Giải Nobel hóa học năm nay được trao cho hai người Mỹ Venkatraman Ramakrishnan, Thomas A. Steitz và nhà khoa học nữ Ada E. Yonath người Israel nhờ đã chỉ ra được hình dáng ribosome và cách thức chúng vận hành ở quy mô nguyên tử. Cả ba đều dùng phương pháp X-quang tinh thể học để vẽ ra bản đồ tỉ mỉ của từng nguyên tử trong tổng số hàng trăm ngàn nguyên tử tạo nên ribosome.
Viện hàn lâm Khoa học Thụy Điển nói giải thưởng được trao cho một trong những nghiên cứu mấu chốt về chu trình của sự sống: ribosome dịch mã ADN thành sự sống. Ribosome là cơ quan sản xuất protein - vốn kiểm soát các quá trình sinh hóa trong toàn bộ cơ thể sống. Do tầm quan trọng này, ribosome là một trong những mục tiêu nghiên cứu chính trong quá trình phát triển các loại kháng sinh mới.
Trong mỗi tế bào sống đều có các phân tử ADN, chúng chứa mã quyết định hình dáng và chức năng cho mỗi sinh thể dù đó là con người, cái cây hay vi khuẩn. Tuy vậy, phân tử ADN luôn thụ động và vì vậy nếu không có các hoạt động của ribosome thì sẽ không có sự sống. Dựa trên bản mã của ADN, ribosome tạo ra protein, tạo sắc tố hemoglobin để chuyển oxy, tạo kháng thể cho hệ miễn dịch, tạo các hormon như insulin, protein kết nối collagen của da, hay các enzyme để phân tách đường.
Theo Viện hàn lâm Khoa học Thụy Điển, thực tế ribosome là cơ quan gây dựng và điều khiển sự sống ở mức độ hóa học. Là một bào quan có mặt trong tất cả các tế bào sinh vật sống, ribosome được xem như một nhà máy tổng hợp protein dựa trên các thông tin di truyền của gen. Ribosome có thể nằm tự do trong tế bào chất hay bám trên màng của mạng lưới nội chất.
Việc hiểu tường tận quá trình hoạt động của ribosome là rất quan trọng để tìm hiểu sự sống. Theo Viện hàn lâm Khoa học Thụy Điển, sự hiểu biết này đem lại ngay những ứng dụng thực tiễn. Rất nhiều kháng sinh chữa bệnh hiện nay được xây dựng trên cơ chế ngăn chặn ribosome của vi khuẩn. Không có ribosome hoạt động, vi khuẩn sẽ không thể sống được. Ba nhà khoa học đã được ca ngợi là “các chiến binh trong cuộc đấu tranh chống lại làn sóng các bệnh truyền nhiễm do vi khuẩn”. Số tiền thưởng 1,4 triệu USD sẽ được chia đều cho cả ba.
Cả ba nhà khoa học nhận giải Nobel năm nay đều đã tạo được mô hình 3D để chỉ ra các loại thuốc kháng sinh khác nhau tác động tới ribosome thế nào. Những mô hình này hiện đang được sử dụng để phát triển các loại kháng sinh mới, hỗ trợ trực tiếp việc cứu lấy sự sống và chữa trị bệnh tật của con người.
Theo Reuters, với giải thưởng này, bà Yonath trở thành người phụ nữ thứ tư giành giải Nobel hóa học. Người phụ nữ gần đây nhất đoạt giải Nobel hóa học là Dorothy Crowfoot Hodgkin của Anh năm 1964.
- Vật Lý
Thu gọn nội dung
Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển ngày 6/10 vừa qua tuyên bố, đã quyết định trao giải Nobel Vật lý năm 2009 về nghiên cứu ứng dụng cho các nhà khoa học Charles K. Kao, Willard S. Boyle và George E. Smith. Giải Nobel Vật lý những năm trước trao về khoa học cơ bản.
Khác với hầu hết các giải Nobel trước, các nhà khoa học được trao tặng giải là các “nhà khoa học hàn lâm”, các giáo sư đại học thì những “Nobel gia” lần này là những người làm việc trong lĩnh vực công nghiệp, nên phát minh của họ khiến người ta thấy được tác dụng trực tiếp của khoa học trong đời sống hàng ngày.
Họ đã góp phần phát triển công nghệ cáp quang học và phát minh ra “con mắt” trong chiếc máy ảnh số - công nghệ chụp ảnh không cần phim và dịch vụ internet tốc độ cao, cách mạng hóa ngành viễn thông và các ngành khác nữa, tác động mạnh mẽ và làm thay đổi cách sống, cách làm việc, học tập và giải trí của chúng ta.
Đành rằng giải Nobel danh giá này là sự vinh dự tột cùng tôn vinh công lao của nhà khoa học đối với nhân loại, nhưng số tiền của giải được chia sẻ theo tầm quan trọng của sự đóng góp.
Một nửa số 1,4 triệu đôla được trao cho Charles K. Kao, 75 tuổi, về phát minh ra cách truyền những tín hiệu ánh sáng trên đường dài qua sợi thủy tinh nhỏ như một sợi tóc. Phát minh ấy đưa đến mạng lưới viễn thông mang theo âm thanh, hình ảnh và những dữ liệu internet tốc dộ cao ra toàn thế giới trong khoảnh khắc, chỉ một phần nhỏ của giây.
Nửa số tiền còn lại sẽ được trao cho Willard S. Boyle, 85 tuổi và George E. Smith, 79 tuổi, những người mở cánh cửa vào chiếc máy ảnh kỹ thuật số bằng phát minh ra chiếc cảm biến biến ánh sáng thành tín hiệu điện.
Viện Hàn lâm khoa học Hoàng gia Thụy Điển gọi ba nhà khoa học Mỹ này là “những bậc thầy của ánh sáng", mà công lao của họ “đã giúp đặt nền móng cho các “xã hội mạng” trên toàn thế giới ngày nay.
