Chào mừng , đón hỏi dò la
Đào Nguyên lạc lối đâu mà đến đây
Đào nguyên là gốc đào, có người còn gọi là động đào nguyên hoặc động bích (động xanh).
Đời nhà Tấn có nhà thơ Đào Tiềm, tức Nguyên Lượng Đào Uyên Minh. Trong những bài thơ của ông, được truyền tụng nhất là hai bài Quy khư lai từ và Đào Nguyên ký, được kể thành chuyện:
Đời nhà Tấn , tại huyện Võ Lăng có một lão chài, đánh cá dọc theo khe núị Một hôm đang chèo thuyền đánh cá, ông thấy một đóa hoa đào trôi từ khe núi rạ Ông nghĩ:
- Hoa đào trôi ra từ nơi phát nguyên, chứng tỏ ở đầu nguồn có dân cư và nơi ấy có trồng nhiều hoa quí, nhất là anh đào.
Ông lão chèo thuyền ngược dòng nước để tìm chốn đào nguyên. Thuyền đi mãi, chỉ thấy rừng núi xanh mướt, lão ông không nản. Sau cùng cũng tìm đến được một nơi dân cu khá đông, đời sống an nhàn và có trồng nhiều loài hoa quí, nhất là hoa đào.. Lão ông đi sâu vào xóm thì thấy ở đây vườn đào san sát, đúng là một động đào. Dân sống trong các vườn đào đều ăn mặc theo y phục kiểu nhà Tần, thời Chiến quốc. Thật là một điều lạ, ở nơi rừng sâu núi cao lại có một vùng dân cư, cuộc sống đã có từ lâu đời mà không ai biết. Hỏi ra mới hay: họ vốn là những người nước Tần, nhưng không chịu được chế độ hà khắc của Tần Thủy Hoàng và tướng Ly Tư nên kéo nhau di cư lên đây đã mấy đời. Con ngườ sống ơ" đây thật khả ái, thanh thản. Lão ngư ông lưu lại ít ngày, rồi xuôi dòng trở làng cũ, thuật lại mọi điều mình đã trông thấy nơi đào nguyên.
Thời gian sau, lão ông rời bỏ quê mình, ngược dòng tìm đến đào nguyên. Những đào nguyên trước, không còn tìm thấy đâu nữa.
Hay đây là cảnh tiên. Từđó người đời sau dùng chữ đào nguyên để chỉ nơi tiên cảnh .
Bâng khuâng đỉnh Giáp, non Thần
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng.
Đỉnh Giáp là núi Vu Giáp; non Thần là núi Thần Châu.
Thời Chiến quốc, một hôm vua Sở Tương Vương cùng Tống Ngọc đến vãng cảnh vùng Cao Đường, ở đó có đầm Vân Mộng dưới chân núi Vu Giáp. Nhà vua nhìn lên lưng núi thấy mây ngùn ngụt luôn thay đổi hình dạng, lúc dồn dập dày đặc, khi tan loãng như mây trời. Nhà vua hỏi Tống Ngọc:
- Khi gìvậy?
Tống Ngọc thưa:
- Tâu Chúa công, đó là mây sớm. Ngày trước , tiên đế một hôm đến chơi Cao Đường, giữa ban ngày ngủ quên. Tiên đế nằm mơ thấy một người con gái tuyệt sắc, xưng là thần núi Vu Giáp, rồi bày cuộc ái ân với tiên đế. Đến khi từ biệt, nàng nói: "Thiếp' ở trên núi Vu Giáp, nơi cao sơn, sớm làm mây, tối làm mưa; sớm ở Vu Sơn, tối ở Dương đài.
Từ điển tích này, người đời sau, giao hoan giữa gái trai còn nói là vu sơn, hay chuyện "mây mưa".
Làm cho sống đọa thác đày
Đoạn trường cho hết kiếp này mới thôi
Đoạn trường nghĩa là đứt từng khúc ruột. Khi chịu sự đau khổ cùng cực, nỗi đau có thể làm cho người đứt từng khúc ruột hay có thể lìa đời.
Sách "Đường thi kỷ sự" đã chép chuyện nàng Mạnh Tài Nhân của vua Đường Vũ Tông:
Khi lâm chung. biết mình không qua khỏi, Đường Vũ Tông nắm chặt tay Mạnh Tài Nhân mà rằng:
- Ta chết đi cũng đành, nhưng thương cho người rồi sẽ ra sao..
Mạnh Tài Nhân nấc từng tiếng, chỉ vào chiếc túi vải đựng ống sáo:
- Thần thiếp xin lấy chiếc túi đó để tự vẫn, theo cùng quân vương.
Vũ Tông bật khóc. Mạnh Tài Nhân thưa:
- Xin bệ hạ hãy nghe thiếp ca bài Cung từ của Trương Hộ để tiễn đưa thiêp cùng bệ hạ xa lìa cõi đời này.
