THIỀU HOA: TIÊN PHONG HỮU TƯ
Nguồn: Chimvietcanhnam
Thu gọn nội dung
Động Lăng Xương bên sông Đà có hai vợ chồng Hoàng Phụ và Đào Thị Côn nhà nghèo, kiếm củi và cày thuê cấy mướn độ thân. Hai vợ chồng làm bạn với nhau đã lâu mà chưa được mụn con nào, thường phàn nàn vì cái cảnh vừa nghèo cực lại vừa hiếm muộn.
Một ngày, cả hai vợ chồng qua sông sang núi Tản kiếm củi. Trời đã đứng bóng, hai người xếp củi nghỉ dưới một góc tùng. Đang cơn mệt nhọc lại có gió thổi hiu hiu, hai vợ chồng đều thiu thiu ngủ. Người vợ chợt thấy có một người con gái xinh đẹp từ trong núi bước ra đến bên nghiêng chào hỏi. Người vợ ngắm nghía cô gái, cảm thấy yêu mến vô cùng, nắm chặt tay không nỡ buông. Bà cất tiếng dịu dàng hỏi : " Nàng ở đâu đến ? ". Người con gái khẽ rút tay ra, nói : " Con là con gái của sơn thánh Tản viên, tên là Thiều Hoa. Ông bà có muốn nhận con là con nuôi không ? " Bà âu yếm trả lời : " Ta đâu dám thế, nhưng nếu ta được con, ta sẽ coi con như con đẻ ". Người con gái cười nói : " Bố mẹ để con đỡ gánh củi cùng về nhà ". Cô gái dứt lời bèn xốc gánh củi lên vai bước đi thoăn thoắt chỉ một chốc không thấy đâu nữa. Bà Đào Thị Côn chợt tỉnh giấc, biết là mộng, đem chuyện nói với chồng. Ông cười khà khà mà rằng : " Chẳng qua bà mong quá mà sinh ra rộng mị. Nhưng vợ chồng ta ăn ở hiền lành, thế nào mà chẳng được như nguyện ".
Sau đó, bà Côn sinh được một người con gái tươi đẹp, trông giống như người trong mộng nên đặt tên là Thiều Hoa. Lớn lên Thiều Hoa biết thương bố mẹ tuổi già vẫn còn cực nhọc nên rất chịu thương chịu khó, hay lam hay làm. Thiều Hoa lại có sức khỏe hơn người và rất sáng ý. Từ khi có Thiều Hoa, hai ông bà Hoàng Phụ cũng đỡ vất vả.
Năm lên mười tuổi, Thiều Hoa đã theo người của làng vớt củi lũ sông Đà. Mỗi mùa nước lũ, sông Đà dâng nước mênh mông. Gỗ rừng ngàn ngạt từ thượng du đổ theo dòng nước về xuôi, có những cây gỗ lớn tày ôm, nhiều loại gỗ quý như trò vảy, đinh, lim dồn đuổi chen chúc nhau trên dòng nước đục ngầu. Nước réo vang suốt đêm ngày. Ban đêm, nước réo nghe càng rõ, tiếng nước ồn ã, mênh mông. Mùa lũ sông Đà là mùa vớt gỗ ngàn, ngày vớt gỗ vui như ngày hội. Làng bản đôi bờ đổ thuyền đổ người ra sông vớt gỗ lớn, cây to, còn cây nhỏ cành rều thật chẳng ai buồn nhặt. Hàng trăm chiếc thuyền bơi lượn trên sông. Sống bên sông Đà, Thiều Hoa chèo thuyền mùa lũ thông thạo và khéo léo. Em lái thuyền lách tránh các cây gỗ còn nguyên rễ nghềnh ngàng như muốn níu lấy chiếc thuyền con mà vật chìm xuống nước, lựa thuyền cho bố mẹ em vớt những cây gỗ trôi sát bên thuyền.
Thiều Hoa không chịu thua kém ai trong mọi việc lao động làm ăn. Thấy dân chài sông Đà lặn nước bắt cá, em cũng học lặn và rồi cũng lặn giỏi như cá. Trong hội làng đầu năm, thấy người ta chạy thi cướp cờ lấy giải, em cũng tập chạy và quả nhiên kỳ hội làng năm sau cô gái 12 tuổi cũng giật được một cờ xanh. Em nói với mẹ : " Sang năm, con sẽ giật cờ đỏ kia mẹ ạ ! " Mẹ nói : " Mày là con gái mà tính nết cứ như con trai. Con gái học chạy làm gì. Phận mình chỉ chăn trâu, vớt bèo cho tốt là được ". Em nghe mẹ nói, cười khúc khích.
Có lần, ông chú đến nói với bà mẹ Thiều Hoa : " Con gái chị ghê gớm thật ! " Bà mẹ lo sợ hỏi chuyện gì. Ông chú nói lại sự việc vừa xảy ra hồi nãy. Thuyền tuần giang cập bến, kiểm soát gỗ. Chả biết thế nào mà mấy thằng lính Hán túm ngay lấy một anh chàng chống mảng, đánh túi bụi. Ai cũng thương nhưng không dám vào gỡ hộ. Anh chống mảng dằng ra, chạy được. Hai thằng lính Hán đuổi theo, chợt mấy hòn đá từ đâu ném tới, đứa sưng mặt, đứa lệch vai. Chúng đành để cho anh chống mảng chạy thoát. Mọi người đều biết người ném đá là Thiều Hoa, cô gái 13 ruổi. Ông chú nói : " Tôi cũng chịu nó thật. Ai chả căm tức cái lũ quân Hán tuần giang, thật là lũ cướp ngày. Nhưng con cháu cũng liều quá ! ".
Năm Thiều Hoa 14 tuổi, bố mẹ em lần lượt qua đời. Thiều Hoa ở chăn trâu, kiếm củi cho nhà chú. Một lần, nàng thi ném đá với bạn chăn trâu, mải quá bỏ trâu đói, bị chú mắng. Cháu biết lỗi không dám nói lại, nhưng bà thím có tiếng khắc nghiệt, nói ra nói vào mãi. Thiều Hoa bỏ đi ngay đêm đó, không ở Lăng Xương nữa.
Nay ở chạ này mai ở làng khác, cấy thuê làm mướn được một năm, rồi Thiều Hoa về ở chăn trâu cho một nhà hào trưởng xã Song Quan bên sông Thao. Xã này ở bên sông, các xóm bãi trồng dâu đánh cá, các xóm gò hái củi và đi săn. Dân cấy ruộng chiêm, thóc ít, làng nghèo. Nhà hào trưởng ở xóm bãi.
Thiều Hoa chăn trâu, thả trâu cho ăn cỏ bên sông, thường ngồi vá quần áo rách trên một quả gò nhỏ dưới bóng một cây đa lớn, rễ đa từng chùm rủ xuống. Thiều Hoa vá xong áo, túm lấy rễ đa đánh đu. Lại bày ra trò cùng bạn chăn trâu chia hai phe lấy gậy tre đánh một củ chuối, phe nào đưa được củ chuối vào một cái hố bên mình là phe ấy thắng.
Có lần, nhà hào trưởng có một ông khách ở trong gò ra chơi biếu một ít thịt lợn rừng, nói chuyện săn bắn, nhân cho ông hào trưởng xem cái lẫy nỏ bằng ngà voi rất quý do một người bạn Mường châu Thanh Xuyên làm quà cho. Thiều Hoa mang thức ăn lên hầu cơm rượu, nhấc luôn chiếc lẫy nỏ ngắm xem rồi đưa trả tận tay khách. Khách thấy con hầu bạo dạn, hơi lạ, nhân hỏi đùa : " Mày có biết bắn nỏ không. Nếu biết, ta cho mày chiếc lẫy ấy ! ". Thiều Hoa thưa : " Cháu không biết bắn nỏ, nhưng cháu ném lao được ". Cả ông hào trưởng và khách đều ngạc nhiên. Đang lúc rượu say ngà ngà, hai ông bước ngay ra sân, đưa chiếc lao của hào trưởng cho Thiều Hoa ném thử. Thiều Hoa đứng cách xa cây chuối 100 bước chân, nghiêng mình vung tay, mũi lao cắm phập ngay vào chiếc hoa chuối. Mọi người đều kinh ngạc.
Khách mời ông hào trưởng vào gò chơi, mở cuộc săn ở rừng Hạ Khê. Hào trưởng cho Thiều Hoa theo. Khi săn, Thiều Hoa bước thoăn thoắt, vung lao ném theo một con cáo lông vàng. Cáo chạy vụt đi, Thiều Hoa xua chó dượt đuổi theo, chỉ chốc lát đưa cáo về nộp hào trưởng. Cũng từ ngày ấy, hào trưởng không dám coi thường Thiều Hoa như trước. Các phường săn mỗi lần mở cuộc săn lớn lại nói với hào trưởng cho Thiều Hoa theo sau. Cô gái 16 tuổi bây giờ nổi tiếng là một tay săn giỏi.
Bọn quan quân Hán ở vùng này rất nhiễu dân và hống hách. Thiều Hoa nhiều lần được thấy những cảnh bọn quân lính Hán cướp của đánh người, phá phách ngang ngược. Các nhà giàu thường bị chúng quấy nhiễu, đòi ăn uống, đòi tiền gạo. Thấy con gái có nhan sắc, chúng xúm lại chòng ghẹo, hành hạ, Thiều Hoa tức sôi cả ruột gan.
Có ngày Thiều Hoa đứng trên gò cao nhìn xuống bãi sông thấy mấy tên lính đô hộ nắm râu một cụ già lôi đi xềnh xệch. Thiều Hoa quắc mắt mím môi, nhặt lấy chiếc gậy đánh cầu chạy thẳng xuống bãi, chợt nghe có tiếng gọi nghiêm nghị : " Thiều Hoa kia, chớ chạy nữa ! ". Thiều Hoa giật mình ngoảnh lại thấy sư thầy chùa làng vẫy tay gọi mình, mới dừng chân và chạy tới ôm lấy bà sư mà khóc lên nức nở, nước mắt ướt đầm cả áo nhà chùa. Hai người đến ngồi dưới gốc đa trên gò cao. Sư thầy nói : " Con tuy cũng là người có tài có chí nhưng tiếc rằng còn xốc nổi lắm. Những việc con làm chẳng có ích gì cho dân Nam ta cả ! ". Thiều Hoa cuối đầu xin sư thầy chỉ bảo cho. Sư thầy nói : " Dẹp bớt tính nóng nảy hiếu thắng, biết nhìn xa nghĩ sâu, không chỉ lo gỡ cho một người khỏi bị đánh mà nghĩ chuyện gỡ cho cả nước khỏi bị đàn áp. Đó mới là tính chất người hào kiệt trong thời buổi này ". Thiều Hoa chợt tỉnh ngộ, thưa với sư thầy : " Thật quả một lời sư thầy dạy đã đưa con ra khỏi chỗ tối tăm. Từ nay con xin ghi nhớ lời thầy, suy nghĩ chín chắn, tính việc lâu dài, dốc lòng nuôi chí cứu sinh dân ra khỏi cảnh lầm than, khỏi chốn tù ngục. Xin thầy cho con theo thầy để được sự dạy dỗ ". Sư thầy cười và nhẹ nhàng nói : " Ta là người tu hành, tuy tâm niệm cõi Nát Bàn vẫn không quên nghĩa vụ cứu sinh linh đang cơn trầm luân nơi bể khổ. Nếu con có chí lớn hãy theo ta về chùa ". Bà sư đến nói với hào trưởng xin cho Thiều Hoa về ở với mình, hào trưởng vui vẻ nhận lời. Từ đó, Thiều Hoa về hầu hạ sư thầy, quét chùa, thắp hương và làm các việc vặt. Sư thầy dạy Thiều Hoa học chữ, lại bảo Thiều Hoa tìm rủ những người bạn tin cậy đến chùa, tối tối cùng nhau luyện tập các môn võ nghệ. Cũng từ ngày đó, vườn chùa đã trở nên nơi rèn luyện của những người có nghĩa khí, có lòng yêu nước thương dân.
Từ ngày Thiều Hoa về với sư thầy, tính nết đã có phần chín chắn hơn. Nàng chăm chỉ luyện tập mong trở nên người hữu dụng cho đất nước, đem chuyện giặc Hán tàn bạo và nỗi cực khổ của nhân dân nói cho các bạn trẻ cùng nghe. Thiều Hoa chọn những người biết căm phẫn và có lòng hăng hái, cùng nhau mưu việc lớn.
Một hôm, sư thầy gọi Thiều Hoa đến, bảo cho biết ở Mê Linh có Hai Bà Trưng là con dòng lạc tướng, cháu gái các vua Hùng đã ban hịch đuổi giặc. Thiều Hoa vui mừng xin với sư thầy cho đến Mê Linh. Sư thầy đã giã bánh dày và đóng oản để Thiều Hoa và các bạn làm lương ăn đường. Năm ấy, Thiều Hoa vừa mười tám tuổi.
Đến Mê Linh, Thiều Hoa và các bạn vào yết kiến Hai Bà Trưng, Thiều Hoa kể mọi nỗi khổ cực của nhân dân sông Đà và sông Thao cũng như những nỗi uất hận của mình. Hai Bà nghe Thiều Hoa nói, biết là người có chí, nhà nghèo thân khổ, mồ côi cả bố mẹ, cho nên nung nấu lòng căm thù giặc. Hai Bà khen ngợi Thiều Hoa và giao cho về địa phương mộ quân, dặn rằng phải tụ họp người khổ cực rồi tìm nơi kín đáo cùng nhau luyện tâp, chờ lệnh khởi nghĩa.
Thiều Hoa vui sướng trở về Song Quan, đi các làng trong vùng, tìm các bạn mới, rồi cùng nhau tổ chức thành đội ngũ, luyện tập các môn đánh gậy, đánh đao. Mỗi người đều tự kiếm lấy vũ khí cho mình. Thiều Hoa thường cho quân đẽo gỗ xoan làm quả cầu, lấy gậy tre đẽo vát gốc mà đánh quả cầu, gọi là đánh phết. Đó là trò chơi của Thiều Hoa cùng các bạn nghèo khổ chăn trâu ba năm về trước. Khu rừng Hạ Khê hoang vắng giáp châu Thanh Xuyên, cách Song Quan chỉ có ba dặm đường là nơi Thiều Hoa cùng các bạn ẩn mình tụ nghĩa.
Lệnh khởi nghĩa ban ra, Thiều Hoa dẫn đầu năm trăm trai gái sông Thao về Mê Linh. Hai Bà giao cho Thiều Hoa chức Tiên Phong hữu tướng, cầm quân bản bộ tiến đánh Luy Lâu, dặn rằng phải cẩn mật mưu trí, không được khinh địch.
Trong trận vây hãm thành Luy Lâu, Thiều Hoa lập được nhiều công lớn.
Đuổi xong giặc, Bà Trưng lên ngôi vua, phong Thiều Hoa là Đông cung công chúa (1) .
Chú thích:
(1) - Trang Song Quan trong truyện Thiều Hoa này là xã Hiền Quan, huyện Tam Nông, Vĩnh Phú, có đền và miếu thờ Thiều Hoa và chùa Phúc Khánh là chùa làng cũng có thờ. Miếu Thiều Hoa dựng ngay bên bờ sông, theo truyền thuyết là nơi thuở chăn trâu, Thiều Hoa thường ngồi vá quần áo. Trong miếu, trên bàn thờ có bày một cái mủng sơn son thếp vàng trong có vài mụn giẻ rách tượng trưng cho thời niên thiếu khổ cực của Thiều Hoa. Hàng năm, trong các ngày hội làng kỷ niệm Thiều Hoa, dân đều tổ chức đánh phết, diễu quân để tưởng nhớ vị nữ anh hùng.
QUÁCH A: TIÊN PHONG TẢ TƯỚNG
Nguồn: Chimvietcanhnam
Thu gọn nội dung
Bên sông, ngã ba Bạch Hạc, một xóm nghèo với những túp lều nhỏ nằm nép bên bìa rừng, sau lưng là cây, trước mặt là sông. Những người dân xóm nhỏ buông lưới quăng chài kiếm cá, được cá nhỏ họ đổi lấy gạo ăn, cá to còn phải nộp quan đô hộ.
Xóm ấy có nhà họ Quách, hai ông bà đã cao tuổi mới sinh được một gái nên quý như viên ngọc trên tay, đặt tên là nàng A.
Thuở ấy nhà Đông Hán cai trị nước ta, nhân dân Âu Lạc trăm chiều cực khổ. Bọn quan lại lính tráng nhà Đông Hán ngang ngược hoành hành thu về trong tay chúng biết bao của cải của dân ta, hiếp đàn bà con gái, đánh đập người trẻ người già, cả nước đều oán giận.
Dân xóm nhỏ ở bìa rừng bên sông cũng khổ về quan lại Đông Hán. Chúng bắt nộp cá nộp củi, đi xâu đi phu. Con gái có nhan sắc phải buông tóc xõa, bôi lá bôi than lên mặt để giấu sắc đẹp. Cả xóm sống cực nhục. Cả xóm căm thù bọn giặc cướp nước.
Quách A không chịu buông tóc che mặt, bôi lá giấu mặt. Ngày ngày Quách A dăng lưới thả chài, bắt được cá to giấu đi dành cho bố mẹ. Bọn lính Hán tuần trông sông bến nạt nộ. Chúng nói : " Một hai năm nữa, chúng ta sẽ bắt con bé này nộp quan lấy thưởng ".
Quách A muốn giết hết bọn giặc Hán cho dân được hồ hởi làm ăn, cho con trai không phải trốn tránh, con gái không phải giấu mặt. Hỏi các người già cách đuổi giặc, các người già lắc đầu, hỏi các bạn trẻ, các bạn trẻ không biết trả lời thế nào. Và ngày ngày Quách A vẫn quăng chài lưới cùng bố mẹ nhưng bụng Quách A không ở cái lưới con thuyền. Quách A nghĩ cách đuổi giặc nước.
Khi Quách A mười sáu tuổi, bố mẹ đều chết. Lo việc tang lễ bố mẹ xong, Quách A bèn gọt hết tóc. Cả xóm tiếc mái tóc xanh dài, phủ kín lưng của Quách A, mắng Quách A là nhút nhát. Quách A nói : " Con không giấu sắc đẹp đâu. Con chào các già, chào dân làng, con đi tu đây ! ". Cả xóm đều tiếc nhớ và khuyên can Quách A không nghe, bỏ nhà, bỏ xóm, bỏ lưới, bỏ thuyền mặc áo nâu chít khăn nâu ra đi.
* * *
Đi hết vài tuần trăng, qua nhiều rừng nhiều bến, nhiều xóm nhiều làng, Quách A tìm về vùng ngã ba Bạch Hạc. Tới một nơi rừng rậm gần sông, cảnh vật hoang vắng, thấy những dân ở đây cũng đánh cá kiếm củi, cũng nghèo khổ như bà con quê nhà, với những túp lều trống trải mọc ở bìa rừng, Quách A bèn nghỉ lại. Nàng hỏi dân làng nơi đây có chùa hay miếu nào không ? Dân làng đưa Quách A đến một tòa miếu cổ ở sâu trong rừng, không rõ được dựng lên từ bao giờ. Dân làng nói : " Nơi đây lâu lắm không có ai ở, mà cũng chẳng ai đi lại, thật là vắng vẻ, vả lại huơu nai vẫn đến, hổ dữ thường về, ni cô ở đây sao được ? ". Quách A không đi nữa, nói với dân xin ngả cây dọn lối, ở lại tòa cổ miếu thắp hương niệm Phật. Dân vừa lạ vừa mừng. Người già và con gái thường đến thăm ni cô.
Ni cô dặn dân làng đừng cho khách qua lại biết miếu có đèn nhang. Dân đã khổ vì cống nạp phu phen cho giặc, lại khổ vì rừng có cọp dữ, sông có thuồng luồng, mới đem các nổi khổ đó nói với ni cô. Ni cô Quách A ở lại đó tu hành, lấy đạo hiệu là Khâu Ni. Khâu Ni tìm thuốc chữa cho người ốm, niệm Phật cầu cho người mất, dân tin và yêu Khâu Ni. Khâu Ni tập hợp con trai con gái dạy cách phóng lao, cách đánh giáo, lại dạy múa kiếm bắn cung, trước nói là để chống thú dữ, sau mới nói chuyện là đuổi giặc. Trai gái tin theo Khâu Ni được vài chục người. Từ Nhật Chiêu trang nơi Quách A tu hành tới quê đẻ Quách A đi chưa hết nửa ngày đường, Quách A giữ mình thật kín không về thăm. Một lần cho người về quê mình, nói chuyện giặc nước hiếp đáp, người làng nghe nói đều nghiến răng chảy nước mắt. Người ấy rủ vài người con trai, con gái đi theo, tới tòa miếu cổ. Gặp Quách A, mấy người đều mừng rỡ. Từ đấy các trang các bản vùng Bạch Hạc đều có người mài kiếm cho sắc, đánh dao thật bén chờ thời cơ.
Một đêm, gió rừng thét rợn người, tòa miếu cổ đóng cửa im ỉm. Trong miếu, ni cô Khâu Ni đang cùng với vài người con gái đầm ấm chuyện trò. Chợt có tiếng hổ gầm vang. Mọi người đều nói là động rừng. Tiếng hổ mỗi lúc một gần. Gió táp tiếng gầm nghe càng rõ sau tòa miếu cổ. Tiếng hổ gầm nghe như đau đớn mà không dữ tợn, lại nghe như tiếng hổ đang quần nát cả cây cỏ sau miếu. Mọi người đều lạ. Khâu Ni đốt đuốc, mở cửa miếu, mấy người con gái cũng theo ra, tay cầm giáo.
Trước ánh đuốc hiện ra một con hổ cái cực lớn, miệng đỏ lòm nhả rớt rãi, thân hình nặng nề quằn quại trên mặt đất. Thấy người, hổ không chạy cũng không vồ, vẫn nằm vật vã. Khâu Ni chợt hiểu bèn nói với hổ : " Ngươi chớ sợ, ta sẽ để cho ngươi yên ổn. Theo đức hiếu sinh của nhà Phật ta đã cứu ngươi, từ nay ngươi không được bén mảng tới vùng này ". Con hổ gầm lên ba tiếng lớn vang động núi rừng, rồi tha con đi.
