Thập thức bảo kiện pháp (Thập thức bảo kiện pháp) là một lộ khí công gồm 10 thức, xuất xứ từ thế kỷ thứ 12, được dùng để :
– Bảo kiện (bảo vệ sức khỏe),
– Trị các bệnh thần kinh,
– Giữ tuổi xuân,
– Chống lão hóa,
– Trị mệt mỏi.
Cho đến nay, sau hơn nghìn năm kinh nghiệm luyện tập, điều trị, giảng huấn, rồi sửa đổi, được xử dụng rộng rãi. Sang thế kỷ thứ 15, các y sư biến cải thành Đào-hoa trường xuân thập nhị thức, dùng cho phụ nữ để trị bệnh, để giữ gìn nhan sắc và kéo dài tuổi xuân.
Thập thức bảo kiện pháp được giảng dạy tại trường ARMA, dành cho các Bác sĩ đã tốt nghiệp đại học y khoa. Lần đầu tiên được giảng dạy trong niên khóa 1979-1980. Sau đó các vị tham dự đem về giảng dạy cho thân chủ, kết quả rất tốt. Rồi mãi tới niên khóa 1986-1987 mới được giảng tại IFA. Trong suốt 24 năm giảng dạy tại Âu-châu, chúng tôi đã rút kinh nghiệm, sửa đổi, để rồi hôm nay đem trình bày tại đây. Năm 1980, đặc san của người cao niên tại Pháp, ăn cắp nguyên văn, không sai một dấu chấm, dấu phẩy ; in lên, đề tên tác giả là một nữ bác sĩ Việt Nam tại Paris. Mà than ôi, bà không biết một chút về Y-Khí công Á châu. ARMA định mang ra tòa, nhưng sau số ấy, thì đặc san chết vĩnh viễn.
1.1. Hiệu năng
- Điều thông khí huyết,
- Phục hồi sinh lực,
- Bảo kiện, gia tăng tuổi thọ.
1.2. Chủ trị
- Trị các bệnh thần kinh : Mất ngủ, hay cáu, trầm cảm, thần kinh suy nhược, khủng hoảng tinh thần. - Phục hồi sức khỏe : Sau khi bệnh nặng. Sau khi giải phẫu, sau khi sinh đẻ. - Trợ điều trị : Trợ giúp bệnh nhân chịu được phản ứng của thuốc, của phóng xạ khi điều trị ung thư, siêu vi gan, SIDA-AIDS. - Bảo kiện : Giữ tuổi xuân lâu dài.
Phương pháp luyện tập rất giản dị, rất dễ. Nhiều người thấy dễ coi thường. Thực tế rất hữu hiệu, đem lại kết quả rất tốt, rất mau. Chỉ cần luyện trong một giờ đầu tiên, đã có kết quả ngay.
2. ĐIỀU KIỆN LUYỆN
2.1. Thời gian luyện
Vậy nên luyện vào lúc nào ? Luyện bao lâu ? Xin thưa nên luyện vào buổi sáng, lúc vừa thức dậy và vào lúc sắp đi ngủ.
– Sáng thức dậy (sau khi làm vệ sinh).
– Trước khi đi ngủ (sau khi làm vệ sinh).
– Luyện một hay hai lần mỗi ngày.
Tuy nhiên đối với những vị có nhiều thời gian rảnh rỗi, thì luyện vào lúc nào cũng được, miễn là không quá 2 giờ một ngày. Luyện nhiều quá kết quả cũng không hơn.
2.2. Tuổi nên luyện
Bất cứ tuổi nào, loại người nào cũng có thể luyện. Nhỏ nhất 6 tuổi, còn già nhất thì không giới hạn.
Chỉnh sửa lần cuối bởi LSB_Vô tình tiên tử: 05-05-2009 lúc 03:30.
Có 3 thành viên đã gửi lời cám ơn đến LSB_Vô tình tiên tử vì bài viết hữu ích này:
Nơi luyện cần :
– Thoáng khí, không có tiếng động.
– Nhiệt độ không nóng quá, không lạnh quá (20-25 độ C).
3.2. Tư thức
– Ngồi trên giường, trên ghế, bỏ thõng chân xuống.