Tiếng hát cất lên cao vút, cao vút nghe quá i ai, đến hết bài thì nàng đứt hơi, đứng bất động trước vua. Nhà vua gọi ngự y khám và được tâu lại: Mạch của tài nhân vẫn còn ấm, nhưng nàng đã đứt ruộ t màchết rồi.
Vua thương xót quá đỗi và rồi cũng theo nàng đi luôn.
Đến khi di quan, thì linh cữu nhà vua như trì xuống quá nặng, đội quân khiêng không nhắc lên nỗị Hay là Hoàng thượng còn muốn đợi tài nhân? các quan bèn sai đưa quan tài của Mạnh Tài Nhân rạ Quả nhiên, quan tài của hai người được khiêng đi rất đằm.
Cảm kích cho mối tình thắm thiết , Trương Hộ viết bài thơ, đề tựa: "Tài nhân vì lòng thanh nên đứt ruột mà chết, nhà vua vì lòng thành mà mệnh chung; những kẻ khích liệt ngày trước vì nghĩa mà chết cũng không hơn được." Thơ rằng:
" Ngẫu nhiên ca bãi vịnh kiều tần
Truyền xướng cung trung nhị thập xuân
Khước vị nhất thanh Hà Mãn Tử
Hạ tuyền tu điếu cựu Tài nhân "
(Ngẫu nhiên tàn tiệc vịnh đôi vần
Truyền tới trong cung hai chục xuân
Lại bởi một câu Hà Mãn Tử
Tuyền đài phái điếu bậc Tài nhân)
"Thanh minh trong tiết tháng Ba" chị em Kiều trên đường đi tảo mộ về, chợt trông thấy nấm mồ hoang đầy cỏ dại, lạnh không chút khói hương. Trong lúc lòng Kiều đang xót xa cho thân phận Đạm Tiên, thì Kim Trọng, trên lưng ngựa trắng, theo sau lẻo đẻo hai tiểu đồng, cũng tình cờ đi ngang qua đấỵ Lần đầu tiên được diện kiến giai nhân, tâm trạng vui mừng của chàng thư sinh được diễn tả bằng hai câu thơ:
Trộm nghe thơm phức hương lân
Một nền Đồng Tước khoá xuân hai Kiều.
Đồng Tước, tên của một đền đài nguy nga tráng lệ thời Tam Quốc, nay không còn nữạ Khi qua sông Xích Bích, Đỗ Phủ đã có bài thơ hoài cổ, trong đó có câu:
Đông phong bất dữ Châu Lang tiện
Đồng Tước thâm xuân tỏa nhị Kiềụ
(Gió đông chẳng giúp thuận chiều
Trong đền Đồng Tước hai Kiều khóa xuân)
(Trần Trọng Kim dịch).
Trở lại thơì Tam Quốc . Tào Tháo tự Mạnh Đức, là Ngụy Võ Đế cho xây đài Đồng Tước trên sông Chương Giang, tỉnh Hà Nam. Trong lễ tiệc khánh thành, Tào Thực, con của Tào Tháo, đã làm bài phú vịnh Đồng Tước đài, có câu:
Liên nhị kiều ư Đông Tây hề
Nhược trường không chi nhuế đống.
(Bắc liền hai cầu ở Đông Tây như các cầu vồng nổi lên giữa lưng trời).
Vào lúc này, thế của Lưu Bị đã suy yếu hẳn; quân sư Khổng Minh phải vận dụng mưu lược mong khôi phục nhà Hán, bằng cách phải tạo mối thù nghịch giữa Tôn Quyền và Tào Tháọ Ở Giang Đông, tuy Tôn Quyền là chúa tể , nhưng mọi binh quyền đều thuộc về tay Châu Dụ Châu Du và Tôn Sách, chúa của Đông Ngô là hai anh em cột chèo, rể của Kiều Công. Tôn Sách lấy người chị là Đại Kiều, Châu Du, lấy người em là Tiểu Kiềụ Cả hai chị em đều là giai nhân tuyệt sắc.
Khổng Minh lặn lội vào Đông Ngô, tìm đến Châu Du:
- Trong lúc thế chiến đang căng thẳng, dân gian đang mong đợi thanh bình, vậy mà Tào Tháo vẫn lấy uy quyề của vua để ức hiếp mọi nơị Lại còn lấy của kho, xây đài Đồng Tước tốn kém biết bao nhiêu mà kể, mục đích làm gì, tướng quân có biết không ?.
Châu Du chưa trả lời, thì Khổng Minh đã tiếp:
- Tào Tháo xây Đồng Tước đài là muốn gây chiến vơi Đông Ngộ
- Muốn chiến tranh với Đông Ngô thì xây đài Đồng Tước làm gì ?
- Thật tình tướng quân không biết sao ?.