Từ đó uy danh và đạo đức của Khâu Ni lừng lẫy khắp nơi, các tráng sĩ nức lòng tìm đến, xin được cắp giáo đi theo. Ni cô không giấu mãi tông tích được, bèn dựng cờ tụ nghĩa, cho làm sáu chiếc trải lớn, mỗi chiếc sáu mươi tay chèo để tập luyện thủy quân, lại mở võ trường thi vật, thi chạy, đánh cầu, tập kiếm, chờ dịp nổi dậy.
Trưng Trắc và Trưng Nhị truyền hịch từ Mê Linh đi khắp 65 thành trong nước, kêu gọi các hào kiệt và nhân dân ứng nghĩa cứu nước. Khâu Ni nhận được hịch, phấn khởi vô cùng, sai quân làm một cái trống lớn thân bằng gỗ mít, mặt bịt da trâu, lòng trống người chui vào đi lại không phải cuối đầu. Mỗi lần lực sĩ gõ trống, tiếng như sấm động. Khâu Ni họp các sĩ tốt ở bến sông, lập đàn tế trời đất, nổi trống báo lệnh khởi nghĩa. Dân các trang các động dắt trâu gánh gạo về khao quân.
Các lực sĩ đấu vật, cướp cầu, còn các nữ quân thi bắn cung, đọ kiếm. Bên sông hiện ra một quang cảnh nhộn nhịp khác thường, hùng tráng không kể xiết.
Khâu Ni lệnh cho nổi ba hồi trống, tiếng trống rền vang truyền tới các làng bên sông Thao, sông Đà, tới các bản các động, trống vang tới đâu giáo dựng tới đó. Giặc nghe tiếng trống ngơ ngác bàng hoàng. Khâu Ni lại truyền sắp thuyền trận, dong buồm lớn, cùng các chiến sĩ về Mê Linh yết kiến Trưng Vương. Thuyền sắp hàng một, xuôi dòng mà đi. Trên thuyền thứ nhất để trống lệnh đặt tên là trống Thiên Lôi có 8 lực sĩ hộ vệ. Trên chiếc thứ hai là các nam binh cắt tóc ngắn, bịt khăn xéo. Chiếc thứ ba là thuyền " Soái " dựng ngọn cờ lớn màu vàng viền đỏ, bay tung hai dải xanh và đen, Khâu Ni mặc áo vàng và đỏ, uy nghi ngồi giữa các nữ binh thân tín. Các thuyền sau đều gươm giáo sáng choang. Sáu chiếc thuyền lớn với tám trăm nghĩa quân cùng Khâu Ni về họp mặt với các tráng sĩ cả nước ở Mê Linh. Năm ấy Khâu Ni vừa mười tám tuổi.
Trưng Trắc thấy Khâu Ni đến, cả mừng, dắt tay Khâu Ni cùng duyệt đoàn quân Bạch Hạc, vui mừng khen ngợi, mới phong Khâu Ni làm Tiên phong tả tướng quân, giao cho thống lĩnh quân bản bộ đi đường thủy qua Hát Môn, đến Luy Lâu trước mở đầu trận đánh phá quận trị của Giao Chỉ sào huyệt của thái thú Tô Định.
Sau khi dự tế cờ ở Hát Môn, Thiều Hoa nương ở trang Song Quan bên sông Thao lĩnh ấn Tiên phong hữu tướng dẫn quân bộ thẳng tới Luy Lâu còn Khâu Ni dong buồm cho thuyền xuôi dòng theo Thiều Hoa. Cả hai nữ tướng đều lập được công lớn, đánh tan quân Tô Định mấy trận, vây hãm thành trì không cho giặc chạy thoát, Hai Bà Trưng đem đại quân tới, hết lời khen ngợi các tướng Tiên phong. Nghĩa quân mở trận tấn công, chẳng bao lâu thành Lâu Luy tan vỡ, Tô Định phải bỏ giáp cắt râu quẳng cả ấn tín chạy thoát thân.
Đánh đuổi xong giặc ngoài thống trị, Bà Trưng Trắc lên ngôi vua, xưng là Trưng Vuơng, phong Trưng Nhị là Bình khôi công chúa. Tất cả các tướng đã theo đuổi giặc cứu nước đều được luận công ban tước. Quách A được phong là Khâu Ni công chúa, được phong đất Nhật Chiêu làm thực ấp. Khâu Ni về Nhật Chiêu, lập đồn lũy, dựng dinh trại, treo trống ở miếu, từ đó miếu có tên là Huyền cổ tự (miếu treo trống).
Khâu Ni mở mang thực ấp, trồng trầu trồng dâu, đắp bờ cấy lúa, được hai năm thì mất (1).
Chú thích:
1. Nhật Chiêu nơi Khâu Ni tu hành và khởi nghĩa nay là thôn Cựu Ấp xã Liên Châu huyện Yên Lạc, thời Hậu Lê tên là Nhật Chiêu trang, thời Nguyễn đổi là Nhật Chiểu. Ở đây có đền thờ Khâu Ni công chúa, còn đạo sắc phong từ thời Đinh Tiên Hoàng.
Tục truyền rằng khi Đinh Tiên Hoàng đi đánh sứ quân Kiều Công Hãn ở Phong Châu � Bạch Hạc, có nghỉ ở Huyền cổ tự, mộng thấy Khâu Ni xuất hiện đến, xin âm phù và tự, xưng là " Chuyển phàm tử Khâu Ni ". Sau khi dẹp xong các sứ quân, thống nhất đất nước, Đinh Tiên Hoàng phong cho Khâu Ni làm thượng đẳng phúc thần, giao cho trang Nhật Chiêu làm hộ nhi giữ việc cúng tế.
Lê Đại Hành năm Thiên Phúc phong " Công chúa huệ gia trinh phục phu nhân ". Lê Thái Tổ cũng có sắc phong, cho kiêng bốn chữ " A nương Khâu Ni ". Khi vua Trần Thái Tôn đánh giặc Nguyên ở sông Lô, nói là Khâu Ni báo mộng âm phù nên sau cũng phong cho Khâu Ni.
Cầu sinh ngày 15 tháng hai, bàn trên cỗ chay.
Cầu hóa ngày 10 tháng chạp, bàn trên cỗ chay.
Kiêng mặc quần áo màu vàng đỏ khi hành lễ vì khi ra quân, Khâu Ni mặc y phục vàng đỏ. Các ngày cầu tế trên có tiệc trâu thui cả con, dân làng và người qua đường không phân già trẻ lớn bé, mỗi người một dao xẻo thịt ăn ngay tại chỗ. Ngày mồng 6 tháng giêng có tục cướp cầu, cướp cờ, bơi trải.
VĨNH HOA: NỘI THỊ TƯỚNG QUÂN
Nguồn: Chimvietcanhnam
Thu gọn nội dung
Ở đạo Hồng Châu (thuộc tỉnh Hải Hưng bây giờ) trang Mao Điên có người con gái họ Phùng tên Vĩnh Hoa. Từ nhỏ được học tập võ nghệ lại ham đọc sách ngâm thơ, người người biết tiếng. Vĩnh Hoa tính tình hoà nhã, đoan trang. Tuy là gái, Vĩnh Hoa chỉ ham thích ruổi ngựa bắn cung, và thường nói : " Lưỡi kiếm trong tay phải có ngày quét sạch giặc Hán ra khỏi bờ cõi, chí lớn của ta là như thế ! ".
Năm Vĩnh Hoa mười tám tuổi, bố mẹ lần lượt qua đời. Vĩnh Hoa trao cả gia sản cho ông cậu, một ngựa một kiếm ra đi.
Ngày đi đêm nghỉ, đến đạo Sơn Tây, phủ Tam Đái, huyện Yên Lạc, Vĩnh Hoa thấy trang Tiên Nha địa thế rất đẹp như con rùa lớn nổi lên bên dòng sông Nguyệt Đức, phong cảnh thật hữu tình, có bến có chợ, làng xóm đông vui. Vĩnh Hoa cho rằng nơi dây có thể lập được chí mình, mới nghỉ lại ở đó, bỏ tiền ra làm nhà mua ruộng, tìm người cày cấy để có dịp chiêu mộ sĩ tốt. Lại nghĩ nơi đây thuyền buôn các nơi qua lại, chợ búa sầm uất, có thể liên kết được với các hào kiệt bốn phương, mới mở ngôi hàng nước tự mình bán hàng để tìm kiếm những người cùng chí hướng.
Phụ lão trang Tiên Nha biết Vĩnh Hoa không phải người tầm thường, rủ các trai đinh đến gặp Vĩnh Hoa, đều xin quy phục, tôn Vĩnh Hoa làm trưởng trang, Vĩnh Hoa vui lòng nhận lời vì nghĩ đó là điều hay, có thể xây dựng nền móng để tụ nghĩa. Từ đó Vĩnh Hoa chiêu dân lưu tán các nơi, đón những kẻ vì bị ức hiếp mà phải rời quê hương bản quán, mở rộng trang ấp, ngầm rèn đúc khí giới, chứa cất lương thực để đợi thời cơ. Các hào kiệt về ngày càng đông, cùng cày ruộng, cùng múa giáo. Thanh thế Vĩnh Hoa ngày càng lừng lẫy, Vĩnh Hoa chọn mười cô gái giỏi võ nghệ có mưu trí làm vệ sĩ, ngày đêm gần gũi bên mình. Lúc ấy nam nữ đã có tới ngàn người. Vĩnh Hoa mới cử các đầu mục, chia thành đội ngũ cày ruộng lấy lương ăn, tự rèn lấy gươm sắc giáo dài, tự chế lấy nõ bền tên cứng. Các phụ lão đều nói : " Chúng ta may ra còn thấy được cảnh tượng thái bình. Chắc cái ngày ấy cũng gần tới rồi ! ".
Phủ quan Hán thấy thanh thế trang Tiên Nha như lửa đã bốc, mới giật mình kinh sợ, phái quân đánh dẹp. Vĩnh Hoa biết lúc này không thể chần chừ được nữa, vả lại các phụ lão, các đầu mục đều xin đánh giặc Hán, khí thế như dầu sôi lửa bốc. Vĩnh Hoa bèn cho giết lợn mổ trâu, cáo tế tổ tiên, khao thưởng quân sĩ thổi sáo đánh trống, múa hát làm vui, rồi đào hào đắp lũy cự địch với quân Hán.
Phủ quan đánh không nổi trang Tiên Nha, cấp báo tin dữ về cho Tô Định. Tô Định lúc này cũng đang lo lắng, hốt hoảng vì tin tức các nơi dồn dập báo về, quận Giao Chỉ đang như nồi nước bắc trên bếp sôi lên sùng sục. Tô Định truyền lệnh cho các châu, các huyện phải cố thủ thành trì, phòng giữ cho nghiêm cẩn đề phòng nghĩa quân tiến đánh.
Một hôm Vĩnh Hoa đang coi quân tập bắn nỏ chợt có nữ tốt vào báo có người lạ đến xin ra mắt để bàn việc lớn. Vĩnh Hoa truyền lệnh mời vào rồi chỉnh tề y phục thân tiếp khách. Khách là một người đứng tuổi, mặt vuông miệng rộng, mắt sáng, đi đứng khoan thai, có vài người cùng đi theo, mặc áo vải quần nâu, không mang khí giới gì. Vĩnh Hoa biết khách không phải người thường, cung kính mời trầu nước. Sau một tuần nước, Vĩnh Hoa hỏi khách tên họ gì, từ đâu tới, có điều gì dạy bảo. Khách thong thả nói : " Khoan hỏi họ tên. Tôi nghe nói Vĩnh Hoa nương là anh hùng ở đời này, muốn đến cho được biết người, nay mới biết tiếng đồn quả không sai ". Vĩnh Hoa nhún nhường lại xin khách bảo cho điều hay lẽ phải. Khách nói : " Nàng có thể chống được đại quân của Tô Dịnh chăng ? Nàng có thể đóng giữ một trang này mà làm lay động được cả Giao Châu chăng ? Nếu Tô Định đem quân các nơi về cùng đánh, nàng có thể giữ được cái trang Tiên Nha nhỏ bé này chăng ? ". Vĩnh Hoa ngẫm nghĩ giật mình, xin khách mách bảo cho kế lâu dài. Khách nói : " Giặc Đông Hán tham tàn, Tô Định lại là một tên thái thú ham của khát máu, cho nên bốn phương anh hùng đều đã nổi dậy. Nàng không nghe nói Lê Chân ở miền biển, Bát Nạn ở Tiên La đã từng đánh quân Tô Định thất điên bát đảo hay sao ? Ở biên giới có Bạch Nương, Vân Nương, vùng núi rừng Thiên Sớ có nàng Hồ Đề tự xưng đại vương, châu Đại Man có Xuân Hoa đã tụ nghĩa. Ở đồng bằng sông Bồ Đề có Triệu Tam Trinh, nơi ba sông lớn giao nhau có Quách A nương...Nói ra còn nhiều không xiết. Chính vì thế mà Tô Định mới không động được đến cái trang nhỏ này. Vả lại Tô Định tham bạo nhưng lại nhút nhát, nay nó cho lệnh cố thủ thành trì các châu huyện, đó là dịp may cho nghĩa quân các nơi. Nhưng nếu cứ mỗi người một cõi thì đuổi sao được giặc ? Nếu có người mách Tô Định kế bẻ đũa từng chiếc thì nhân dân nước Việt Nam ta bao giờ mới thoát được cảnh chìm đắm lầm than ? Tôi chính là Nguyễn Tiến Cơ, là người thân cận của Hai Bà Trưng ở Mê Linh, được lệnh Hai Bà cho đến để bàn kế cùng nàng, cùng nhau hợp sức đuổi giặc ". Nói đoạn, hai tay cung kính đưa hịch của Bà Trưng cho Vĩnh Hoa. Vĩnh Hoa đón lấy đọc. Đọc xong nét mặt tươi cười, nói rằng : " Hai Bà là con quan lạc tướng, dòng dõi các vua Hùng, là chúa trong đám anh hùng, có trí lự sâu xa, chúng tôi không đáng cắp giáo theo hầu ! ". Lại ngoảnh bảo các người thân tín đang đứng quanh rằng : " Nay cả nước phải hợp sức lại dưới cờ của Hai Bà cùng đánh rắn dập đầu mới mong lấy lại được giang sơn, giành lại được cơ nghiệp tổ tiên để lại, cứu dân thoát khỏi vòng nước lửa ", bèn giữ Nguyễn Tiến Cơ ở lại vài ngày nhờ giúp đỡ việc chỉnh đốn quân ngũ. Nguyễn Tiến Cơ từ chối, lại nói rằng : " Chỉ nội ngày mai, sớm tối thế nào Quách A nương cũng kéo quân qua đây về Mê Linh họp mặt với hào kiệt các nơi dưới cờ đại nghĩa của Hai Bà. Nàng cũng nên nhanh chóng đem quân đến, không nên chậm trễ ".
Quả nhiên sáng hôm sau, mặt trời vừa tới ngọn cây, giữa dòng sông có một đoàn thuyền đang rẽ sóng, sáu chiếc thuyền lớn dong buồm đi một hàng thẳng tắp, xung quanh có hàng chục chiếc thuyền nhỏ cùng xuôi. Trên thuyền đi đầu có một chiếc trống cực lớn, các lực sĩ đứng quanh, đầu chỉ chấm tang trống. Chiếc thuyền đi giữa có dựng một ngọn cờ đại sắc vàng quắc, hàng chục mái chèo cùng khua sóng, bọt nước tung toé như hoa. Vĩnh Hoa cùng các đầu mục ngắm mãi không chán. Vĩnh Hoa than rằng : " Hàng ngũ chỉnh tề, quân uy hùng tráng ! Ta thật còn thua kém. Những người nhu thế này mà cùng đứng dậy, giặc Hán tất phải ôm đầu cuốn cờ chạy khỏi đất nước Nam ta ". Bèn truyền lệnh mổ trâu giã bánh khao quân, giao mọi công việc trong trang lại cho các phụ lão, sáng hôm sau đem hơn một nghìn sĩ tốt về Mê Linh yết kiến Hai Bà.
Hai Bà Trưng thấy Vĩnh Hoa diện mạo khác thường, lại văn võ kiêm toàn, nên cũng mười phần yêu mến, phong cho làm nội thị tướng quân, được theo Hai Bà ở đạo trung quân dự bàn mọi công việc. Quân của Vĩnh Hoa cũng được phiên chế lại.
Hai Bà đem quân về nghỉ ở Bạch Hạc một ngày, cưỡi ngựa ngắm xem địa thế, biết đây là nơi hiểm yếu, là cửa ngõ thành Bạch Hạc, nghĩ nhớ tới tổ tiên, lại nghĩ tới vận nước, trong dạ bồi hồi. Bà Trưng chị quay lại bảo Bà Trưng em : " Nay mai em phải về đây xây dựng thành nơi cứ hiểm phòng giữ lâu dài cùng là gìn giữ phần mộ ông cha ". Hôm sau Hai Bà về núi Hùng làm lễ cáo tế tổ tiên xin phù hộ cho dẹp yên giặc Hán, lấy lại được nghiệp cũ. Sau đó Hai Bà kéo quân về Hát Môn.
Từ đó lệnh khởi nghĩa truyền đi cả nước, khắp các châu, các huyện, các làng, các động gươm giáo dựng lên. Các thành trì của giặc Hán lần lượt rơi vào tay nghĩa quân. Thủ phủ Luy Lâu của Tô Định tan vỡ trước sức tấn công mãnh liệt của đại quân Hai Bà. Chưa đầy một năm, Hai Bà thu hồi được 65 thành trì cõi Lĩnh Nam, lên ngôi vua, đóng đô ở đất Mê Linh, không chịu thần phục nhà Hán.
Trưng nữ vương mở tiệc khánh hạ, khao thưởng ba quân, phong cho các tướng có công. Vĩnh Hoa được phong công chúa, cho phép lấy trang Tiên Nha làm thực ấp, cho xây dựng đồn trại bên sông.
Ba năm sau, Mã Viện thừa lệnh vua Hán cầm quân sang chiếm lại nước ta. Nhiều trâïn đánh lớn diễn ra ở các miền sông Đuống, sông Mã, sông Hồng. Vĩnh Hoa ngày đêm nghiêm ngặt tuần phòng. Một hôm Vĩnh Hoa tiếp được lệnh Vua Bà cho gọi về triều theo đạo quân của Vua Bà đi đánh giặc. Mã Viện hai lần thua lớn, xin vua Hán cử gấp viện binh sang, rồi mở trận đánh quyết liệt. Hai bên giáp trận, đánh nhau rất lớn ở Lãng Bạc. Hai Bà túng thế rút về Mê Linh. Mã Viện là một tên tướng quỷ quyệt, thường dùng mưu kế xảo trá, quân ta cự không lại, vỡ tan dần.
Hai Bà Trưng thế cùng lực tận, tuẫn tiết ở sông Hát.
Vĩnh Hoa rút về trang Tiên Nha cố sức cầm cự, nhưng biết là không giữ nổi nữa, mới cùng quân lính lên ngựa xông vào trại giặc chém giết một trận rồi tử tiết theo Hai Bà ở sông Nguyệt Đức. Hôm đó là ngày mười bốn tháng chín (1) .
Chú thích:
(1) - Vĩnh Hoa công chúa được thờ ở đình Nghênh Tiên, Nguyệt Đức, huyện Yên Lạc. Tiên Nha trang nói trong truyền thuyết trên chính là Nghênh Tiên có thể gồm thêm một số thôn lân cận
(2) - Vua Lê Đại Hành phong là " Vĩnh Hoa nương linh hiển nữ quốc công chúa ", lại phong là " Hằng Nga uyển mị trinh thục phụ nhân tôn thần ", Lê Thái Tổ (Lê Lợi) phong là " Đức hạnh đoan trang trinh tiết phu nhân ".
Hai chị em Ngọc Thanh và Ngọc Trinh là con gái của ông bà Lê Hoàn, người ở xã Lũng Ngòi. Ông bốc thuốc, bà làm ruộng. Ông Lê Hoàn là người có đạo đức, lấy nhân làm nền, lấy nghĩa làm gốc, giúp đỡ chạy chữa cho những người nghèo không cần hỏi tiền nong, coi mạng người là quý mà không ham lợi. Vì ông đã hay thuốc lại nhân đức nên mọi người đều kính trọng, không ai gọi tên cái mà chỉ gọi là ông lang Lũng Ngòi.
Hai ông bà một hôm ngồi nghỉ chân bên đầm sen ở Đàm Luân, một thôn của Lũng Ngòi. Lúc đó trời đã quá chiều, cánh đồng bát ngát không một bóng người, đầm ruộng gió đưa hương sen thoang thoảng. Những bông sen thắm xoè cánh phô đĩa nhị vàng khẽ lay động trên gương nước biếc. Mấy chú chim sâu nhỏ tí, đỏ xẫm, nhảy nhót xập xoè bắt nhện trên những bông sen. Những cây liễu bên đầm nghiêng mình soi gương, bóng chiều tha thướt vàng cành. Lê Hoàn và vợ say mê với cảnh không nở rời chân. Ông buột miệng than thở : " Giang san Âu Lạc ta thật là gấm vóc của trời, tiếc rằng bao lâu nay bị giặc ngoài giày xéo, đau khổ biết chừng nào ". Bà vẫn biết ông có tâm sự nên chỉ nói : " Ông ạ, tối mãi cũng có lúc sáng, mưa mãi cũng có lúc nắng. Biết đâu đến đời con chúng ta lại chẳng được thấy những sự đổi thay to lớn ! ". Bà nói xong lại chợt buồn vì nghĩ đến chuyện con cái. Vợ chồng làm bạn với nhau kể cũng đã lâu thế mà...