– Trước khi luyện cần giải khai đại tiểu tiện.
– Không nên vừa luyện vừa nghe nhạc, xem TV, đọc sách, nói chuyện hay điện thoại.
– Y phục rộng. Nếu cần cởi bỏ y phục quá chật. Y phục chật làm nghẽn kinh khí.
– Rửa tay, mặt thực sạch. Nếu là các bà, các cô nên lau sạch son phấn trên mặt.
3.3. Nguyên tắc điều khí
Điều khí có nghĩa là điều hòa hơi thở (thở ra và hít vô) khi luyện. Trong khoa khí công thở hít còn gọi là Thổ và Nạp. Thổ nghĩa là thở ra hoặc gọi theo sách cổ Thổ cố (nhả cái cũ ra). Nạp nghĩa là hít vào, theo sách cổ gọi là Nạp tân, nghĩa là thu cái mới vào. Cứ mỗi hồi một thở ra, một hít vào, thì gọi là một tức.
Có hai phương pháp thổ nạp được áp dụng :
3.3.1. Thổ nạp thông thường
– Thổ, hay nạp kéo một hơi dài, không ngắt đoạn.
– Dùng mũi nạp, hay mũi miệng cùng nạp.
– Thổ bằng cả mũi, hay miệng riêng biệt, hay bằng cả hai.
– Cứ thản nhiên thổ nạp, không cần phân biệt mũi thổ nạp hay miệng thổ nạp. Khi nạp không khí theo khí quản vào phổi. Phương pháp này có bốn biến thức khác nhau, tùy ý chọn mà tập :
1.Nhu hòa, thổ nạp nhẹ nhàng, đều đặn như trong giấc mơ, giấc ngủ ngon. Hơi thở trung bình.
2.Hoãn viên, thổ nạp chậm chạp cắt đứt thành từng nhịp một. Nạp nhiều nhịp, thổ nhiều nhịp,
3.Quân bình, thổ trung bình, hơi trầm, độ dài trung bình. Nạp cũng như thở chia làm nhiều nhịp.
4.Thâm trường, thổ nạp nhẹ nhàng, khi thổ cũng như khi nạp, kéo một hơi dài, Thổ một hơi dài không cần cắt ngắn.
3.3.2. Thổ nạp Thái cực
– Lưỡi đụng lợi nhẹ,
– Miệng răng hé mở,
– Bụng từ từ nở ra để nạp khí vào,
– Khi đầy thì bụng từ từ ép vào thở khí ra,
– Lưỡi từ từ hạ xuống,
– Không nên cưỡng ép thổ cũng như nạp thành hơi dài quá.
3.3.3. Điều hòa khí huyết
Chọn một trong hai phương pháp thổ nạp trên :
– Trước khi tập, ngồi yên trên giường, thổ nạp từ 10 đến 20 tức để đảm bảo đủ để khí nuôi tạng phủ.
– Những người yếu, phổi làm việc không đủ, hơi thở ngắn nhả thán khí ra không hết, nên khí không đủ cung dưỡng cơ thể. Cần phải áp dụng phương pháp thổ nạp dài, để khí vào đầy đủ, tống thán khí trong phổi ra hết.
– Khí vào đầy đủ thì tạng phủ cũng hoạt động mạnh hơn lên. Bấy giờ mới bắt đầu các động tác, thì chân khí tuần lưu trong tạng phủ, các thức mới hữu ích.
3.3.4. Thu công
Kính thưa Quý vị,
Kinh nghiệm giảng huấn Khí công mà chúng tôi thu được là :
– Dù tuổi trẻ, dù cao niên,
– Dù tư chất cực thông minh hay bình thường,
– Dù người mới tự luyện,
– Dù những vị Bác sĩ thâm cứu Trung y, dù các vị lương y,
– Dù các võ sư, hay huấn luyện viên võ thuật.
Sau khi tập ngoại công, luyện nội công, luyện khí công xong, thì chân khí nảy sinh. Chân khí nảy sinh, cần quy liễm lại, thì mới không bị chạy hỗn loạn. Vì vậy Quý vị cần hướng dẫn cho thân chủ thu công. Đây là kinh nghiệm đặc biệt của chúng tôi, sau nhiều năm giảng dạy y học, võ học, thiền công và khí công.