Châu Du lắc đầụ Khổng Minh tiế'p ngay:
- Chẳng lẽ việc Tào Tháo luyện tập thủy binh ngày đêm, tướng quân không biết saỏ
Châu Du ngậm ngự:
- Việc đó tôi có nghe
Khổng Minh bồi thêm:
- Cùng với việc luyện tập thủy binh, Tào Tháo còn cho xây cất Đồng Tước đài, để sau chiến tranh, chiếm cứ được Đông Ngô, Tào Tháo sẽ bắt Đại Kiều và Tiểu Kiều về Đồng Tước đài mà hoan lạc.
Châu Du mặt đỏ gay, thét to:
- Dựa vào đâu mà ông dám nói Tào Tháo xây Đồng Tước đài để bắt Nhị Kiều đem về hành lạc.
Khổng Minh thong thả đáp:
- Xin tướng quân hãy nguôi giận. Vậy thì tướng quân không biết bài phú của Tào Thực vịnh Đồng Tước đài à. Nguyên văn như thế này....
Nhưng đến hai câu:
Liên nhị kiều ư Đông Tây hề
Nhược trường không chi nhuế đống...thì mưu sĩ Khổng Minh lại đọc là:
Lãm nhị Kiều ư Đông Nam hề
Lạc triêu tịch chi dữ cộng
(Bắt hai nàng Kiều ở Đông Nam về để sớm tối chung vui).
(nhị kiều của Tào Thực là hai cây cầu; nhị Kiều cuả Gia Cát Lượng làvợ của Tôn Sách và vợ của Châu Du)..
Châu Du, tươ"ng hữu dõng vô mưu đã trúng kế độc của Khổng Minh. Sau đó, tướng này đã dàn trận hỏa công trên sông Xích Bích, thiêu rụi mười vạn quân Tào, Ngụy Võ Đế đại bạị Lợi dụng thời cơ, Lưu Bị xua quân chiếm Kinh Châu, chiếm' vào Lưỡng Xuyên, hình thành thế chân vạc thời Tam Quốc.
Gieo thoi trước chẳng giữ giàng,
Để sau nên thẹn cùng chàng bởi ai?
Gieo thoi, ý muốn nói người con gái ném con thoi của khung dệt để bảo toàn tiết hạnh.
Trong tích Tây Sương ký cũng có lời nàng Thôi Oanh Oanh "gợi ý" cho Trương Quân Thụy vì có tình ý cùng chàng: "Quân tử hữu viện cầm chi khiêu, bỉ nhân vô đầu thoa chi cự (quân tử có ôm đàn mà bỡn cợt, bỉ nhân này không dám quăng thoi mà cự tuyệt).
Theo chuyện đời nhà Tấn, Tạ Côn có cô hàng xóm họ Cao nhan sắc khó ai bì, chuyên nghề dệt cửi. Tạ Côn thường hay tìm qua nhà cô gái thả lời ong bướm. Có lần, cô gái ngưng dệt, cầm con thoi ném vào mặt Tạ Côn, làm chàng ta gãy mất hai cái răng. Từ đó hết lời trêu ghẹo.
Nhìn càng lã chã giọt hồng
Rỉ tai, nàng mới giãi bày trước sau:
Hổ sinh ra phận thơ đào
Công cha nghĩa mẹ kiếp nào trả xong ?
Trong sách thuốc có viết: Nhân hữu vựng uất, hốt hôn mê bất tỉnh nhân sự (người có chứng vựng uất thường hay bị ngất).
Giọt hồng, giọt nước mắt có màu hồng như máu, người đời còn gọi là huyết lệ khóc cho nổi đau khổ cùng cực trong những hòan cảnh khốn cùng. Điển tích Giọt hồng có trong trong Ngụy Thư:
Đời vua Ngụy Văn Đế có vị quan Tiết Hằng tuổi già về quê ở huyện Lộc Nam cùng với vợ và con gái Tiết Linh Vân. Linh Vân đang tuổi trăng tròn, nổi tiếng là một trang thiên hương quốc sắc, học giỏi, lại rất hiếu thảọ Hai năm sau khi Tiết Hằng về quê, trong vùng Lộc Nam nạn cướp bóc hoành hành, giáp biên giới giặc giã lại nổi lên. Triều đình sai Trương Bá Sanh, một vị quan trẻ kiêu ngạo, tham lam, về dẹp loạn. Tình hình tạm yên; Bá Sanh được bổ nhiệm làm tri huyện Lộc Nam.
Nghe tiếng nhan sắc Linh Vân, quan huyện mon men tìm đến. Khi trở về, tức tốc huyện ta cho người mai mối. Cha con Linh Vân từ chối. Bá Sanh sinh thù. Nhân lúc giặc giã lại nổi lên, Bá Sanh lập mưu vu cáo lão quan về hưu tư thông giặc rồi sai nha quân đến nhà bắt Tiết Hằng dẫn lên huyện đường, giam vào ngục, nói là chờ ngày xét xử nhưng thật ra để ép duyên Linh Vân. Linh Vân quá đau đớn vì nỗi hàm oan của cha, đánh liều gởi thư về triều kêu oan. Làm sao thư đến được tay vua. Linh Vân lại thư cầu cứu đến vị quan thứ sử họ Huỳnh, là một người bạn cũ của cha nàng. Huỳnh Thứ sử vào chầu vua xin chiếu chỉ, phái Mạnh Quang, một viện sĩ Hàn Lâm giỏi văn chương thi phú, về huyện Lộc Nam tuần tra.