Bỗng trời nổi gió, một đôi chim phượng từ đâu bay tới lượn cánh trên đầm, sắc lông như ngọc rực rỡ toả sáng. Đôi phượng múa lượn mấy vòng rồi lại sải cánh bay đi, chốc lát đã không thấy đâu nữa. Ông vui mừng nói : " Ai ngờ hôm nay lại được nhìn thấy chim phượng. Đây là loài chim quý, mấy ai đã được nhìn thấy. Hẳn chúng ta có điềm vui mừng đây ! ". Bà cười, nói khẽ với ông : " Điềm vui gì cũng chẳng bằng có một đứa con ông ạ ". Sau hôm ấy, bà có thai, sinh đôi được hai con gái, đặt tên cho cô chị là Ngọc Thanh, cô em là Ngọc Trinh, tục thường gọi là Ả Chàng và Ả Chạ.
Ả Chàng và Ả Cha đều xinh tươi như đôi bông sen thắm, nhưng từ nhỏ hai chị em đã thấy nhiều phần khác nhau về tính nết -, mà vẻ đẹp của hai người cũng không giống nhau.
Lê Ngọc Thanh là chị, dung nhan đằm thắm, tính nết hiền lành, chăm chỉ việc đồng ruộng vá may, thật là một cô gái nết na thùy mị.
Cô em Lê Ngọc Trinh trái lại dung mạo sắc sảo, đôi mắt lóng lánh, môi như hoa lựu đỏ tươi, không bao giờ yên chân yên tay, cười nói hớn hở, ưa chạy nhảy thích đánh gậy ném đá.
Khi chăn trâu, Ngọc Trinh thường bày trò đánh quân chia các trẻ chăn trâu làm hai phe, gậy đá đánh nhau, có khi sứt đầu mẻ tai. Nhiều người thường phàn nàn với ông bà Lê Hoàn về cái nết nghịch ngợm của Ngọc Trinh.
Năm Lê Ngọc Thanh mười chín tuổi, một viên quan đô hộ cho người đến dạm hỏi. Ông bà Lê Hoàn không thuận. Viên quan đô hộ ức hiếp, bắt Lê Ngọc Thanh về làm tiểu thiếp. Vài tháng sau, Lê Ngọc Thanh đau buồn quá qua đời.
Hai ông bà Lê Hoàn căm giận kẻ ngoại tộc thống trị, xót thương con gái, uất ức sinh bệnh, lần lượt qua đời. Khi sắp mất, ông cầm tay Ả Chạ, ứa nước mắt nói : " Con có khí phách của người anh hùng, không như hạng nhi nữ thường tình. Vì nước mất nên nhà mang nhục, con hãy ghi nhớ lấy ! ", lại ngoảnh nhìn ông em vợ, chỉ vào con gái, lại chỉ vào bụng mình, kêu to lên một tiếng rồi mất.
Lê Ngọc Trinh ghi nhớ lời cha, nung nấu thù nhà nợ nước, mới bàn việc với ông cậu, cùng mưu việc báo quốc.
Có lần Lê Ngọc Trinh hỏi ông cậu : " Kết bạn với người tuấn kiệt, tìm gặp những kẻ anh tài, việc đó là quan trọng nhất lúc này, có phải thế không cậu ? ". Ông cậu đáp : " Phải ! ". Trinh hỏi tiếp : " Khi có vây cánh rồi thì phải xây dựng lực lượng, ngày đêm luyện tập, có phải thế không cậu ? ". Ông cậu đáp : " Phải ! ". Nàng lại hỏi : " Có nghĩa binh rồi, lúc ấy sẽ dựng cờ đại nghĩa, chống phu chống thuế, giặc đến thì đánh có phải thế không cậu ? ". Cậu đáp : " Phải ! ", và nói : " Này cháu, cháu hỏi ta ba câu, ta đều cho là phải. Sự việc phải như thế. Đó chính là những bước đi của chúng ta đấy. Nhưng cậu muốn nhắc cháu một điều : bước vội thì dễ vấp, cháo nóng muốn ăn ngay sẽ bị bỏng. Vả lại quân cần có lương, có lương mới đánh được lâu dài. Cho nên cần tích thóc trữ ngô phòng khi đói kém hay bị giặc vây hãm. Có lương chưa đủ, lại nên chia quân thành đội ngũ, hiệu lệnh nghiêm minh, kỷ cương chặt chẽ, có thế mới tránh khỏi là quân ô hợp. Vậy chúng ta không nên ham luyện tập mà lơi lỏng việc cày cấy, lại nên cử các đầu lĩnh, đội ngũ rõ ràng, cháu nghĩ thế nào ? ". Lê Ngọc Trinh vui mừng mà rằng : " Lời cậu dạy bảo làm cháu sáng ý ra nhiều. Lúc này sức chúng ta còn mỏng, ta nên giữ kín hình tích, khỏi bị giặc kia dẹp non ".
Một ngày cuối thu, trời đã chớm lạnh, Ngọc Trinh đi viếng phần mộ cha mẹ và chị, nghĩ cảm động trong lòng, thầm khấn rằng : " Cha mẹ hãy về giúp sức cho con sớm diệt kẻ thù, cho thỏa chí nguyện của cha mẹ và rửa hờn cho chị ". Khấn xong, nước mắt ướt đầm đôi gò má. Chợt Ngọc Trinh nghe có tiếng chân bước mé sau, nàng ngoảnh lại, thấy ông cậu rảo bước tới, theo sau có hai người lạ mặt. Ngọc Trinh vội gạt nước mắt. Một người lạ sỗ sàng nói : " Thù nhà nợ nước, khóc có ích gì. Nước mắt đuổi sao được giặc ? ".
Ngọc Trinh nhìn ngắm người vừa nói, thấy người ấy đã đứng tuổi, mặc áo vải thô rách vai, người thấp và đậm, trán dô, miệng rộng, mắt sáng lóng lánh. Cùng đi với người đó là một người còn trẻ, gương mặt gầy và xanh, vai đeo một bọc nhỏ, lưng thắt dây thừng có gài con dao ngắn. Ngọc Trinh cúi đầu chào hai người rồi nói : " Tráng sĩ nói rất phải. Chẳng qua là lòng con nhớ cha mẹ nên mới có những giọt nước mắt thường tình. Các tráng sĩ tới đây, vôäi vã ra nơi tha ma mộ địa này gặp tôi, chắc có điều gì khẩn cấp ? ". Người lớn tuổi thấy mình cố tình nói sỗ mà Ngọc Trinh không hề giận, cử chỉ lại khiêm nhượng, nên lấy làm khâm phục, nói rằng : " Người ta vẫn nói Ngọc Trinh quý người, nhún nhường, lễ độ, quả cũng không sai. Chúng tôi ghé thuyền cặp bến dúng là có việc cần gặp nàng ". Bấy giờ ông cậu mời mọi người về nhà, cùng bàn việc.
Họ là những người chở đò dọc sông Hồng, đều là người có tài chí. Họ biết có một đoàn thuyền lương của giặc sẽ đi từ sông Đáy ra sông Hồng, một tên tướng là Lưu Ứng Khâm áp tải, nên đến bàn với Ngọc Trinh việc cướp lương. Ông cậu nói : " Bác Nguyễn Hiển đây muốn lấy đoàn thuyền lương ấy để ra mắt chúng ta đấy ! ". Mọi người đều cười. Nguyễn Hiển và Nguyễn Thái Nhạc cho biết nếu Ngọc Trinh vui lòng nhận " món quà ra mắt " ấy, hai người sẽ tụ hợp các bạn chài đón đánh đoàn thuyền và Ngọc Trinh sẽ cho quân phối hợp. Hai ông cho biết đoàn thuyền lương sẽ nghỉ ở bến làng Cao, chỉ cách Đàm Luân năm dặm và cách đại đồn quân Hán ở Ngã ba Hạc ba dặm.
Ngọc Trinh nói : " Ta đánh bất ngờ, chắc là được. Nhưng đánh xong thì giặc sẽ đánh phá từ làng Cao tới Đàm Luân, các xã bên sông sẽ bị lùng sục, bắt bớ. Vậy phải tính thế nào ? ". Nguyễn Hiển hăng hái nói : " Dân chài bị giặc ức hiếp quá quắt, chỉ muốn vùng dậy. Còn nói giặc đánh vào Đàm Luân và bắt bớ các xã ven sông ư ? Thì chúng chẳng vẫn bắt vẫn đánh và giết dân ta đó sao ? nào phu, nào thuế, nào cống phẩm, nào nô tì...dân bị vắt kiệt cùng, còn sợ gì nữa ! Ta sẽ thừa thắng dựng cờ khởi nghĩa, rào làng đắp lũy, ra mặt chống giặc. Tình thế sôi sục lắm rồi. Đặng tướng công chủ trưởng châu Bạch Hạc bị giặc sát hại vì đồng mưu với Thi Sách lật đổ nền đô hộ. Phủ Thái thú đưa quân Hán về cai trị châu Bạch Hạc khi khắp nơi hào kiệt đều dướn mình đứng dậy. Người bị bắt cũng nhiều, người bị giết cũng có, nhưng nào có ai nhụt chí ! ". Ông cậu nói : " Từ chuyện cướp lương thực ra chuyện khởi nghĩa, đó là việc lớn không dễ coi thường, chúng ta phải bàn cho kỹ mới được ". Mọi người bàn bạc hồi lâu, quyết định thừa dịp này khởi nghĩa trong vùng, cướp lương giặc để gây thanh thế, bắt tướng giặc lấy máu tế cờ. Lập tức Ngọc Trinh cho mời 18 trang chủ kết nghĩa đến cùng họp bàn cắt đặt công việc.
Hai ngày sau, đoàn thuyền lương của giặc đến đỗ ở bến làng Cao. Vào hồi canh ba, khi giặc đang say giấc ngủ, nghĩa quân nổi lửa, trên bộ dưới nước nguời mang đao, người cầm gậy, ào ào xông tới vây kín đoàn thuyền. Nguyễn Hiển hai tay hai đao nhảy lên thuyền tướng đánh bắt Lưu Ứng Khâm. Tướng giặc trong lúc bất ngờ trở tay không kịp bị Nguyễn Hiển bắt sống trói lại. Ngọc Trinh cho dân binh lên thuyền chuyển lương, còn các bạn chèo giáp chiến với lính Hán. Những người dân chèo đoàn thuyền lương lúc này cũng vui mừng hợp sức với nghĩa quân đánh giết giặc Hán, chuyển vận lương lên bờ. Ông cậu chặn đường từ Bạch Hạc, đề phòng đồn Hán có quân cứu viện, nhưng đến khi lương đã chuyển xong, thuyền giặc đã bị đánh chìm hết mà vẫn không thấy bóng quân Hán cứu viện, ông cậu cũng rút quân về.
Ngay sáng hôm sau, Ngọc Trinh tế cờ khởi nghĩa chém đầu Lưu Ứng Khâm lấy máu bôi cờ và bôi mặt trống. Mọi người tôn Lê Ngọc Trinh làm nữ chủ soái, tôn ông cậu là phó soái trưởng lĩnh quân cơ, đặt soái sở ở Đàm Luân, tự lập một giang san riêng, không tuân theo chính lệnh của Phủ thái thú.
Quân ta tế cờ hôm trước thì hôm sau giặc đến đánh, nhưng nhờ đã đoán trước tình thế, phục binh đánh một trận, giặc thua phải rút chạy. Sau trận thắng ấy, nhân dân càng thêm tin tưởng và hăng hái.
Một hôm ông cậu hỏi Lê Ngọc Trinh : " Nếu giặc thù đến vây bốn mặt, ta làm sao mà chống lại được ? ". Lê Ngọc Trinh hỏi kế, ông cậu nói : " Giặc tất đến đánh ta để dẹp cái lo của chúng. Nếu ta tập trung cả quân tướng vào một nơi, lương thảo dồn một chỗ, có thể bị vây tuyệt đường bên ngoài, bị hãm vào thế cô lập. Nay ta nên tổ chức các trang trại xung quanh cùng đào hào đắp lũy. Đàm Luân như nhị sen, còn các làng xung quanh là cánh sen, một trang bị vây thì các trang khác cùng tiến đánh, như thế mới là kế lâu dài ". Ngọc Trinh khen phải, đi bàn với các trang chủ, các trang chủ đều nghe lời. Quả nhiên, quan quân đô hộ mấy lần đến đánh Đàm Luân đều bị trong đánh ra ngoài đánh vào, phải lui quân.
Hồi đó, tráng sĩ khắp quận Giao Chỉ đều mài giáo rèn gươm, chỉ trông đợi có dịp quét sạch giặc Hán ra khỏi bờ cõi. Hào kiệt theo về với hai vị nữ anh hùng họ Trưng ở Mê Linh như nước chảy về chỗ trũng. Lê Ngọc Trinh đem nghĩa binh về với Hai Bà, trình bày mọi công việc của mình ; Hai Bà đẹp lòng, khen ngợi, giao ấn Tả tướng quân. Ngọc Trinh nương lĩnh quân theo Hai Bà về Hát Môn dự lễ cáo tế trời đất rồi tiến quân đánh Tô Định. Lê Ngọc Trinh gắng giỏi bày mưu định kế, dũng cảm hăng hái thống lĩnh tả quân lập nhiều công trạng. Sau trận đánh thắng Tô Định, Ngọc Trinh nương được Trưng nữ chủ thăng phong là Đại tướng quân.
Đại tướng quân Lê Ngọc Trinh rong ruổi ở Tây Vu, lấy cờ thêu chim phượng làm cờ hiệu, vó ngựa tới đâu, giặc tan tới đấy. Một vùng lưu vực các sông Lô, Gầm, Chảy, chẳng bao lâu đều sạch bóng giặc, hàng chục thành lũy quy về với nghĩa quân. Trưng nữ chủ khen Lê Ngọc Trinh là " Quần thoa hào kiệt, dũng lược tuyệt trần ", ban cho nàng một chiếc trống đồng làm lệnh.
Dẹp xong giặc nước, Bà Trưng chị lên ngôi vua, xưng là Trưng Vương, phong Lê Ngọc Trinh tước công chúa. Lê Ngọc Trinh nghĩ nhớ câu chuyện bố mẹ nhân chơi mát ở Đầm Sen, thấy chim phượng hiện mà sinh ra mình mới xin được đặt hiệu là Ngọc Phượng. Vua Trưng ưng chuẩn, lại cho về xây dựng cung sở ở Đàm Luân.
Hán Quang Vũ lo sợ, cử thêm quân sang cho Mã Viện. Có lần Mã Viện hạ lệnh cho phó soái Lưu long thân đem quân tiến đánh đồn trại Đàm Luân, nói rằng : " Người phải gắng sức, vì thành Đàm Luân là cái lá chắn bên sông vùng đồng bằng phía Tây và Nam Mê Linh, che chở các đồn trại thành lũy trung tâm của Trưng tặc. Phá được thành Luân, ngươi tiến quân thật nhanh về Mê Linh, hợp với ta từ Lãng Bạc dồn về, ắt Trưng tặc phải nguy khốn ! ". Lưu Long vâng lệnh điểm quân mã rầm rộ tiến đánh Đàm Luân.
Giặc mở trận bất ngờ, đánh rất gấp vây chặt Đàm Luân. Quân của Ngọc Phượng công chúa Lê Ngọc Trinh cố sức phá vây. Hai quân giáp chiến từ lúc gà chưa gáy sáng cho tới khi tiếng gà đã báo ngọ mà vẫn chưa nghỉ. Trận đánh lớn diễn ra ở Gò May. Trống nổi vang trời, giáo đâm dao phạt. Ngọc Trinh quyết phá trận giặc, tả xung hữu đột. Đang lúc trận đánh diễn ra quyết liệt, nữ soái lỡ đánh rơi gươm, liền cởi ngay dải yếm bọc đá mà đánh. Nũ tướng càng đánh càng hăng hái, chiến mã hí vang, dựng bờm tung vó. Giặc khiếp hãi oai thần phải rạt cả ra không tên nào dám lại gần. Tiếng trống đồng nổi lên oai hùng thúc giục, cờ phượng dương cao, quân Nam cùng hô một tiếng dậy đất tiến theo nữ tướng, nức lòng xông xáo. Lưu Long giáp đẫm mồ hôi, mặt như chàm đổ, vội hô quân tháo chạy, vượt sông rút về bên sông Đáy.
Đại tướng quân Lê Ngọc Trinh cầm cự vói quân Mã Viện ròng rã một năm trời, giặc không sao đánh vào được nội địa.
Mã Viện bị Hán Quang Vũ quở trách, thúc giục, liền họp với các tướng, bàn cách phá cửa ải Đàm Luân. Mã Viện cho rằng dùng đại quân không thể thắng Lê Ngọc Trinh được, mới tìm cách dùng kỳ binh, cho quân rút hết, trong ba tháng không quấy nhiễu Đàm Luân một trận nào.
...Một hôm Lê Ngọc Trinh đang tắm ở đầm sen, chợt có cấp báo quân giặc đã ập đến. Ngọc Trinh chỉ kịp mặc áo mỏng, lên ngựa ra giao chiến. Giặc dùng nỏ cứng bắn như mưa. Ngọc Trinh múa kiếm đón đỡ, mong chờ quân tới cứu, nhưng Mã Viện đích thân cầm quân vây kín các ngả, lại đánh làm nhiều mũi nhỏ, cắt xén quân Nam làm nhiều mảnh. Quân Nam bị chặn đánh khắp nơi không ứng cứu nhau được. Mã Viện xông thẳng vào nơi Lê Ngọc Trinh bị vây hãm, thấy nàng quả là tiên nữ giáng trần, hai tay múa kiếm, khí phách anh hùng. Mã Viện bất giác cũng sinh lòng kính phục liền thét quân phải tìm cách bắt sống. Ngọc Trinh biết đại sự đã hỏng, nói rằng : " Cha mẹ ta thấy chim phượng ở đầm sen mà sinh ra ta, nay ta lại gửi thân ở Đầm Sen này ", nói đoạn liền nhảy xuóng đầm sen tử tiết.
Lê Ngọc Trinh hai mươi tuổi dựng cờ tụ nghĩa làm chủ một phương. Hai mươi mốt tuổi theo Trưng Vương cứu nước lĩnh ấn Tả tướng quân, phá tan các thành trì của giặc ở một dải đất trung du mênh mông, quét sạch giặc thù. Hai mươi hai tuổi được phong công chúa, dựng thành đắp lũy lo kế chống giặc lâu dài, một trận đánh ở Gò May làm giặc Hán kinh hồn vỡ mật, chống nhau với Mã Viện là danh tướng của nhà Hán trên một năm trời. Đại tướng quân Lê Ngọc Trinh thật xứng với lời ban khen của Trưng Vương : " Quần thoa hào kiệt, dũng lược tuyệt trần ", nêu cao tấm gương anh hùng cho muôn đời sau vậy (1).
Chú thích:
1. Trang Lũng Ngòi, Gò May và Đàm Luân nay là xã Lũng Hòa, huyện Vĩnh Tường, Vĩnh Phú, có thể thời Lê Ngọc Trinh căn cứ Đàm Luân còn gồm cả xã Bồ Sao ngày nay. Khu căn cứ này nằm ở gần Cầu Việt Trì, ngã ba Bạch Hạc, mé Hà Nội về và đường quốc lộ 2 chạy qua ngày nay.
Nhân dân địa phương thờ Lê Ngọc Trinh với lòng tưỏng nhớ anh hùng ở miếu Lũng Ngòi, đình Lũng Ngòi và đình Hòa Loan. Trong các ngày cầu tế có tục hú đáo, kéo co mang tính chất kỷ niệm dựa theo truyền thuyết.
Hú đáo thôn Lũng Ngòi (hay Lũng Ngoại : (trai gái lấy đá ném vào một cái cọc chôn cách mười bước chân, cứ trúng cọc là được. Kéo co, trai gái chia làm hai phe thi nhau kéo co bằng một chiếc dây song. Các cụ nói rằng hú đáo và kéo co ở đây không phải là trò chơi hội làng mà là để nhắc lại kỳ tích anh hùng của Ngọc Trinh nương, khi nương bị giặc vây hãm lấy dải yếm bọc đá để đánh giặc. Sau hòn đá rơi về địa phận Lũng Ngòi nên Lũng Ngòi hú đáo còn dải yếm bay về địa phận Hòa Loan nên Hòa Loan kéo co.
Ngọn cờ đại treo cao trên một cây mai (tre mai) lớn chôn trước cột đình, phồng gió căng ra như một cánh buồm, lòng cờ đỏ thắm có chữ " Nghĩa " nổi bật, đen nhánh. Hàng chục lá cờ nhỏ nhiều màu sắc cũng đang hớn hở vẫy mình trước gió.
Khu đình làng Mía sớm nay nhộn nhịp người. Trên nhang ánh đèn nến sáng choang, khói hương nghi ngút. Những cánh cửa nhỏ chạm rồng phượng hoa lá ở thượng cung mở rộng. Ông từ, miệng bịt khăn điều, leo lên một cái thang tre nhỏ xếp đặt hương hoa ngũ quả bày trên thượng cung rồi lại xuống thang túc trực cạnh nhang án.
Tiếng loa cất vang nhắc lại rành rọt : " Nữ chủ tướng truyền lệnh cử hành đại lễ khởi nghĩa diệt thù ! "
Trống chiêng nổi lên ba hồi chín tiếng. Hàng ngàn con người bỗng im phăng phắc.
Nữ chủ tướng nghiêm trang bước lên đàn, một nền đất cao hình chữ nhật có cắm một chiếc cờ vuông. Hàng ngàn con mắt long lanh nhìn về chủ tướng. Không một tiếng nói, một tiếng động, chỉ còn nghe thấy những hơi thở mạnh và tiếng phần phật những ngọn cờ bay trước gió.
Môi chủ tướng hơi run và mắt nàng nhòa ướt.
- Ta và giặc Hán không thể cùng đội trời chung ! Chúng ta phải khởi nghĩa để đánh đuổi giặc Hán ! Tôi, Lê Thị Lan, nữ chủ tướng nghĩa quân, tôi cử em tôi là Lê Anh Tuấn làm phó tướng. Chúng ta sẽ phiên chế đội ngũ và sẽ kéo quân về Hát Môn hội với Trưng nữ chủ. Mọi người hãy nghe mệnh lệnh của tôi và của em tôi !
Lê Thị Lan và Lê Anh Tuấn là hai chị em ruột sinh đôi, quê ở làng Mía, xứ Đường Lâm, trấn Sơn Tây.