Nhà khoa học Rijharrd Epworth, đồng nghiệp của K. Kao từ những năm 1960 trong Phòng thí nghiệm viễn thông tiêu chuẩn (Standarrd Telecommunication Laborratories) tại Harlow, Vương quốc Anh giải thích một cách ngắn gọn tầm quan trọng của phát minh: “Chiếc bánh xe đã làm được những gì trong ngành giao thông thì sợi quang cũng làm được những điều tương tự đối với ngành viễn thông”.
Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển cho hay nếu đem tổng số sợi thủy tinh hiện dùng mang những cuộc gọi điện thoại và những số liệu quấn quanh Trái đất thì nó sẽ quấn được đến 25.000 lần quả địa cầu.
Sợi quang đã “làm cách mạng mọi thứ... Đó là một trong những công nghệ mà vừa xuất hiện, nó đã nuốt chửng tất cả như một ngọn lửa hoang dã”, giáo sư Farber, chuyên gia về khoa học máy tính và chính sách công Trường ĐH Carnegie Mellon đánh giá.
Năm 1966, K. Kao kết luận rằng cần phải dùng sợi thủy tinh có độ tinh khiết rất cao mới chuyên chở được ánh sáng đi những khoảng cách dài. Ông đề xuất chế tạo sợi này từ những hợp chất của oxit silic nóng chảy. Một vật liệu như vậy khó hoạt động và các nhà nghiên cứu Mỹ đã thành công trong việc kéo nó thành những sợi mỏng manh.
Biết tin mình được giải, Kao cho biết ông không hề chờ đợi Nobel mặc dù biết bao kỹ thuật tiên tiến đã ra đời từ nghiên cứu của ông. Là người gốc Thượng Hải, nhưng lớn lên, học và làm việc tại Anh, sau sang Mỹ nên Kao có hai quốc tịch là Mỹ và Anh.
Một trong những ứng dụng phổ biến của sợi quang là gửi đi những tấm ảnh chụp bằng kỹ thuật số. Điều này muốn thực hiện được lại phải nhờ vào phát minh năm 1969 của Boyle và Smith, trước đây làm việc tại Phòng thí nghiệm của Tập đoàn Bưu chính viễn thông Bell (Bell Laboratiries) tại Murray Hill, New Jersey, Mỹ. Hai người đã hợp tác và phát minh ra chiếc cảm biến gọi là “máy tích điện kép” (charged-couples device, viết tắt là CCD), dùng như trái tim của hầu hết máy ảnh kỹ thuật số, biến ánh sáng thành những tín hiệu điện. CCD bắt những tín hiệu này và từ đó tạo ra hình ảnh do các điểm màu (pixel) nằm cạnh nhau, hiện ra trên màn hình.
Công nghệ CCD còn được dùng trong một số máy móc để các bác sĩ “nhìn” vào bên trong cơ thể các bệnh nhân khi chẩn đoán bệnh.
Và CCD “đã gây ra một cuộc cách mạng giống như chiếc kính viễn vọng đã tạo ra trong ngành thiên văn học”, như nhận định của người phát ngôn của Đài Thiên văn Hải quân Mỹ Geoff Chester: “Nó cho phép chúng ta nhìn sâu hơn vào vũ trụ với độ nét rất cao không gì sánh nổi”. Ông còn bổ sung: “Nếu không có CCD thì cũng chẳng có kính thiên văn vũ trụ Hubble và hiểu biết của chúng ta về vũ trụ chỉ quẩn quanh gần Trái đất”.
Boyle, ông già tuổi đã 85, còn thêm cả quốc tịch Canada hồi tưởng lại những ngày mình cùng làm việc với Smith: “Lúc này, tôi cứ đi lang thang quan sát. Hóa ra ai cũng có trong tay chiếc máy ảnh số nhỏ bé của chúng tôi, nơi nào cũng vậy”.
Nhưng ông cũng nói rằng thành công lớn nhất của ông với ông bạn già là truyền những hình ảnh của sao Hỏa về Trái đất, thấy rõ ràng những bãi sa mạc màu đỏ, do chiếc máy quay phim kỹ thuật số quét trong không gian.
Còn ông Smith và bà vợ là Janet Murphy vẫn đang ngon giấc tại thị trấn Waretown, bang Jerrsey khi chuông điện thoại rung lên vào hồi 5 giờ 43 phút sáng. Ông không ra khỏi giường được để nghe điện thoại ngay và cú điện thoại ấy chuyển vào mail âm thanh.
Bà Murphy kể lại: “Một lời báo tin, nặng cách phát âm Thụy Điển, vậy là chúng tôi đủ hiểu chuyện gì xảy ra rồi…”.
Ông già Smith chạy vội mở địa chỉ mạng của Ủy ban Nobel và nhìn ngay thấy lời công bố. Điện thoại lại rung lên một lần nữa, thông báo ngắn gọn tin vui đến với họ.
Ông Smith nói: “Chuyện như thế ai mà chẳng ngạc nhiên” và thêm: “Mọi người đều thích chụp ảnh. Nhìn vào tấm ảnh chụp trên điện thoại di động và cái webcam gắn trên chiếc máy tính của bạn đi. Người ta sử dụng công nghệ này đấy”.
Nếu tính từ ngày phát minh ra sợi quang (1966) đến ngày nhận giải, Kao mất 43 năm. Còn với Boyle và Smith thì hơi ngắn hơn: tròn 40 năm.
Thật là thời gian quá dài để kiểm tra hiệu quả những phát minh. Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia quá thận trọng.
Ngày thứ Hai đầu tuần, ba người Mỹ chia nhau giải Nobel Sinh lý học và Y học. Ngày thứ Ba, lại ba người Mỹ nữa. Hèn nào, chẳng có người bực bội thốt ra: “Gọi giải Nobel là giải Mỹ cho rồi!”.
- Kinh Tế
Thu gọn nội dung
Hai người Mỹ Elinor Ostrom và Oliver Williamson đã giành giải Nobel kinh tế năm nay cho công trình liên quan đến quản lý kinh tế và tổ chức hợp tác. Điều đáng nói, Ostrom là phụ nữ đầu tiên giành giải thưởng này kể từ khi nó được lập ra năm 1968.