Hai tháng về Lộc Nam thanh tra, hồ sơ kêu oan của người dân đã chất cao ngất, vậy mà hàn sĩ Mạnh Quang không hề ngó ngàng tới. Suốt này quan thanh tra chỉ thơ thới với gió núi mây ngàn, chẳng buồn quan tâm đến chuyện thế sự.
Một hôm Mạnh Quang lang thang xuống đường. Phố chợ sao mà đìu hiu, dân tình xơ xác. Mạnh Quang ghé vào một quán nước chè, bỗng gặp một giai nhân, áo quần xốc xếch, không chút phấn son, đang ngồi khóc tấm tức. Mạnh Quang hỏi dò bà lão chủ quán, mới hay người đẹp là Tiết Linh Vân đang khóc cho nỗi oan khiên của cha. Bấy giờ Mạnh Quang mới chợt nhớ nhiệm vụ của mình là về đây giải oan cho gia đình người con gái hiếu thảo này.
Mạnh Quang đi thẳng đến huyện đường Lộc Nam, vào nhà tù thăm các phạm nhân. Mạnh Quang đòi quan huyện Trương Bá Sanh trình những hồ sơ của các phạm nhân có quan hệ với giặc. Xét xong hồ sơ, Mạnh Quang chỉ thị phóng thích hết các tù nhân loại này vì không đủ chứng cứ buộc tội.
Huyện quan chấp hành lệnh quan triều đình. Ít hôm sau, Mạnh Quang lại xuống chợ, ghé lại quán nước chè của bà lão, lại vẫn thấy nàng Tiết Linh Vân ngồi khóc tức tưởi. Hỏi ra mới hay, nhiều tù nhân đã được về đoàn tụ gia đình, nhưng phụ thân của nàng bị hàm oan, vẫn chưa được cứu xét. Mạnh Quang hộc tốc quay về nha phủ gặp quan huyện:
- Ta được chiếu chỉ về huyện Lộc Nam này xét lại các vụ án kêu oan. Nay, ta muốn thẩm tra hồ sơ của Tiết Hằng, người bị kết tôi tư thông với giặc.
Thì ra, Bá Quang đã dấu nhẹm hồ sơ của Tiết lão. Bây giờ quan khâm sai của triều đình đã gọi đích danh thì phải trình rạ Bá Quang đem hồ sơ về, ngày sau trả lại cho Bá Sanh với lời phê: không nhân chứng, không vật chứng sao lại kết tội người ta, lệnh phải tức tốc phóng thích nghi can.. Bá Sanh hận vô cùng, nhưng đành cắn răng chấp lệnh của quan khâm sai.
Hai ngày sau, Bá Quang tìm đến thăm gia đình Tiết Hằng. Một già một trẻ, mới gặp nhau lần đầu mà đã tâm đắc, văn chương thi phú đối đáp đến sáng đêm. Tiết Hằng ngỏ ý muốn gả con gái mình cho Bá Quang. Quan khâm sai hân hoan nhận lời. Bá Qung cáo từ phải về kinh trình tấu kết luận thanh tra và xin hẹn tháng sau sẽ trở lại lam lễ thành hôn cùng Tiết Linh Vân.
Phần quan huyện Bá Sanh, vì oán thù cha con Tiết Hằng, nay lại được tin tình địch của mình là Bá Quang sắp ẵm nàng Tiết Linh Vân đi, đâu được, ta phải cho chúng bây tan tác. Trương Bá Sanh liền thư về triều đình, dâng lên vua, xin đề cử tiế'n cung một nhan sắc tuyệt trần chim sa cá lặn. Vua Ngụy Văn Đế thích ý, liền ra chỉ dụ, triệu Tiết Linh Vân nhập cung.
Ôi thôi, lại một kiếp hồng nhan. Ngày phải bước lên kiêu về cung, Tiết Linh Vân đã khóc như mưa, nước mắt uớt cả xiêm y. Lòng quặn đau thương cha . nhớ mẹ, nặng tình quê hương. Hai tì nữ theo hầu, phải dùng một bình sứ để hứng nước mắt cho nàng. Khi về đến kinh thành, bình sứ đã đầy quá nửa nước mắt hồng, cô đặc lại như máu, gọi là huyết lệ.
Bây giờ gương vỡ lại lành,
Khuôn thiêng lừa lọc đã dành có nơi
Còn duyên may lại còn người
Còn lời trăng bạc, còn lời nguyền xưa
Quả mai ba bảy đương vừa
Đào non sớm lựa xe tơ kịp thì
Thời Nam Bắc triều, Trần Hậu Chủ là một hôn quân, ham mê tửu sắc, không màng chi việc triều chính. Trong lúc đó, nước Tùy ở phương Bắc đang trổi dậy, thanh thế lớn nhanh; Từ Văn Đế Dương Kiên ngấp' nghé mưu toan diệt Trần.
