Trích dẫn:
① Là chữ đi kèm theo sau last name (họ) dùng để chỉ toàn bộ một ngành họ, một dòng họ.
|
Khai thủy,
tính và
thị không chung bước với nhau.
Tính có trước,
thị có sau. Theo lối chiết tự thì
tính 姓 gồm chữ nữ 女 và chữ
sinh 生 hợp lại, biểu thị hài nhi của nữ nhân. Đây là kết quả của chế độ mẫu hệ xa xưa. Đến khi chuyển qua chế độ phụ hệ thì con theo họ cha. Dần dần kế tử truyền tôn, con cháu chút chít rải rác khắp nơi, gia tộc bắt đầu phân dòng chia nhánh. Các chi họ này muốn bảo lưu tộc tính, bèn thêm
thị vào sau, coi như là signature (tiêu chí). Cho nên mới nói
thị là từ sự phân chia của
tính mà ra.
Từ nhà Chu trở về trước, ngoại trừ quý tộc mới có
tính, quan lại thì lấy ngôi vị, chức quan của mình làm
thị (Thái Sử thị, Tư Không thị, Chức Phương thị...). Thường dân không có
tính, cũng chẳng có
thị.
Thời kỳ Hạ-Thương-Chu,
thị dùng để phân biệt sang hèn; quý tộc có thị, bần dân không có.
Tính dùng để phân biệt hôn nhân; đồng
tính thì không được thông hôn, đồng
tính không đồng
thị cũng không được, nhưng đồng
thị không đồng
tính thì lại có thể.
Thời Xuân Thu chiến quốc, chế độ tông pháp nhường chỗ cho chế độ tính thị, đại biểu bằng việc bình dân cũng có
tính. Điều này cho thấy địa vị người dân không còn thấp hèn như xưa.
Tần-Hán trở về sau,
tính và
thị hợp nhất.
Trích dẫn:
② Tùy theo văn cảnh, "thị" có thể là tiếng xưng hô đối với nữ nhân.
|
Có thể lấy ví dụ từ Chí Phèo của Nam Cao
(Chú thích: không phải nghe nói ví dụ từ Chí Phèo là sấn sổ bắt bẻ huynh rằng "Nam Cao mà gọi Chí là... thị" đâu à nghe)