng…
Nhìn vào cách phân loại, ta có thể thấy được tiếng Việt ta rất phong phú về
từ cụ thể hữu cảm và
từ trừu tượng tâm trạng và chỉ nghèo về
từ trừu tượng khái niệm mà thôi… Thừ đọc bốn câu Kiều:
Nao nao dòng nước uốn quanh
Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang
Sè sè nấm đất bên đàng
Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh
Những ( trạng) từ đôi gạch dưới cuả bốn cãu thơ Kiều, không chỉ tả trạng thái của dòng nước, nhịp cầu, nấm đất hay ngọn cỏ, mà còn chất chứa tâm trạng, cảm xúc về kiếp phù sinh của một kiếp người trong cuộc- kiều nhi-
cũng ngao ngán lòng!..., và rồi ta thử dịch ra tiếng nước ngoài sẽ thấy khó như thế nào?!...