Em gái Trần Hậu Chủ là quận chúa Lạc Xương, một giai nhân tuyệt sắc, có chồng là nho sĩ Từ Đức Ngôn. Tuy sống trong phú quí hoàng cung, nhưng vợ chồng TừĐức Ngôn cứ phập phồng lo sợ, một ngày nào đó ngoại xâm sẽ giày xéo giang sơn nhà Trần.
Ngày đó không xa, quân Tùy đã tràn vào như thác lũ. Đức Ngôn vội vàng thu quén ít tiền bạc, định đưa cả gia đình bỏ trốn khỏi kinh thành. Nhưng Lạc Xương đã ngăn lại:
- Chàng là bậc nam nhi, gặp lúc loạn ly, phải xả thân cứu quốc. Thiếp sẽ luôn ở bên chàng, thà chết vinh hơn là sống nhục.
- Đúng, ta phải ở lại góp sức diệt giặc. Nhưng nàng, một nhan sắc không khỏi bị nhục khi giặc tràn vàọ Vây nàng hãy vâng lời ta, một mình trốn đi.
Lạc Xương thuận theo lời chồng, rồi cầm lấy chiếc gương hàng ngày mình vẫn soi bóng, đập vỡ làm đôi:
- Chàng hãy cầm lấy nửa mảnh gương này, thiếp giữ một nửa. Nước sẽ mất, nhà sẽ tan, nhưng tình đôi ta không có gì có thể chia cắt được. Chúng mình phải sống cho nhau; hẹn chàng, đến ngày thượng nguyên, không được năm nay, thì qua năm khác, qua năm nữa..., vợ chồng mình đem mảnh gương này ra chợ Tràng An bán. Nếu trời thương cho vợchồng mình còn gặp nhau, thì hai mảnh gương sẽ đuợc ghép khít vào , gương vỡ lại lành, đôi ta sum vầy.
Vợchông bùi ngùi chia tay.
Chưa đầy một tháng, kinh thành nước Trần thất thủ, vua tôi lưu lạc tán loạn. Tướng Tùy là Việt Công xua quân, tha hồ càn quét. Lạc Xương, từ ngày chia tay chồng đã chạy thoát gần đến biên giới an toàn, nhưng vì lo âu cho chồng, nên lại quay trở về kinh thanh dò la tin tức, không may lọt vào vòng vây của giặc. Một nhan sắc giữa rừng gươm, hỏi ra lại là dòng dõi trâm anh thế phiệt, thì làm sao Việt Công lại không rúng động. Tên tướng Tùy liền giành lấy cánh hoa này, đem về ép làm hầu thiếp. Lạc Xương kháng cự mãnh liệt, hoặc là giữ được tiết hạnh hoặc chọn lấy cái chết. Cũng may, Việt Công không phải là tên võ biền háo sắc, hạ tiện nên đã không cố ép liễu nài hoa. Nghĩ rằng rồi thời gian, giai nhân sẽ xiêu lòng nên cho nàng cấm cung, có đàn cung nữ hầu hạ, canh giữ ngày đêm.
Rồi xuân đến, lơi hẹn hò Tết nguyên tiêu hãy tìm đến nhau, nhưng giờ này đôi uyên ương lưu lạc nơi nào. Phần nàng, bị vây trùng trong cung cấm, làm sao đem mảnh gương tìm ra chợ đây?.
Phần Từ Đức Ngôn, từ khi kinh thanh thất thủ, bôn ba chạy đi khắp nơi; kịp lúc xuân về, chàng hồi hộp đem mảnh gương vỡ ra chợ, giả vờ bán.
Trong cung cấm. Lạc Xương may mắn đã thuyết phục được một nàng hầu, nên đúng ngày rằm tháng giêng nàng đã nhờ hầu nữ này cầm mảnh gương ra chợ Tràng An tìm Đức Ngôn. Đến chợ, hầu nữ thấy đám đông đang đứng vây quanh một anh chàng, trêu chọc thằng điên đang đòi bán một tấm gương vỡ với giá ngàn vàng.
Biết là gặp đươc người đang tìm, cô hầu đưa ngay nửa mảnh gương cho thằng điên. Hai mảnh gương ghép khít vào nhau, Từ Đức Ngôn bật khóc như đứa trẻ. Chàng hôn hít tấm gương rồi viết vào mặt sau, bài thơ gởi người tình:
Ảnh dữ nhân câu khứ
Ảnh qui nhân vị qui
Vô phục hằng nga ảnh
Không lưu minh nguyệt huỵ
Theo người gương vỡ mắt sâu
Gương đà về đó, nhưng đâu thấy nàng
Chị Hằng cũng quạnh tâm cang
Vầng trăng sầu muộn úa vàng năm canh.