Phương pháp thu công, chúng tôi chép vào cuối tập tài liệu này.
Chỉnh sửa lần cuối bởi LSB_Vô tình tiên tử: 05-05-2009 lúc 03:30.
Có 2 thành viên đã gửi lời cám ơn đến LSB_Vô tình tiên tử vì bài viết hữu ích này:
Dùng hai bàn tay chà sát thành từng vết dài từ mí tóc, qua thái dương xuống đến quai hàm. Chà liên tiếp, thực mạnh, cho đến khi mặt nóng bừng mới thôi. Luyện 15-25 lần. Hình số 1.
Đoạn 2
Dùng 3 ngón tay chà từ hai mí mắt trong, vòng qua trán đến góc trán thì ngừng lại. Cứ thế chà đi, chà lại cho đến khi trán nóng bừng lên mới thôi. Trung bình chỉ cần 15-20 lần là đủ. Hình số 2.
Đoạn 3
Dùng ngón tay chỏ, chà từ khóe dưới phía trong con mắt, dọc theo sống mũi, xuống đến ngang mép. Chà đến khi nóng bừng mặt mới thôi. Trung bình mất khoảng từ 10-20 lần. Hình số 3.
Đoạn 4
Ngậm miệng, nghiến chặt hai hàm răng vào nhau. Khi nghiến, nước miếng chảy ra, cứ nuốt luôn. Nghiến 20-30 lần.
Đoạn 5
Dùng ngón tay cái và chỏ, nắm lấy ngăn giữa hai lỗ mũi giật ra. Không nên nắm chặt quá, sẽ gây đau mũi. Giật khoảng 15-20 lần. Hình số 4.
Đoạn 6
Dùng ngón tay chỏ điểm vào môi trên (nhân trung) khoảng giữa hai lỗ mũi, dùng sức day tròn thật mạnh, khoảng 30-50 vòng. Hình số 5.
Đoạn 7
Dùng hai bàn tay xòe ra như cái bồ cào, chà lên mái tóc từ trán ra tới sau gáy thì dừng lại. Chà thực mạnh khoảng 30-50 lần. Hình số 6.
Đoạn 8
Hai bàn tay xòe ra chà từ quai hàm trở lên. Ngón tay cái và trỏ ở sau tai, 3 ngón còn lại ở trước tai. Chà tới khi trái tai chạm kẽ ngón chỏ và giữa thì thôi. Chà khoảng 20-30 lần. Hình số 7.
Đoạn 9
Hai bàn tay xòe ra, chà từ dưới cằm qua cổ, xuống tới ngực. Chà cho tới khi nóng bừng mới thôi. Trung bình khoảng 20 lần. Hình số 8.
Đoạn 10
Dùng hai bàn tay chà từ phía sau cổ ra tới trước, liên tục với bàn tay phải, rồi bàn tay trái. Trung bình 15-20 lần.
4.1.2. Biện chứng Trung y
Theo y-học Á châu, đầu là nơi tụ hội tất cả kinh dương. Đó là :
Thủ tam dương kinh :
– Thủ Thái-dương Tiểu-trường kinh.
– Thủ Thiếu-dương Tam-tiêu kinh.
– Thủ Dương-minh Đại-trường kinh.
Túc tam dương kinh :
– Túc Thái-dương Bàng-quang kinh.
– Túc Thiếu-dương Đởm kinh.
– Túc Dương-minh Vị kinh.
Qua 10 đoạn trên, tất cả các đầu kinh dương được khích động, khai thông những bế tắc khu đầu. Thông kinh, giúp kinh khí khu đầu được thông sướng.
Đoạn 1 là chỗ khởi đầu của Vị-kinh, Tam-tiêu kinh, để điều hòa dương khí ba kinh này. Đoạn 2 để thông Đốc-mạch và Bàng-quang kinh. Đoạn 3 làm thông Vị-kinh và Đại-trường kinh, cũng thông Âm-kiêu và Dương-kiêu mạch. Đoạn 4 có tính cách khích động phía trong của tai, thần kinh tai. Đoạn 5 và 6 kích động Đốc-mạch, bởi môi trên, chính giữa là khởi đầu Đốc-mạch. Đoạn 7 mục đích làm luân chuyển kinh khí giữ cho tóc được bền chặt. Đoạn 8 làm thông chân khí ngoài tai. Kích thích công năng tai. Đoạn 9 và 10 kích thích công năng giáp trạng tuyến, khai thông khí huyết cổ, giúp cho khí huyết tuần lưu lên đầu dễ dàng.