Trong tuyên bố đưa ra ngày hôm nay, Học viện Khoa học Hoàng gia Thuỵ Điển khẳng định Ostrom (SN 1933), làm việc tại Đại học Indiana và Williamson (SN 1932), một giáo sư của Đại học California ở Berkeley, xứng đáng được nhận giải thưởng này vì đóng góp của họ.
Theo ủy ban xét giải Nobel, những nghiên cứu của hai nhà kinh tế này đã chứng tỏ “việc phân tích kinh tế có thể soi rọi cho hầu hết các thể thức tổ chức xã hội như thế nào”.
Ostrom “đã chứng minh tài sản sở hữu chung có thể được các hiệp hội những người sử dụng quản lý thành công như thế nào”, trong khi Williamson phân tích về quản lý kinh tế, đặc biệt là ranh giới giữa các công ty.
Giải Nobel Kinh tế do Ngân hàng Trung ương Thụy Điển thành lập năm 1968, nằm trong hệ thống giải thưởng Nobel do nhà khoa học Anfred Nobel của nước này sáng lập. Các giải Nobel khác gồm y học, vật lý, hoá học, văn học và hoà bình được trao từ 1901.
Kể từ khi ra đời, giải Nobel Kinh tế hàng năm hầu hết rơi vào tay người Mỹ. Năm ngoái, giải thưởng thường niên trị giá 1,42 triệu USD này được trao cho giáo sư Paul Krugman (Đại học Princeton, Mỹ) vì những đóng góp của ông trong việc đem các mô hình thương mại vào thực tiễn.
Tuy nhiên, trước khi công bố giải Nobel kinh tế năm nay, nhiều nhà bình luận lên tiếng rằng đã nhiều lần giải thưởng này vinh danh những ý tưởng thiếu chính xác, thậm chí là nguy hiểm.
Một nhà phân tích của Reuters còn chỉ ra rằng các lý thuyết giành giải Nobel chính là nguyên nhân dẫn đến những vụ sụp đổ thị trường lớn nhất kể từ sau cuộc Đại suy thoái năm 1930.
- Y Học
Thu gọn nội dung
Cũng như giải Nobel Y học năm 2007 và năm 2008, giải Nobel Y học năm 2009 lại một lần nữa vinh danh những nhà khoa học nghiên cứu gien giúp điều trị bệnh, kéo dài tuổi thọ của con người. Giải thưởng bao gồm 1,4 triệu USD, giấy chứng nhận đoạt giải và giấy mời tham dự lễ trao giải ở Stockholm, Thụy Điển vào ngày 10-12.
Từ chữa bệnh...
Năm nay, 3 nhà khoa học người Mỹ gồm giáo sư Elizabeth Blackburn (sinh năm 1948), Carol Greider (sinh năm 1961) và Jack Szostak (sinh năm 1952) đã trở thành các đồng chủ nhân giải Nobel Y học năm 2009. Đây cũng là lần đầu tiên, giải Nobel Y học cùng lúc được trao cho 2 phụ nữ. Bà Blackburn mang hai quốc tịch Mỹ và Australia, là giáo sư sinh vật học và sinh lý học tại Trường Đại học California, bang San Francisco, Mỹ. Bà Greider là giáo sư sinh vật học phân tử và gien, làm việc tại Khoa Y thuộc Đại học Johns Hopkins ở bang Baltimore, Mỹ. Ông Szostak sinh ở Anh, làm việc tại Khoa Y, Đại học Harvard, Mỹ từ năm 1979. Ông hiện là giáo sư về về gien tại Bệnh viện Đa khoa Massachusetts ở bang Boston, Mỹ. Ngoài ra, ông còn là hội viên Viện Y học Howard Hughes.
Giáo sư Elizabeth Blackburn từng bị Tổng thống George W. Bush sa thải khỏi Hội đồng luân lý về nghiên cứu y học vào năm 2004 vì bà lên tiếng chỉ trích chính sách của ông Bush đối với việc nghiên cứu tế bào mầm ở người. Bà Greider nghiên cứu về telomerase từ những năm 1970 với cố vấn nghiên cứu của bà là giáo sư Blackburn tại Đại học California, Berkeley.
Viện Karolinska ở Thụy Điển cho biết các nhà khoa học nói trên được tôn vinh vì đã tìm ra cách thức các nhiễm sắc thể được sao chép một cách hoàn chỉnh trong quá trình phân chia của tế bào và được bảo vệ để không bị thoái hóa. Những phát hiện này có thể hỗ trợ việc nghiên cứu ung thư, giúp con người hiểu rõ hơn về tế bào, vén lên bức màn bí ẩn về các cơ chế phát triển bệnh, đồng thời mở đường cho việc phát triển các liệu pháp chữa bệnh hiệu quả mới, thậm chí cả việc làm cho con người lâu già hơn.
Các công trình nghiên cứu enzyme đang trở thành lĩnh vực nghiên cứu nóng bỏng, đặc biệt là để tìm cách chữa trị bệnh ung thư hiệu quả hơn. Từ đây, người ta có thể biết rõ cơ chế mà các tế bào bướu sinh sôi nảy nở bất thường. Ví dụ, một vaccine điều trị nhắm vào telomerase (một enzyme tạo ra khu vực cuối của ADN, khu vực này gọi là telomere). Vaccine này đã được các Công ty dược Merck và Geron thử nghiệm từ năm 2008 cho kết quả khá khả quan đối với việc chữa trị các khối u ở ung thư phổi và ung thư tiền liệt tuyến.
...đến trường thọ
Bên cạnh việc nâng cao hiệu quả trong việc chữa các loại bệnh nan y, công trình của 3 giáo sư Mỹ được trao giải Nobel năm nay còn nhấn mạnh đến yếu tố nghiên cứu khả năng trường thọ của con người.
Nghiên cứu của họ tập trung làm sáng tỏ tiến trình lão hóa bằng cách phát hiện các chuỗi gien lập đi lập lại ở phần cuối của ADN (gọi là telomere). Các telomere này đóng vai trò như những chiếc nón bảo vệ, giúp các chuỗi gien bớt ngắn đi khi tế bào phân chia. Chất tạo nên các telomere chính là telomarase enzyme. Bằng cách nào đó, nếu con người can thiệp để các telomarase này phát huy vai trò mạnh nhất sẽ làm cho telomere duy trì được độ dài cần thiết. Lúc đó, quá trình lão hóa sẽ diễn ra chậm hơn.