Ở làng Mía có vợ chồng ông Lê Tuân và bà Đặng Thị Sách, ông bốc thuốc bà làm ruộng, ăn ở hiền lành, cuộc sống đầy đủ, chỉ hiềm vỉ nỗi muộn con. Nghe người nơi xa đến xin thuốc mách bảo, hai ông bà cất công qua bến lặn rừng ngày đi đêm nghỉ tìm đến trang Văn Lang xứ Thao Giang để cầu tự.
Trang Văn Lang nằm bên sông Thao, dựa lưng vào núi, dân cư đông đúc có bến có chợ, là nơi các xứ qua lại để trao đổi hàng hóa, nào thóc lúa, lợn gà, móc mây, củ nâu, gỗ v.v... Đây là một trạm kiểm soát của giặc Hán, với một viên đầu mục, một viên quan thuế, hai viên lại và mười hai tên lính để kiểm soát đường sông và quản lý bến chợ v.v...Vợ chồng Lê Tuân tìm vào các xóm chân núi ven rừng, nhờ người địa phương chỉ giúp, mới thấy một tòa miếu nhỏ tường gạch mái lá nằm ẩn dưới bóng đa cổ thụ. Cứ theo dân đây kể thì miếu này thờ một bà chúa là người đã lập ra trang Văn Lang này, chỉ biết bà họ Hoàng, còn tên húy không ai nhắc đến. Ông bà Lê Tuân đem lễ vật đến cúng và nghỉ ngay tại miếu. Đêm thứ ba bà mơ thấy một em gái xinh xắn tươi cười chạy đến đưa cho bà một cành lộc non. Em gái vụt biến đi, cành lộc non trong tay bà nở ra một đóa hoa lan trắng muốt và một trái đào đỏ tươi. Mùi hương sực nứt làm bà tỉnh giấc.
Ở chơi trang Văn Lang vài ba nhgày, hai vợ chồng lại trở về Đường Lâm.
Ngày tháng trôi qua, bà Đặng Thị Sách sinh được một gái, một trai, tiếng khóc vang như tiếng chuông. Hàng xóm láng giềng đến thăm hỏi, ai cũng mừng cho hai ông bà, và đều cả quyết là ông bà đã sinh được quý tử sau này sẽ làm rạng danh cha mẹ. Làng có tục mỗi người đến thăm trẻ mới sinh đều gánh cho gia đình một gánh nước và biếu một nắm gạo. Nhà ông bà Lê Tuấn tấp nập người xa gần đến chia vui. Nguyên hai ông bà đều là người phúc hậu, ông lại mát tay hay thuốc, cứu chữa được nhiều người, nên không những người làng mà người trong quận hạt đến thăm hỏi cũng đông.
Ông bà đặt tên cho hai con là Lan và Tuấn. Hai chị em đều đẹp đẽ, khỏe mạnh và thông minh. Cha mẹ cho con học chữ của một thầy đồ ở làng bên, lại chiều theo ý con, đón thầy về cho con học võ. Ngày thì múa côn, tập đánh thiết lĩnh, tối lại thắp đèn ôn luyện văn bài, hai chị em Lan, Tuấn học hành tấn tới, các thầy đều khen ngợi, ông bà Lê Tuấn cũng mừng lòng.
Vào năm hai chị em mười bảy tuổi, trời làm đói kém hạn hán tiêu khô, ruộng nẻ chân chim, lúa nghẹn mong nước. Nhiều nơi dân đói bỏ làng đi tìm ăn đầy đường đầy chợ. Xứ Đường Lâm cũng là một trong những vùng bị đói kém nghiêm trọng.
Mặc cho đói kém mất mùa, bọn quan lại người Hán cùng một số tay sai bản địa vẫn bóc lột nhân dân thậm tệ, lại nhân dịp này mua rẻ nhà cửa ruộng vườn. Không những vậy, chúng còn bắt nhân dân vét thóc giống ra để nộp cho đủ tô đủ thuế. Dân Đường Lâm cũng đói như các vùng, ai cũng cau mày nghiến răng, chỉ những muốn ăn tươi nuốt sống bọn bóc lột kia cho hả giận.
Ông bà Lê Tuân cũng phải bán bớt ruộng vườn để nộp thuế cho giặc. Tới khi giặc cùng bọn tay sai đến các nhà bắt nộp thóc giống, ông bà bất bình kháng cự. Thế là ông bị chúng quát mắng đánh đập. Bát hương thờ tổ tiên là vật thiêng liêng của gia đình cũng bị chúng hắt xuống đất rồi lấy gậy đập tan. Cuối cùng thóc giống vẫn mất, thân lại bị đòn, cửa nhà bị phá phách, ông nghĩ uất giận, thổ máu liền mấy ngày rồi mất. Bà chôn cất cho ông xong cũng vì quá ưu phiền nên lại nối gót ông ra đi. Lê Thị Lan và Lê Anh Tuấn nhân ngày giỗ bố mẹ mời các bậc già cả và đàn anh trong họ đến, bàn việc rửa hờn cho gia đình, gỡ nỗi thống khổ cho nhân dân. Mọi người đều gật đầu nói rằng việc nên làm. Từ đó, Lan và Tuấn bắt đầu giao du hào kiệt, tụ họp bè đảng, tựu nghĩa ở xứ Đường Lâm.
* * *
Sau khi về Hát Môn hội quân dưới ngọn cờ tiết chế của Hai Bà Trưng, Lan và Tuấn được giao nhiệm vụ đem quân bản bộ quét sạch giặc ở hạt Thao Giang. Hai chị em vui mừng nhận lệnh, thủy bộ cùng tiến, quân đi tới đâu giặc tan tới đó, chẳng bao lâu đã tới trang Văn Lang. Giặc đóng ở đây chỉ có một đồn nhỏ đã tan chạy trước khi nghĩa quân kéo tới.
* * *
Lê nữ tướng quân họp với các tướng, ban lệnh bố phòng. Nữ tướng đóng trên núi Ao Giời, trong rừng cọ, phó tướng đóng ở thung lũng chân núi. Mé ngoài là một dãy đồi, có hai trại quân để giữ lối vào thung lũng.
Từ rừng tới bến, bốn quân doanh : Nam, Bắc, Đông, Đoài, ngày đêm tuần tiễu, có đồn kiểm soát thuyền bè xuôi ngược ở bến sông, cho dân họp chợ như cũ. Nữ tướng quân thấy thung lũng nằm giữa núi đồi nên cho phát quang cấy lúa, đặt tên là Đồng thóc. Nàng điều quân giúp dân đánh gốc bốc trà ở một dải đồng hoang ngoài khu đồi, rồi đặt tên cho nơi đó là Đồng phì nhiêu. Xong đâu đấy nữ tướng quân mở hội lớn, giã gạo nếp làm bánh dầy, mổ trâu lấy da căng làm nồi nấu thịt. Ngày mười hai tháng giêng, trời đẹp, nắng ngọt, Lê nữ tướng đại duyệt quân sĩ ở bến Cát Lớn.
* * *
Nữ tướng quân nhận được lệnh của Trưng nữ chủ triệu về bàn kế hoạch đại phá Luy Lâu. Được lệnh đánh giặc, ai nấy đều phấn khởi, quân sĩ đánh trống múa nhảy, nhân dân đem gạo và rượu đến mừng. Việc giao cho một vị tùy tướng họ Nguyễn, trấn giữ vùng thượng châu Thao Giang. Còn nữ tướng quân cùng phó tướng Lê Anh Tuấn đem đại quân về gặp Trưng nữ chủ nhận lệnh.
Trận đánh Luy Lâu kéo dài nửa tháng. Hôm đó Trưng nữ chủ được tin đạo quân Đông Bắc của giặc về cứu viện Luy Lâu theo đường thủy đã bị Lê Chân nữ tướng đánh tan, còn đạo quân Tây Bắc do tên tướng nổi danh Lâm Thiệu Hưng cầm đầu theo đường bộ tiến về Luy Lâu cũng bị chặn đứng ở Bắc Yên Phong. Trưng chủ bèn cho bắn các tờ cáo yết nêu rõ hai việc đó trong thành kêu gọi nhân dân trong thành nổi dậy đánh giặc. Tô Định nhận được tin dữ hai đạo quân cứu viện bị tan, tâm thần hoảng hốt, các tướng Hán cũng đều sợ mất mật, bọn lính thì nháo nhác hoang mang. Đêm đó, quân ta vây thành rất gấp, tiếng reo dậy đất, lửa sáng rực trời. Nữ tướng quân Lê Thị Lan và phó tưóng Lê Anh Tuấn được lệnh đem quân bản bộ đánh mé sau thành, cả hai hăng hái dẫn quân đi. Lê nữ tướng hạ lệnh cho quân lấy rơm ướt bện vào ván làm mộc, lấy dây mây làm thang, đắp đất làm ụ, bỏ giáo cầm đao mà nhảy vào thành. Bấy giờ Lê nữ tướng tự tay đánh trống, Lê phó tướng hai tay hai đao dẫnđầu quân xông lên thành, quân sĩ đều gắng sức. Lần đánh thứ nhất, giặc từ cao ném đá đổ vôi xuống, quân ta không vào được thành. Lê phó tướng bị trúng tên. Lê nữ tướng một tay phất cao cờ hiệu, một tay vung kiếm báu, cất mình nhảy lên ụ cao. Chỉ một chốc ngọn cờ hiệu đã bay trên mặt thành, đỏ rực trong ánh đuốc (1)
Chú thích:
1. Thần tích xã Văn Lang huyện Hạ Hoà, Vĩnh Phú chép rằng trận hạ thành Luy Lâu, hai chị em Lê Thị Lan, Lê Anh Tuấn được phong ấp ở Đường Lâm và có trở lại trang Văn Lang rồi cả hai đều mất ở đó vào ngày 25 tháng tám âm lịch.
Núi non địa thế miêu tả trong trận trên, được kể lại theo truyền thuyết địa phương. Dãy núi này là nơi ba huyện Hạ Hòa, Cẩm Khê, Yên Lập tiếp giáp nhau, và ngọn núi cao nhất có Ao Giời sau này được đặt tên là núi An. Theo lời các cụ thì nàng Lê Thị Lan đã mất ở đó. Các địa hình và địa danh Ao Giời, Tiên mẹ Tiên con, khe Nước chồi, Đồng thóc, Đồng phì nhiêu đều là có thật.
PHẬT NGUYỆT: TẢ TƯỚNG THỦY QUÂN
Nguồn: Chimvietcanhnam
Thu gọn nội dung
Chuyện trò hồi lâu, bà góa nói với cô con gái đang ngồi vót nan bên chõng tre : " Tôi đi dỡ mấy củ khoai về luộc ăn cho vui miệng ! ". Người con gái vẫn đều tay đưa lưỡi dao, ngước mắt nhìn người đàn bà mái tóc đã điểm bạc và nói : " Thôi mẹ! Nói chuyện một lát rồi ta đi ngủ thôi mẹ ạ ! ". Bà góa bước ra khỏi cửa, quay lại cười : " Đã khuya khoắt gì đâu. Với lại vườn khoai cũng gần nhà đây thôi mà ! Chờ tôi một lúc ! ".
Người con gái sắp những chiếc nan tre vót trắng bóng, óng mượt cho gọn lại, rồi hai tay chắp vào đầu gối, mơ màng nghĩ ngợi.
Bà goá đẩy cửa bước vào, tay cắp rổ khoai, nói với ra ngoài : " Các bác, cứ vào cả đây, nhà có ai đâu ! ".
Người con gái ngạc nhiên khi nhìn thấy có ba người đàn ông lạ bước vào căn nhà lụp xụp. Cả ba đều cao lớn lực lưỡng, làm cho gian nhà như thấp hơn, bé hơn.
Quần áo họ rách rưới và gương mặt họ xanh xao. Tóc họ bờm xờm rủ trước trán. Một người trạc bốn mươi tuổi, đeo một cái đẫy nhỏ bên vai, còn hai người kia trẻ hơn có đeo dao ngắn bên sườn.
Người con gái không nói gì, chăm chú nhìn những người mới đến và tất cả im lặng một lúc. Bà mẹ nói với người con gái : " Nàng hãy sắp nước mời các bác đi. Tôi ra vườn dỡ khoai thấy các bác nằm bên luống khoai, thế là tôi đưa các bác ấy về nhà ".
Người con gái rót mấy bát nước chè xanh bốc khói đưa mời. Những người mới đến đón bát, uống thong thả. Họ đã tươi tỉnh hơn và đưa mắt nhìn quanh nhà.
Bà goá lại nói : " Để tôi đi luộc khoai cùng ăn. Các bác cứ ngồi chơi và nói chuyện với... à, nàng đây là... ".
Người con gái đỡ lời :- " Mẹ luộc hộ con, để con tiếp chuyện các bác ấy ".
Sau đây là những lời trao đổi giữa người con gái và ba người mới đến :
- Các bác ở đâu đến đây ?
- Chúng tôi từ xa đến, mỗi người một nơi, và chúng tôi đã gặp nhau.
- Sao các bác lại nằm ở vườn khoai của bà mẹ ?
- Chúng tôi không thuộc đường và... đói !
Một người nói cho rõ hơn :
- Đói, không đi được nữa, nằm tạm đấy !
Im lặng một lúc.
Người đứng tuổi nói :
- Tôi bị chúng nó hành hạ khổ quá, làm gỗ ở rừng. Quán trên thượng nguồn đây. Còn các anh này là dân chài, chúng nó bắt đóng bè mảng đưa gỗ về xuôi. Chúng tôi rủ nhau trốn.
- Các bác định về đâu ?
- Nghe nói ở vùng này có nàng Phật Nguyệt. Nàng chiêu mộ dân xiêu dạt các nơi về làm ăn. Chúng tôi muốn tìm theo nàng Phật Nguyệt.
Người con gái chợt cười. Ba người mới đến lúc này mới để ý ngắm kỹ cô gái.
Nàng tuổi độ đôi mươi, da ngăm đen, gương mặt trái xoan rất tươi, mắt nhỏ và dài. Khi nàng cười, má lúm đồng tiền. Nàng mặc váy ngắn, áo cộc tay nhuộm nâu non, yếm tơ mỏng mịn. Họ để ý thấy áo nàng không có miếng vá nào nhưng nàng lại không đeo vòng tai, vòng tay hay chuỗi vòng cổ.
Bà goá từ trong bếp bước ra :
- Để vùi khoai một lúc ăn mới ngon. Chỉ tí nữa là được thôi. À, các bác nói muốn tìm nàng Phật Nguyệt à ? Thì nàng chả là...
Người con gái cắt ngang lời bà goá :
- Mẹ ơi, mẹ dọn khoai cho các bác ấy ăn, còn con, con về đây mẹ ạ. Sáng mai mẹ đưa các bác ấy đến gặp nàng Phật Nguyệt, mẹ nhé ! "
Làng Yển bên sông Thao có ông Đinh Văn Bôn làm nghề bốc thuốc là người nhân hậu, hiền lành, được nhân dân yêu mến và quý trọng. Không những ông mát tay hay thuốc mà lại sẵn sàng giúp đỡ người nghèo khó, nhiều khi chỉ chữa hộ không cần trả công. Có những đêm trời rét như cắt da, ông vẫn ra đi theo lời mời để chữa trị các con bệnh cấp cứu hiểm nghèo. Nhà ông thuộc vào loại khá giả trong vùng, có của ăn của để. Tuy vậy ông vẫn không được vui vẻ, thường vẫn phàn nàn " dao sắc không cứa được chuôi ", vì làm bạn với bà Phí Thị Vang đã mười năm mà vẫn hiếm muộn không được mụn con nào. Tới năm ba mươi tuổi, bà Phí Thị Vang mới có mang, sinh được một gái. Hai vợ chồng mừng rỡ đặt tên con là Phật Nguyệt. Nguyên chữ Đinh là họ ông và chữ Phí là họ bà đặt bên nhau thành chữ Phật, ý ông muốn nói con gái là vầng mặt trăng của của cả hai vợ chồng.
Chẳng may Phật Nguyệt mười lăm tuổi thì bố mẹ lần lượt qua đời, Phật Nguyệt mồ côi cả bố lẫn mẹ, nhưng với tuổi mười lăm nàng đã sớm biết suy nghĩ và tự do lo liệu được mọi việc gia đình. Vả lại họ hàng làng xóm đều giúp đỡ nàng mà chẳng ai có bụng lấn át hay có ý coi thường nàng.
Cơ nghiệp của bố mẹ để lại có một nếp nhà gỗ năm gian, ba sào vườn và vài mẫu ruộng. Vườn trồng dâu để nuôi tằm. Tháng năm kén tằm vàng óng phơi trước sân trước ngõ mọi nhà. Cả làng Yển đều nuôi tằm kéo tơ bán cho lái các nơi về ăn hàng. Ruộng làng Yển là chân ruộng chiêm trũng, lại thường ngập nước sông nên cũng chẳng được bao nhiêu hạt lúa.
Phật Nguyệt có những suy nghĩ khác người. Và những suy nghĩ ấy nàng thường bày tỏ với một người đàn bà góa đã có tuổi mà cả làng đều quen gọi là " bà góa ", ở một túp lều nhỏ bên sông. Người đàn bà này có lẽ là một người khổ cực nhất trong những người khổ cực của làng Yển và của cả châu Thanh Hoa này nữa. Khi mới sinh ra, người đàn bà ấy đã không biết bố mẹ là ai, vì là con đẻ rơi bỏ góc vườn, người ta nhặt và nuôi làm phúc. Người đàn bà ấy suốt đời lam lũ vất vả, làm đày tớ các nhà giàu, làm nô tì cho những nhà quan đô hộ. Bốn mươi tuổi mới lấy được chồng thì chồng lại bị giặc bắt đi phu chết dấp dúi nơi ma thiêng nước độc. Bà đẻ được mụn con gái lại bị dịch sởi mang đi. Bà góa thường than thở : " Giặc cướp chồng, trời cướp con, tôi ăn ở hiền lành, ăn ngay nói thật mà sao khổ thế này hở trời ! ".
Bà góa ở một mình trong túp lều lụp xụp mặc dù Phật Nguyệt vẫn mời bà về ở với mình, bà vẫn cứ khư khư ra vào túp lều lụp xụp.
Phật Nguyệt suy nghĩ và bất bình khi nhìn các cảnh trái ngược, những tên quan đô hộ và bọn tay sai thì vàng bạc đầy kho, thóc lúa đầy bịch, no nê phè phỡn, đày tớ nô tì hàng chục hàng trăm, còn nhân dân thì hầu hết chui rúc trong những túp lều lụp xụp, ăn đói mặc rách.
Nàng càng căm phẩn khi thấy những cô gái trẻ xinh tươi và làm lụng chăm chỉ bị bán vào các cửa nhà quan, cửa nhà giàu, phải kéo dài một cuộc đời đày đọa máu hòa nước mắt.
" Ruộng chiêm là chiêm bao ", cả vùng đất đồi gò bên sông Thao này khổ vì nạn nước, nước sông nước đồng. Có làm mà chẳng có ăn. Nhưng mặc dân mất mùa đói kém, giặc vẫn thu cho đủ thuế đủ lương, vẫn bắt người đi phu đi tráng, dù cho nước ngập trắng đồng, dân sờ không thấy lần không ra một hạt gạo. Bà góa nói với nàng : " Dân mình lành quá, chịu khổ nó quen rồi. Với lại cũng là cái số cả ! ".
Tới năm vừa rồi, giặc vét thóc gạo tơ lụa các làng các chợ, làng Yển gần như mất trắng tay. Nhân dân khắp nơi đều xôn xao phẫn uất.
Phật Nguyệt nói với bà góa : " Chúng ta có làm mà không được ăn, giặc kia ngang ngược quá chừng ! Chúng coi dân ta như chó lợn ! Không lẽ cứ sống mãi trong cảnh địa ngục trần gian này sao ? " Bà góa nói : " Dân thì muốn đuổi giặc đấy, nhưng phải có một người tài giỏi đứng lên mới được. Nàng thử xem như mẹ góa này, như dân chạ ta đây, làm gì được kia chứ ! ". Phật Nguyệt muốn đem thân mình mà cứu dân báo quốc mới tìm đến ông chú, ngỏ bày tâm sự. Ông chú là một nhà nho không đỗ đạt, ở làng làm thầy đồ dạy học.
Ông chú nghe cháu nói, giật mình, không ngờ cháu lại có những ý nghĩ táo bạo như vậy. Cháu nói một lần cháu nói hai lần, nghe nói mãi chú cũng lạ lùng và kính phục cháu. Ông chú nói : " Đây là việc lớn, không phải chuyện đùa. Đã làm phải kín đáo kiên trì. Này cháu ơi, dòng nước sông Thao đỏ đặc phù sa chảy êm ả giữa đôi bờ đồng xanh núi biếc. Sông Thao nuôi ta mà ta vẫn khổ. Phải chăng sông ấy là dòng máu hòa nước mắt của dân Nam chảy mãi không bao giờ dứt ? ".
Cháu nói : " Sao chú lại nói những lời buồn chán như vậy ! Cháu quyết đứng lên, chú phải giúp cháu. Sông Thao là mẹ hiền, châu Thanh Hoa người đông, của nhiều, chẳng lẽ không có người hào kiệt hưởng ứng chúng ta sao ? ".
Chú cháu bèn tìm họp người máu thịt được vài ba người, cùng bàn việc dời non lấp biển.
* * *
Ba người ở ruộng khoai về làng Yển ở được sáu tháng vỡ đất làm trại, trồng sắn cày ruộng. Ông chú đến gặp gỡ, cùng nói chuyện làm ăn và giúp đỡ ba người trong mọi việc, nhưng vẫn kín đáo không nói gì tới những việc chọc trời khuấy nước.
Một hôm ba người đến gặp Phật Nguyệt, nói rằng : " Người có lòng không dám ngõ cùng nhau, bao giờ mới nên được việc lớn ? Nhà sắp đổ có gỗ tốt sao không dùng ? ". Phật Nguyệt tươi cười nói : " Gỗ có ngâm lâu mới dùng được bền. Nay cũng đã tới lúc vớt lên dựng cột được rồi, tiếc rằng còn thiếu ". Ba người hăng hái nói : " Chúng tôi đều có thù sâu với giặc, nàng cần gì xin cứ sai khiến ! ".
Phật Nguyệt nói : " Còn chờ đợi gì nữa ! Nay đã đến lúc cần đến các tráng sĩ đấy. Tìm người có tài có chí cùng nhau mưu việc, đó là một. Tích lương trữ thóc tính kế lâu dài, đó là hai. Tụ khởi nghĩa binh, rèn đao tập gậy, đó là ba. Học trò của chú tôi có một vài người, nhưng lực còn ít quá, mong các tráng sĩ xắn tay áo cho ! ".
Ba tráng sĩ vui vẻ nhận lời, bèn tìm các bạn cùng chí và những người giỏi đánh đáo múa gậy, đưa đến gặp Phật Nguyệt. Các học trò của chú cũng ra sức kết giao hào kiệt, tập luyện võ nghệ. Phật Nguyệt họp dân làm binh, chia thành đội ngũ. Mọi người tôn Phật Nguyệt làm chủ.
Lại nói về ba tráng sĩ ở ruộng khoai. Người cao tuổi nhất là Lê Bảo Hoàn mưu cơ trí lự, vốn chỉ là dân cày nghèo, vì trong một cuộc đấu vật ở làng lỡ tay quật mạnh con một tên cường hào ốm đến ba tháng, sau rồi nó bị què, nên phải bỏ làng ra đi. Hoàn bị giặc bắt đi phu lại tìm cách trốn, trốn đã nhiều lần, nhân một lần thấy tên quản phu người Hán đánh một người đàn bà trẻ bằng roi da đầu bọc đồng, mới xách bổng tên này lên ném xuống chân rừng. Giặc trói Hoàn lại đánh suốt ngày, nửa đêm Hoàn được Vũ Giao và Đào Lộc đến cởi trói đưa đi.
Vũ Giao và Đào Lộc đều là dân chài nòi, bơi lặn như cá, đã có lần hai người hai dao nhọn lặn sông đâm chết thuồng luồng, người ta gọi là dũng sĩ. Hai người và Lê Bảo Hoàn bàn nhau cùng đi tìm Phật Nguyệt để mong có thể thành được chí mình.
Có ngày nhân lúc bàn việc, Lê Bảo Hoàn nói với Phật Nguyệt : " Nàng là phận gái mà có chí lớn, nay sự nghiệp đã bắt đầu, chúng tôi rất mừng. Nhưng múa đao đánh gậy là việc nhỏ, còn như chém tướng phá thành, đến giặc không ngờ, đi giặc không biết, một người nghĩ cho trăm người, đánh thì được, giữ thì vững, đó mới là những việc người nghĩa chủ phải lo ! ". Phật Nguyệt nghe tráng sĩ nói, thấy sáng ra nhiều, mới cùng ông chú và Lê Bảo Hoàn đi xem xét địa thế trong vùng, vẽ bản đồ từ sông vào tới đất giữa, từ ngược về xuôi, định trước thế tiến thế thoái, chỗ đánh chỗ phục. Phật Nguyệt lại lập một đội thủy binh giao cho Vũ Giao và Đào Lộc quản lĩnh, còn Lê Bảo Hoàn thì cùng ông chú lo mọi việc quân lương và huấn luyện sĩ tốt.
Khi lực lượng đã mạnh, Phật Nguyệt đi các trang nói với các trang chủ : " Mọi người hãy cùng đứng dậy ! Các trang hãy dựng giáo lên ! Giặc đánh một thì mười trang đến cứu, giặc kia dẫu khỏe cũng không bằng chúng ta cùng một bụng. Sức chúng ta đã mạnh rồi ! ". Mọi người đều một lòng theo Phật Nguyệt. Từ đó không trang nào chịu đi xâu đi phu cho giặc, không trang nào chịu nộp thóc nộp tơ cho giặc. Giặc về xách nhiễu thì dằng dai chống lại, đánh trống làm hiệu tiến, đánh mõ làm hiệu lui. Quả nhiên giặc không còn lùng sục hoành hành được như trước.
Một hôm nhân lúc thư thả, ba tráng sĩ nói với Phật Nguyệt : " Chúa anh hùng đã ra đời, nàng đã biết chưa ? ". Phật Nguyệt ngạc nhiên hỏi lại. Ba tráng sĩ nói : " Ở Mê Linh có cháu ngoại Vua Hùng là Trưng nữ chủ đang mưu cứu nước, hào kiệt bốn phương đều theo về, nàng còn chờ gì nữa ! ", nói rồi đưa cho Phật Nguyệt tờ hịch cứu nước của Trưng nữ chủ. Phật Nguyệt xem xong mừng rỡ nói : " Những điều Trưng nữ chủ nói thật trúng ý ta, nay phải làm gì ? ". Các tráng sĩ đều vụt đứng dậy, nói : " Thời cơ đã đến, còn chờ gì nữa ! Ta hãy đến gặp nữ chủ in người dạy bảo cho ". Ngay hôm sau Phật Nguyệt và vài chị em thân tín đi cùng Lê Bảo Hoàn về gặp Trưng nữ chủ.
Ngày Trưng nữ chủ làm lễ tế cờ ở Hát Môn, Phật Nguyệt dẫn đầu hai nghìn nghĩa quân nam nữ sông Thao về hội với các anh hùng cả nước.
* * *
Trong cuộc khởi nghĩa chống Tô Định, Phật Nguyệt được phong là Thao giang thượng, tả tướng thủy quân. Nàng lập nhiều công lớn nên khi bình xong giặc được phong là công chúa.
Phật Nguyệt lấy làng Yển làm thực ấp, mở bến mở chợ, từ đó Yển trở nên một nơi sầm uất đông vui.
Theo lệnh của Vua Trưng, Phật Nguyệt cùng các tuỳ tướng đi tìm đất hiểm yếu để lập đồn trại, mới vào vùng đất giữa, trang Thanh Cù nghỉ lại đêm ở một toà miếu nhỏ. Hôm sau, Phật Nguyệt chọn tuyển ở trang Thanh Cừ mười lăm người làm bộ hạ, lại bàn với các cụ sửa lại cổ miếu, cử người trông nom đèn nhang. Phật Nguyệt đặt ở đấy một đồn quân gọi là đồn Gò Voi. Phật Nguyệt lại cho đào một con ngòi từ Yển vào Thanh Cù gọi là ngòi Cài để tiện việc đi lại.
Vài năm sau, Mã Viện theo lệnh vua Hán cầm quân sang xâm chiếm lại nước Nam. Sông Thao là đường tiến quân chiến lược của Mã Viện tiến đánh Bạch Hạc, vì thế Mã Viện giao cho phó soái Lưu Long tiến theo đường này. Phật Nguyệt chống cự với Lưu Long ở mạn ngược sông Thao nhiều trận đẫm máu, giặc bị kìm chân không xuôi về nam được. Ngày mồng mười tháng hai năm Quý Mão, Lưu Long dùng kế phục quân đang đêm bao vây phá vỡ đại đồn của Phật Nguyệt. Phật Nguyệt tả xung hữu đột thoát được vòng vây, chạy theo bờ sông một thôi đường, ngoảnh lại quân tướng không còn ai, sau lưng lửa bốc rực trời, giặc lại chận đánh ở phía trước. Phật Nguyệt kêu to một tiếng, phóng ngựa xuống sông, nước réo lên ầm ầm, tự nhiên xoáy thành vực lớn (1).
Phật Nguyệt được thờ ở các xã Thanh Vân, Phương Lĩnh huyện Thanh Ba, Vĩnh Phú.
Đền thờ Phật Nguyệt ở Phương Lĩnh có đôi câu đối :
" Tích trù Động Đình uy trấn Hán
Phương lưu thanh sử lực phù Trưng "
Nghĩa :
" Sự tích hiển hánh còn lưu ở Động Đình, uy trấn nhà Hán. Danh thơm lưu truyền sử xanh, sức mạnh phù vua Trưng ".
Chú thích:
1. Phật Nguyệt công chúa là một người con gái anh hùng của sông Thao, vì bất bình trước cảnh lầm than của nhân dân mà tuốt gươm đứng dậy, kiên trì mưu trí, thu phục được hào kiệt, làm nên được công trạng hiển hách.
Trang Vĩnh Tế huyện Lang Tài có Nguyễn Trát vũ dũng và ngang tàng nổi tiếng. Nhà Nguyễn Trát đã bốn đời là dân cày thuê, đất một thước một tấc cũng không có. Tới Nguyễn Trát cũng chỉ có một chiếc khố và hai bàn tay trắng, mồ côi bố mẹ từ nhỏ, tự kiếm lấy mà ăn.
Nguyễn Trát mày rậm mắt tròn, miệng rộng mặt vuông, mỗi bữa ăn hết một đấu gạo, ăn bằng ba người, cày bằng mười người, nên nhà giàu nào cũng muốn giữ Trát ở với mình. Trát không chịu ở đâu lâu, mỗi vụ một nơi, chỉ cần được ăn no, không bao giờ bận tâm tới chuyện vườn ruộng vợ con này nọ.
Trát rất khỏe, vác chiếc cối đá lớn, miệng rộng ba gang tay đi ba vòng quanh sân đình mà nét mặt vẫn không thay đổi. Tính nết Trát cũng khác thường, thấy việc gì trái mắt là tóc dựng lên không chịu bỏ qua, tuy thân phận là tôi tớ nhưng chưa bao giờ chịu chắp tay cúi đầu với ai bao giờ.
Một hôm, Trát đang cày vỡ thấy dân làng xôn xao, bèn bỏ cày về, thì thấy cường hào họ Đặng cậy thế giặc Hán bắt hiếp vợ người ta, đang thét bọn gia nhân lôi kéo một thiếu phụ xinh đẹp đầu tóc rũ rượi. Người làng chỉ kêu gào mà không ai dám cứu gỡ cho người đàn bà. Người chồng bị trói vào gốc cau, bị đánh đập đến nát da chảy máu. Nguyễn Trát lập tức trợn đôi mắt hổ, duỗi cánh tay vượn nắm lấy cổ cường hào họ Đặng nhấc lên rồi dầm đầu hắn xuống đất. Cường hào họ Đặng chết tươi. Từ đó, Trát phải bỏ làng.
Nhân năm đói kém, Trát họp dân đói được mươi người nổi lên đánh cướp các nhà cường hào cho thỏa lòng căm tức. Trát thường cắm cây sào tre mà đu mình vào cướp phá các trang trại, không kể gì hào rộng luỹ dày. Bữa ăn, kẻ giàu thì ngồi xếp chân bằng tròn, người nghèo thì ngồi xổm, riêng Trát bao giờ cũng chân duỗi chân quỳ mà ăn, vì thế hơi động là trở tay đánh đỡ ngay được. Có lần Trát bị đuổi tới một con ngòi rộng, Trát vỗ đùi nhảy qua nhẹ như chim liệng. Dân đói theo về với Trát mỗi ngày một đông. Huyện quan là người Hán nhiều lần vây đánh Trát nhưng cũng không dẹp nổi.
Huyện quan sợ để Trát hoành hành mãi thì mình cũng bị mất chức mới tìm cách chiêu dụ Trát.
Vùng vẫy được hơn hai năm, Trát đã có thanh thế. Nhưng cứ lang bạt mãi cũng không được, nhân dịp huyện quan chiêu dụ, Trát xin khẩn đất hoang mở trang trại bên sông.
Trát lấy một người con gái ở Cối Giang làm vợ, xây dựng cơ nghiệp, nghiễm nhiên trở thành một hào trưởng ở huyện Lang Tài. Vợ chồng Trát sinh được ba trai khôi ngô tuấn tú, Trát đặt tên là Nguyễn Tất, Nguyễn Hiển, Nguyễn Minh. Tuổi ngoài năm mươi, Trát lại sinh được một cô gái út đặt tên là Phương Dung. Vợ chồng Trát yêu quý nâng niu Phương Dung như hòn ngọc trên tay. Phương Dung càng lớn càng đẹp, hay lam hay làm, không ai là không mến.
Trát từ khi mở trang trại, càng nung nấu cái chí chuyển lay thời thế, mới chiêu mộ dân lưu tán, những người tù tội được về, những kẻ ngang tàng từng chọc trời quấy nước, những người giỏi nghề đấu gậy, nghề đánh khiên, những người bị cường hào áp bức mà phải bỏ làng, những người có nợ máu với giặc Hán. Nhà Trát kẻ ra người vào rậm rịch. Oai danh Trát mỗi ngày một lớn. Kẻ nào đi ra ngoài mà tự xưng là người nhà của Nguyễn công ở Vĩnh Tế thì ai cũng phải nể, kẻ có quyền thế cũng không dám hà hiếp. Mỗi khi Trát đi chơi, cưỡi con ngựa lông tía cao lớn, ba con trai mang đao cưỡi ngựa đi theo, đàn chó dữ lực lưỡng chạy giỡn bên chân, ai trông thấy cũng phải tránh. Bọn cường hào tuy căm ghét Trát nhưng vẫn sợ, lại lấy việc được Trát đén nhà chơi làm hãnh diện.
Tô Định nghe tiếng Trát rất lo ngại, bèn gọi cho Nguyễn Trát một chức quan nhỏ coi việc đốc phu trong thành thái thú. Trát từ chối, rồi nói với các con rằng : " Con cáo già muốn xích chân ta đây ! ". Từ đó, Tô Định càng để ý tới Trát và sức cho huyện quan phải luôn luôn giám sát Trát, và năng đi lại thăm hỏi cho Nguyễn Trát yên tâm khỏi nghi việc kia, sau rồi sẽ tìm dịp diệt Trát cho dứt mối lo.
Nguyễn Trát xuất thân là người dân cày bị hà hiếp nên biết thương yêu những người cùng khổ và thường nhắc nhở các con không được quên gốc. Vì thế, các con Trát không chỉ thạo côn quyền, giỏi đao kiếm mà việc cày bừa thổ mộc ba anh em Tất, Hiển, Minh cũng thành thạo không chịu kém ai. Phương Dung là người có hoa tay, đan đồ rất khéo, quán xuyến việc nhà, vào các ngày mùa lại cùng các chị em người làm đi cấy gặt...
Năm ấy được mùa, cánh đồng tháng mười vàng rộn lúa mới, tấp nập người gặt hái. Phương Dung mặc váy ngắn đi gặt với chị em, chỉ khác chị em cùng gặt có chiếc yếm bằng lụa màu hoa đào. Lưỡi liềm nàng sáng như bạc, cong như mặt trăng mồng sáu, mảnh như mặt trăng mồng ba. Nàng đưa liềm như múa, lúa chất đằng trước, lúa rước đằng sau, lúa múa lao xao dưới tay nàng rồi nằm xuống nghỉ bên chân nàng. Nàng làm không biết mệt, gặt không biết mỏi, nàng nói nàng cười như con chim khuyên, con chim sẻ, nàng bé người mà tươi xinh và cả đồng lúa ngày mùa vui lên hơn nhiều vì có nàng gặt hái.
Nhưng kìa, một đoàn người nhốn nháo đi trên đường qua khoảnh ruộng Phương Dung và các bạn nàng đang gặt. Tên thủ bị người Hán vênh váo trên mình ngựa lấc láo nhìn ngang nhìn ngửa. Những tên lính Hán tay đao tay gậy lăng xăng lôi kéo hơn chục người Việt, trai có gái có. Họ cố chống lại bọn lính nhưng không nổi vì đều bị trói thành một xâu.
Phương Dung vụt chạy lên đường, đuổi theo tên lính Hán, giật chiếc roi từ tay nó và cầm lăm lăm trong tay mình.
Vụt, vụt, vụt, chiếc roi mềm bằng song đầu bít đồng hình đầu rắn ba cạnh từ tay Phương Dung quật như mưa vào tên lính. Bọn lính tức giận múa đao xông lại vây lấy Phương Dung. Chị em ở khắp cánh đồng hàng chục người cầm liềm và đòn gánh chạy ùa tới. Tên thủ bị quát tháo cả bọn lính lẫn những người đi gặt đang xúm lại mỗi lúc một đông.
Mọi người vây kín lấy những tên giặc. Những người bị trói đã lẩn đi từ lúc nào cũng không ai để ý.
Phương Dung múa ngọn roi. Cả bọn lính gần hai chục tên không cự nổi với người con gái mười sáu tuổi, lùi lại và hét như bầy chó dại.
Tên thủ bị loay hoay trên mình ngựa, bực tức vì mọi người xúm quanh làm nó không có đất dụng võ. Nó cố lia đao gạt mọi người lui ra rồi chỉ đao vào mặt Phương Dung mà quát : " Con kia, mày không sợ tội chết cả ba họ à ? Con gái nhà nào ? ". Có tiếng ai đó cất lên rắn rỏi : - Con gái út của Nguyễn công ở Vĩnh Tế đấy !
Thủ bị gườm mắt nhìn Phương Dung.
Phương Dung quắc mắt nhìn lại.
Hắn cúi đầu rồi thét bọn lính rút về huyện sở.
* * *
Một trăm làng mạn ngược, một nghìn làng mé xuôi đều biết tiếng Nguyễn công giàu mạnh. Bãi giữa sông ngô mọc san sát như lau, khoai mọc xanh rờn như cỏ, những cánh đồng cò bay mỏi cánh. Buổi chiều trâu tắm chen chật bến, con trai con gái đi về chật đường. Nhà Nguyễn công có một trăm nồi đồng, mười bộ chiên đồng, trống cái trống con hàng chục chiếc. Người tứ xứ đổi chác hàng hoá thuyền lớn thuyền nhỏ đậu ngoài bến nhiều như ngỗng như ngan.
Trong vòng trăm dặm trở ngược, trăm dặm đi xuôi, không một hào trưởng nào hùng mạnh như Nguyễn công. Năm bố con Nguyễn công đều hùng dũng. Người người đều biết đó là năm con hổ dữ ở rừng đại ngàn tìm về đây, là năm con đại bàng bay lượn chán trên những đỉnh núi cao chạm trời bây giờ tới chọn vùng đất này để nghỉ. Những người mẹ đều ao ước đẻ được con trai như ba anh em họ Nguyễn, sinh được con gái như nàng Phương Dung.
Ba anh em trai giống nhau như đúc một khuôn và đều cường tráng tuấn tú. Phương Dung như vầng mặt trời buổi sớm, như con trăng treo đêm rằm. Cổ nàng đeo vòng bạc, tay đeo vòng vàng. Cổ nàng trắng nõn như hoa huệ, cánh tay nàng nuột nà như ngó sen. Tóc nàng thả xuống dài chấm gót chân, mềm và óng như lụa như tơ. Tóc nàng búi lên cài trâm bạc trâm đồng, tròn trặn như quả bưởi.
Nàng đẹp và khéo chân khéo tay. Nàng đan nong đan nia, đan rổ đan rá, ngón tay búp măng đưa thoăn thoắt. Nàng xếp lá đan nón. Nón nàng đan ai đội cũng thấy nhẹ như đội mây, nắng phải trốn mưa phải tránh.
Một hôm Phương Dung cùng mẹ về thăm quê ngoại để sửa lại phần mộ tổ tiên và viếng họ hàng. Quê ngoại Phương Dung ở bên sông Cối, một làng nhỏ vừa làm ruộng vừa chài lưới. Khi ra đi, Phương Dung nói với anh trai là Nguyễn Minh rằng : " Em theo hầu mẹ về thăm quê quán ông bà ta, anh ở lại trông nom bố cho cẩn thận vì tính nết bố nóng nảy không biết chịu nhịn, lại hay rượu. Anh hãy luôn luôn ở bên cạnh bố. Anh cười rằng : " Ôi, em gái sao lo nhiều như vậy. Em cứ về quê đôi mươi ngày hoặc cả một mùa ba con trăng nữa và khi em trở lại đây thì đình làng ta đã dựng xong rồi đấy ! ". Hai anh em vui vẻ chia tay nhau.
Ôi dòng sông quê hương đẹp thay ! Dòng sông mát rượi đậm đặc phù sa như một dải lụa đào nàng tiên nào lỡ để rơi trên mặt đất. Phương Dung yêu dòng sông quê ngoại, vì nàng sinh ra ở đây và dòng sông tắm mát tuổi thơ của nàng. Phương Dung yêu dòng nước xuôi nhiều, sóng nước rì rào với làn gió lao xao hương lúa, là những cánh buồm mở ra như cánh bướm khổng lồ chẳng biết từ đâu đến và sẽ đến đâu.
Lần này, về quê, nàng lại gặp lại Đào Kỳ, người bạn trai từ hồi còn nhỏ tuổi. Nàng ngạc nhiên khi thấy Đào Kỳ đã là một chàng trai đẹp đẽ cũng như các anh nàng và cũng khỏe như thế. Nhìn ánh mắt và nét mặt Đào Kỳ nàng hiểu rằng chính Đào Kỳ cũng ngạc nhiên khi thấy người bạn gái đã lớn bằng này.
Lâu ngày không gặp nhau, nhưng lần này họ nói với nhau ít và khi Đào Kỳ mời trầu Phương Dung thì tự nhiên nàng thấy mặt nóng bừng. Đào Kỳ giản dị và chân thực tiếp Phương Dung tại túp lều nhỏ của mình bên sông Cối.
Đào Kỳ ở một mình trong túp lều tre rụng đầy mái và gió sông đầy gian. Lều chỉ có một chiếc chõng tre và vài tấm lưới gai với những chiếc lao cá và cần câu. Đào Kỳ không phải người quê đây. Bố mẹ chàng tránh loạn lạc rồi bỏ trang Nông Cống huyện Lương Giang phủ Thiện Thiên, quận Cửu Chân lần ra ngoài này. Hai ông bà già sống cực khổ vài năm thì qua đời. Đào Kỳ mồ côi cả bố lẫn mẹ, từ năm mười tuổi đã phải tay làm hàm nhai. Phương Dung nghỉ chắc chàng không được học chữ đã đành mà hẳn chàng cũng chẳng được biết một miếng vật, một đường đao. Phương Dung thương Đào Kỳ vì thấy chàng trơ trọi và nghèo khổ.
Phương Dung muốn Đào Kỳ về với bố và các anh mình. Đào Kỳ vội vã lắc đầu.Chàng sống như con chim trời, con cá nước, sống thế quen rồi.
Nửa tháng qua, Đào Kỳ, Phương Dung càng thương nhau và Đào Kỳ thấy buồn khi Phương Dung sắp theo mẹ về Vĩnh Tế.
...Tiếng sấm xuân rền vang trên bầu trời chồng chất mây đen. Chiều cuối xuân oi bức ngột ngạt rồi mưa trút xuống. Phương Dung lo ngại vì mẹ lại vừa bị mệt, còn nàng cũng cảm thấy trong dạ bồn chồn. Nàng không chớp mắt khi nghe tiếng sét nổ tung trên đầu nhưng nàng thấy lo lắng, ngồi đứng không yên.
Bỗng cửa bị xô mạnh mưa gió thốc cả vào nhà...Ông cậu và Đào Kỳ bước vội vào, liền theo sau là một người mái tóc hoa râm : ông Nguyễn, người hầu thân tín nhất của bố nàng !
* * *
Bảy ngày đã qua...mẹ Phương Dung chỉ nằm khóc, nước mắt ướt hết chiếu giường, và bà tắt thở trong nước mắt. Phương Dung không khóc nữa vì nàng đã khóc cùng mẹ nhiều rồi. Nàng lau nước mắt cùng họ hàng bên ngoại chôn cất mẹ.
Giờ đây, nàng cũng như Đào Kỳ. Bố và các anh nàng đã mất rồi. Bố mẹ, các anh nàng, cả cơ nghiệp nhà nàng, tất cả không còn gì nữa, vụt tan đi như áng mây. Bây giờ thì nàng cũng như Đào Kỳ, cũng mồ côi cả bố mẹ, cũng chẳng còn anh em, cũng một thân một mình như Đào Kỳ. Có khác chăng là nàng vẫn còn chỗ dựa là họ hàng bên ngoại.
Lòng nàng sôi sục căm thù. Nàng nhớ thương bố mẹ và các anh vũ dũng của nàng. Nàng cũng nhớ tới hàng trăm con người nghèo khổ đã theo bố nàng cùng nhau xây dựng nên một cơ nghiệp giàu có. Tất cả đều tan tác hết sau đêm Tô Định vây đánh với hàng trăm quân từ phủ thái thú kéo về, với tất cả bọn tay sai cường hào ác bá trong huyện Lang Tài.
Đêm lửa và máu. Đêm ấy những người anh hùng còn đang mê mệt trong giấc ngủ nồng hơi rượu của cả ba ngày tiệc mừng khởi công làm đình, sau ba ngày hội lớn có đủ mặt từ viên huyện quan người Hán cho tới các hào trưởng trong vùng. Những người anh hùng vô tư không hề đề phòng, và trong đêm thứ ba, đao của họ bị nhấc đi, khiên của họ bị giấu đi, hàng trăm tên giặc Hán cùng bọn cường hào ồ ạt, hùng hổ, hò hét khoa đao chém giết, hãm hiếp, đốt phá...
Ông Nguyễn nước nước mắt tràn đầy má nói với Phương Dung :
- Ôi nàng Phương Dung ! Dân làng và bao người cực khổ khác trông chờ nàng, vì nàng là người anh hùng duy nhất còn lại của nhà Nguyễn công. Hãy trả thù !
Đào Kỳ chống sào đẩy thuyền đưa Phượng Dung và ông Nguyễn rời khỏi làng Cối nhỏ nghèo, trốn tránh sự truy lùng của Tô Định vì tên này biết rằng Phương Dung còn sống là còn nguy hiểm đối với bọn nó hơn cả Nguyễn Trát và các con của Nguyễn.
Trước khi con thuyền rời bến, ông cậu nói với Phương Dung và Đào Kỳ :
- Nếu các cháu thương nhau, các cháu hãy hứa hôn với nhau và có thể sống với nhau như vợ chồng. Phương Dung hãy nhận ông Nguyễn là bố, ba con ông cũng bị giặc Hán giết cùng với ba anh của cháu đó.
Từ đấy, những người trốn tránh sống trong sự che chở của dân làng quê ông Nguyễn.
Một hôm Phương Dung nói với bố nuôi :- Bố hãy đi tìm những người biết múa đao đánh gậy ở trại ta còn sống sót, tìm những người mang khăn tang trên đầu và mối thù giặc trong lòng, đi tìm những ấy và nói với họ hãy tập hợp lại, theo về với Phương Dung !
Phương Dung lại nói với Đào Kỳ :- Chàng khỏe và khôn ngoan, nhưng muốn trả thù nhà, chàng phải biết múa khiên như anh ba và múa gậy cũng giỏi như anh hai mới được.
Từ đấy, Phương Dung dạy Đào Kỳ múa roi đánh kiếm, bày cho Đào Kỳ cách chống sào mà nhảy như bố mình, bày cho Đào Kỳ múa khiên và đao như các anh mình.
Sau đó hai người lại tập luyện với trai làng, gái làng. Chỉ có vài ba chục người, vì đấy cũng chỉ là một làng nhỏ nhoi, hẻo lánh. Họ tập kín đáo với nhau, và cánh đồng chiêm mênh mông nước với lũy tre làng dày đặc đã che chở cho họ.
Những anh hùng của Trưng nữ chủ không nén nổi xúc động khi gặp những người mới đến. Những người này nghiêm trang nhìn về phía trước, chờ đợi Trưng nữ chủ xuất hiện.
Khi Trưng nữ chủ bước tới khoan thai và tươi cười, họ đều chắp tay cúi đầu làm lễ và chủ tướng của họ vội quỳ xuống, thế là họ đều quỳ cả xuống theo.
Hai trăm người mới đến ấy đều chít khăn tang trắng, quần áo bụi bặm. Chủ tướng của họ là một đôi trai gái xinh đẹp như hai quả đào tơ nở đôi bên nhau.
Phương Dung, Đào Kỳ và ông Nguyễn đã cùng hai trăm tráng sĩ tìm đến với Trưng nữ chủ và họ mang khăn trắng để tỏ rằng họ đều có nợ máu và họ quyết sống mái với kẻ thù.
Trưng nữ chủ đưa tay đỡ ông Nguyễn và vợ chồng Phương Dung, Đào Kỳ đứng dậy, miễn lễ cho các tráng sĩ của Phương Dung.
Khi được biết cả hai là một đôi bạn mồ côi, không còn anh em bố mẹ, Thiều Hoa và Vĩnh Hoa đều khóc, còn Bát Nạn và A Nàng thì nhớ ngay đến mối thù của mình. Lê Chân và Hồ Đề nương cũng không cầm được nước mắt. Xuân nương, nét mặt nghiêm trang, bước tới cầm tay Phương Dung nhẹ nhàng nói :
- Em chớ khóc. Chị đây cũng bị Tô Định giết bố và các anh. Nàng Nội ở Phong Châu cũng vậy và còn nhiều người khác nữa mà em sẽ biết. Thù với giặc đâu phải chỉ riêng em.
Nói đoạn, nàng nhìn đoàn tráng sĩ khăn trắng và vẫn nói với giọng dịu dàng :
- Những người đến đứng dưới cờ của Trưng nữ soái đều là những người bị áp bức, nung nấu thù sâu với giặc nước. Cứu nước và giành lại tự do cho nhân dân đó là ý chí của chúng ta khi theo về với Trưng nữ chủ, vợ goá của Đặng công Thi sách.
* * *
Trống trận nổ, như sấm như sét, trống trận ngày đêm rung trời động đất, gầm lên như tiếng núi đổ, rền vang đi khắp nơi. Thành Luy Lâu này tiếng trống vang đi xa mãi tới những rừng đại ngàn và làm nổi sóng bể cả, nơi mặt trời ẩn náu.
Tù và rúc lên trong hang sâu, như gầm bão cuốn đổ tất cả trên đường đi, inh ỏi đêm ngày.
Người đông như kiến, nhiều như ong, kiếm và giáo san sát như lau lấp lánh loáng lên, khiên đồng sáng xoay tròn làm cát bụi bốc lên mù mịt. Mũi tên lòe sáng bay vun vút dày đặc như đàn châu chấu và những con chiến mã chồm lên hí vang, bờm tung trước gió !
Một vạn chiến sĩ cùng với hàng trăm tướng anh hùng, trai có gái có, già có trẻ có, đánh tan tác quân thái thú Tô Định, Tô Định lui về cố thủ ở trong thành, sau hàng rào chông, sau bức tường thành cao vút lởm chởm giáo và nỏ.
Tên từ trên bắn xuống, tên từ dưới bắn lên. Đá từ mặt thành đổ xuống ầm ầm. Thành Luy Lâu quân còn đông, lương thực còn nhiều, vách cao hào sâu, Tô Định cố giữ chờ quân viện từ phương Bắc xuống và từø các trấn mạn bể tiến về.
Vây đánh mười lăm ngày ròng rã mà đoàn quân Việt vẫn không phá nổi thành, không hạ nổi Luy lâu !
Trưng nữ soái hạ lệnh chia các tướng giỏi đi đánh phá các huyện thành mạnh của giặc để làm tan nguồn quân viện, Lê Chân quét giặc ở các trấn miền Đông, Quỳnh Hoa,Quế Hoa cầm quân tuần tiễu. Một số tướng khác đi về các địa phương mộ thêm quân, lấy thêm lương để vây phá Luy Lâu cho bằng được.
Trống trận vẫn nổi ầm ầm. Tù và rúc đêm ngày. Các chiến sĩ Việt hăng hái xông lên, dùng thang tre, thang mây tìm lối vào thành.
Thành Luy Lâu cao bằng tầm cây tre, dày bằng tầm cây nứa, đá xếp như áo giáp. Hàng nghìn quân đứng trên thành đổ cát và đá, ném lửa, bắn tên, phóng lao xuống dưới.
Trưng nữ chủ hạ lệnh ngừng phá thành trong ba ngày và họp với các tướng bàn mưu kế.
* * *
...Bể lặng sóng yên, đất cũ về một mối, non sông hết bóng giặc thù, Đào Kỳ được phong trấn thủ huyện Đông Ngàn, và Phương Dung phong tước Công chúa, cùng chồng chăm lo mọi việc trong quận hạt. Huyện thành được xây dựng ngay nơi thành cũ Cổ Loa của An Dương Vương xưa, trên mảnh đất gọi là làng Ốc. Chính quyền đô hộ Hán chỉ đặt ở đây một một đồn quân. Vợ chồng Đào Kỳ về sửa lại thành quách, lập dinh sở, mở đường làm cầu. Loa thành lại trở thành một nơi đô hộ đông vui. Ngày qua tháng tới, ba năm liền được mùa, dân no, làng vui, những thôn xóm mới mọc lên, dân huyện Đông Ngàn đều ca ngợi vợ chồng quan trấn thủ hiền từ và chăm sóc tới dân.
Bấy giờ giặc Hán là Mã Viện lại kéo sang uy hiếp vùng biên giới. Biết Mã Viện là một danh tướng của triều Hán, Trưng Vương cho lệnh gọi hai vợ chồng Phương Dung, Đào Kỳ về triều, truyền rằng : " Biên giới phải có tướng tài lên chặn giặc. Nay ta giao các ngươi đem quân bản hộ lên tới trấn Lạng Sơn lấy quân trấn cùng nhau ra sức chống giặc ". Hai vợ chồng Phương Dung, Đào Kỳ hăng hái lĩnh mệnh ra đi.
Hai tướng đánh với giặc bảy trận trong ba ngày, giặc phải bỏ đường Lạng Sơn mà chia làm nhiều đạo mới tiến được sâu vào nội địa. Giặc hợp quân ở vùng Bắc sông Đuống chính là vùng trấn thủ của Đào Kỳ. Vợ chồng Đào Kỳ, Phương Dung nóng lòng được trở về đánh giặc ngay trên đất quê hương. Trưng Vương không cho lệnh gọi về. Hai vợ chồng đành nắm quân chờ để chặn đánh giặc khi chúng bị quét phải rút chạy về biên giới.
Quả nhiên giặc vấp phải sức kháng chiến quyết liệt của quân dân Việt đã phải rút về phía Bắc. Hai tướng chặn đánh. Giặc cắm đầu, quẳng giáp mà chạy. Trưng Vương cho lệnh hai tướng vẫn đóng lại ở Lạng Sơn.
Lần thứ hai, giặc tràn sang. Trưng Vưong thua, lệnh cho Phương Dung, Đào Kỳ về mở mặt trận Bắc sông Đuống để gỡ thế nguy. Hai vợ chồng đem quân về cứu. Vua lúc đó đang bị khốn ở vùng Lãng Bạc. Trưng Vương rút về Cẩm Khê. Nhiều trận đánh lớn diễn ra ở vùng Bắc sông Đuống. Có lần Phương Dung, Đào Kỳ cưỡi ngựa sóng nhau đứng trên đồi cao nhìn thế giặc đóng quân kéo dài từ đồi nọ tới lũng kia, giáo dựng tua tủa, cờ xí rợp trời, trông chẳng khác một con rắn hoa đang trườn mình, mà không biết chủ tướng giặc đóng ở chỗ nào. Hai người nhìn ngắm một hồi rồi bảo nhau cứ giữa trận mà đánh, bèn ruỗi ngựa xuống đồi, quân bốc theo sau, múa giáo huơ đao. Chẳng ngờ quân ta vừa xô nhau vào giữa trận thì từ hai đầu trận giặc cuộn lại vây chặt hai tướng Việt vào giữa. Giặc dồn đến lớp lớp đan dày, tiếng chiêng, trống, tiếng la thét vang trời. Quân của Đào Kỳ, Phương Dung bị chia ra từng mảnh, không còn sức mạnh nữa. Hai tướng biết mình lầm lỡ, cố sức mở đường máu tìm lối ra, vợ một nơi, chồng một ngả đều đã bị thương nặng.
Đào Kỳ bị tướng giặc khua đao chém ngang sườn, máu vọt ra ướt hết cả áo giáp. Đào tướng quân cắt mảnh đai áo buộc vết thương rồi phóng ngựa ra khỏi trận. Lúc ấy quân tan tướng lạc, tướng quân một mình một ngựa phóng đi, chạy tới một gốc đa lớn bèn gò ngựa lại. Dưới gốc đa có một bà lão đang quét lá. Đào tướng quân cất tiếng chào hỏi : " Bà cụ quét lá làm gì đó ? ". Bà già đáp : " Lão quét lá về nấu nước ". Đào tướng quân lại hỏi : " Đây là nơi nào ? " Bà cụ đáp : " Đào tướng quân, đây chỉ cách ba dặm là tới dinh cơ của tướng quân ở trong thành nội kia, tướng quân quên rồi sao ? ". Đào tướng quân xuống ngựa, lúc ấy bà lão mới biết Đào Kỳ bị thương nặng, sợ hãi hỏi : " Tướng quân ơi, thế ra quân ta thua to rồi sao ? Còn nữ chủ tướng đâu ? ". Nói rồi bà nắm lấy tay Đào Kỳ, ứa nước mắt khóc.
Đào Kỳ ngửa mặt lên trời, kêu to một tiếng. Lá rụng rào rào, gió ào ào thổi, một đàn quạ từ đâu tới liệng thành vòng. Đào Kỳ ngã xuống, mũi đao cắm phập xuống đất. Bà lão phục cạnh Đào tướng quân mà khóc.
Phương Dung phá được vòng vây, cùng vài bộ tướng phóng ngựa tìm về Loa thành. Chợt thấy xa xa có bầy quạ lượn đen, tiếng quạ kêu dữ tợn, Phương Dung hồi hộp trong lòng, phóng ngựa chạy thẳng tới nơi. Thấy xác chồng nằm trên đất, đao cắm bên mình, nàng bèn nhào xuống ôm lấy chồng, ngất đi. Bà lão và các tướng gọi hồi lâu, nàng tỉnh dậy, liền nâng lưỡi đao của chồng trên tay, than rằng : " Quân tan tác hết rồi, chúa mất, chồng cũng mất, ta còn sống sao được nữa ! ". Các tướng chưa kịp can thì Phương Dung đã gục xuống, máu đỏ đao báu. Mọi người đào đất đắp mộ cho đôi vợ chồng anh hùng ngay dưới gốc đa. Hai ngôi mộ của đôi vợ chồng Phương Dung, Đào Kỳ nằm sóng bên nhau dưới bóng rợp mát của cây đa cổ thụ.
Hôm đó là ngày mười sáu tháng tám năm Quý Mão (1).
Chú thích:
1. Viết theo tài liệu của Vũ Tuấn Sán có dịch thơ cổ và câu đối để vịnh Phương Dung, Đào Kỳ, xin được giới thiệu như sau :
" Sinh vi tướng, tử vi thần
Vạn cổ cương thường hệ thử thân
Loa địa song đôi thu nguyệt ảnh
Anh hùng liệt nữ tướng quân phần "
Dịch :
" Sống làm tướng giỏi, chết làm thần
Muôn thuở cương trường nặng tấm thân
Đôi nấm thành Loa trăng chiếu sáng
Hào kiệt anh thư mộ tướng quân ".
Câu đối :
" Vi lý Phục Ba thi, loan giá lâm lưu không ẩm hận. Bất Tiên Trấn giáp, Loa thành quy mã thượng trì thanh ".
Dịch :
" Chưa bọc xác Phục Ba, sống cảnh xa loan còn vang uất hận. Chẳng rời giáp Tiên Trấn, ngựa về thành Ốc vẫn vọng âm thanh ".
TRẦN NANG: TRƯỞNG LĨNH TRUNG QUÂN
Nguồn: Chimvietcanhnam
Thu gọn nội dung
Trang Toàn Liệt có nàng con gái xinh đẹp nổi tiếng tên là Ả Nang. Tóc Ả Nang dài và óng như tơ, đen như mun, buông thành bím sau lưng như tất cả các cô gái chưa chồng khác trong vùng. Da Ả Nang hồng và mát như cánh hoa sen thắm, môi Ả Nang tươi đỏ, mắt Ả Nang láy đen. Ả Nang đứng trong vườn dâu, ngón tay búp măng thoăn thoắt bứt lá, giọng hát mềm mại cất lên hoà tiếng gió rì rào lúc bổng lúc trầm như cánh én mùa xuân lướt bay trên bầu trời lồng lộng. Người làm vườn cũng phải dừng tay cuốc, người đánh cá trên sông ngơ ngẩn buông chài, con trai chống cày để trong chốc lát lắng nghe giọng hát Ả Nang.
Ả Nang xinh đẹp chính là con gái ông Trần Hậu, một vị hương trưởng. Hai ông bà đều hiền lành phúc hậu, chăm chỉ căn cơ. Nhà chỉ có ba người nhưng không quạnh. Trai gái trong làng thường đến chơi với Ả Nang. Các cụ già cũng đến ăn trầu uống nước cùng hai vợ chồng Trần Hậu nên lúc nào nhà cửa cũng đông vui ấm cúng.
Năm Trần Nang mười sáu tuổi, có hào trưởng Đinh Công Dũng đến hỏi làm vợ. Đinh Công Dũng tuổi đã bốn mươi, mắt như mắt diều hâu, mặt dơi, mồm chuột, nhà giàu bậc nhất trong ba mươi sáu trang bên sông Mê Linh. Họ Đinh nuôi thủ hạ trên một trăm tên đầu trâu mặt ngựa. Bọn này lúc nào cũng tay đao tay gậy hung hăng đi các làng thu lúa thu nợ, hãm hiếp dân lành, có khi bắt con gái có sắc về cho chủ, có khi bôi mặt bật đuốc cướp phá trang trại các hào mục kình địch với họ Đinh. Bọn quan cai trị nhà Hán qua lại vùng này đều rẽ vào trang trại Đinh Công Dũng nghỉ ngơi chè chén.
Đinh Công Dũng đã có mười vợ, nhưng mê sắc đẹp Trần Nang và cậy quyền thế, y mượn người mối đến hỏi xin cưới nàng. Mối nói với ông bà Trần Hậu rằng nếu họ Đinh cưới được Trần Nang sẽ tôn nàng làm chính thất, giao cho cai quản dinh cơ điền sản và sẽ hết lòng phụng dưỡng hai ông bà.
Cha mẹ Ả Nang lựa lời chối khéo, nói là con gái mình còn thơ dại, vả lại nhà nghèo, không dám sánh với họ Đinh.
Vài ngày sau, họ Đinh thân chinh đem trâu rượu trầu cau đến hỏi. Cha mẹ Trần Nang cho con gái ra tiếp. Trần Nang cự tuyệt thẳng lời cầu hôn. Đinh Công Dũng nuốt giận ra về.
Quá mê nhan sắc Trần Nang, Đinh Công Dũng không thể bỏ qua nên lại sang nhà Trần Nang hết cầu khẩn lại dọa nạt. Trần Nang vẫn một mực chối từ. Đinh Công Dũng bước ra khỏi nhà Trần Nang, tuốt kiếm chém vào cột cổng, đe dọa sẽ có dịp rửa hờn.
Mọi người đều lo sợ cho ông bà Trần Hậu. Cô gái Trần Nang thưa với cha mẹ : " Xin cha mẹ chớ quá lo nghĩ, con sẽ cùng với các tráng đinh nghiêm phòng thôn xóm, vả lại con cũng biết đôi ba đường đao mũi kiếm, há sợ gì họ Đinh ! ". Trần Nang lại nói với các bạn trai bạn gái : " Đinh Công Dũng ngang tàn bạo ngược, mưu cướp tôi, nó sẽ phá trang Toàn Liệt. Chúng ta hãy cùng nhau tuần phòng nghiêm ngặt, sẵn sàng đánh lại bọn hung thần ác quỷ ấy ". Con trai con gái cùng nói : " Không khi nào trang Toàn Liệt ta lại chịu mất Ả Nang xinh đẹp ".
Thời bấy giờ tại bộ Thượng Hồng (nay thuộc Hải Hưng) có bộ chủ Hùng Trọng là người khoan hoà nhân hậu, trọng nghĩa khinh tài, được nhân dân mến phục, làm bạn với bà Vũ Đường. Quê của Hùng Trọng ở làng Thái Lai, bộ Vũ Tuyên, gần làng Toàn Liệt là quê Ả Nang. Hùng Trọng và Trần Hậu là chỗ bạn thân, mỗi khi về thăm quê, Hùng Trọng và Vũ Đường không quên sang thăm ông bà Trần Hậu. Hai ông bà Hùng Trọng và Vũ Đường cũng gặp cảnh hiếm muộn, tuổi đã cao mới sinh được một trai, đặt tên cho là Hùng Bảo.
Năm Hùng Bảo mười chín tuổi, bố mất, Hùng Bảo được thế tập quyền thay cha. Tuy còn trẻ tuổi nhưng được mẹ bảo ban, được những người thân cận và quan chức dưới quyền tin yêu hết lòng giúp đỡ. Hùng Bảo dần thông thạo công việc, xét đoán sáng suốt, lại nhân hậu và quý người, gặp các cụ già thì chào hỏi, gặp người tàn tật thì nâng đỡ. Dân chúng trong bộ hạt đều ca ngợi. Năm hai mươi hai tuổi, Hùng Bảo cùng mẹ về quê quán ở trang Thái Lai. Về tới quê hôm trước thì hôm sau hai mẹ con Hùng Bảo sang thăm ông bà Trần Hậu. Năm ấy Ả Nang cũng vào tuổi mười bảy đang thì con gái tươi đẹp. Ông bà Trần Hậu cũng cùng con gái sang chơi trang Thái Lai, ở chơi từ sáng đến chiều.
Từ lúc Hùng Bảo gặp Trần Nang tự thấy không xa Nang được nữa, còn Trần Nang cũng thầm mến Hùng Bảo lễ độ phiêm cung, khôi ngô đẹp đẽ. Trong lúc mời trầu, Trần Nang bọc trầu vào khăn thêu trao cho Hùng Bảo, Hùng Bảo giữ lấy khăn không trả lại mà Trần Nang cũng không đòi. Hùng Bảo được biết chuyện Trần Nang cự hôn Đinh Công Dũng càng quý trọng nàng, mới thưa với mẹ cho được hỏi Trần Nang làm vợ. Ông bà Trần Hậu vui vẻ nhận lời mà Trần Nang cũng ưng thuận. Mùa xuân, tháng giêng làm lễ cưới. Trong buổi đón dâu tại Toàn Liệt, đang lúc hai họ cỗ bàn hát xướng, khách khứa ra vào tấp nập, chợt Đinh Công Dũng đem lâu la đến phá đám cưới và bắt cô dâu. Đinh Công Dũng cưỡi ngựa cầm đao, hò hét Hùng Bảo mau mau cúi đầu đem nộp Trần Nang thì được tha mạng. Bọn lâu la đi theo cũng hoa chân múa tay kêu thét ầm ĩ. Hùng Bảo liền cầm đao lên ngựa cùng vài quân thủ túc ra khỏi trại, vừa nhìn thấy Đinh Công Dũng liền múa đao xông tới đánh luôn. Đinh Công Dũng giật mình vội lui ngựa lại quát thủ hạ tiếp cứu. Trần Nang sợ Hùng Bảo bị nguy cũng lên ngựa cầm kiếm ra đánh với Đinh Công Dũng. Các tráng đinh Toàn Liệt gọi nhau mang giáo mác tiến ra các ngã.
Trần Nang đang giao chiến với họ Đinh thì Hùng Bảo quất ngựa lao tới, thét to một tiếng, lưỡi đao vừa đưa lên, đầu họ Đinh đã rụng. Bọn lâu la tan tác chạy dài. Sau trận đánh thắng, đám cưới lại càng vui hơn trước. Ngày mộng một tháng tư, mùa hạ, vợ chồng Hùng Bảo, Trần Nang cùng nhau xuôi về Thượng Hồng.
Dư đảng họ Đinh tụ họp nhau theo quân Hán nhũng nhiễu nhân dân. Chúng thừa cơ Trần Nang đã theo Hùng Bảo về xuôi, biết là trang Toàn Liệt không còn người trí dũng cầm đầu mới kéo nhau đến đánh phá tan hoang giết cha nàng Trần Nang.
Trần Nang ở Thượng Hồng nhận được tin dữ, cấp tốc đem gia đình về Toàn Liệt thì sự đã rồi, chỉ còn biết than khóc kêu trời, rồi đem thi hài cha chôn cất ở Thái Lai. Nàng ở luôn lại đó trông nom phần mộ phòng sự lăng nhục của dư đảng họ Đinh và phụng dưỡng mẹ già.
Hùng Bảo nhân dịp này cũng muốn trở về quê quán mưu sự lâu dài. Chàng vẫn nung nấu trong lòng nhiều nỗi bất bình trước sự lấn lướt của bọn quân Hán. Chàng đã đôi ba lần chống lại những lệnh bạo ngược của kẻ thống trị dị tộc. Hùng công nói với các người thân tín rằng : " Làm kẻ trượng phu mà không gỡ được nạn nước, cứu được sinh dân khỏi cảnh cơ cực, khỏi kiếp ngựa trâu, lại còn vì chút danh lợi mà còng lưng cúi đầu chịu sự sai khiến của kẻ ngoại tộc, hỏi còn đáng sống ở đời nữa hay không ? ". Có bộ tướng người cùng quê là Lê Đức Hoàng nói rằng : " Ta về quê chăng ? Ở đó có thể tính chuyện lâu dài được ". Hùng Bảo bèn bỏ quan, về bản hương.
Một buổi, nàng Trần Nang nói với Hùng Bảo : " Thù cha canh cánh bên lòng, thiếp lẽ nào ngồi yên được. Xin chàng giúp đỡ cho thiếp rửa mối thù này ". Hùng Bảo khen rằng : " Nàng tuy là gái mà có chí khí của kẻ anh hùng ", lại nói : " Nàng chỉ nghĩ đến dư đảng Đinh Công Dũng hay sao ? Còn ta lại muốn tuốt thanh kiếm báu, quét sạch giặc Hán, rửa hờn cho cả trăm họ, nàng nghĩ thế nào ? ". Trần Nang mừng mà rằng : " Nay cả nước đều trong cảnh đau thương sầu oán, dân chúng Giao Chỉ như đàn trâu gầy còng lưng kéo cày nuôi bọn thống trị nước ngoài, đổ mồ hôi, sôi máu cho chúng phè phỡn làm giàu. Các quan ta đều ngậm hờn nuốt giận mà nhìn sinh dân trong cảnh lầm than. Thiếp nghe hào kiệt các nơi cũng đã nhiều người đứng dậy rồi ! Từ khi Đặng công Thi Sách bị bêu đầu ở cổng tthành Luy lâu thì đất Giao Chỉ ta đã thấm máu anh hùng mà chuyển động. Nếu chàng tuốt gươm chính nghĩa trừ kẻ bạo tàn, thiếp xin theo chàng làm một viên tì tướng sống chết cùng chủ soái ". Hùng Bảo vui lòng, lại hỏi : " Nếu chúng ta muốn tuốt gươm vùng dậy, nàng có kế sách gì hay thử nói ta nghe ". Trần Nang nói với chồng : " Nay Toàn Liệt đã bị dư đảng họ Đinh phá phách, chợ Toàn Liệt trên bến dưới thuyền là nơi đông vui, tứ xứ về đổi chác cũng bị mất rồi. Theo thiếp trước hết ta hãy cho người đi khắp ba mươi sáu trang báo cho biết ta sẽ mở lại chợ, rồi mở hội bảy ngày. Đó chính là dịp tìm người vũ dũng đấy ". Hùng Bảo khen là kế hay. Hai vợ chồng cùng nhau bàn bạc thật là tâm đầu ý hợp. Mấy ngày sau, vợ chồng Hùng Bảo, Trần Nang đem chuyện mở chợ bàn với các cụ, các cụ đều vui vẻ hưởng ứng, liền cho người mang trầu cau báo cho các lang chạ trong vùng biết sẽ mở hội dựng lại chợ Toàn Liệt, và hội mở bảy ngày bắt đầu từ ngày rằm tháng chín. Tới ngày mở hội, dân chúng các làng nô nức kéo về Toàn Liệt. Thuyền đỗ đầy bến, trai gái chen nhau, nơi này đánh đu, nơi kia đấu vật, có chỗ chạy cướp cờ, có nơi đứng kéo co. Ngày thì vui chơi, tối thì hát đúm. Cứ trời vửa bảng lảng bóng đêm về, ngôi sao hôm hiện ra long lanh trên bầu trời thu trong sáng là con trai con gái lại tìm đến với nhau, hát suốt tới sáng.
Làng Thái Lai có cô gái một buổi sáng ba lần chạy thì đều chiếm được cờ đỏ. Mọi người reo mừng. Trần Nang đích thân trao thưởng, người con gái chưa kịp nhận, chợt có tiếng nói to : " Chớ lấy giải vội, hãy thử sức với ta xem thế nào ! ". Mọi người ngoảnh lại nhìn thì là một chàng nước dạ như sành, mình beo đùi dế, đóng khố bỏ dải, chít khăn đầu rìu. Trần Nang cho hai người chạy thi với nhau, bốn chân cùng phóng như sao băng gió thổi, vụt chốc cùng đến bên ngọn cờ đỏ, hai cánh tay vươn ra, một cánh tay nâu thẫm gân guốc, một cánh tay trắng nõn nà như ngó sen, cùng giằng ngọn cờ. Trần Nang can rả rồi cho hai người chạy lại lần nữa. Lần này cô gái bị thua một bước chân, chịu nhổ ngọn cờ xanh đem về. Trần Nang trao thưởng cho hai người rồi nói với người con trai rằng : " Ả Lúa sức không thua ngươi đâu, chỉ vì đã chạy luôn ba bốn lần rồi. Lần thứ tư ả thi với ngươi mới lần đầu chạy mà ả còn giằng lá cờ đỏ, thế chẳng phải là tài giỏi đó sao ? ". Người con trai chịu lời nói của Trần Nang là phải. Trần Nang hỏi tên họ quê quán rồi cho mời tất cả các người đã giật được cờ đỏ cờ xanh trong các lần thi chạy đến gặp Hùng Bảo.
Sau bảy ngày hội, Hùng Bảo - Trần Nang biết được trên ba mươi người đều là gái tài trai giỏi, bấy giờ mới cho người tìm gặp tận làng, đến thăm tận nhà, kết giao với họ. Trong số những người được Hùng Bảo để ý có một người tuổi vừa ba mươi tên là Trương Hoành giữ giải vật không ai địch nổi. Hùng Bảo tiếp đãi ân cần, sau Trương Cần xin ở lại làm thủ hạ của Hùng Bảo.
Từ đó, vợ chồng Hùng Bảo chiêu mộ dân phiêu tán các nơi về, nói là để mở mang trại ấp, kỳ thực là nuôi binh tích trử lương thực. Trần Nang cũng họp các cô gái khỏe mạnh nhanh nhẹn lập một đội nữ binh. Một năm sau, vợ chồng Hùng Bảo đã họp được vài trăm người, trong đó có 42 người ở Thái Lai, Toàn Liệt là quân thủ túc cắp giáo đeo gươm theo bên chủ tướng. Tiếng tăm Hùng Bảo - Trần Nang từ đấy bắt đầu nổi lên, người các nơi theo về càng ngày càng thêm đông.
* * *
Trưng Trắc biết Hùng Bảo - Trần Nang cũng mang thù sâu cùng Tô Định, lại có tài thao lược, có chí xoay chuyển thời thế, mới cử Trưng Nhị đem hịch đến vời, Hùng công và Trần phu nhân tiếp được hịch, vui mừng chỉnh đốn quân mã. Hùng Bảo chọn tuyển 230 dũng sĩ đặt làm quân nội thị đều là người hai trang bản quán, giao cho Lê Đức Hoàng quản lĩnh. Cử Trương Hoành và Trần Mãng (là người chạy đua cùng nàng Lúa) làm tướng, chia tám trăm nghĩa binh làm bốn đội, còn đội nữ binh là quân riêng của Trần Nang không thuộc quyền Hùng Bảo. Ngày 11 tháng tám, vợ chồng Hùng Bảo mở tiệc khao quân, ngày 13 tháng tám cất quân lên đường, Trần Nang đôi mắt long lanh, miệng cười hớn hở, cưỡi ngựa hồng, mang kiếm báu, áo trắng yếm đào, thắt dải xanh thêu chim én đùa mây, cổ đeo vòng bạc, tay đeo vòng ngọc, 24 cô gái xinh tươi khỏe mạnh cưỡi ngựa cầm giáo đi trước, theo sau có 251 nữ tốt hùng dũng oai phong. Trống dóng nhịp nhàng, cờ bay phấp phới, đạo nữ quân từ từ tiến theo quân của Hùng Bảo về hội với Trưng nữ chủ.
Tại thành Bạch Hạc quân các đạo kéo về, khao quân lớn. Trưng nữ chủ tế các vua Hùng ở núi Thứu rồi họp binh ở bãi Trường Sa, phong Hùng Bảo làm tướng quân trưởng lĩnh quân cơ, phó tướng tiền quân theo Bát Nạn đại tướng quân đốc lĩnh tiền đạo, còn Trần Nang được cử làm trưởng lĩnh trung quân nữ tốt. Trưng nữ chủ lại sai Trần Nang đi chiêu dụ nghĩa quân trong 15 ngày về bái mệnh. Trần Nang vâng lệnh chiêu dụ được vài trăm người chia làm hai đội. Sau đó, nghĩa quân về hội tụ ở Hát Môn.
Trưng nữ chủ ra quân đánh Luy Lâu, Tô Định bỏ thành mà chạy. Nghĩa quân tới đâu, giặc tan tới đó. Chưa đầy một năm, Trưng nữ chủ đã thu hồi 65 thành cõi Lĩnh Nam, đóng đô ở Mê Linh, dựng nền độc lập, xưng là Trưng nữ vương. Hùng Bảo được phong Thiên Bảo Hộ quốc công, Trần Nang được phong là Hoàng công chúa; Từ đó, trăm họ được yên ổn làm ăn, hưởng cảnh thái bình, cùng nhau dựng xây đất nước. Người đời sau có thơ ca ngợi Trưng nữ vương như sau :
" Nhất trận phá tan Tô tặc tướng,
Ức niên hương hỏa nữ vương danh.
Anh hùng hào kiệt giai quy phục,
Thế thượng đồng xưng thử nữ anh ".
(Tạm dịch nghĩa :
Một trận đánh tan tướng giặc họ Tô,
Danh tiếng nữ vương mãi mãi ngàn đời thờ phụng.
Anh hùng hào kiệt đều kính phục mà theo về,
Người đời một lời tôn xưng nữ vương là bậc quần thoa anh kiệt).
Trưng Vương cho Hùng Bảo lấy trang Thái Lai làm thực ấp và Trần Nang lấy trang Toàn Liệt làm thực ấp, khi sống là nơi nghỉ ngơi, khi chết là nơi thờ tự. Hùng Bảo, Trần Nang về trang trại ở bên sông, giao cho vợ chồng Trần Mãng - Ả Lúa lập hai trại hai bên bảo vệ cho nơi quán sở. Từ đó vợ chồng Hùng công bàn cách làm ăn với dân trang, người cày ruộng người nuôi tằm, dân chúng được an cư lạc nghiệp.
* * *
Trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược do Mã Viện cầm đầu, Hùng Bảo được cử về đuổi giặc ở Thượng Hồng, còn Trần Nang cũng về Hải Dương xứ cự giặc.
Ngày mồng một tháng mười, Hùng Bảo cử tướng điểm quân rồi mở tiệc khao thưởng tướng sĩ, phụ lão và dân trang. Đang lúc tiệc vui, Hùng Bảo nói với các phụ lão rằng : " Ta với dân trang tình sâu nghĩa nặng như cá với nước, dân trang với ta một dạ thủy chung, nay phải chia tay nhau, ai chẳng thương nhớ. Nhưng nước nhà đang lúc nghiêng ngửa, giặc ngoài đã kéo vào đánh phá các nơi, ta là người tướng không thể ngồi nhìn. Nay vâng lệnh quân vương cầm quân đuổi giặc, ta coi cái chết nhẹ như lông hồng, coi nợ nước nặng như núi Thái. Các cung sở của vợ chồng ta xin giao lại cho phụ lão và dân trang giữ gìn trông nom. Nếu sau này vợ chồng ta không trở về nữa thì lấy đó làm nơi phụng tự lâu dài ". Các cụ đều vâng lời.
Từ ngày ấy, Hùng Bảo và Trần Nang mỗi người cầm quân một nơi, cùng một lòng tận trung báo đền nợ nước. Cầm cự với giặc được ba tháng. Mùa đông, Trần Nang bị giặc dùng kỵ binh đánh úp. Lúc ấy là trống canh tư. Lửa cháy đỏ một góc trời, giặc hò hét điên cuồng xông vào phá trại Trần Nang. Trại lớn bị lửa bắn bốc cháy ngùn ngụt. Ả Lúa cướp giáo, cướp khiên giặc mà che đỡ cho Trần Nang, hai người mở được một đường máu chạy khỏi vòng vây, ngoảnh lại quân không còn một ai. Dừng ngựa nghĩ lại, Trần Nang nói : " Chỉ còn hai chúng ta thôi ! Ta làm tướng mà để quân thua, trại mất, còn mặt mũi nào gặp lại Nhà Vua nữa ". Lúc ấy giặc tìm được tới chỗ hai người. Trần Nang nói với Ả Lúa : " Em hãy cùng ta giết quân chém tướng cho chúng biết đàn bà Giao Chỉ là như thế nào, dù ta có chết chăng nữa cũng phải làm cho giặc khiếp sợ ! ". Nói dứt lời, phi ngựa xông ra, Nang đánh một phía, Lúa đánh một phía, dữ tợn mạnh mẽ như mãnh hổ, thây giặc đổ ngổn ngang, tướng giặc xác nằm dưới vó ngựa. Giặc chạy tan đi. Nang và Lúa chống đao nghỉ, máu ướt đẫm mình. Lúc ấy, phương đông mây đã ửng hồng.
Giặc lại ồ ạt kéo đến. Trời sáng rõ, chỉ có hai người con gái áo thẫm đỏ máu. Chúng lại hò nhau vây đánh. Ngựa của Ả Nang đã nằm xuống không dậy được nữa. Nang và Lúa đều đi đất, đấu lưng vào nhau mà đánh.
Lúa, tóc xổ tung trên lưng, áo quần đều rách, tay phải cầm đao đã bị chém xệ xuống, còn một tay trái múa khiên che đỡ cho Nang. Giặc khiếp sợ, rãn cả ra mà nhìn, không hiểu trước mắt là thần hay người. Một viên tướng giặc nói : " Ta theo Mã tướng quân đánh hàng trăm trận chưa hề gặp tướng nào vũ dũng như hai người con gái Giao Chỉ này, dù Phàn Khoái và Bạch Khởi có giáng sinh cũng không hơn được ! ", bèn gọi hai nàng bảo đầu hàng sẽ được trọng đãi.
Tay trái Lúa nhấc thanh đao cắm bên chân phóng thẳng tới, viên tướng giặc lập tức ngã nhào xuống ngựa. Giặc lại hét nhau xông vào. Chợt sấm sét nổi lên vang đồng, mưa đổ như trút, Nang và Lúa cùng tuẫn tiết. Giặc rút hết.
Ba ngày sau, Hùng Bảo và Trương Hoành cũng đều hy sinh tại trận. Trần Mãng và Lê Đức Hoàng cướp xác hai người đem về chôn cất tại Toàn Liệt rồi rút quân về Thái Nguyên tiếp tục chống với Mã Viện(1).
Chú thích
1. Đôi vợ chồng anh hùng Hùng Bảo - Trần Nang được các triều đại trước kia phong là " thượng đẳng thần ", được thờ ở Toàn Liệt (nay về xã Tự Lập huyện Yên Lãng, Vĩnh Phú), và ở Thái Lai (nay về xã Tiến Thịnh, Yên Lãng). Thái Lai còn thờ cả ông Trần Hậu là cha nàng Trần Nang vì đây là nơi Trần Hậu được chôn cất tại Vườn Quàn.
NÀNG QUỐC: TRUNG DŨNG ĐẠI TƯỚNG QUÂN
Nguồn: Chimvietcanhnam
Thu gọn nội dung
Trên núi Thiên Thai có một ngôi chùa nhỏ. Dân trang Đông Cứu dành cho nhà chùa ba sào ruộng và vài thước vườn để nhà chùa nhang đăng cúng Phật, cầu Phật phù hộ cho dân làng dân khang vật thịnh, thóc lúa dồi dào. Các sư nữ cùng với các vãi hái dâu cấy gặt, còn việc cày bừa nặng nhọc đã có làng lo liệu.
Tuy là chùa nhỏ nhưng Thiên Thai tự lại nổi tiếng trong châu quận. Hàng năm, cứ vào ngày rằm tháng Giêng và ngày mồng tám tháng Tư, các vãi và các cô gái ở các làng trong huyện Gia Bình lại nô nức đến chùa vãn cảnh và lễ Phật, thành ra chùa không mở hội mà hoá ra có hội. Con trai làng tuy không lễ Phật nhưng cũng rủ nhau quần áo mới đi chơi xuân, hát ví với các cô gái từ các làng xa đến.
Chùa Thiên Thai, nổi tiếng không phải vì có một kiến trúc lớn lao tuyệt mỹ mà vì từ xưa tới nay ở đó chỉ toàn sư nữ trụ trì, nhiều ni cô trẻ tuổi xinh đẹp mà chùa vẫn không có điều tiếng gì. Khi các ngài tịch đều được hỏa thiêu và xá lỵ được đựng vào bình đồng, đặt vào bảo tháp.
Ngôi chùa nhỏ nổi tiếng vì Thiên Thai là núi hoa đào. Những cây bích đào mỗi mùa xuân nở rộ, tòa núi nhìn xa như đảo đào rực thắm lộng lẫy nắng xuân. Hội chùa dưới bóng hoa đào, già trẻ chen vai, tiếng hát tình tứ xen lẫn tiếng nam mô, ba trăm bực đá, từ chân núi lên tới cổng tam quan rắc kín hoa đào.
Chùa Thiên Thai có sư nữ họ Đào. Sư nữ họ Đào được sư thầy đặt tên cho là Tuyết Tĩnh. Ni cô Tuyết Tĩnh mặt như hoa bầu, cổ như cuống huệ, khoan thai, yểu điệu, đôi mày vòng cung xanh như sắc núi xuân.
Một buổi sớm xuân, trên núi Thiên Thai mơn mởn hoa đào thơm mát, hai sư nữ mở tam quan để quét hoa đại rơi trắng sân chùa. Bỗng nghe tiếng trẻ khóc oa oa. Các sư nữ vội quay vào thưa với sư thầy. Sư thầy khoan thai cùng các sư nữ bước ra ngoài tam quan. Trước mắt nhà chùa, một em bé sơ sinh cuộn trong bọc vải nằm dưới gốc đào và một cành đào còn nụ đặt ngang mình em bé.
Sư thầy niệm Phật rồi bảo các sư nữ bồng hài nhi vào chùa, lúc đó mọi người mới biết hài nhi là một em bé gái. Em bé gái được nhà chùa giao cho một bà vãi đem về gia đình nuôi. Tới năm em bé lên năm, nhà chùa lại đón về để em nương nhờ bóng Phật. Em gái nhỏ đó ngày nay chính là sư nữ họ Đào.
Sư nữ họ Đào nổi tiếng vì sắc đẹp, điều đó lại làm cho sư thầy không vui lòng. Nhưng ai cũng phải mến sư nữ họ Đào vì tính tình Đào thuỳ mị, kính trọng sư nữ vì tư thế đoan trang. Miệng nàng tươi như hoa mà lại ít cười, mắt trong như nước giếng mà lúc nào cũng nhìn thẳng. Chỉ có một lần sư nữ họ Đào bị sư thầy quở vì ngắt một cành hoa đào đang mãn khai phô hết sắc đẹp, đem về buồng riêng mà cắm chơi. Sư thầy than rằng : " Duyên nợ phù sinh chưa dứt chăng ? Sắc sắc không không, sao con không biết điều đó. Lòng con ham vẻ đẹp lộng lẫy của vật sắp tàn, ta lo cho con khó thoát được trần ai tục luỵ. Ta đặt tên cho con là Tuyết Tĩnh, con không hiểu ý ta sao ? ". Từ đó ni cô Tuyết Tĩnh càng nghiêm trang, chỉ quanh quẩn bên sư thầy, câu kinh tiếng kệ, không mấy khi bước khỏi ba trăm bậc đá núi Thiên Thai.
Sư nữ sinh ra không có bố có mẹ, không có họ có tên, từ thuở lọt lòng, nằm dưới gốc đào, hoa đào phủ bọc cho nên sư thầy đặt họ cho là Đào. Tính sư thầy nghiêm khắc và thường nói ngay. Còn sư nữ họ Đào nét mặt lúc nào cũng phảng phất buồn và ít cười ít nói.
Có một ngày nọ, sư thầy truyền bảo Tuyết Tĩnh và Diệu Hương đem bản kinh Pháp Hoa đến nhà một tín chủ ở làng bên nhờ tìm hộ thợ khắc mộc bản. Cả hai vâng lời ra đi. Trời hôm ấy oi bức, Tuyết Tĩnh bảo Diệu Hương nghỉ ở bên sông cùng tắm nơi mỏm đá, chìa ra như con rùa ngoi khỏi mặt nước. Diệu Hương không tắm. Tuyết Tĩnh khỏa chân vẫy tay như một cành hoa nhài nổi ở nước. Chợt mây đen sập đến, mưa trút ào ào, một tiếng sét nổ như xé toang trời đất. Sóng sông vỗ mạnh. Diệu Hương ngất đi. Tuyết Tĩnh cũng bàng hoàng cả người bập bềnh đờ đẫn, mơ màng cảm động, nửa tỉnh nửa mê...
Tạm mưa, Tuyết Tĩnh và Diệu Hương rảo bước về chùa, không ai nói với ai một lời. Tối hôm đó, Diệu Hương bạch với sư thầy mọi việc đã xảy ra đến với hai người ở bên sông.
Chùa núi Thiên Thai từ ấy vắng bóng sư nữ họ Đào. Sau hai tháng kể từ buổi chiều dông tố bên sông, Tuyết Tĩnh xin thầy cho được hoàn tục. Nàng tự thấy không còn có thể nương mình cửa Phật vì những nổi lo của một người sắp làm mẹ đã đến với nàng.
Cất mình ra khỏi tam quan, Tuyết Tĩnh lưu luyến và hổ thẹn. Nàng thấy lạ lùng vì cảnh ngộ của mình. Sự bất ngờ tai ác đã làm đảo lộn cả cuộc đời nàng. Nàng tự thấy như có tội với Phật tổ, với nhà chùa. Nàng khóc ướt đẫm mảnh áo nâu sòng và thiết tha xin Phật tổ tha tội cho nàng.
Cô gái xinh đẹp bấy giờ đi lang thang trên đường, bụng mang dạ chửa vì nàng không có gia đình. Cô gái họ Đào vai mang một bọc nhỏ gói mấy chiếc áo đổi thay, đi làng này làng khác. Để tóc rối bù và bôi lấm mặt đi vì nàng sợ mọi người nhận ra mình, và nhất là sợ sắc đẹp của mình lại làm cho mình khổ.
...Mùa xuân đến. Núi Thiên Thai đỏ thắm sắc hoa đào. Những cánh đào mịn màng rơi rắc ba trăm bậc đá lên chùa. Hội chùa năm ấy không còn ai được gặp sư nữ họ Đào.
Cũng vào đúng ngày hội chùa Thiên Thai, tại trang Hạ Tốn có một bà cụ già từ sớm tinh mơ đã lần bước tới chùa làng hốt hoảng quay về gọi làng xóm láng giềng. Lát sau dân làng đã đến vây quanh cây đào vạn thọ trước mái tam quan : Hoa đào rơi thắm trên thân thể một người mẹ trẻ xinh đẹp nằm thiêm thiếp bên một trẻ sơ sinh.
* * *
Mười tám năm qua nhanh chóng, đứa trẻ sinh ra bên gốc đào làng Hạ Tốn nay đã là một cô gái xinh tươi. Cô gái ấy khoan thai yểu điệu, đôi mày vòng cung xanh như sắc núi xuân.
Tên cô là Quốc. Thực ra thì tên cúng cơm của cô là Nước. Mẹ cô và bà con dân làng vẫn gọi cô từ tấm bé là cái Nước. Mẹ cô ngâm mình dưới nước mà được cô nên đặt tên con như thế. Mẹ buồn không mấy khi cười. Nghĩ đến cảnh ngộ éo le của mình, đêm đêm mẹ thường trào nước mắt nhưng lòng mẹ cũng vui mừng vì thấy con mỗi ngày một lớn khôn. Bấy giờ, hai mẹ con ở với bà cụ đã gặp mẹ con nằm dưới gốc đào từ buổi đầu tiên ấy. Có nơi nương tựa, mẹ làm lụng nuôi con, trút hết thương yêu và đặt cả hạnh phúc cuộc đời vào đứa con độc nhất của mình.
Người làng thường khuyên mẹ lấy chồng. Bà cụ cũng dỗ mẹ lấy chồng. Người đẹp như ngó sen nhưng mẹ cứ ở vậy nuôi con, nuôi cho con bây đã lớn đã khôn biết suy nghĩ về tình nhà, vận nước.
Khi con lên năm tuổi, mẹ dắt tới chùa làng, xin sư thầy cho được đặt một bát hương ở chùa, gửi con cho Phật, để Phật phù hộ cho con mẹ. Sư thầy khen ngợi bé Nước và đặt tên cho nó là Quốc. Từ đó mọi người đều gọi bé Nước là Quốc.
Quốc mười tám tuổi không khác gì mẹ khi xưa. Tính tình hiền hậu, khoan thai nghiêm chỉnh, môi thắm như son mà ít cười, mắt trong như nước mà chỉ nhìn thẳng. Nhưng Quốc cũng có nhiều nét về tính tình không giống mẹ.
Mẹ xưa chỉ yên thân nương bóng Phật, không tò mò không suy nghĩ về cuộc đời trần tục xung quanh, coi việc để ý tới cõi đời là một tội lỗi. Còn Quốc thấy cái gì cũng muốn biết, cũng hỏi mẹ. Quốc thân mật với mọi người, tuy ít nói nhưng cất lời lên ai cũng vui lòng nghe theo. Tuổi Quốc trẻ mà các bạn đều kính nể. Quốc ưa bơi lội, lặn nước như thuồng luồng, một mái chèo với một chiếc lưới, rỗi việc đồng ruộng lại làm bạn với sông nước, đó là thú vui của Quốc.
Năm mười hai tuổi, có lần đang cọ thuyền ở bên sông, chợt Quốc thấy một đoàn người kéo một chiếc thuyền lớn ngược dòng. Trên thuyền có cờ, có tàn, có gươm, có giáo, có nhiều người mặc những bộ quần áo lạ mắt. Quốc đếm cờ trên thuyền lớn, và khi những người kéo thuyền đi ngang qua mặt Quốc, Quốc cũng đếm xem bao nhiêu người. Mười hai người tất cả, trong đó có một người đàn bà và một cô gái chỉ khoảng mười ba tuổi. Quốc tò mò yên lặng nhìn ngắm những người kéo thuyền. Tất cả đều gầy gò và gương mặt họ, dáng điệu họ có một cái gì nặng nề u uất làm cho Quốc phát sợ. Họ còng lưng xuống, đầu đưa về phía trước, vai lệch đi, mình nghiêng một bên kéo một sợi dây chão ròng từ mũi thuyền lớn. Chiếc dây như buộc họ vào chiếc thuyền. Quần áo rách rưới, người nhớp nhúa bẫn thỉu, bàn chân dẫm lên đất rệ sông. Họ cứ thế đi men bờ sông, qua bãi cát, nhảy qua các cửa ngòi, xéo lên cỏ sắc và né các bụi cây dại. Họ đi men sông, lưng còng xuống, đầu cúi xuống, mắt cắm xuống, chỉ cần có một chỗ đặt chân.
Gió bấc hun hút thổi như dao cứa.
Người đàn bà mặc phong phanh một chiếc áo mỏng, da tái xanh, vú teo tóp, mắt và mũi đỏ lên có lẽ vì rét quá. Cô con gái đi gần mé cuối dây. Người tím ngắt nhưng chân tóc và quanh vành môi se lại lấm tấm mồ hôi. Tất cả mười hai người đi giữa ban ngày mà như những bóng ma hiện hình. Họ nặng nhọc kéo chiếc thuyền lớn như kéo một cái nợ truyền kiếp, kéo dài số phận nặng nề đè trĩu vai họ.
Quốc không nói được một lời nào tuy cô rất muốn hỏi họ từ đâu đến và chiếc thuyền họ kéo dây là thuyền gì. Sự kinh ngạc và sợ hãi làm cô gái nhỏ nghẹn lời. Và khi người đàn bà kéo thuyền đưa mắt nhìn cô, một cái nhìn buốt lạnh như kim châm, thì cô bỗng thấy xúc động và nước mắt trào ra, cô khóc tức tưởi và chạy về nhà hỏi mẹ.
Mẹ cho cô biết đó là thuyền quan châu úy đi tuần. Quan châu úy là người Hán tộc. Mẹ nói trên thuyền ấy hẳn có biết bao của cải vét được khi qua các địa phương. Trên thuyền ấy, mẹ biết còn có những người con gái xinh đẹp bị chúng bắt giữ làm nô tì phải làm cơm nước hầu hạ chúng, những tên giặc Hán. Có thể còn có một vài người khẳng khái nào đã chống lại chúng và bị chúng bắt giữ trên thuyền. Khi về châu, chúng sẽ đem ra trị tội với những hình phạt nặng nề thảm khốc.
Cô gái mười hai tuổi nghe những chuyện ấy thì giận sôi lên và chỗ đó là điều khác nhau về tính tình giữa mẹ cô và cô.
Hình ảnh những con người khốn khổ còng lưng kéo chiếc thuyền lớn cứ ám ảnh mãi nàng Quốc.
Từ nhỏ tới năm mười tám tuổi, nàng Quốc đã làm cho bà mẹ đáng thương phải suy nghĩ rất nhiều trước những câu hỏi của con. Điều gì con cũng muốn hỏi. Những lời giảng giải đã làm cho con gái hiểu được mọi nỗi khổ cực mà dân chúng khắp nơi phải chịu, mọi nỗi khổ cực đè nặng lên lưng mọi người và lên cả mẹ con nàng.
Có lần nàng Quốc hỏi mẹ cả về tên mình. Tại sao mẹ lại đặt tên nàng là Nước, tại sao sư thầy lại đặt cho nàng tên là Quốc mà không là Thuỷ ? Người mẹ lúng túng và đành nhờ sư thầy giảng hộ, còn cái tên nôm na là Nước mà mẹ đặt thì mẹ đành giấu kín cái tâm sự nặng nề ấy.
- Bố con bé vì đói đã nhảy xuống nước mà chết cho thoát nợ đời. Đó, mọi người dân làng Hạ Tốn đã hiểu về cuộc đời của ni cô Tuyết Tĩnh là như thế. Và mẹ cũng nói như thế với con : đặt tên cho con là Nước để nhớ tới người đã sinh ra con phải chìm mình ở dưới nước.
Vì đói quá ! Tại sao bố nàng đói đến nỗi phải tự tử ? Phải bỏ mẹ con nàng ? Nàng Quốc tự hỏi.
Nhờ sư thầy, nàng Quốc hiểu rõ thêm sâu sắc điều đã làm nàng suy nghĩ bao nhiêu lần. Đúng, " nước ", chữ là " thuỷ ". Nhưng còn có một nước khác nữa, nước đó là của tổ tiên xưa để lại, của các Vua Hùng để lại, nước này là xương máu bao đời cha ông khó nhọc xây dựng nên. Nước này đã mất rồi, hay là còn đây mà cũng hoá như mất.
Khói hương mơ hồ tỏa bay. Với cánh hoa đại nhẹ rơi trên thềm chùa. Sư thầy ngồi im lặng, nếp áp nâu buông thẳng xuống, bất động, cùng với dáng ngồi nhập định không khác một pho tượng tạc bằng đá, mắt nhắm lại như thả hồn yên tĩnh về cõi Nát Bàn. Nàng Quốc quỳ xuống, kính cẩn nâng tà áo nhà chùa lên chùi nước mắt tràn trên má và lặng lẽ lui về.
* * *
Giặc Hán ngày càng ngang ngược. Viên quan Hán thả quân cướp bóc các làng. Bọn chúng thấy con gái đẹp là mắt diều mắt quạ. Có lần giặc về trang Hạ Tốn nhũng nhiễu. Chúng bắt gặp nàng Quốc bèn hò nhau vây bắt, Quốc chạy vượt lên. Giặc đuổi. Quốc nhảy tùm xuống sông lặn một hơi rồi lại tìm lên bờ, cách làng một quãng khá xa, ngồi nấp một chỗ kín. Khi Quốc trở về làng thấy con gái làng có người bị chúng làm nhục đã đâm đầu xuống giếng mà chết. Máu Quốc lại sôi lên. Trong khi làm tang lễ cho người con gái xấu số, người làng từ già chí trẻ ai cũng bầm gan tím ruột. Quốc đứng trước huyệt, kể tội giặc Hán. Người già nghe ai cũng khóc, còn bọn trẻ thì mím môi nghiến răng. Lúc ấy, chợt mẹ nàng Quốc nói : " Bây giờ mẹ xin theo con, con bảo làm gì mẹ cũng làm để rửa nhục cho người con gái này ! ". Câu nói đơn giản như lửa châm vào giàn củi khô. Người già người trẻ, con gái con trai đều hăng hái nói : " Chúng tôi xin theo nàng để rửa nhục ! ".
* * *
Mẹ cùng con gái đi tìm người giỏi vật, giỏi múa đao, đánh gậy về dạy con trai con gái ở làng. Các làng trong vùng dần về theo nàng Quốc. Đang lúc tình hình như lửa bắt đầu bốc thì mẹ nàng Quốc ốm nặng. Người mẹ đáng thương lúc hấp hối rất tỉnh. Bà xin sư thầy cho mình được mặc y phục nhà chùa, xin sư thầy làm lễ cầu cho mình được siêu sinh tịnh độ lên cõi Nát Bàn. Mọi người đến thăm bà mẹ không ai không ứa nước mắt. Chợt bà mẹ gắng gượng nói, tiếng nói nhỏ nhưng nghe rất rõ ràng : " Này các người, các người hãy vững lòng theo con tôi ! Nàng Quốc chính là con của Giao Long giang thần đấy ! ".
Bà mẹ nói xong thì tắt thở.
Có lẽ bà mẹ nói mê sảng hoặc cũng có thể bà mẹ đã được Giao Long giang thần ứng mộng ? Nhưng dù thế nào thì mọi người cũng lại càng tin cậy nàng Quốc. Cũng từ đó, khắp vùng đều truyền đi câu chuyện về " Giao Long nữ " ra đời để cứu dân khỏi ách áp bức bóc lột của bọn quan lại Hán tộc. Người theo về với " Giao Long nữ " ngày càng đông. " Giao Long nữ " chọn hai trăm tráng sĩ lập một đội thuỷ binh dùng bơi thuyền như bay trên mặt nước. Các tráng sĩ đều xâm mình Giao Long ở ngực để tỏ lòng tôn phục " Giao Long nữ ". Đội thuỷ binh tập bơi lặn, tập thuỷ trận, tập đánh bằng lao bằnh lưới. Phép lấy " lưới làm binh khí " mà đánh địch ở thuỷ trận cũng là do " Giao Long nữ " nghĩ ra.
" Giao Long nữ " nghiêm trang mà dịu dàng, ai có công thì khen ngợi, ai có lỗi chỉ bảo ngay. Vì nàng ít nói cho nên nói câu nào cũng được mọi người lắng nghe.
Mùa đông, Giặc Hán đến chinh phạt nghĩa quân của " Giao Long nữ ", bị nghĩa quân đánh một trận thuỷ chiến, giặc thua to. Từ đó, danh tiếng " Giao Long nữ " lại càng nổi.
Năm sau, có tin Lê Chân nổi lên ở vùng biển, Bát Nạn tụ nghĩa ở đồng bằng, Nàng Nội ở Bạch Hạc chém rụng đầu tướng quân của Tô Định. Nàng Quốc cho người đi các nơi để thăm dò tin tức, lại có tin bà Trưng Trắc đã truyền hịch khởi nghĩa nàng Quốc vui mừng bèn cùng nghĩa quân thuỷ bộ vẫy gươm chỉ giáo quét các đồn trại quân Hán dọc sông Hồng rồi tiến về Mê Linh yết kiến Hai Bà Trưng.
Quét sạch giặc Hán ra khỏi bờ cõi, thu phục lại nước Nam, Trưng Vương lên ngôi báu phong thưởng chức tước cho các tướng sĩ.
Bấy giờ Nàng Quốc tâu rằng : " Thần là một người con gái quê mùa, sinh ra không được biết mặt bố, nhờ mẹ của thần dạy dỗ mới nên người, thần đem chút tài hèn mà ứng nghĩa, may được bệ hạ thương mà cho theo, lập được chút công nhỏ. Thần không dám nhận phong chức tước, chỉ xin bệ hạ cho thần được trở về quê quán làm ăn, lập một ngôi đền nhỏ mà thờ mẹ, thế là thỏa cái chí của thần ". Trưng Vương khen ngợi rồi phong cho nàng Quốc làm Trung Dũng đại tướng quân, ban cho vàng lụa, lại ban phong cho mẹ nàng là Hoa nương phu nhân, truyền chỉ đưa về trang Hạ Tốn cho nhân dân lập đền thờ tự.
Mã Viện đem quân chiếm lại nước Nam. Nàng Quốc lại cầm quân theo Trưng Vương đánh giặc. Trận đánh ở Lãng Bạc, quân Nam không cự nỗi Mã Viện. Nàng Quốc phò giá Vua Trưng xông xáo trong trận mở đường máu đưa Vua Trưng về Cấm Khê.
Giặc đuổi tới Cấm Khê. Trong trận Cấm Khê quyết liệt và tuyệt vọng, Quốc một tay cầm mộc, một tay cầm đao, nhảy từ thuyền lên bờ tìm đón Trưng Vương rút theo đường thuỷ. Ba lần vào trận, ba lần nàng phải lui ra. Các dũng sĩ theo nàng chỉ còn hơn chục người đều liều chết mà đánh. Nàng Quốc ngã lăn xuống đất vì mệt. Các dũng sĩ của nàng vừa đánh vừa dìu nàng xuống thuyền. Lúc ấy nàng Quốc lại thấy hiện ra trước mắt con thuyền lớn với cờ xí và gươm giáo, với những bộ quần áo lạ mắt, và đoàn người khốn khổ còng lưng kéo con thuyền tàn bạo, con thuyền ngạo nghễ đè trên dòng sông quê hương mà lướt tới.
Máu lại sôi lên, nàng Quốc vùng đứng dậy, xông vào trận đánh. Lúc này giặc đã ập đến chặn kín cả mặt sông.
Quốc ngửa mặt lên trời. Trời cao thăm thẳm. Quốc nhìn ra sông. Một chiếc thuyền lớn đầy cờ xí và gươm giáo lừng lững đè trên sóng : thuỷ quân của tướng Hán Lưu Long đang quét mặt sông rồi !
Một mình Quốc tả xung hữu đột. Nàng bước tới đâu giặc rạt tới đó. Quân Nam tan rồi nhưng Quốc không chịu nhục. Và Quốc đã chết cái chết của một anh hùng(1).
Chú thích:
1. Theo thần tích nàng Quốc ở đình Hoàng Xá, xã Kiêu Kỵ, huyện Gia Lâm (ngoại thành Hà Nội) thì mẹ nàng Quốc họ Đào quê ở Kiệt Đặc, Chí Linh, Hải Hưng, tu ở núi Thiên Thai, trang Đông Cửu, huyện Gia Bình nay là huyện Gia Hưng, Hà Bắc. Cũng thần tích này nói nàng Quốc sinh ra dưới một gốc đào khu Hoàng Xá, trang Hạ Tốn (nay thuộc xã Kiêu Kỵ)