Maria Montessori (1870-1952) NHỮNG CON ĐƯỜNG GIEO CHỮ
Dịch giả: Nguyễn Bích Loan
Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Tờ nhật báo Brooklyn Eagle đã từng viết về Maria Montessori như sau: “Bà là người đã cải cách hệ thống giáo dục trên toàn thế giới… là người phụ nữ dạy cho những đứa trẻ chậm phát triển trí tuệ biết đọc biết viết – phương pháp giáo dục của Montessori đã thành công đến nỗi nó được áp dụng ở khắp các nước trên thế giới, từ nơi xa xôi nhất ở phía đông bán cầu như Hàn Quốc, cho đến nơi xa xôi nhất ở phía tây là Honolulu, và cả nơi xa xôi nhất ở phía nam như Argentina..”. Đọc những lời khen ngợi trên chắc hẳn mỗi chúng ta đều tự hỏi phải chăng chúng ta cũng là những người trưởng thành nhờ những phương pháp giáo dục do Maria Montessori đã đúc kết nên. Vậy chúng ta biết gì về người phụ nữ này?
Maria Montessori sinh ra ở Chiaravalle, Italia vào năm 1870. Cha bà là một quân nhân, còn mẹ bà là người ham đọc sách. Vào cái thời khi mà một người chỉ cần viết được tên mình cũng đủ tự hào thì mẹ bà quả là người hiếm có. Chính mẹ bà là người đã có ảnh hưởng lớn đến niềm say mê tri thức của bà sau này. Hồi nhỏ Maria được coi là một cô bé tự tin, lạc quan và quan tâm đến sự thay đổi. Hàng ngày Maria phải hoàn thành một số lượng đan len nhất định. Lúc rỗi Maria thích dắt đứa bé gù của nhà hàng xóm đi chơi. Ở trường, Maria tiếp thu kiến thức rất nhanh, và luôn dẫn đầu trong các kì thi. Trong các trò chơi Maria cũng luôn là người số một. Bố mẹ của Maria thường bất đồng với nhau trong cách giáo dục cô con gái thông minh của họ.
Năm 1886 sau khi tốt nghiệp trường kỹ thuật với số điểm 137/150 Maria vào học tại viện Tecnico Leonardo da Vinci. Tại đó bà học ngôn ngữ hiện đại và khoa học tự nhiên. Mặc dầu toán học là ngành bà yêu thích nhất, nhưng khi sắp sửa tốt nghiệp bà lại quyết định học y. Bố của bà kịch liệt phản đối quyết định đó, còn trường đại học Rome thì không cho phép nữ giới học y khoa. Bà tìm đường vào trường đại học bằng cách thi vào khoa toán và vật lý, và khoa học tự nhiên. Bà miệt mài học tập để dành kết quả thuyết phục khiến nhà trường chấp nhận cho bà theo học y khoa. Năm 1896 bà bảo vệ luận án tốt nghiệp trước một hội đồng gồm mười người đàn ông và tất cả mười người đều bị luận án của bà thuyết phục. Maria trở thành nữ bác sĩ đầu tiên của Italia.
Maria làm bác sĩ điều trị rồi làm bác sĩ phụ mổ. Ở ví trí nào bà cũng hết lòng vì người bệnh. Bà là người được lựa chọn đại diện cho Italia tham gia hai diễn đàn về phụ nữ tại Berlin và London vào các năm 1896 và 1890. Bà cũng dành nhiều thời gian cho các công trình nghiên cứu ở đại học Rome trước khi bà tham gia đội ngũ nhân viên tình nguyện của đại học này.
Chính những hoạt động tình nguyện đã đưa bà tới một bước ngoặt đáng ngạc nhiên trong đời. Trong một lần đến thắm một viện tâm thần, bà gặp những trẻ em kém phát triển trí tuệ không thể đến trường. Bà thấy các em thật tội nghiệp và muốn làm gì đó giúp các em. Bà bắt đầu nghiên cứu về trí não. Năm 1906 bà bỏ công việc là giảng viên môn nhân loại học tại đại học Rome để lập một trung tâm dạy trẻ. Bà muốn tạo cho các em nhỏ một môi trường để các em có thể thể hiện những khả năng của mình. Làm việc với các em, bà đã phát hiện ra những điều thú vị ở trẻ, thúc đẩy bà theo đuổi việc cải cách giáo dục.
Maria tin rằng trẻ em thường không bộc lộ hết khả năng của chúng và vì thế người lớn không đánh giá đúng khả năng của trẻ. Bà cho rằng điều quan trọng là chúng ta phải hiểu trẻ; hiểu chiều sâu tâm hồn, khả năng tiềm tàng, và quy luật phát triển đầy bí ẩn của trẻ. Qua quan sát thực tế, Maria nhận thấy trẻ dễ dàng tiếp thu hiểu biết từ môi trường xung quanh như thế nào. Bà khám phá ra rằng, khi có được tự do ở một mức độ nào đó trong một môi trường có chuẩn bị với những hoạt động đa dạng, trẻ em từ bốn đến sáu tuổi tự giác học đọc và viết, tự chọn các công việc hơn là chỉ chơi, thích trật tự và yên tĩnh, và phát triển đời sống xã hội thực sự qua làm việc cùng nhau. Từ những phát hiện quan trọng đó, bà quyết tâm lập ra phương pháp cải cách giáo dục.
Phương pháp giáo dục của Maria được cho là khoa học và toàn diện. Bà lưu ý đến mọi yếu tố có thể góp phần tạo nên kết quả thành công từ kiến thức về tâm lý, về nhân học của giáo viên, môi trường cảnh quan của lớp học, đến các phương pháp giảng bài, phương pháp giáo dục phát triển các giác quan, cách thưởng phạt, giáo dục thể chất, giáo dục hướng nghiệp v.v… Các khái niệm về giáo dục của Maria được áp dụng rông rãi cho tới ngày nay là: (1) giáo viên phải chú ý đến học sinh hơn là học sinh chú ý đến giáo viên; (2) học sinh tự tiến bộ trong một môi trường cung cấp các phương tiện tiếp thu kiến thức có kiểm soát; (3) các chất liệu giảng dạy gợi trí tưởng tượng là trung tâm của quá trình; (4) học sinh phải có cơ hội tự tiến lên bằng chính bước chân của mình và tự nhận ra những sai lầm của mình.
Maria Montessori chỉ ra rằng muốn có chất lượng bài giảng, người giáo viên phải coi trọng ba yếu tố cơ bản. Thứ nhất, giáo viên phải tính toán kĩ mình sẽ nói những gì; càng giảm thiểu những từ vô nghĩa thì bài học càng trở nên hiệu quả. Thứ hai, giáo viên phải chú trọng đến tính đơn giản dễ hiểu của bài giảng: Phải loại bỏ tất cả những gì không hoàn toàn là chân lý, phải chọn những từ ngữ đơn giản nhất. Thứ ba, bài giảng phải khách quan: Tính cá nhân của giáo viên phải biến mất, điều được giảng dạy là đối tượng duy nhất giáo viên hướng học trò chú ý tới.
Thực tế chứng minh phương pháp giáo dục của Maria đã thành công rực rỡ ở mọi quốc gia trên thế giới. Nhờ có phương pháp của bà mà những trẻ em thiểu năng trí tuệ được coi là không thể học cũng có thể tiếp thu kiến thức và có thể vượt qua những kì thi dành cho trẻ em bình thường. Phương pháp của bà cũng góp phần to lớn giúp các phụ huynh phát hiện và nuôi dưỡng những trẻ có tài năng đặc biệt từ khi các em còn bé. Năm 1912 cuốn sách mô tả phương pháp giáo dục của Maria lần đầu tiên được xuất bản và chỉ trong bốn ngày đã có 5000 bản copy được mua. Năm 1913 bà sang thăm nước Mĩ và với sự giúp đỡ của những nhân vật nổi tiếng tâm huyết với giáo dục như vợ chồng Alexander Graham Bell, Helen Keller, Thomas Edison, bà đã lập Hội giáo dục Montessori ở Washington DC. Năm 1929 bà thành lập Hội giáo dục quốc tế Association Montessori Internationale viết tắt là AMI ở Đan Mạch. Sau đó các trung tâm AMI được mở ở nhiều quốc gia khác như Anh, Đức, Hà Lan… Trong các năm 1949, 1950, 1951, cái tên Maria Montessori nằm trong danh sách đề nghị xét tặng giải Nobel hòa bình.
Xét một cách toàn diện, nền giáo dục của mỗi quốc gia ở một mức độ nào đó đều được hưởng lợi từ phương pháp cải cách của Maria Montessori. Giờ đây khi mà tất cả các nhà hoạch định chính sách đều xác định rõ ràng rằng đầu tư cho giáo dục là sự đầu tư khôn ngoan nhất, khi mà hầu hết các bậc cha mẹ đều ý thức được rằng, tài sản quý giá nhất mà có thể để lại cho con cái là sự giáo dục tốt thì những nhà cải cách giáo dục thành công như Maria Montessori càng được biết ơn và tôn vinh.