Nàng hầu lật bật đem gương về. Lạc Xương đọc được thơ, ôm lấy hai mảnh gương vào lòng mà khóc tức tưởị Việt Công tình cờđi vào, trông thấy, gạn hỏi sự tình. Lạc Xương phải tình thật, kể lại hết chuyện tình của mình. Nghe xong chuyện, Việt Công giả vờ nghiêm giọng thét to:
- Gương đã vỡ..
Lạc Xương hoảng hốt:
- Nhưng...
Sắc diện của Việt Công bỗng hiền hòa, đôn hậu:
- Nhưng ..giờ nay lại lành. Ta cảm phục mối tình của hai ngườị Dù lòng dạ lang sói cũng phải động lòng...
Rồi Việt Công sai quân hầu lập tức chạy ra chợ rước Từ Đức Ngôn vào thành, đãi đằng trọng thể, trao trả hạnh phú c cho tình yêu.
So dần dây vũ dây văn
Bốn dây to nhỏ theo vần cung thương.
Khúc đâu Hán Sở chiến trường
Nghe ra tiếng sắt , tiếng vàng chen nhau
Khúc đâu Tư mã Phượng cầu
Nghe ra như oán, như sầu phải chăng ?
Kê Khang này khúc Quảng Lăng
Một rằng Hoa nhạc, hai rằng Qui vân
Quá quan này khúc Chiêu Quân
Nửa phần luyến chúa, nửa phần tư gia
Trong như tiếng hạc bay qua
Đục như tiếng suối mới sa nửa vời
Tiếng khoang như gió thoảng ngoài
Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưạ.
Đây là chuyện Hán Sở tranh hùng, đoạn kết oan nghiệt của mối tình Hạng Võ Ngu Cơ:
Với mưu lược của Hàn Tín, quân Hán của Lưu Bang đã chiếm được Bành Thành, cứ điểm cuối cùng của quân Sở. Hạng Võ phải kéo quân về thủ trại trên bờ sông Ô Giang. Tuy tình hình đã nguy khốn, nhưng quân số Sở vẫn còn kháđông. Hạng Võ lại là một dũng tướng phi thường, trong một ngày đánh lui hơn 60 viên tướng Hán mà đao không nhụt, ngựa không lùị Vì vậy quân Hán chỉ bao quanh trại quân Sở reo hò inh ỏi, nhưng không có thêm tướng nào dám vào nghinh chiến với Hạng Võ.
Tướng sĩ tâu trình với Hạng Võ:
- Cả ngày hôm nay, Đại Vương thân không rời giáp , ngựa chẳng hở yên. Bây giờ tướng Hán đã khiếp sợ, án binh bất động. Vậy xin Đại Vương cho đóng dinh để Hoàng hậu nghỉ tạm qua đêm.
Hạng Vũ đồng ý và cho mời Ngu Cơ đến:
- Quân Hán đã cướp thành. Đêm nay ái hậu cùng ta qua đêm bên giòng sông Ô Giang này, màn trời chiếu cỏ kể cũng thi vị. Ngày trước ta đánh Chương Hàm, phải mất chín ngày mới thắng được. Nay chỉ một sớm chiều đã đánh bạt được hàng chục tướng Hán, chỉ vì muốn kết trận sớm để về với nàng.
Trong lúc ấy, quân sư Hàn Tín của Lưu Bang đang đứng ngồi không yên, suy mưu tính kế. Các tướng Hán đã hợp sức giao tranh với Hạng Võ mà vẫn thua chạy dài, thì không dùng thế cương mà thắng được. Hàn Tín cho mời Trương Lương đến vấn kế:
- Luôn mấy ngày ác chiến với Hạng Vương, các tướng Hán không ai địch nổị Nếu để tình hình này kéo dài, Hạn Vương sẽ thoát được vòng vây, kéo về Giang Đông mà dưỡng binh, thì chiến sự sẽ khó phân bề thắng bạị Xin tiên sinh chỉ giáo một mưu chước mới hòng đánh bại được Sở vương.
Một chút trầm ngâm, Trương Lương trả lời:
- Việc đó không khó. Bây giờ cứ làm cho các tướng sĩ của Hạng Võ phân lỵ Khi Sở vương đã bị cô thế rồi, thì ta bằ't sống dễ dàng. Từ nhỏ, tôi có học được khúc tiêu của một dị nhân. Nghe khúc tiêu này, lòng người xao động mãnh liệt tình hoài hương, đang vui thì sẽ hân hoan khó tả, đang buồn thì lại càng da diết nhớ quệ Nay đang lúc vào thu, gió heo may về, cây cỏ xao xác lá vàng, kẻ chiến chinh chắc không thể nào không thổn thức nhớ quệ Tối nay, tôi sẽ vào vách núi Kê Minh, trong canh vắng, tiếng tiêu vọng lên thì quân tướng Hạng Võ chẳng còn lòng dạ nào mà nghĩ đến chuyện binh đao.