Công trình của 3 nhà khoa học chứng minh được tính vô giá của các cuộc nghiên cứu chống già. Theo tiến sĩ Dave Woynarowski, chuyên gia chống lão hóa hàng đầu thế giới, người được mệnh danh là “Tiến sĩ Telomere”, từ lâu vai trò của telomere đã được ông nghiên cứu. Ông là thành viên của Công ty TA Sciences chuyên nghiên cứu về telomere. Theo ông, rất nhiều loại bệnh của con người liên quan đến nguyên nhân telomere bị ngắn đi như bệnh ung thư, bệnh tim, bệnh mất trí nhớ (Alzheimer), bệnh loãng xương, tiểu đường... Công ty của “Tiến sĩ Telomere” này đã chế tạo hợp chất TA-65 nhằm kích thích telomere trẻ hóa và dài thêm, nó kích hoạt các telomarase hoạt động hữu hiệu hơn. Qua theo dõi những người sử dụng hợp chất này trong vòng 2 năm qua, người ta thấy hệ miễn dịch được cải thiện, xương vững chắc hơn, insulin ở mức độ tốt.
Tuy nhiên, telomere chỉ là một trong nhiều yếu tố chống lão hóa, chống bệnh tật. Quá trình lão hóa còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác. Từ lâu, các nhà khoa học đã bắt đầu nghiên cứu các yếu tố kéo dài tuổi thọ của con người. Trong các chất chống lão hóa, người ta chú ý tới hợp chất resveratrol có trong rượu đỏ (rượu vang hay nho). Hợp chất này giúp kích hoạt các protein mang tên sirtuin làm tăng kháng thể của cơ thể chống lại các loại bệnh của tuổi già. Tờ New York Times gần đây đăng tin cho biết hãng dược phẩm Sirtris đã bắt đầu chế tạo một loại thuốc giúp kích hoạt các sirtuin trong cơ thể người. Thuốc này đã qua thử nghiệm trên chuột, cho kết quả là kéo dài tuổi thọ hơn 40% so với thực đơn ăn kiêng.
Một cuộc nghiên cứu khác công bố trên tạp chí Science cho thấy cách mà chuột sống sót cao và khỏe mạnh... nhờ nhịn đói. Các nhà khoa học đã làm mất khả năng một loại gien có vai trò ra tín hiệu đói đối với cơ thể. Loại gien này chỉ dấu cho cơ thể tiếp nhận thực phẩm. Vì vậy các loại thuốc trong tương lai có thể gây ức chế loại gien này, làm cho cơ thể người ít cảm thấy đói. Theo nghiên cứu của Trung tâm nghiên cứu bệnh tiểu đường và các bệnh nội tiết thuộc Đại học London công bố ngày 2-10, trong cơ thể chuột, có một loại gien liên quan đến sức ăn của chuột. Nếu không có gien này, chuột sẽ ăn ít hơn, khỏe hơn có thể không mắc bệnh tiểu đường típ 2. Loại gien này mang tên S6K1.
Với công trình nghiên cứu (được triển khai từ những năm 1970) của mình, 3 nhà khoa học Mỹ đã vượt qua những ứng cử viên sáng giá khác như Ernest McCulloch và James Till, những người có công tìm ra tế bào gốc vào những năm 70 của thế kỷ trước.
- Văn Học
Thu gọn nội dung
Trái ngược với dự đoán, Nobel Văn học 2009 tiếp tục vinh danh một đại diện đến từ châu Âu. 10 năm sau chiến thắng của Guenter Grass, nhà văn - nhà thơ Herta Müller lại vừa mang vinh quang về cho nước Đức.
Giải thưởng vừa được công bố cách đây ít phút, lúc 11h GMT (tức 18h Hà Nội). Trang web chính thức của Viện Hàn lâm Thụy Điển dẫn lời của Ủy ban Nobel Văn học nhận xét, Herta Müller là "người, với sự tập trung, cô đọng của thơ ca và sự thẳng thắn của văn xuôi, đã miêu tả phong cảnh của mảnh đất bị tước quyền sở hữu".
Herta Müller sinh năm 1953 trong một gia đình nông dân tại Timiş, Romania. Lớn lên, bà theo học tiếng Đức và Văn học Romania tại Đại học Timişoara. Từng trải qua nhiều nghề như phiên dịch, dạy học, Müller xuất bản cuốn sách đầu tiên năm 1982. Từ năm 1987, bà cùng chồng sang Đức và định cư ở đó cho đến nay.
Trong gần 30 năm cầm bút, Müller từng đoạt các giải thưởng văn học danh giá như: giải Kleist, giải Frankz Kafka và giải Impac với cuốn tiểu thuyết The Land of Green Plums. Tác phẩm mới nhất của bà, tiểu thuyết Atemschaukel vừa ra mắt hồi tháng 8. Pete Ayrton, nhà xuất bản từng ấn hành tác phẩm của Müller cho biết, ông rất "vui mừng" khi nghe tin bà đoạt giải. "Giải Nobel đã mang đến cho chúng ta một nhà văn tuyệt vời nhưng bị lãng quên và chưa được thế giới đánh giá đúng mức", ông nói.
Ngoài The Land of Green Plums, bà còn nổi tiếng với những tác phẩm như: Nadirs (tập truyện ngắn - 1982), The Passport (1989), The Devil is Sitting in the Mirror (1991), The Guard Takes His Comb (1993), The Appointment (2001)... Nhiều tác phẩm của bà đã được dịch sang tiếng Anh và một số ngôn ngữ khác.