Anne Frank (1929- 1945) MỘT MẢNH TRỜI XANH
Dịch giả: Nguyễn Bích Loan
Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Năm 1942, khi quân phát xít Đức chiếm đóng Hà Lan, một cặp vợ chồng trẻ sống ở Amsterdam tên là Meip và Jan Gies đã có một quyết định mạo hiểm: Giấu những người Do Thái trên căn phòng áp mái của nhà họ. Trong số những người Do Thái ấy có gia đình của Otto Frank. Otto Frank là bạn của vợ chồng Gies và là cha của cô bé Anne dễ thương vừa mới bước sang tuổi mười bốn.
Trước sự lùng sục gắt gao của lính Đức, những người Do Thái trốn ở nhà Gies phải sống trong bí mật tuyệt đối để không những bảo đảm mạng sống cho mình mà còn bảo đảm an toàn cho những người đang che chở họ. Hàng ngày trong căn phòng chật hẹp từ tám giờ rưỡi sáng cho tới sáu giờ rưỡi chiều, tám người bọn họ hầu như không đi lại, thậm chí không một cử động mạnh. Hai mươi bốn tiếng trong ngày, bảy ngày trong tuần, họ ở yên trong nơi ẩn trốn với sự kiên nhẫn phi thường. Và trong khi lo sợ, chết chóc bao trùm khắp Amsterdam, bom xuyên qua những bức tường lọt vào căn gác nhắc nhở họ về sự khốc liệt của chiến tranh, cô bé Anne vẫn ngồi viết những dòng nhật ký chan chứa tình cảm trong sáng, niềm hi vọng, và lạc quan.
Anne đã viết ra những cảm tưởng đầu tiên của cô về nơi che giấu họ: “Annex (tên Anne đặt cho căn phòng áp mái) là một nơi lý tưởng mặc dù ở đó ẩm ướt và hơi gồ ghề, nhưng có lẽ ở Amsterdam này không có nơi ẩn nấp nào dễ chịu hơn nơi đây”. Cô yêu cái nơi ẩm thấp và chật hẹp ấy bởi nó che chở cho cô và gia đình khỏi nguy hiểm. Và cô ý thức được sự may mắn của mình: “Tôi cảm thấy mình có lỗi vì được ngủ ở một nơi ấm áp trong khi những người bạn thân nhất của tôi đang ở đâu đó, bị đánh đập, bị đẩy xuống những rãnh nước bẩn trong đêm lạnh giá. Tôi cảm thấy sợ hãi khi nghĩ đến những người bạn ấy giờ đây đang ở trong tay những kẻ độc ác nhất trần đời. Tất cả chỉ vì các bạn ấy là người Do Thái”.
Thứ Hai ngày 8 tháng Mười năm 1942, Anne viết: “ Tôi nghĩ tám người chúng tôi ở tên Annex này giống như một mảnh trời xanh bé xíu bị vây bủa bởi những đám mây đen. Cái vòng tròn ấy cho thấy chúng tôi vẫn được an toàn, nhưng những đám mây đen càng ngày càng xiết lại gần chúng tôi hơn và cái vòng tròn ngăn chúng tôi khỏi nguy hiểm đang ngày càng bị thu hẹp lại. Giờ đây bóng tối và hiểm nguy đe dọa chúng tôi, khiến chúng tôi xô nhau tìm cách trốn thoát trong tuyệt vọng. Chúng tôi nhìn xuống dưới, nơi người ta đang đánh nhau, chúng tôi nhìn lên trên nơi yên tĩnh và đẹp đẽ, và trong khi đó chúng tôi bị bao vây bởi bóng tối mịt mùng như một bức tường không thể xuyên thủng, ngăn không cho chúng tôi tiến lên phía trước. Nó cố đè bẹp chúng tôi nhưng chưa thể. Tôi chỉ có thể khóc và van xin, “Ôi ước gì các vòng mây đen kia lùi xa và mở cho chúng tôi một lối thoát”.
Dù biết rằng mình chỉ có thể ngồi đó chờ đợi, Anne vẫn nghĩ về những điều tốt đẹp và vẫn không từ bỏ hy vọng. Ngày 7 tháng Ba năm 1944 Anne viết: “Tôi nhận ra rằng luôn còn gì đó tốt đẹp trong thiên nhiên, trong ánh mặt trời, trong tự do, trong bản thân bạn, những điều có thể giúp bạn. Hãy nhìn vào những điều đó, bạn sẽ tìm lại được bản thân mình, và tìm thấy Thượng Đế, và bạn sẽ lấy lại được thăng bằng. Bất cứ ai hạnh phúc cũng có thể làm người khác hạnh phúc. Những ai can đảm và giàu đức tin sẽ không bao giờ tàn lụi trọng cảnh khốn cùng”. Và đây là dòng nhật kí được ghi vào ngày 15 tháng Bảy năm 1944: “Tôi vẫn giữ những lí tưởng của mình và quả là một điều ngạc nhiên bởi vì cứ ôm chúng trong lòng như thế thì thật là ngớ ngẩn và hão huyền. Tuy nhiên tôi vẫn cứ giữ chúng, bởi vì cho dù điều gì xảy ra đi chăng nữa, tôi vẫn tin con người thực sự có lòng tốt. Tôi không thể xây hi vọng của mình chỉ bằng sự rối loạn, đau khổ và chết chóc”.
Gia đình Anne và những người bạn trốn ở nhà Gies được 25 tháng thì bị quân phát xít phát hiện. Tất cả họ đều bị dồn đến trại tập trung. Ngày 6 tháng Giêng năm 1945 một ngày trước khi trại tập trung ở Auschwitz được giải phóng, mẹ của Anne đã chết vì đói. Tháng Ba năm đó, chị gái Margot của cô qua đời vì bệnh sốt phát ban ở trại Bergen-Belsen. Một tháng sau, chính căn bệnh đó đã cướp đi mạng sống của Anne. Vài tuần sau trại tập trung được giải phóng và cha của Anne ông Otto Frank là người duy nhất trong gia đình sống sót.
Được tự do, Otto Frank trở lại nơi đã che chở gia đình ông, và người cha vừa trải qua những ngày đau thương nhất của đời mình, đã ngồi ngay tại sàn nhà lạnh lẽo đọc những dòng nhật kí của con gái mình.
Năm 1947, lần đầu tiên cuốn nhật kí của Anne Frank đã được xuất bản và nó đã làm thế giới sửng sốt.
Cuốn nhật ký của Anne Frank đã cho thế giới hiểu rằng sáu triệu người Do Thái dã bị phát xít Đức tàn sát cũng là con người, có cuộc sống và có tính cách. Không có cuốn nhật ký của Anne, thế giới không thể nào hiểu hết được những đau thương của người Do Thái. Không có cuốn nhật ký của Anne, thế giới không thể mường tượng nổi cuộc đấu tranh gìn giữ hi vọng của một tâm hồn yêu đời và can trường trong những ngày đen tối nhất của thế kỷ XX.
Cho đến nay cuốn nhật ký của Anne Frank đã cùng thế giới đi qua hơn nửa thế kỷ, được xuất bản bằng 55 thứ tiếng với số lượng người đọc khó ước tính. Riêng ở Việt Nam, cuốn nhật ký của Anne Frank đã được dịch ra tiếng Việt và được xuất bản ít nhất hai lần. Nhiều cha mẹ đã đọc từ đầu đến cuối cuốn nhật ký cho con họ nghe. Nhiều trường học đã đưa cuốn nhật ký vào chương trình giảng dạy với mong muốn giá trị tinh thần cao đẹp của cuốn nhật ký sẽ được thẩm thấu và truyền nối.
Trong trang đầu tiên của cuốn nhật ký, Ane Frank đã viết: “Tôi mong rằng mình có thể tâm sự với các bạn tất cả những gì tôi có thể tâm sự, với bất cứ ai và mong rằng các bạn sẽ là nguồn an ủi lớn của tôi”.
Nếu Anne có thể sống sót sau những ngày tháng tàn khốc trong tại tập trung của phát xít Đức, hẳn cô đã được thấy cô đã tâm sự với thế giới tất cả những gì cô có thể tâm sự và thấy rằng cả thế giới đã chia sẻ với cô. Và còn hơn thế nữa, thế giới biết ơn và học tập cô.