Đêm về khuya, làn gió se lạnh, ánh trăng thu nhạt nhòa trong màn sương. Tiếng tiêu trỗi lên réo rát, sầu thảm như lòng cô phụ, mênh mang như lòng mẹ nhớ con, thỏ thẻ như tiếng trẻ mong cha về... lòng ai có sắt đá đến đâu bỗng chốc cũng yếu mềm như cánh liễu non trước cơn gió lốc. Tiếng tiêu lại còn cách đoạn bằng lời ca bi ai:
Đêm thu mù mịt trời sương
Có người thiếu phụ quê hương lạnh lùng
Sa trường vó ngựa
Trẩy gót binh nhung
Con thơ nheo nhóc mịt mùng dặm xa
Cơ hàn đau đớn mẹ cha
Canh khuya vò võ tuổi già đợi con
Chí trai vạn dặm
Hồ thỉ bốn phương
Nhưng con đi đã lầm đường
Giúp người tàn bạo không thương dân tình
Mơ mang giữa nửa giấc ba sinh
Một đi một nhớ một mình canh thâụ
Tiế'ng địch trên sông Lô dẫn theo lời ca nỉ non đã mau chóng làm mềm lòng tướng sĩ của Sở vương. Họ buông gươm giáo, cỡi bỏ chiến bào, lặng lẽ đào ngũ. Chỉ còn lại hai tướng trung kiên là Chu Lan và Hoang Sở đã cưỡng lại đước cái âm thanh mê hoặc đó. Cả dinh trại trong phút chốc bỗng rơi vào cái tĩnh lặng đáng sợ. Chính cái tĩnh lặng này đã đánh thức dũng tướng Hạng Võ. Sở vương vùng đứng đậy, quay mặt về phía núi Kê Minh, nơi đang vọng ra tiếng tiêu não nùng. Sở vương ngửa mặt lên trời than:
- Ôi cơ đồ của ta, trong thoáng chốc đã tiêu tan vì tiếng tiêu này.
Hai vị tướng quân đang quì dưới trướng, cúi đầu không nói nên lờị Hạng Võ truyền hai tướng bày ti^ẹc rượu, rồi cùng Ngu Cơ đối ẩm:
Tấm thân lấp biển vá trời
Thanh gươm yên ngựa một đời dọc ngang
Giờ đây mưa gió phũ phàng
Anh hùng mạt lộ giang sơn tan tành.
Ngu Cơ nhắp tiếp mây chung rồi đáp:
Cát đằng nương bóng cội tùng
Bấy lâu khăng khít thủy chung một lòng
Tả tơi vì ngọn gió đông
Cội tùng ngả bóng cát đằng bơ vơ.
Mặc cho trời đổ, đất nghiêng, như đôi tình nhân đang say men tình, Hạng Võ Ngu Cơ vẫn ngồi bình thản uống rượu ngâm thơ. Đến lúc trời rạng ánh mai, Chu Lan và Hoàng Sở mới rón rén bước vào:
- Trời sắp sáng rồi, xin quân vương lên đường bôn tẩu.
Ngu Cơ cũng hối thúc:
- Xin lang quân hãy nhanh chóng lên đường, đừng vì tình mà lụỵ Cả một cơ đồ lang quân hãy phục hưng lại Xin một lạy tạ từ phu quân. Thiếp không thể theo phu quân làm vướng bận bước chân người.
Hạng Võ hiểu ý người yêu, rút đoản đao ra trao cho nàng. Ngu Cơ cầm lấy, đâm vào cổ tự vẫn, vĩnh biệt tình lang . Hạng Võ nước mắt đầm đìa, thét lớn: Ngu Cơ tình ơi !. Cùng lúc ấy, quân Hán kéo vào vây phủ. Hạng Võ một thân một ngựa phá được vòn g vây, thoát ra bờ sông Ô giang. Giang sơn giờ nay đã tan mờ sương khói, không thể nào khôi phục được. Hạng Võ quay nhìn giòng sông, rút gươm tự kết liễu một đời vẫy vùng dọc ngang. Người đời sau có thơ:
Sức mạnh kinh thiên vạn cổ truyền
Vẫy vùng yên mã đoạt giang yên
Hạ thành ai luận anh hùng sự
Mãnh hổ sa cơ cũng phải hèn
Hoa tàn mà lại thêm tươi
Trăng tà mà lại hơn mười rằm xưa
Hoa tàn mà lại thêm tươi điển tích trong sách Tam ngôn truyện.
Thời Tống Nhân Tông có chàng Thu Tiên uyên bác, nhưng không màng công danh, sống ẩn nhẫn cùng hoa thơm cỏ lạ.
Vợ mất sớm, không có con, từa tự được mấy mẫu đất, chàng không canh tác màu, mà chỉ trồng hoa. Cơm không đủ ăn, áo không có mặc, được đồng nào chàng dành để mua những giống hoa quí. Vườn hoa của Thu Tiên đẹp nổi tiếng ở đất Giang Nam.
Bấy giờ trong thành Bình Giang có tên Trương Ủy ngang tàng, độc ác, chẳng coi ai ra gì. Một hôm hắn ta cùng bọn thủ hạ đi ngang qua nhà của Thu Tiên, nhìn thấy vườn hoa quí bạt ngàn màu sắc rực rỡ. Trương Ủy chẳng cần hỏi han chủ nhân, sai bọn thuộc đạp đổ hàng giậu, xông thẳng vào trong tha hồ bẻ, ngắt hoa. Thu Tiên quá đau lòng, nhưng càng van xin thì tên Trương Ủy và thuộc hạ càng làm tới:
- Mày không biết ta là ai à? Hôm này có ta đây đặt chân đến vườn hoa này là vinh hạnh cho mày đấy. A kìa, loại hoa mẫu đơn kia mới đẹp làm sao. Thật là uổng phí loài hoa quí phải yên phận trên mảnh đất của tên ngốc nghếch này. Khu vườn này phải thuộc về ta.
Nói xong, tên côn đồ lại giang tay bứt hết những cánh hoa mẫu đơn. Vì quá thương yêu hoa, Thu Tiên đã phải chắp tay van xin:
- Xin công tử hãy nương tay, đừng hủy hoại hoa tội nghiệp. Loài mẫu đơn này đơn này tôi đã phải ngày đêm chăm sóc, nâng niu.
Trương Ủy cười ha hả, bóp nghiến cánh hoa trong tay:
- Mày yêu hoa, mày chăm sóc nâng niu. Ta yêu trăng hoa ta thích dày vò tan nát. Vườn hoa này phải là của ta. Ta cho mày ít thời gian để lo cuốn gói đi ở nơi khác. Ta sẽ trở lại đây sau hai ngày nữa, không để tao phải trông thây các mặt thằng yêu hoa ngu si như mày.
Bọn Trương Ủy bỏ đị Thu Tiên nằm vật xuống lăn lộn, người xác xơ còn hơn cả những cánh hoa tơi tả trên đất. Chàng khóc tức tưởi như chàng thư sinh đánh mất mối tình đầu. Bỗng có ai đó khẽ động trên vai. Thu Tiên quay lại; một tiểu thư kiều diễm đang nhìn chàng ngời thương cảm.
- Xin hỏi tiểu thư từ đâu đến đây?
- Thiếp ở cach đây không xa. Nghe chàng khóc thương cho loài hoa , thiếp xin đến đây được chia sẻ nỗi niềm. Hoa đã rơi rụng hế t rồi. Nhưng xin chàng chớ quá âu sầu. Chàng đã yêu hoa như thế thì muốn hoa tàn mà lại thêm tươi cũng chẳng khó gì...
Đang lúc buồn bã , người đẹp lại nói chuyện phong thần, Thu Tiên càng rầu rĩ thêm. Tiểu thư biết Thu Tiên không tin, cũng chẳng phân giải; nàng nói Thu Tiên hãy thu nhặt nhữ`ng cánh hoa tàn gom lại, rồi đi gánh nước. Thu Tiên miễn cưỡng làm theo. Khi đôi thùng nước quay lại, thì kỳ diệu thay cả vườn hoa bừng sống lại, nở rộ hương sắc. Người đẹp đã biến mất.
Thu Tiên quá đỗi mừng rỡ, chàng đưa tay nựng từng cánh hoa mà cứ tưởng như trong mợ Nàng ấy chăc hẳn là từ cõi trần tiên về đây ban phép lành cho chàng.
Lòng thành , Thu Tiên thắp nén hương, quỳ xuống van vái:
- Xin tạ ơn tiên nữ giáng trần thương cho kẻ trần gian này....
Lâng lâng với niềm vui dào dạt, chàng nằm xuống giữa hai luống hoa, kê đầu bên một gốc mẫu đơn rồi ngủ thiếp đi giữa áng mây chiều. Chập chùng trong giấc mơ, Thu Tiên thấy mình đang gối đầu trên chân một thiếu nữ; đúng là tiểu thư lúc ban ngày. Nàng cúi xuống thủ thỉ bên tai chàng... thiếp nào đâu phải là tiên nữ, mà chỉ là một kiếp hoa. Cảm ơn chàng đã nâng niu đời hoa. Từ đây thiếp sẽ mãi ở bên chàng. Sẽ không có kẻ phàm phu nào đến quấy nhiễu chàn g nữa. Chàng nặng tình với hoa, thì thiếp mãi bên chàng, mãi bên chàng....
Tiếng noí nhỏ nhỏ dần, nhỏ dần rồi cùng với hình dáng yêu kiều hút vào lòng đất
..Thu Tiên chợt tỉnh giấc mơ hoa; đầu chàng đang kề sát một gốc mẫu đơn, thoang thoảng tỏa hương thơm dìu dặt. Trên cao xa lắc, ánh sao hôm đang lấp lánh.