Việc Viện Hàn lâm trao giải cho Herta Müller được đánh giá là một quyết định gây bất ngờ và nằm ngoài dự đoán của giới học giả cũng như giới cá cược. 15 năm qua, từ 1995 đến nay, đã có 14 nhà văn châu Âu được vinh danh. Hai ngày trước khi Nobel Văn học được công bố, chính Thư ký thường trực Viện Hàn lâm Peter Englund cũng nhận định, "ban giám khảo quá thiên vị châu Âu". Vì vậy, các học giả dự đoán, giải thưởng năm nay sẽ thuộc về một nhà văn "ngoài châu Âu". Nhưng những cái tên được nhắc đến nhiều nhất như Mario Vargas Llosa, Amos Oz, Assia Djebar, Haruki Murakami... đều đã phải nhường chiến thắng cho Herta Müller.
Với giải thưởng này, Herta Müller nâng tổng số nhà văn Đức đoạt giải Nobel Văn học lên 9 người - xếp thứ tư trong số các quốc gia được vinh danh nhiều nhất, sau Pháp, Mỹ và Vương quốc Anh. Bà sẽ nhận được Huy chương, giấy chứng nhận và 1,4 triệu USD tiền thưởng (hơn 25 tỷ đồng). Lễ trao giải sẽ diễn ra vào tháng 12.
- Hòa Bình
Thu gọn nội dung
Tổng thống Mỹ Barack Obama giành giải Nobel Hòa bình năm nay nhờ những nỗ lực xuất sắc về ngoại giao.
Ủy ban Nobel cho biết Obama được trao giải nhờ "những nỗ lực xuất sắc nhằm củng cố ngoại giao quốc tế và hợp tác giữa các dân tộc".
Là tổng thống gốc Phi đầu tiên của Mỹ, Obama đã kêu gọi giải giáp vũ khí và nỗ lực tái khởi động tiến trình hòa bình ở Trung Đông bị bế tắc, kể từ khi lên nắm quyền hồi tháng giêng.
"Hiếm khi một người như Obama có thể thu hút được sự chú ý của công chúng thế giới và mang đến niềm hy vọng cho dân chúng nước ông về một tương lai tốt đẹp hơn", Reuters dẫn lời ủy ban trao giải Nobel cho biết.
Giải thưởng được công bố khi Obama nhậm chức chưa đầy 9 tháng. Dù đặt ra nhiều mục tiêu đầy tham vọng, Obama vẫn chưa đạt được bước tiến đột phá nào về vấn đề Trung Đông hay chương trình hạt nhân của Iran. Ông cũng đang đối mặt với những lựa chọn khó khăn trong xử lý cuộc chiến ở Afghanistan.
Tháng trước, Obama chủ trì một cuộc gặp gỡ lịch sử tại Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, trong đó, các bên nhất trí thông qua một nghị quyết do Mỹ soạn thảo, kêu gọi các quốc gia sở hữu hạt nhân cắt giảm kho vũ khí nguyên tử.
Chuyên gia đàm phán hòa bình của Palestine Saeb Erekat hoan nghênh giải thưởng dành cho Obama và bày tỏ hy vọng rằng "ông có thể mang lại hòa bình cho Trung Đông". Cựu tổng thống Liên Xô Mikhail Gorbachev, từng đoạt giải Nobel Hòa bình, tỏ ra vui mừng trước thông tin này và nói rằng Obama đã đem lại hy vọng cho thế giới.
Đây không phải là lần đầu tiên một nhà lãnh đạo Mỹ thuộc phe Dân chủ giành giải thưởng cao quý này. Trước Obama, cựu phó tổng thống Al Gore được trao giải thưởng năm 2007 cùng cơ quan về khí hậu của Liên Hợp Quốc; cựu tổng thống Jimmy Carter giành giải năm 2002.
Theo BBC, ông chủ Nhà Trắng đã vượt lên trên số lượng kỷ lục 204 đề cử để giành giải năm nay. Phần thưởng dành cho ông là một huy chương vàng, một tấm bằng chứng nhận và 1,4 triệu USD. Giải thưởng sẽ được trao ở Oslo, NaUy, vào tháng 12.
Nhà khoa học người Mỹ Richard F. Heck cùng hai nhà khoa học người Nhật Bản Ei-ichi Negishi và Akira Suzuki đã trở thành các đồng chủ nhân giải Nobel Hóa học 2010 vì có công tìm ra cách thức liên kết các phân tử cácbon để xây dựng nên các phân tử khối phức tạp hơn.
Ông Richard F. Heck, sinh năm 1931, giáo sư trường Đại học Delaware, thành phố Newark (Delaware, Mỹ). Hai nhà khoa học Nhật là ông Ei-ichi Negishi, sinh năm 1935, giảng dạy tại Đại học Purdue, thành phố West Lafayette (Indiana, Mỹ) và ông Akira Suzuki, sinh năm 1935, công tác tại Đại học Hokkaido, tỉnh Sapporo (Nhật Bản).
Hóa học cácbon là cơ sở của sự sống. Các nhà khoa học đã sử dụng khả năng của cácbon để tạo nên bộ khung bền vững của các phân tử chức năng, từ đó tạo ra được những dược phẩm mới hoặc những vật liệu bền chắc như chất dẻo.
Tuy nhiên, việc gắn kết các phân tử cácbon lại với nhau để tạo nên những hợp chất phức tạp hơn, vốn không hề đơn giản. Các phương pháp trước đây chỉ áp dụng được khi điều chế các phân tử đơn giản.
Bằng cách sử dụng chất xúc tác palladium, 3 nhà khoa học trên đã liên kết chéo được các phân tử cácbon theo cặp, giải quyết được những khó khăn mà những phương pháp trước vấp phải. Nhờ sự phát hiện này, người ta đã tạo ra được những hợp chất ứng dụng cho nhiều lĩnh vực.
Viện hàn lâm khoa học hoàng gia Thụy Điển đánh giá, công trình nghiên cứu của 3 nhà khoa học trên có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc tạo ra các hợp chất ứng dụng trong điều trị ung thư, bào chế dược phẩm, công nghệ điện tử và nông nghiệp.
Ba chủ nhân giải Nobel Hóa học 2010 sẽ cùng chia sẻ phần thưởng trị giá 10 triệu Krona (khoảng 1,4 triệu USD).
Năm ngoái, giải Nobel Hóa học cũng được trao cho 3 nhà khoa học gồm Venkatraman Ramakrishnan, Thomas A. Steitz và Ada E. Yonath, vì công lao chứng minh ribosome trông như thế nào và đảm đương vai trò ra sao ở cấp độ nguyên tử. Cả ba người đều sử dụng một phương pháp gọi là tinh thể học tia X để lập bản đồ vị trí cho một trong hàng trăm nghìn nguyên tử cấu thành nên ribosome.
Mùa giải Nobel 2010 bắt đầu từ hôm 4/10 với giải Nobel Y học được trao cho “cha đẻ” phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm. Hôm qua (5/10), giải Nobel Vật lý được công bố thuộc về hai nhà khoa học gốc Nga.
- Vật Lý
Thu gọn nội dung
Hai nhà khoa học gốc Nga là Andre Geim và Konstantin Novoselov hiện đang nghiên cứu tại đại học Manchester (Anh) đã cùng đoạt giải Nobel Vật lý 2010.
Họ được vinh danh vì những thí nghiệm tiên phong mang tính đột phá liên quan tới vật liệu graphene 2 chiều.
Viện Hàn lâm khoa học Thụy Điển gọi graphene là "hàng rào mắt cáo nguyên tử hoàn hảo".
Andre Geim
Geim, 51 tuổi, sinh ở Sochi và Novoselov, 36 tuổi, sinh ở Nizhny Tagil. Graphene được đánh giá là một chất liệu "mỏng" nhất hiện nay.
Mạng thông tin khoa học và công nghệ Việt Nam cho biết: "Graphene được hình dung như là một ống nano (nanotube) dàn mỏng, do cùng một nguyên liệu chính là các phân tử carbon, chiều dày của lớp phân tử này có thể là 1 nguyên tử (one-atom-thickness sheet). Dưới kính hiển vi điện tử, lớp phân tử carbon này có hình dáng của một màng lưới."
Konstantin S. Novoselov
"Nó có nhiều đặc tính của ống nano, nhưng dễ chế tạo và dễ thay đổi hơn; vì thế nó có thể được sử dụng nhiều hơn trong việc chế tạo các vật dụng cần các chất liệu tinh vi, dẻo, dễ uốn nắn. Các nhà vật lý đã bắt đầu sử dụng graphene trong phòng thí nghiệm để chế tạo chất dẫn và để thử nghiệm các hiện tượng lượng tử."
Giải Nobel có trị giá giải thưởng là 1,5 triệu USD, 1 giấy chứng nhận và 1 huy chương.
"Tôi khỏe, ngủ ngon. Tôi không hy vọng đoạt giải Nobel năm nay", Tiến sĩ Geim nói khi biết ông đoạt giải. Ông cho biết kế hoạch làm việc của ông trong 1 ngày sẽ không thay đổi. Ông vẫn tiếp tục đi làm và theo đuổi các nghiên cứu của mình.
- Kinh Tế
Thu gọn nội dung
Nobel Kinh tế 2010 thuộc về hai người Mỹ và một người Cyprys “vì đã phát triển những học thuyết giải thích các chính sách kinh tế đã tác động tới tình trạng thất nghiệp như thế nào".
Peter A. Diamond
Dale T. Mortensen
Christopher A. Pissarides
Trong đó, hai nhà kinh tế học người Mỹ là Peter A. Diamond, sinh năm 1940, hiện công tác tại Viện công nghệ Massachusetts và Dale T. Mortensen, sinh năm 1939, công tác tại Đại học Northwestern, Illinois, Mỹ. Nhà kinh tế thứ 3 là Christopher A. Pissarides, sinh năm 1948, tại Nicosia, Cyprys, hiện công tác tại trường Kinh tế và Khoa học chính trị London, Anh quốc.
Theo Hội đồng trao giải, với mô hình “search friction”, các nhà kinh tế trên đã giúp nhân loại hiểu rõ về những cách, mà trong đó việc làm, lương bổng bị tác động bởi các chính sách kinh tế. Hay nói một cách khác, từ mô hình này, người ta có thể hiểu được các chính sách kinh tế ảnh hưởng như thế nào tới tình trạng mất việc làm.
Năm ngoái, Nobel Kinh tế 2009 thuộc về hai nhà kinh tế học người Mỹ: bà Elinor Ostrom và ông Oliver Williamson, vì các nghiên cứu của họ về quản lý kinh tế. Đây là lần đầu tiên một phụ nữ được nhận giải Nobel Kinh tế kể từ khi giải này lần đầu được trao tặng năm 1969.
Cả hai chủ nhân Nobel Kinh tế 2009 đều là đại diện tiêu biểu cho khoa học nghiên cứu liên ngành và sử dụng kết quả nghiên cứu cũng như ý tưởng từ các ngành khoa học xã hội khác cho công tác nghiên cứu của họ trong khoa học kinh tế.
Với việc công bố giải Nobel Kinh tế 2010, mùa giải Nobel năm nay đã chính thức khép lại. Nobel 2010 có nhiều bất ngờ. Nobel Y học thuộc về “cha đẻ” của phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm, giáo sư người Anh Robert Geoffrey Edwards.
Nobel Vật lý được trao cho hai nhà khoa học gốc Nga đang công tác tại đại học Manchester (Anh), Andre Geim và Konstantin Novoselov. Nobel Hóa học thuộc về các nhà khoa học Mỹ, Nhật Bản gồm Richard F. Heck, Ei-ichi Negishi và Akira Suzuki.
Nobel Văn chương được trao cho cựu ứng viên Tổng thống Peru, Mario Vargas Llosa, một “cây đại thụ” trong làng văn học châu Mỹ Latin. Riêng giải Nobel Hòa bình, một lần nữa lại gây sóng gió, khi được trao cho Lưu Hiểu Ba, một người Trung Quốc đang thụ án 11 năm tù vì tội “lật đổ chính quyền”.
Như vậy, đây là năm đầu tiên, người Mỹ không chiếm số lượng áp đảo trong toàn bộ các giải thưởng Nobel như thường thấy.
Kinh tế là giải thưởng duy nhất trong 6 giải Nobel không được tạo ra theo di chúc của nhà bác học Thụy Điển Alfred Nobel năm 1896. Mãi đến năm 1968, giải thưởng này mới được thành lập nhân dịp kỷ niệm 300 năm Ngân hàng Trung ương Thụy Sĩ. Đến năm 1969, giải Nobel mới lần đầu tiên được trao tặng.
Giải thưởng Nobel Kinh tế ra đời từ năm 1969 vốn được xem là đất dụng võ dành riêng cho các nhà nghiên cứu Mỹ, vì từ đó đến nay, 45 kinh tế gia trên tổng số 64 chủ nhân giải thưởng này đều là các nhà nghiên cứu của Mỹ.
Năm 2009, có tới 11 người Mỹ trong số 13 người đoạt giải Nobel ở cả 6 giải. Năm ngoái cũng có một kỷ lục mới được tạo ra: Có tới 5 phụ nữ trong số những người đoạt giải.
- Y Học
Thu gọn nội dung
Cha đẻ của kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) Robert Edwards (người Anh) đã nhận giải Nobel Y học 2010 do Ủy ban Nobel trao tặng vào ngày 4-10 tại Thụy Điển.
Phần thưởng này lẽ ra được trao cho hai người là bác sĩ Robert Edwards và bác sĩ Patrick Steptoe, nhưng ông Steptoe đã qua đời năm 1988. Trước đó năm 2001, công trình của hai người nhận được giải thưởng danh giá về nghiên cứu y khoa Albert Lasker.
Mặc dù kỹ thuật thụ tinh ống nghiệm manh nha từ thế kỷ 19 nhưng đến năm 1955, kỹ thuật này mới được giáo sư người Anh Robert Edwards quyết tâm nghiên cứu. Ông phát hiện ra trứng người chỉ trưởng thành sau ít nhất 24 giờ để tìm cách giúp trứng thụ tinh trong ống nghiệm.
Năm 1968, ông Edwards đề nghị bác sĩ Patrick Steptoe, người có công trình ấn tượng liên quan tới kỹ thuật nội soi ổ bụng, hợp tác. Theo đó, bác sĩ Steptoe sẽ chọc hút trứng bằng kỹ thuật nội soi, còn giáo sư Edwards phụ trách việc thụ tinh cho trứng.
Bất chấp áp lực và sự công kích nặng của báo chí, dư luận, tôn giáo và nhiều nhà khoa học nổi tiếng thời đó, cả hai đã thực hiện 102 lần thụ tinh cho trứng và cấy vào cơ thể người nhưng đều thất bại. Có hai lần, người được cấy trứng mang thai nhưng sau đó một trường hợp phải bỏ thai vì thai nằm ngoài tử cung và một trường hợp bị sảy thai.
Năm 1977, hai bác sĩ gặp cặp vợ chồng hiếm muộn Lesley và John Brown do ống dẫn trứng của bà Lesley bị tắc. Ngày 10-11-1977, hoạt động chọc hút trứng bà Lesley được tiến hành. Tiếp theo đó là thụ tinh trong ống nghiệm, cấy trứng vào tử cung và chờ đợi trong khi cùng lúc phải chạy trốn báo chí. Ngày 25-7-1978, Louise Brown, đứa bé được thụ tinh ống nghiệm đầu tiên trên thế giới chào đời tại một bệnh viện nhỏ ở miền Bắc nước Anh. Louise Brown ra đời bằng phương pháp đẻ mổ, nặng 2,61kg.
Sau đó vào tháng 6-1980, đứa trẻ thụ tinh trong ống nghiệm đầu tiên của Úc ra đời. Năm 1981, đứa trẻ thụ tinh trong ống nghiệm đầu tiên của Mỹ ra đời. Thành công của ông Edwards và ông Steptoe được đánh giá là một trong những tiến bộ y học lớn nhất trong thế kỷ 20, mang lại hy vọng cho hàng triệu gia đình hiếm muộn. Đến nay, thế giới có khoảng 4 triệu trẻ em ra đời bằng phương pháp trên.
“Đóng góp của hai ông giúp điều trị chứng vô sinh, một đóng góp y tế chữa trị cho rất nhiều người, khoảng hơn 10% cặp đôi trên thế giới”, Ủy ban Nobel cho biết.
Theo Ủy ban Nobel, phần thưởng dành cho ông trị giá 1,5 triệu đô la Mỹ.
- Văn Học
Thu gọn nội dung
Giải Nobel Văn Chương năm 2010 thật bất ngờ được trao cho tiểu thuyết gia, ký giả kiêm chính trị gia Mario Vargas Llosa, một người cũng nổi tiếng không kém trong sự nghiệp chính trị.
Trước khi kết quả giải Nobel Văn Chương năm nay được loan báo, nhà văn Mario Vargas Llosa không phải là một ứng viên được chú ý nhiều, khi những dự đoán đều đổ dồn về những cây bút của Nam Triều Tiên, Kenya và Hoa Kỳ. Và ủy ban chấm giải Nobel cũng không vì thế mà bị sứt mẻ uy tín chút nào khi chọn những nhà văn là chính trị gia.
Viện Hàn Lâm Thụy Điển đã vinh danh nhà văn 74 tuổi về điều được gọi là “sự phác họa của ông về cơ cấu quyền lực và những hình ảnh sắt thép của sự đối kháng của những cá nhân, nổi dậy và thua bại”.
Những tác phẩm đầu tiên gây chấn động của ông bắt đầu xuất hiện vào thập niên 1960. The Time of Hero, tiểu thuyết được coi như một phần tự truyện xuất bản năm 1963, lấy bối cảnh giữa những sinh viên sỹ quan tại một trường võ bị ở Lima.
Ông đã viết cuốn Conversation in the Cathedral khi vừa qua sinh nhật 30 tuổi, một thành quả ngoại hạng trong sự nghiệp văn chương của ông, trong đó vai chính theo dõi sự can dự của người cha trong vụ giết một tay băng đảng khét tiếng của Peru, và trong tiến trình theo dõi đó nhân vật chính đã biết được chính quyền độc tài của quốc gia này bằng cách nào mà họ duy trì được quyền lực.
Là một cây bút đầy sức sáng tác phong phú và hăng hái khai phá nhiều thể loại, các tiểu thuyết của Vargas Llosa bao gồm từ các tác phẩm về lịch sử, những chuyện chính trị giật gân, cho đến cả hài hước lẫn những câu chuyện giết người bí ẩn.
Ngay sau khi vừa loan báo giải văn chương, ông Peter Englund, bí thư Hàn Lâm Viện Thụy Điển, đã ca ngợi quyền năng và thứ bậc của tiểu thuyết gia Vargas Llosa trên văn đàn. Ông nói:
“Ông là một người kể chuyện, nhưng kể chuyện tài tình. Những sáng tác của ông có một kết cấu rất phức tạp, nhiều tình tiết với những chuyển đổi trong phối cảnh và thời gian. Có nhiều đối thoại, nhưng những lời đối thoại xen giữa, tròng chéo trên nhiều bình diện thời gian khác nhau. Ông là một nhà văn rất đa dạng, sáng tác không chỉ những tác phẩm văn chương vĩ đại về châu Mỹ Latin và những vấn nạn của nó, mà trên thực tế còn viết về mọi thể loại.”
Giống như người trước đây từng là bạn của ông và hiện cùng là khôi nguyên giải Nobel, ông Gabriel Garcia Marquez, một người mà theo tin cho biết, đã bị ông đánh vào năm 1976 vì những lý do gì mà cả hai cùng giữ kín không cho ai biết.
Ông Vargas Llosa là một chính trị gia hăng hái tích cực hoạt động. Lúc đầu ông là một ủng hộ viên cho cuộc cách mạng Cuba do Fidel Castro lãnh đạo, nhưng sau đã thất vọng với chủ nghĩa cộng sản và năm 1990 ra tranh cử tổng thống trong tư cách chủ tịch liên minh trung hữu Frente Democratico.
Giải thưởng Nobel sẽ được chính thức trao tặng trong một nghi lễ tổ chức tại Stokholm, Thụy Điển và Oslo, Na Uy vào ngày 10 tháng 12, đúng ngày ông Alfred Nobel từ trần năm 1896, người đã sáng lập ra giải thưởng này. Danh tính người được chọn cho giải Nobel hòa bình năm nay sẽ được công bố vào thứ Sáu tại Oslo.
- Hòa Bình
Thu gọn nội dung
Ủy ban Nobel Hòa bình công bố tên người được trao giải, ông Lưu Hiểu Ba, một người đang ngồi tù ở Trung Quốc. Thông cáo của Ủy ban Nobel Hòa bình Na Uy đưa ra hôm 8/10 /2010 cho biết, họ trao giải cho Lưu “vì cuộc đấu tranh trường kỳ bất bạo động nhằm đòi nhân quyền ở Trung Quốc”.
Lưu hiện đang thụ án 11 năm tù vì tội “kích động lật đổ chính phủ” Trung Quốc, CNN cho biết.
Hồi tháng hai, một phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao Trung Quốc nói rằng sẽ là “hoàn toàn sai lầm” nếu “một người như thế” được giải Nobel hòa bình, tờ The Wall Street Journal khi đó cho hay.
Mới đây, trong một cuộc phỏng vấn, phát ngôn viên ngoại giao Trung Quốc Khương Du cũng bình luận rằng việc chọn ông Lưu là đi ngược lại mục tiêu của giải thưởng, theo AP.
Ít giờ trước khi công bố, Chủ tịch Ủy ban Nobel Na Uy Thorbjoern Jagland đã tiết lộ người nhận giải năm nay sẽ là một sự lựa chọn tranh cãi. “Bạn sẽ hiểu ngay khi bạn nghe cái tên năm nay được xướng lên”, Jagland nói.
Ủy ban Nobel Hòa bình năm nay xem xét con số kỷ lục tên những người được đề cử, 237 người.
Giải Nobel hòa bình gồm một bằng chứng nhận và khoản tiền tương đương 1,5 triệu USD, sẽ được trao tại Oslo, Na Uy.
Người được trao giải Nobel Hòa bình năm ngoái là Tổng thống Mỹ Barack Obama, chỉ 9 tháng sau khi ông nhậm chức. Điều này làm dấy lên những cuộc tranh luận gay gắt. Phe ủng hộ cho rằng giải thưởng cho Obama là xứng đáng và sẽ cổ vũ ông trên con đường hành động vì một thế giới phi hạt nhân. Phe phản đối lập luận rằng giải Nobel là để dành cho những người đạt được thành tựu cụ thể sau một quá trình. Ngoài ra, việc ông là tổng thống của một quốc gia đang tiến hành hai cuộc chiến tranh cũng khiến những người hoài nghi đánh giá là giải chưa xứng đáng.
Các giải Nobel hòa bình trong 5 năm gần đây phản ánh các khía cạnh khác nhau của định nghĩa “hòa bình”.
Năm 2008, Martti Ahtisaari, cựu tổng thống Phần Lan, đặc sứ của Liên Hợp Quốc được nhận giải vì vai trò làm trung gian hòa giải cho các cuộc xung đột Namibia, Aceh, Kosovo và Iraq.
Năm 2007, cựu phó tổng thống Mỹ Al Gore được vinh danh cho các thành tích trong việc chống lại biến đổi khí hậu toàn cầu.
Năm 2006, Muhammad Yunus, người Bangladesh nhận giải Nobel Hòa bình vì “những nỗ lực phát triển kinh tế xã hội cho người nghèo”. Ông đã lập ngân hàng Grameen giúp người nghèo các khoản vay 50-100 USD mà không cần thế chấp. Ông cũng nổi tiếng với câu nói “sẽ đem đói nghèo vào viện bảo tàng”.
Năm 2005, giải thường này được trao cho Cơ quan năng lượng nguyên tử Quốc tế IAEA và người đứng đầu cơ quan này, Giám đốc Mohamed El Baradei vì đã góp phần “ngặn chặn việc đưa các năng lượng nguyên tử hạt nhân vào sử dụng trong mục đích chiến tranh, đảm bảo các năng lượng nguyên tử chỉ được sử dụng với sứ mạng hòa bình và có độ an toàn cao”.