Mary Harris Jones (1830-1930) HIỆP SĨ CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG
Dịch giả: Nguyễn Bích Loan
Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Mary Harris Jones sinh ra ở thành phố Cork thuộc Ireland. Khi còn nhỏ bà đã chứng kiến cảnh từng đoàn lính Anh diễu hành trên đường phố Ireland và cảnh những người Ireland phản kháng bị bêu đầu trên lưỡi lê. Năm 1835, ít lâu sau khi ông nội của bà bị treo cổ vì tham gia phong trào đòi độc lập cho Ireland, bố của bà buộc phải đưa gia đình rời khỏi quê hương.
Tuổi trẻ của Mary Jones là những cuộc di chuyển xuyên lục địa. Bà ở Toronto, Canada từ khi lên năm cho tới khi bà mười bảy tuổi. Sau đó bà sang Mĩ, dạy học tại một trường tu kín ở Michigan trong sáu tháng rồi đến Chicago làm nghề thợ may. Từ Chicago bà lại đến Memphis và rồi đến Tennessee nơi bà gặp người bạn đời của mình, George E. Jones, một thành viên trung thành của Liên đoàn luyện thép.
Năm Mary ba mươi tuổi, tai họa khủng khiếp ập tới gia đình bà. Chỉ trong vòng một tuần cả chồng và bốn đứa con nhỏ của bà lần lượt qua đời vì dịch sốt vàng. Là một góa phụ không còn trẻ, nghèo túng, lại là người Ireland nhập cư, tình cảnh của bà trên đất Mĩ lúc ấy vô cùng khó khăn. Bà quyết định rời Tennessee để quay trở lại Chicago. Nhưng rủi ro vấn bám theo bà không chịu buông tha. Bà đổ biết bao mồ hôi và công sức gây dựng được cả một tiệm may để rồi trận hỏa hoạn năm 1871 dã thiêu trụi tất cả. Sau sự kiện đó, một sự thay đổi lớn đã đến với cuộc đời bà.
Thời kỳ ấy nước Mỹ đang trải qua một cuộc chuyển đổi từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp. Tại các thành phố lớn nơi công nghiệp hóa diễn ra như vũ bão các nhà máy cũ nhanh chóng mở rộng quy mô trong khi các nhà máy mới đua nhau mọc lên. Những nông dân, những người nhập cư và những người dân thành thị nghèo không có nhiều sự lựa chọn, đành phải chấp nhận những công việc nặng nhọc vất vả, nguy hiểm nhất trong những hầm mỏ, những xưởng luyện thép, những nhà máy sợi,v.v… Họ làm việc quần quật mười hai tiếng một ngày, với mức lương rẻ mạt chỉ vừa đủ giúp họ khỏi chết đói. Tệ hơn, trẻ em cũng bị cuốn vào vòng xoáy của cơn lốc công nghiệp hóa. Chỉ cần nhìn những cỗ máy trong các công xưởng được hạ thấp để vừa tầm với của những lao động còn thò lò mũi cũng có thể hiểu được trong suy nghĩ của các ông chủ, không có khái niệm về quyền được học hành, được vui chơi của trẻ em.
Hầu như ngày nào Mary Jones cũng nhìn thấy những bất công mà người lao động phải chịu đựng. Không thể làm ngơ trước những bất công đó, bà bắt đầu tham gia các cuộc họp của tổ chức Knights of Labor – Hiệp sĩ của người lao động. Những năm đầu bà làm việc cho Hiệp hội công nhân mỏ. Bà sống cùng với các công nhân trong các mái lều tạm bợ cạnh các hầm mỏ. Bà không chỉ giúp họ đấu tranh đòi tăng lương, giảm giờ làm, sát cánh bên họ trong cuộc đấu tranh chống nô lệ hóa công nhân mà còn khuyến khích họ trau dồi kiến thức văn hóa. Ngoài những cuộc họp bàn phương pháp đấu tranh đòi công bằng, bà tổ chức các buổi nói chuyện mang tính giáo dục. Bà thường nói với các công nhân: “Các anh, hãy nghe tôi. Thay vì đi chơi bài, các anh hãy ngồi đọc sách. Hãy ngồi dưới bóng cây nghe những con chim hót và học lấy bài học từ loài vật biết lao động mà không bóc lột, không lừa lọc nhau, và không bắt những con chim non phải đào giun khi chúng còn quá nhỏ. Hãy nghe chúng vừa làm việc vừa hót vui vẻ mà xem”. Cả lời nói lẫn việc làm của Mary đều giúp mang đến cuộc sống tốt đẹp hơn cho người công nhân, bởi vậy họ thường gọi bà bằng cái tên yêu quý “Mẹ Jones”.
Mẹ Jones không phải là người mẹ của riêng công nhân mỏ. Tham gia thành lập tổ chức Công nhân công nghiệp thế giới viết tắt là IWW, bà có mặt ở bất cứ nơi nào giới cần lao cần sự giúp sức của bà. Bà tham gia các cuộc đình công của các công nhân rửa chai lọ tại các nhà máy sản xuất nước giải khát ở Milwaukee, các công nhân dệt may ở Chicago, các công nhân luyện thép ở Pittsburgh, các công nhân của mỏ đồng Calumet, các công nhân ở các mỏ than thuộc miền tây Virginia. Bà đặc biệt quan tâm đến tình hình lao động trẻ em. Sau khi một cuộc đình công lớn của công nhân đường sắt kết thúc, bà quyết định tìm hiểu thực trạng lạm dụng lao động trẻ em tại các nhà máy sợi ở vùng Cottondale. Bà phải bịa ra rằng bà có sáu đứa con, một chủ nhà máy mới đồng ý nhận bà vào làm việc. Sự thật về lao động trẻ em tại nhà máy đó quá sức hình dung của bà. Bà tận mắt chứng kiến những đứa trẻ từ mười hai đến mười bốn tuổi chân không đi giầy, đi lom khom thành hàng dài tra thoi vào những chiếc máy dệt, chui vào những gầm máy lau chùi và tra dầu mỡ cho các bánh răng và ổ đĩa. Thám chí có đứa bé mới chỉ hơn sáu tuổi đã phải lao động trong xưởng dệt tám tiếng một ngày để nhận mười xu cho mỗi ca làm việc. Những đứa trẻ gục xuống bên những cỗ máy vì ngủ gật, vì đói, vì bệnh, bị quản đốc la mắng. Những đứa trẻ bốn hoặc năm tuổi được đưa đến những nhà máy để “phụ việc” cho những đứa anh đứa chị mười hoặc mười một tuổi của chúng. Các chủ xưởng biết rằng những đứa trẻ còn lẫm chẫm ấy có thể bắt chước nhau làm việc có kỉ luật như người lớn, nhưng họ không biết rằng họ nên trả tiền cho chúng hoặc thêm tiền công cho anh chị của chúng.
Lạm dụng lao động trẻ em là một tội ác và tình trạng đó phải chấm dứt!Mary quả quyết và bắt đầu tổ chức những cuộc đấu tranh. Năm 1903 bà dẫn một đoàn biểu tình gồm toàn trẻ em đang làm việc tại các nhà máy đi bộ từ Kensington, Pennsylvania tới dinh thự mùa hè của tổng thống Theodore Roosevelt ở Long Island. Hình ảnh một người phụ nữ luống tuổi cùng vài chục đứa trẻ đi hết thành phố này đến thành phố khác, giơ cao những tấm biển: “chúng cháu muốn chơi!”; “Chúng cháu muốn đến trường!” đã thu hút được sự chú ý của đông đảo nhân dân. Và nỗ lực đấu tranh không mệt mỏi của Mary Jones đã góp phần tạo sức ép khiến chính quyền bang Pennsylvania buộc phải thông qua một đạo luật nâng tuổi lao động của trẻ em lên cao hơn. Mười bốn tuổi vẫn còn quá sớm để bắt đầu cuộc đời của một người lao động, nhưng dù sao trước khi đến tuổi ấy, trẻ em vẫn còn cơ hội được vui chơi, được đến trường.
Tháng Giêng năm 1913, khi đã tám mươi ba tuổi, Mary lãnh đạo một cuộc biểu tình phản đối điều kiện làm việc của các công nhân mỏ ở tây Virginia và bà bị cảnh sát bắt. Bà bị đưa ra tòa và bị buộc tội âm mưu giết người với mức án hai mươi năm tù. Vụ việc này đã gây ra một làn sóng bất bình trong giới lao động vùng mỏ, khiến chính quyền buộc phải cho điều tra điều kiện làm việc ở các khu khai thác than. Ngày 5 tháng Tám năm 1913 thủ hiến mới đắc cử của bang Virginia lên nhậm chức- Mary được thả tự do. Ngay cuối năm đó bà đến Colorado tham gia cuộc biểu tình của công nhân mỏ. Mỗi lần bà xuất hiện chủ mỏ lại cho người đuổi bà, nhưng lần nào buộc phải đi, bà cũng tìm cách quay lại. Bà bị bắt giam hai lần, bị đe dọa đủ kiểu nhưng không lần nào bà chịu từ bỏ các cuộc đấu tranh còn đang dang dở. Gần chín mươi tuổi Mary vẫn tham gia các cuộc biểu tình của công nhân luyện thép ở Pittsburgh. “Mẹ Jones kìa” người ta thường bảo nhau như thế khi nhận ra mái đầu bạc trắng của bà giữa biển người lao động.
Những người viết tiểu sử cho rằng trong cuộc đời của Mary Jones mất và được nhiều như nhau. Các được lớn nhất trong đời của người phụ nữ ấy chính là vị trí quan trọng mà bà giành được trong trái tim của những người lao động Mĩ. Ý chí và ngọn lửa nhiệt tình tranh đấu vì quyền lợi của giới cần lao của bà đã góp phần cải thiện cả ý thức và quan hệ lao động trong môi trường công nghiệp lẫn sự công bằng xã hội. Chính vì vậy mà khi qua đời ở tuổi một trăm, Mary Jones đã được an táng tại nghĩa trang của những người thợ mỏ ở núi Olive, Illinois.
Anna Pavlova (1881 - 1931) THIÊN NGA BẤT TỬ
Dịch giả: Nguyễn Bích Loan
Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Ba lê ra đời ở nước Pháp, nhưng ở bất cứ đâu trên thế giới hễ nói đến ba lê là người ta nghĩ ngay đến nước Nga bởi nước này đã sản sinh ra một nữ diễn viên múa ba lê thiên tài, người đã dâng tặng cho thế giới những gì tinh túy nhất, đẹp đẽ nhất của môn nghệ thuật độc đáo này. Người đó chính là Anna Pavlova.
Anna Pavlova sinh ngày 31 tháng Một năm 1881 tại Saint Petersburg trong một gia đình nông dân nghèo. Bà mất cha từ khi mới hai tuổi. Năm Anna Pavlova tám tuổi bà được mẹ dẫn đi xem vở bale Người đẹp ngủ trong rừng (The sleeping Beauty) và ngay lập tức Anna bị cuốn hút trước cái đẹp của nghệ thuật ba lê. Anna đòi đi học ba lê nhưng vì chưa đủ tuổi nên bị trường dạy ba lê từ chối. Năm mười tuổi, Anna đạt được nguyện vọng theo học ba lê và sớm bộc lộ năng khiếu đặc biệt của mình trong cảm thụ nghệ thuật ba lê cũng như thực hành biểu diễn.
Năm mười sáu tuổi, Anna Pavlova tốt nghiệp trường múa ba lê và bắt đầu biểu diễn như một vũ nữ ba lê chuyên nghiệp tại nhà biểu diễn ba lê Mariinsky.
Trong những năm 90 của thế kỷ XIX, Anna Pavlova đã làm thay đổi hình mẫu nữ diễn viên ba lê lý tưởng. Vào thời bấy giờ người ta thích những diễn viên ba lê của Mariinsky phải là những người có kĩ thuật mạnh mẽ và như thế có nghĩa là phải có cơ thể khỏe khoắn, rắn chắc, trong khi vóc người của Anna lại mảnh dẻ và yểu điệu. Anna Pavlova đã chứng tỏ với khán giả rằng mình không chỉ thành công trong những vai diễn nhẹ nhàng lãng mạn, mà còn cả trong những vai diễn mạnh mẽ đầy cá tính. Không những thế, bà còn tạo ra một thay đổi tưởng chừng là nhỏ nhưng lại góp phần cải thiện đáng kể điều kiện biểu diễn của nữ diễn viên ba lê. Mỗi lần biểu diễn trên sân khấu là mỗi lần Anna Pavlova khổ sở vì đau chân, vì thế bà đã sửa giày của mình bằng cách đệm thêm một miếng da cứng vào đế giày đồng thời đệm phẳng cả bên trong lòng giày. Kiểu giầy đó đã giúp giải phóng cảm giác đau đớn từ bàn chân và giúp bà thuận lợi hơn trong xử lý các động tác để phát huy sự sáng tạo trong biểu diễn.
Anna Pavlova ghi dấu ấn không bao giờ phai mờ trong lòng của bà như vai Aspicia trong vở Con gái của Pharaoh (The Pharaoh’s Daughter), vai Nikiya trong vở Vũ nữ Ấn Độ (La Bayadère), v.v… Nhưng vai diễn thể hiện tài năng vô song của Anna Pavlova chính là vai con thiên nga trong vở Cái chết của con thiên nga (The Dying Swan) do Michel Fokine dàn dựng, dựa trên bài thơ cùng tên của thi sĩ Tennyson. Vở kịch nói về tính mong manh của sự sống. Trong vai một con thiên nga bị thương vật vã đi tới cái chết, Anna Pavlova đã chuyển tải đến khán giả ý đồ của vở kịch một cách hết sức thành công, bằng những động tác biểu diễn vô cùng mãnh liệt, sinh động và gợi cảm của bà.
Anna Pavlova bắt đầu biểu diễn trên sân khấu ba lê thế giới vào năm 1907. Sau khi thành lập đoàn ba lê của riêng mình, Anna Pavlova càng được thế giới biết đến nhiều hơn với các buổi biểu diễn ở Pháp, Anh, Ấn Độ, Nhật Bản và các nước thuộc châu Mĩ. Vào những năm đầu thế kỉ XX, những người yêu ba lê trên thế giới bị Anna Pavlova hút hồn bởi nghệ thuật biểu diễn vô cùng khéo léo, sự uyển chuyển duyên dáng cùng khả năng bộc lộ cảm xúc cực kì tinh tế. Anna Pavlova biểu diễn ở nhà hát nào là nhà hát ấy chật kín khán giả. Người ta đến để xem Anna Pavlova tôn vinh nghệ thuật ba lê bằng tài năng đáng kinh ngạc của bà.
Anna Pavlova đã cống hiến cả tuổi trẻ của mình cho sân khấu ba lê với những buổi biểu diễn liên miên đáp ứng lòng mong mỏi của công chúng. Trước sinh nhật lần thứ 50 của bà không lâu, bà thực hiện một chuyến biểu diễn ở Hague, Hà Lan. Trong khi đi tới đó, đoàn tàu chở Anna Pavlova phải dừng lại giữa chừng vì một vụ tai nạn. Muốn biết có chuyện gì đã xảy ra, Anna Pavlova với một chiếc áo khoác nhẹ trên người đã đi trong tuyết đến chỗ xảy ra tai nạn. Bà bị viêm phổi, Bệnh viêm phổi của bà diễn biến rất xấu. Vào ngày 23 tháng Một năm 1931 Anna Pavlova đã qua đời. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, bà yêu cầu người ta mặc cho bà bộ váy bà vẫn mặc khi biểu diễn vở Cái chết của con thiên nga. Vào đêm diễn ra buổi biểu diễn tiếp theo của bà trên sân khấu ở Hague, người ta để duy nhất một chiếc đèn chiếu tỏa ánh sáng xuống một điểm dành cho diễn viên ba lê để tưởng nhớ Anna Pavlova. Vòng tròn ánh sáng trống không như muốn nói lên rằng: Sân khấu ba lê thế giới đã chịu một mất mát lớn lao như thế nào khi phải vĩnh biệt nữ hoàng của nó.
Dorothy Crowfoot Hodgkin (1910-1994) NGƯỜI PHỤ NỮ ĐẾN TỪ CAIRO
Dịch giả: Nguyễn Bích Loan
Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Vào những năm đầu thế kỷ XX Dorothy Crowfoot Hodgkin là một trong số ít những phụ nữ sinh ra ở Trung Đông có đủ tài năng và lòng dũng cảm để được dấn thân vào con đường nghiên cứu khoa học đầy gian khổ và chưa được xã hội khuyến khích.
Dorothy Crowfoot Hodgkin sinh ngày 12 tháng Năm năm 1910 tại Cairo, Ai Cập. Bà quan tâm đến hóa học từ khi bà mới mười tuổi. Trong hầu hết thời thơ ấu, bà ở với chị gái ở Norfolk, nước Anh. Bà học tại trường John Leman, ở Beccles, và tại đó bà là một trong hai học sinh nữ được giáo viên cho tham gia các thí nghiệm hóa học cùng với các học sinh nam.
Bà từng học đại học Somerville ở Oxford, và giành học vị tiến sĩ tại đại học Cambridge.
Dorothy đã dành tâm huyết và thời gian của bà cho việc nghiên cứu tinh thể sinh học bằng tia X-quang. Đó là một lĩnh vực khá mới mẻ đòi hỏi sự kết hợp giữa toán học, vật lý và hóa học. Mặc dù lúc bấy giờ các nghiên cứu của các nhà khoa học như Max von Laue, William Henry Bragg, and William Lawrence Bragg đã cho thấy tia X-quang có thể giúp ích trong nghiên cứu tinh thể, nhiều người vẫn tin rằng những dự án mà Dorothy định thực hiện là không khả thi. Bằng cách chiếu tia X-quang lên tinh thể để lưu lại trên phim những điểm nhiễu xạ do sự giao thoa giữa các nguyên tử của tinh thể gây ra, rồi sử dụng các phép toán để tính khoảng cách và vị trí của các điểm xác định, từ đó tìm ra cấu trúc phân tử của tinh thể Dorothy đã đưa những nghiên cứu tinh thể đi đến những kết quả mà giới khoa học trông đợi.
Bắt đầu bằng nghiên cứu về cấu trúc của pepsin, một ezim có trong tuyến nước bọt, Dorothy đã lần lượt giải mã thành công cấu trúc của cholesterol, lactoglobulin, ferritin, cấu trúc của virus gây bệnh khảm thuốc lá. Năm 1946 bà đã công bố cấu trúc phức tạp của thuốc kháng sinh penicillin. Mười năm sau bà lại giải mã thành công cấu trúc của B12. Năm 1969 nhờ có nghiên cứu của bà mà insulin không còn là một chất khiến các nhà khoa học đau đầu.
Khó có thể nói đóng góp nào của Dorothy quan trọng hơn đóng góp nào. Nếu như việc làm sáng tỏ cấu trúc B12 đã mang lại cho bà giải Nobel hóa học bởi B12 là loại vitamin tối cần thiết giúp ngăn ngừa các bệnh thiếu máu ác tính, thì thành công trong việc phát hiện cấu trúc của penicillin lại mở ra cho các hãng dược phẩm khả năng sản xuất penicillin bán nhân tạo giúp giải quyết tình hình khan hiếm thuốc kháng sinh thời bấy giờ. Còn việc tìm ra cấu trúc ba chiều của insulin, nội tiết tố không thể thiếu trong quá trình chuyển hóa đường của cơ thể, đã góp phần duy trì cuộc sống của hàng chục triệu người mắc bệnh tiểu đường trên thế giới.
Mỗi lần Dorothy Crowfoot Hodgkin công bố một cấu trúc protein mới, thế giới lại được thấy nụ cười rạng rỡ của bà. Nhìn bà cười người ta khó có thể hình dung ra hàng ngàn giờ lao động vất vả của bà trong phòng thí nghiệm. Nghiên cứu tinh thể không chỉ yêu cầu kiến thức chuyên sâu, óc sáng tạo mà còn đòi hỏi sự kiên nhẫn và tỉ mỉ phi thường. Chẳng hạn với insulin bà đã mất 34 năm nghiên cứu, bắt đầu từ năm 1935 đến năm 1969. Insulin thuộc nhóm các phân tử protein nhỏ nhất bởi nó chỉ gồm 51 axit-amin. Dorothy đã dùng tia X-quang để phá vỡ tinh thể insulin sau đó bà đo cường độ và hướng phân tán của các hạt phân tử rồi lập bản đồ cấu hình của phân tử. Bà thay thế các nguyên tử kẽm trong insulin lấy từ lợn bằng ba nguyên tố thuộc loại nặng là chì, urani và thủy ngân. Sau khi xác lập được bản đồ mật độ của ba chất dẫn xuất này trong insulin, bà sử dụng công nghệ vi tính để phác thảo những đường nét chính của cấu trúc. Nhưng bà phải mất thêm nhiều công sức và thời gian mới có thể đi tới kết luận rằng phân tử insulin là phần tử gồm sáu phần, có hình tam giác, với ba đôi phân từ có chứa hai nguyên tử kẽm trong nhân.
Mất bốn người thân trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất, Dorothy không chỉ biết đến mỗi phòng thí nghiệm. Bà là nhà hoạt động tích cực cho hòa bình của thế giới. Bà luôn ủng hộ tích cực cho những cuộc đấu tranh giành tự do của nhân loại, luôn quan tâm đến những nước thuộc thế giới thứ ba, đặc biệt lưu tâm đến việc đào tạo các sinh viên khoa học của các nước nghèo. Bằng cách thúc đẩy giao tiếp giữa các nhà khoa học thuộc các nước đối đầu, bà đã góp phần đáng kể vào việc làm dịu căng thẳng giữa hai cực Đông, Tây trong thời kỳ chiến tranh lạnh.
Các đồng nghiệp của Dorothy nhận xét bà là một người phụ nữ ấm áp, giàu tình cảm và luôn quan tâm đến người khác. Có lẽ chính vì thế mà bà đã tạo nên một gia đình đáng tự hào. Bà kết hôn với Thomas Hodgkin, một chuyên gia nghiên cứu châu Phi, năm bà hai mươi bảy tuổi. Họ có ba người con và cả ba người đều giống bố mẹ họ, rất coi trọng học vấn và thích hoạt động xã hội. Con trai cả của họ là một giảng viên toán của trường đại học Princeton, con gái họ dạy học ở Zambia và người con trai út là tình nguyện viên của một tổ chức hoạt động vì hòa bình ở Ấn Độ. Người ta có thể thấy rằng Dorothy có một tuổi già hạnh phúc, bởi bà được nhìn thấy con cháu của mình trưởng thành và noi gương bà sống có ích.
Mặc dầu vào những tháng cuối đời sức khỏe của bà không được tốt, Dorothy Crowfoot Hodgkin vẫn đi rất nhiều nơi, tham gia những hoạt động vì hòa bình. Bà qua đời vào tháng Bảy năm 1994 tại nhà riêng ở Shipston-on-Stour, nước Anh.
Ngày 27 tháng Tám năm 1910 một gia đình gốc Albani sống ở Skopje, Macedonia đón chào một bé gái ra đời. Họ đặt tên cho thành viên mới là Agnes Gonxha Bojaxhiu. Mới mười hai tuổi Agnes Gonxha Bojaxhiu đã khao khát đi theo con đường của Chúa. Năm mười tám tuổi Agnes ra nhập nhóm Sisters of Loreto (Những nữ tu Loreto), một nhóm nữ tu từ Ireland tới Ấn Độ thực hiện các hoạt động nhân đạo. Kể từ đó Agnes Gonxha Bojaxhiu trở thành Mẹ Teresa.
Trong gần hai mươi năm dạy học tại trường thánh Mary ở Calcutta, Mẹ Teresa luôn đau đáu nghĩ về những cảnh thương tâm của con người ở thế giới bên ngoài những bức tường tu viện, những người đói không có cái ăn, những người ốm không được chăm sóc, những đứa trẻ không được học hành. Năm 1984 được sự cho phép của bề trên Mẹ Teresa rời tu viện để dành hết thời gian của mình giúp đỡ những người nghèo nhất trong những người nghèo ở các khu ổ chuột Calcutta. Mẹ Teresa đã mở trường học ngoài trời cho trẻ em lang thang, cứu giúp những người đói khát, chăm sóc những người bị bệnh phong, giúp đỡ những người già cô đơn.
Có rất nhiều câu chuyện cảm động về lòng từ tâm của mẹ Teresa được người dân Ấn Độ truyền miệng, hoặc được lưu lại trong những cuốn sách. Cuốn Điều tốt đẹp vì Chúa (something beautiful for God) đã kể về trường hợp đầu tiên được Mẹ Teresa giúp thoát khỏi cảnh chết không nhà. Đó là trường hợp của một phụ nữ ở Calcutta. Khi Mẹ Teresa nhìn thấy người phụ nữ này trên đường bà ta đã kiệt sức và đã bị kiến và chuột gặm nhấm mất nhiều mảng thịt trên người. Mẹ Teresa đưa người phụ nữ xấu số này vào viện và phải thuyết phục hết lời bệnh viện mới chịu nhận lo cho bà ta. Mẹ Teresa đã ở bên người phụ nữ đó cho tới khi bà ta ngừng thở. Rời bệnh viện Mẹ Teresa đi thẳng tới chính quyền thành phố xin họ cấp cho một nơi để hội của mẹ có thể chăm sóc những người sắp chết. Thuyết phục mãi cuối cùng hội của Mẹ Teresa đã được chính quyền cho phép sử dụng một đền thờ bỏ hoang. Ngay trong ngày hôm đó Mẹ Teresa lập nên một trung tâm mang tên Nirmal Hriday để chăm sóc những người vô gia cư ốm nặng. Mẹ Teresa cùng các nữ tu trong hội của mẹ đã mang những người nằm chờ chết trên khắp các đường phố về Nirmal Hriday. Đã có đến hơn 42 nghìn người gồm phụ nữ, đàn ông, người già, trẻ em được đưa từ các đường phố Calcutta về Nirmal Hriday trong đó có 19 nghìn người được nhận sự chăm sóc tận tâm trước khi nhắm mắt. Có rất nhiều người đã được Mẹ Teresa và các xơ trong hội của mẹ cứu sống.
Năm 1965 với sự bảo trợ của Giáo hoàng Paul IV hội nhân đạo của Mẹ Teresa phát triển thành một tổ chức nhân đạo tôn giáo quốc tế. Tổ chức này phát triển các hoạt động nhân đạo ở những nơi nghèo nhất của châu Á, châu Phi, châu Mĩ la tinh thậm chí ở cả Châu Âu. Mẹ Teresa đã điều hành nhiều chương trình nhân đạo ở gần 100 quốc gia trên thế giới. Mẹ đã trực tiếp đến giúp những nạn nhân của nạn đói ở Ethiopia, những nạn nhân bị nhiễm phóng xạ của vụ Chernobyl, và những nạn nhân của trận động đất ở Armenia. Năm 1982 Mẹ Teresa đã thuyết phục những người Palestin và người Israel ngừng bắn để những người làm nhân đạo sơ tán 37 bệnh nhân rời khỏi một bệnh viện đang bị bao vây ở Beirut.
Công việc nhân đạo dường như luôn đòi hỏi Mẹ Teresa phải gắng sức. Năm 1983 trong chuyến đi Rome Mẹ Teresa bị một cơn đau tim. Sau lần đau tim thứ hai Mẹ buộc phải để các bác sĩ lắp máy điều hòa nhịp tim cho mình. Sức khỏe của Mẹ suy sụp trầm trọng sau cuộc phẫu thuật tim. Vào ngày 5 tháng Chín năm 1997 Mẹ Teresa đã trút hơi thở cuối cùng. 4000 nữ tu, hơn 100.000 người tình nguyện hoạt động trong tổ chức nhân đạo của Mẹ, cùng tất cả những người coi mẹ là ân nhân, là thần tượng đều tin rằng Mẹ Teresa đã trở về bên Chúa.
Sinh thời, Mẹ Teresa có những câu nói nổi tiếng có sức lay động mãnh liệt. Mẹ đã nói: “Khi tôi rửa vết thương cho những người bị bệnh phong, tôi thấy mình như đang được chăm sóc Chúa vậy”. Mẹ cũng đã từng nói: “Những người nghèo cho chúng ta nhiều hơn chúng ta cho họ. Họ là những người mạnh mẽ, nhiều ngày không thức ăn họ vẫn sống. Họ không bao giờ nguyền rủa, không kêu ca. Chúng ta không phải cho họ sự thương hại hay thông cảm. Có nhiều điều chúng ta phải học hỏi ở họ”.
Thế giới vẫn còn ghi nhớ mãi lời phát biểu của Mẹ Teresa khi mẹ được trao giải Nobel hòa bình năm 1979.
“Tôi xin nhận giải thưởng này nhân danh những người bị đói, những người không có quần áo mặc, những người không có nhà ở, những người bị què, những người mù, những người hủi, và tất cả những người cảm thấy mình là người không được cần tới, không được yêu thương, không được chăm sóc ở khắp nơi, những người là gánh nặng cho xã hội và bị mọi người xa lánh”.
Mẹ Teresa đúng là người mẹ vĩ đại của tất cả những ai thuộc về phần kém may mắn của thế giới.
Simone de Beauvoir (1908-1986) GIỚI THỨ HAI
Dịch giả: Nguyễn Bích Loan
Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Simone de Beauvoir là người bạn gái, người phụ nữ giữ một ví trí vô cùng quan trọng trong cuộc đời của triết gia lừng danh theo chủ nghĩa hiện sinh Jean Paul Sartre. Tuy nhiên không phải vì vậy mà bà trở nên nổi tiếng. Beauvior tự làm nên danh tiếng cho mình bằng sự nghiệp của một tiểu thuyết gia và một nhà triết học có ảnh hưởng không nhỏ đến cách nhìn của phụ nữ đối với giới mình và cách nhìn của thế giới đối với phụ nữ.
Simone de Beauvoir là người con của thành phố Paris. Bắt đầu tập viết văn từ khi tám tuổi nhưng lại theo học ngành triết học tại đại học Sorbonne, Beauvior đã hoàn tất sự nghiệp của mình với gần hai mươi tác phẩm gồm tiểu thuyết và lý luận được bạn đọc trên khắp thế giới tìm đọc. Các tác phẩm tiêu biểu của bà phải kể đến cuốn Nàng đến để ở lại, Cái chết dễ dàng, Tất cả đã được nói và làm, Luân lý khó phân định v.v…
Điểm lại sự nghiệp của Beauvoir ai cũng đồng tình rằng chính cuốn Giới thứ hai (The second sex) đã đánh dấu ảnh hưởng rộng rãi của bà đối với thế giới. Cuốn sách là một công trình lý luận triết học về phụ nữ, xuất phát từ quan điểm nam nữ bình quyền. Cuốn sách xoay quanh vấn đề: Phụ nữ bị kẹt trong tình trạng bị áp bức lâu dài qua sự loại bỏ mình nên trở thành giới ít quan trọng hơn (giới thứ hai) trong mối quan hệ với nam giới.
Sử dụng kiến thức của nhiều lĩnh vực khác nhau, Beauvoir khẳng định rằng khoa học sinh học, thần thoại học, nhân loại học không ngành nào đủ khả năng để giải thích định nghĩa phụ nữ là giới thứ hai đối với nam giới cũng như vị thế áp bức của họ, nhưng mỗi ngành này đều góp phần tạo nên vị thế đó của phụ nữ. Đáng chú ý là những diễn giải về thần thoại của bà đối với vai trò này. Bà chỉ ra rằng những thần thoại về người mẹ, về tổ quốc, thiên nhiên v.v… trói buộc phụ nữ vào cách hình mẫu lý tưởng bất khả thi bằng cách chối bỏ cá nhân và vị thế của mọi loại phụ nữ. Hình mẫu lý tưởng này tạo ra sự kì vọng không tưởng bởi nhiều biểu hiện của thần thoại về phụ nữ cho thấy sự mâu thuẫn. Chẳng hạn lịch sự cho thấy có bao nhiêu đại diện cho hình ảnh người mẹ là thần hộ mệnh được kính trọng thì cũng có bấy nhiêu hình ảnh người mẹ được miêu tả như những kẻ báo hiệu cái chết. Vì thế những người mẹ vừa được yêu lại vừa bị ghét. Có thể thấy sự mâu thuẫn này ở tất cả các thần thoại về phụ nữ và như vậy khiến cho phụ nữ mang gánh nặng và trách nhiệm về sự tồn tại. Xét đến vấn đề sinh học và lịch sử, Beauvoir lưu ý rằng phụ nữ có những thiên chức mà nam giới không hề có như mang thai, nuôi con, có kinh nguyệt, góp phần tạo cho vị thế của người phụ nữ có sự khác biệt rõ rệt. Tuy nhiên những biểu hiện sinh lý này không trực tiếp làm cho phụ nữ có vị thế thấp kém hơn bởi yếu tố sinh học và lịch sử không đơn thuần là những sự thật thu được từ sự quan sát không thành kiến mà luôn được cấu thành và giải thích từ một hoàn cảnh. Kết thúc chương I bà viết: “Chúng ta phải xét các lập luận sinh học trong ánh sáng của một bối cảnh liên quan đến tâm lý học, xã hội học, bản thể học, kinh tế học. Sự nô dịch phụ nữ và sự giới hạn sức mạnh đa dạng của họ là cực kỳ quan trọng; cơ thể của phụ nữ là một trong những yếu tố tạo nên vị thế của phụ nữ trong thế giới này. Nhưng yếu tố đó không đủ để định nghĩa phụ nữ là phụ nữ (giới thứ hai). Sinh học không đủ khả năng trả lời chúng ta câu hỏi đang đặt ra: Tại sao phụ nữ lại là giới thứ hai; nhiệm vụ của chúng ta là khám phá bản chất của phụ nữ bị ảnh hưởng như thế nào trong quá trình lịch sử; chúng ta phải tìm ra bằng gì loài người đã tạo ra phụ nữ”.
Từ những luận giải trên, Beauvoir chủ ý phá bỏ luận bản chất cho rằng đàn bà sinh ra đã là “đàn bà” (là phái yếu) chứ không phải trở thành như vậy qua quá trình vận động của xã hội. Bà dẫn ra quá trình giáo dục mà người phụ nữ nhận được từ khi còn bé cho tới khi bắt đầu trải nghiệm đời sống tình dục và ở mỗi giai đoạn bà đều chứng minh được rằng, phụ nữ bằng sự chấp nhận vai trò bị động trước những nhu cầu chủ động và chủ quan của đàn ông đã buộc phải từ bỏ đòi hỏi đối với tính siêu nghiệm (sự vượt trội) và tính chủ quan đích thực như thế nào.
Qua lý luận của mình, Beauvoir muốn quả quyết rằng: Phụ nữ có khả năng lựa chọn như nam giới và vì thế có thể lựa chọn nâng cao vị thế của mình lên. Bà chỉ ra rằng phụ nữ cần phải giải phóng mình và phục hồi cái tôi của mình, trước hết bằng cách cho phép mình vượt lên bằng những hướng đi tự do, tự hào về bản thân mình trong suy nghĩ, trong sáng tạo, trong hành động giống như nam giới. Bà cũng đặt ra những đòi hỏi đối với xã hội trong mục tiêu hướng tới bình đẳng nam nữ. Theo bà muốn đạt được mục tiêu đó thì các cấu trúc xã hội như luật pháp, giáo dục, phong tục v.v… cần phải được điều chỉnh.
Chứa đựng tư tưởng triết học mới mẻ và táo bạo như vậy nên không có gì khó hiểu khi vào thời điểm cuốn Giới thứ hai được xuất bản lần đầu vào năm 1947 nó lại vị Vatican liệt vào danh sách những cuốn sách bị cấm. Rõ ràng những gì Beauvoir luận giải thách thức không ít những quan điểm về phụ nữ đã tồn tại từ lâu và không thể phủ nhận rằng những tư tưởng của Beauvoir có đủ sức mạnh khuấy động ý thức vươn lên của người phụ nữ và làm cho những người đàn ông có tư tưởng trọng nam khinh nữ không hài lòng. Giới thứ hai có ảnh hưởng lớn đến nỗi người ta cho rằng Beauvoir là mẹ đẻ của phong trào đòi nam nữ bình quyền hậu 1968. Trải qua hơn gần một thế kỷ, cuốn sách vẫn được coi là một tài liệu cơ bản phục vụ nghiên cứu về triết học, và về phụ nữ. Bước sang thế kỷ XXI, nó có thêm rất nhiều độc giả là những người phụ nữ đã có vị thế ngang bằng với đàn ông cả ở trong gia đình và ngoài xã hội.
Beulah Louise Henry (1887-1973) MỘT CUỘC ĐỜI VỚI 110 PHÁT MINH
Dịch giả: Nguyễn Bích Loan
Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
“Tôi cứ phát minh bởi vì tôi không thể dừng được”. Đó là câu nói nổi tiếng của Beulah Louise Henry, người phụ nữ có tới 110 phát minh và 49 bằng sáng chế.
Nếu như những phát minh của Beulah nổi tiếng khắp thế giới thì những thông tin về đời tư của bà xuất hiện trên báo chí dường như lại quá ít ỏi so với nhu cầu tìm hiểu của những nhà viết tiểu sử ngoại quốc. Beulah sinh năm 1887 tại Memphis, Tennessee và được nuôi dưỡng trong một gia đình gồm cả bố, mẹ và anh trai đều làm nghệ thuật. Bà bắt đầu phác thảo ra các phát minh từ khi còn là một cô bé. Năm 1909 bà vào đại học Elizabeth ở Charlotte, Bắc Carolina và năm hai nhăm tuổi bà đã được cấp bằng sáng chế cho phát minh đầu tiên của mình. Đó là phát minh ra chiếc máy làm kem đá. Chỉ một năm sau phát minh này, bà lại được cấp bằng sáng chế cho phát minh ra túi xách tay và ô che nắng.
Trong những năm 20 của thế kỷ XX, Beulah sống ở New York. Bà thuê một đội ngũ gồm những nhà thiết kế, thợ cơ khí, những nhà tạo mẫu giúp bà biến những phác thảo thành những sản phẩm mẫu. Thừa nhận những hạn chế về kĩ năng cơ khí và kĩ thuật của mình bà nói: “Tôi chẳng biết sự hạn chế hiểu biết về cơ khí của tôi là một trở ngại hay là một thuận lợi nữa… tôi chẳng biết gì về các thuật ngữ chuyên ngành và tôi sợ rằng những nhà thiết kế nghe tôi giải thích sẽ khó mà hiểu được ý tưởng của tôi, nhưng tại các nhà máy nơi người ta đã biết tiếng tăm của tôi, tôi thấy họ kiên nhẫn lắng nghe bởi vì họ đặt lòng tin vào những phát minh của tôi”.
Cho đến năm 1924 các phát minh của Beulah đã được cấp bằng sáng chế ở bốn nước và bà đã trở thành chủ tịch của hai công ty hợp doanh. Trong hai thập kỉ tiếp theo, Beulah cho ra đời hàng loạt những phát minh quan trọng như phát minh ra ô che nhiều màu có thể dễ dàng thay vải che (1924), máy khâu may được hai đường chỉ một lúc, máy khâu không sử dụng suốt chỉ đầu tiên (1940), máy kết hợp với máy đánh chữ cho ra bốn bản copy với cùng một tài liệu mà không cần sử dụng giấy than (1932), búp bê có thể đổi màu mắt và nhắm mắt (1935). Giai đoạn tiếp theo bà liên tục giới thiệu các sản phẩm gia dụng và các phát minh thiết thực với đời sống như phát minh ra chiếc máy dán phong bì hàng loạt.
Một trong những phát minh gây ngạc nhiên của Beulah là phát minh ra chiếc ô có thể dễ dàng thay đỏi vải che. Phát minh này xuất phát từ ý tưởng tạo thuận lợi cho phụ nữ trong việc làm cho chiếc ô hòa hợp với trang phục của mình. Những nhà sản xuất ô trong nước nghe ý tưởng ấy của Beulah đều cho rừng bà không thể biến nó thành hiện thực được, bởi vì theo họ không thể dễ dàng tháo và dán vải che ô mà vẫn đảm bảo độ chắc chắn của nó khi được dùng trong những trường hợp có mưa hay gió to. Khi Beulah cho trưng bày sản phẩm của bà tại cửa hàng của hãng Lord and Taylor, sản phẩm của bà đã thu hút được sự chú ý của rất nhiều người. Một nhà sản xuất đã mua quyền phát minh này với giá 50.000 đô la.
Beulah là nhà phát minh được trẻ em yêu mến bởi vì bà quan tâm đến thế giới của các em cũng nhiều như quan tâm đến thế giới của người lớn. Các phát minh của bà thể hiện sự quan sát tỉ mì và sự thấu hiểu tâm lý trẻ. Năm 1929 bà phát minh ra miếng xốp không thấm nước có thể đựng xà phòng thơm bên trong. Trẻ con vừa có thể sử dụng miếng xốp đó làm khăn tắm vừa có thể xoa xà phòng. Một ưu điểm nữa của phát minh này là nó luôn nổi trên mặt nước nên trẻ em rất thích vì không phải tìm xà phòng trong bồn tắm mỗi khi đánh rơi. Beulah cũng phát minh ra nhiều đồ chơi mang tính giáo dục cho các em. Ngoài búp bê Miss Illusion, một con búp bê tóc vàng xinh xắn có thể đổi mầu mắt và nhắm mắt, trò chơi dạy nói giờ mang tên “Kiddie Klock”, bà còn phát minh ra trò chơi tàu hỏa được các em nhỏ ở Mĩ rất ưa thích. Trò chơi này mang tên Cross the country (Đi khắp đất nước). Nó phục vụ người chơi bằng một hệ thống đường ray thu nhỏ của nước Mĩ với những đoàn tàu mini. Người chơi phải cho đoàn tàu của mình chạy dọc các tuyến đường ray mà không được đê tàu đâm phải tàu khác, nếu tàu nào bị đâm, tàu đó sẽ tự động bị đưa trở lại vạch xuất phát. Chơi trò này các em vừa vui, vừa học được tên các địa danh.
Beulah không kết hôn. Phần lớn cuộc đời bà sống trong khách sạn. Người Mĩ gọi bà bằng nhiều cái tên trìu mến, nhưng cái tên được người ta quen gọi nhất là “Quý bà Edison”.
Helen Keller (1880- 1968) TÂM HỒN TỎA SÁNG
Dịch giả: Nguyễn Bích Loan
Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Anna Sullivan biết nhiều về cuộc đấu tranh tự tìm ánh sáng cho mình trong một thế giới đầy bóng tối bởi trước khi trở thành một giáo viên cô đã từng có thời là học viên của trường mù Perkin ở Boston, Massachusetts. Chưa bao giờ cô cho rằng cuộc đấu tranh đó dễ dàng đối với bất cứ ai, nhưng cô tin bất cứ ai cũng có thể chiến thắng nếu có đủ quyết tâm. Tuy nhiên khi ông già Arthur H. Keller and Kate Adam Keller đề nghị cô giúp đứa con gái sáu tuổi của họ, Sullivan thực sự không biết phải bắt đầu với cô bé như thế nào.
Không giống như những đứa trẻ Sullivan tiếp xúc ở trường, Helen là một cô bé vừa bị mù vừa bị điếc. Mới hai mươi tháng tuổi Helen đã bị mắc một căn bệnh mà bác sĩ thời bấy giờ giải thích là “Tắc dạ dày và não”. Khi cơn sốt cao qua đi, bố mẹ của Helen phát hiện ra con gái họ không còn nhìn được, cũng không còn nghe được nữa. Kể từ đó trở đi Helen phải sống với bóng tối và sự im lặng hoàn toàn.
Một đứa bé học giao tiếp bằng cách nào khi nó không thể người khác nói để bắt chước, không thể nhìn để đoán biết ý nghĩa của lời nói qua nét mặt, cử chỉ và điệu bộ của người khác? Làm thế nào để một đứa bé không thể nghe, không thể nhìn có thể biết được những khái niệm, có thể hình dung được thế giới xung quanh nó? Cô giáo Sullivan không nghĩ ra được cách truyền đạt thông tin nào khác ngoài việc dùng các ngón tay. Rồi một lần trong lúc Helen rửa tay dưới vòi nước cô bé đã hiểu được nước là gì khi cô Sullivan dùng ngón tay tác động lên lòng bay tay của Helen để biểu tượng hóa từ “nước”. Lần đầu tiên Helen biết tên thứ cô bé vẫn uống hàng ngày khi khát, thứ mà cô dùng để tắm rửa, thứ thỉnh thoảng rơi từ trên cao xuống đầu cô. Helen cảm thấy một nguồn sáng ở đâu đó thôi thúc cô bé kiếm tìm. Một lần khác cô Sullivan đưa cho Helen một con búp bê do những trẻ em trường mù Perkin làm. Trong khi Helen chơi với con búp bê cô Sullivan đánh vần từ doll (búp bê) lên lòng bàn tay của Helen. Helen thich trò chơi dùng ngón tay này ngay lập tức và đã bắt chước cô giáo rất nhanh. Cô bé đi tìm mẹ và khoe với mẹ từ mới mà cô học được bằng ngôn ngữ của riêng mình. Mấy ngày sau, cô bé học được một loạt tên của những đồ vật quen thuộc như cái trâm, cái mũ, cái chén và biết được những động từ thông dụng như đi bộ, đứng, ngồi,v.v…
Năm 1890 khi Helen mười tuổi, cô giáo Sullivan đã dạy cho cô biết cách trao đổi thông tin qua bàn tay. Họ không những thực hiện dược những giao tiếp thông thường với nhau mà cô Sullivan còn có thể truyền đạt nội dung của những mẩu chuyện trong những cuốn sách cho Helen. Sau khi cô Sullivan cho Helen biết câu chuyện về Ragnhild Kaata, một cô gái người Na Uy vừa mù vừa điếc dã học nói thành công, Helen bày tỏ với cô giáo của mình khao khát được học nói như cô gái ấy.
Cô Sullivan cùng với một cô giáo khác tên là Flutter đã bắt đầu dạy Helen học nói. Họ kết hợp phương pháp giao tiếp qua ngón tay và phương pháp Tadoma. Theo phương pháp này, Helen đặt tay lên mặt cô giáo cảm nhận vị trí của lưỡi và môi của cô giáo khi cô giáo phát âm sau đó bắt chước các cử động ấy để phát âm theo. Háo hức nhưng kiên trì, Helen ngồi hàng giờ luyện phát âm theo cô giáo. Sau một thời gian ngắn Helen đã thuộc được các yếu tố của tiếng nói. Lúc đầu Helen phát âm chưa thoát nên chỉ các cô giáo của cô mới có thể hiểu được những gì cô nói. Nhưng mỗi ngày qua đi, khả năng của Helen lại được cải thiện rõ rệt.
Nếu học phát âm được một từ chẳng phải là việc đơn giản, thì việc học được cả câu trọn vẹn là cả một sự gian khổ và mệt nhọc đối với Helen. Sau khi Helen phát âm được những từ cơ bản, cô giáo của cô đưa cho Helen bộ chữ nổi in trên những mảnh giấy cứng như một bộ bài. Helen sắp xếp các mảnh giấy theo các cấu trúc để tạo thành những câu nói đơn giản. Để sắp xếp được câu: “Con búp bê ở trên giường”, Helen đã để con búp bê của mình ở trên giường và sắp xếp các từ “búp bê”, “ở”, “trên”, “giường” để cô dễ hình dung và dễ ghi nhớ câu hơn. Từ học ghép câu, Helen học đọc, học viết bằng chữ nổi. Khả năng tiếp thu và sự siêng năng của Helen đã đưa cô tiến xa hơn những gì cô giáo của cô mong đợi. Không chỉ đọc thành thạo tiếng Anh, Helen còn học đọc được cả tiếng Đức, tiếng Pháp, tiếng Hi Lạp, tiếng La tinh bằng hệ thống chữ nổi Braille.
Sau khi theo học ở trường mù Perkin sáu năm, năm 1894 Helen đến New York vào học trường Wright-Humason dành cho người điếc. Năm 1898 Helen trở về Massachusetts theo học trường Cambridge dành cho nữ sinh. Năm 1900 Helen bắt đầu theo học trường đại học Radcliffe, trở thành người mù và điếc đầu tiên tốt nghiệp đại học.
Với kiến thức sâu rộng và kinh nghiệm phong phú của bản thân, Helen Keller trở thành một nhà hoạt động xã hội tích cực vì người mù. Năm 1915, Helen Keller thành lập tổ chức chống mù lòa mang tên mình. Tổ chức của Helen tập trung vào hai chương trình chính là sức khỏe của mắt và dinh dưỡng cho mắt. Các chương trình này cung cấp các thông tin nhằm nâng cao nhận thức của mọi người về các nguyên nhân dẫn đến mù lòa, đồng thời triển khai cac hoạt động bổ sung vitamin A, sắt, và các vi chất dinh dưỡng trong cộng đồng đặc biệt là trong các trường học.
Helen Keller đã đi đến 39 nước trên thế giới, thực hiện các bài diễn thuyết đầy thuyết phục. Đi đến đâu người phụ nữ đặc biệt này cũng được mọi người hoan nghênh và ngưỡng mộ. Bà đã gặp gỡ rất nhiều nhân vật nổi tiếng và làm bạn với nhiều danh nhân như Alexander Graham Bell, Charlie Chaplin, Mark Twain. Bà đã từng là thành viên của Đảng Xã hội, từng tham gia Liên đoàn lao động của công nhân thế giới viết tắt là IWW.
Thế giới không chỉ biết đến Helen Keller là một người phụ nữ có nghị lực phi thường, một nhà hoạt động xã hội tích cực vì người mù mà còn biết đến bà như một tác gia nổi tiếng. Cho tới khi qua đời vào năm 1968 ở tuổi tám mươi bảy bà đã có mười một cuốn sách và rất nhiều bài báo được xuất bản ở Mỹ và nhiều nước trên thế giới, trong đó phải kể đến cuốn tự truyện vô cùng xúc động mang tên Chuyện đời tôi. Trong cuốn tự truyện này Helen Keller đã kể với độc giá một cách trọn vẹn và sinh động hành trình tự giải thoát mình khỏi bóng tối và sự im lặng để đi tìm ý nghĩa đích thực của cuộc sống mà bà đã trải nghiệm.
Cuộc đời của Helen Keller đặc biệt là quá trình học giao tiếp đáng kinh ngạc và cảm động của bà là nguồn cảm hứng của những nhà làm điện ảnh Mĩ. Nhiều bộ phim về Helen Keller đã ra mắt khán giả như bộ phim câm Giải thoát (Deliverance), hay các bộ phim nổi tiếng phóng tác từ vở kịch Người lao động phi thường (Miracle Worker), bộ phim Màu đen (Black), và gần đây nhất là bộ phim tài liệu Tâm hồn tỏa sáng (Shinning soul) mới được công chiếu năm 2005 đã thu hút được nhiều sự quan tâm của khán giả ở Mĩ và trên thế giới.
Trước khi thực hiện bài viết này tôi đã nhiều lần kể về cuộc đời Helen Keller cho người khác nghe. Tôi nhận thấy tất cả những người nghe xong câu chuyện đều bộc lộ một sự kinh ngạc lớn đến nỗi khiến tôi tin rằng, hình ảnh Helen Keller sẽ mãi mãi sống trong tâm trí của họ như một nguồn sáng thôi thúc họ nỗ lực vươn lên trong những lúc cuộc đời họ lâm vào cảnh tăm tối. Tôi cũng tin rằng, điều đó sẽ đến với tất cả những ai biết về bà qua cuốn sách này.