4.1.3. Chủ trị
– Tăng cường thị lực, thính lực.
– Cải thiện công năng ngũ quan.
– Kiện khang da mặt.
– Kích động công năng não bộ.
– Bảo kiện da mặt, đầu, giúp chống bệnh.
– Trị tất cả các bệnh thần kinh : Tinh thần khủng hoảng, hoang tưởng, mất ngủ, hay cáu vặt.
– Kích thích công năng giáp trạng tuyến.
4.1.4. Kinh nghiệm
Sau khi luyện thức này, người luyện sẽ cảm thấy :
– Khí, huyết trên đầu tuần lưu, thông sướng.
– Da mặt tươi hồng.
– Toàn khu đầu nóng bừng lên.
– Tinh thần sảng khoái.
Nếu cảm thấy thích thú, không cần luyện thức thứ nhì ngay, có thể luyện một lúc 5-10 thức thứ nhất. Đa số các bà, các cô thích luyện thức này, mỗi buổi hàng chục lần.
Có 3 thành viên đã gửi lời cám ơn đến LSB_Vô tình tiên tử vì bài viết hữu ích này:
Hai tay vịn giường hoặc ghế ngồi :
– Đầu quay mạnh sang bên trái, rồi trở ngược sang bên phải. Làm khoảng 15-100 lần.
– Đầu cúi xuống rồi ngửa ra phía sau. Làm thực mạnh khoảng 10-15 lần.
– Người ngồi yên, giữ thân mình cho chắc, đầu quay xung quanh cổ, thuận 10 lần, nghịch 10 lần. Hình số 9 (nhìn hình bên trái mà thôi, hình bên phải là cho thức thứ ba).
4.2.2. Biện chứng Trung y
Các mạch kinh từ thân mình, chân tay lên đầu, đều qua cổ. Khí huyết thường bế tắc ở đây. Các hoạt động trên nhằm mục đích cho khí huyết tuần lưu lên đầu thuận lợi.
4.2.3. Chủ trị
– Linh hoạt cổ.
– Điều thông khí huyết khu đầu.
4.2.4. Kinh nghiệm
Số đông những vị cao niên luyện thức này thường bị chóng mặt. Đó là phản ứng bình thường, không nên sợ hãi. Chỉ cần nhắm mắt lại, ngồi im một lát là hết chóng mặt ngay. Sau 10-20 ngày luyện, thì phản ứng này không còn nữa.
Có 2 thành viên đã gửi lời cám ơn đến LSB_Vô tình tiên tử vì bài viết hữu ích này:
Hai tay nắm chặt đè lên ngực, dùng lực nhấc hai cùi chỏ lên cao, rồi hạ xuống. Ghi nhớ là lúc nắm tay nào cũng để sát ngực.
Làm khoảng 20 lần. Hình số 10.
4.3.2. Biện chứng Trung y
Hai tay đưa lên thì lồng ngực được nở lớn, hạ xuống thì lồng ngực trở lại bình thường. Hoạt động này kích động toàn thể khu vai và lồng ngực. Khiến cho, khí huyết chuyển động điều hòa ở khu vai, lồng ngực. Kích và tăng cường công năng tim, phổi.
4.3.3. Chủ trị
– Kiên cường vai.
– Tăng công năng của Tâm và Phế.
4.3.4. Kinh nghiệm
Những người vị chứng bệnh liên quan đến việc tiêu hóa, khi luyện đến đây thường thấy khí nghịch bốc lên, ợ hơi, rất sảng khoái. Cứ tiếp tục luyện thức này cho đến khi hết ợ hơi hãy luyện sang thức thứ tư.
Có 2 thành viên đã gửi lời cám ơn đến LSB_Vô tình tiên tử vì bài viết hữu ích này: