Chương 02
Đánh Pháp, đuổi Mỹ giải phóng đất nước giai đoạn 1945-1975 ĐÁNH BẠI CHIẾN TRANH ĐẶC BIỆT CỦA ĐẾ QUỐC MỸ Ở MIỀN NAM (1955 - 1965)
Nguồn: quansuvn.net
Thu gọn nội dung
Đánh bại và đuổi quân đội Pháp khỏi miền Bắc là chiến thắng oai hùng của nhân dân ta trong cuộc đấu tranh lâu dài gần một thế kỷ nhằm giải phóng dân tộc khỏi ách thực dân, mở đường đưa đất nước Việt Nam tiến lên trong thời đại.
Qua bước nhảy vọt ấy, cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới, với những mục tiêu chiến lược mới. Đặc điểm cơ bản qua giai đoạn này là:
- Đất nước tạm thời chia làm hai miền với chế độ chính trị khác nhau, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, tiếp tục phát triển theo con đường đã vạch ra - tiến lên chủ nghĩa xã hội; miền Nam vẫn nằm dưới chế độ thuộc địa, chuyển từ tay đế quốc Pháp sang đế quốc Mỹ mạnh nhất thời đại cả về kinh tế, quân sự, chính trị, có khả năng chỉ đạo các nước tư bản khác qua các liên minh chính trị quân sự rộng khắp Á - Âu - Mỹ.
- Quan hệ giữa ba dân tộc trên bán đảo Đông Dương có bước phát triển mới, trên cơ sở mỗi nước có chủ quyền quốc gia riêng, nhưng vẫn gắn bó với nhau một cách hữu cơ vì vận mệnh chung, chống chủ nghĩa thực dân mới, bảo vệ lợi ích của mỗi dân tộc.
- Cách mạng Việt Nam đã thực sự trở thành một bộ phận khăng khít của cuộc đấu tranh chung trên toàn thế giới vì mục tiêu của thời đại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Trong hoàn cảnh mới, sự vận dụng quy luật đấu tranh cách mạng nói chung và đấu tranh vũ trang nói riêng vô cùng phức tạp và rất phong phú. Sự nghiệp chính nghĩa của nhân dân Việt Nam lại phải trải qua những thử thách gay go quyết liệt, nhưng rất sôi nổi, hào hùng.
XÂY DỰNG MIỀN BẮC ĐÃ ĐƯỢC GIẢI PHÓNG,CĂN CỨ ĐỊA, HẬU PHƯƠNG CỦA CÁCH MẠNG
GIẢI PHÓNG MIỀN NAM
Trong giai đoạn cách mạng mới miền Bắc Việt Nam đã xuất hiện với tư thế một quốc gia hoàn chỉnh, đại diện lợi ích cho cả nước, đồng thời là căn cứ địa cách mạng vững chắc và hậu phương trực tiếp của tiền tuyến lớn miền Nam chống chủ nghĩa thực dân xâm lược kiểu mới ở ba nước Đông Dương.
Khi đế quốc Pháp chịu thua, phải kết thúc chiến tranh, thì đế quốc Mỹ xuất đầu lộ diện, ngăn cản việc lập lại hòa bình ở Đông Dương và trở thành kẻ thù trực tiếp của nhân dân Việt Nam và nhân dân Đông Dương. Sớm nhìn rõ kẻ thù và nắm vững mục tiêu cách mạng, Trung ương Đảng chủ trương, đi đôi với mục tiêu đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ, tập trung nỗ lực trước mắt củng cố và bảo vệ cho được miền Bắc, đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, làm cái “gốc” cho cách mạng cả nước, và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ quốc tế đối với cách mạng Lào và Cam-pu-chia.
Những chủ trương và biện pháp chiến lược mới được vạch ra và xúc tiến hết sức khẩn trương:
Một là: Trước hết, tiến hành tập kết lực lượng các chiến trường về miền Bắc và triển khai thế bố trí chiến lược theo yêu cầu phòng thủ quốc gia, bảo vệ công cuộc lao động hòa bình của nhân dân, làm hậu thuẫn vững chắc cho công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Toàn bộ lực lượng tập kết đã được tổ chức lại thành những binh đoàn (sư đoàn) mới, theo từng địa phương ở miền Nam, được bố trí trên các địa bàn cơ động, vừa tham gia bảo vệ miền Bắc vừa sẵn sàng về giải phóng miền Nam.
Các lực lượng vũ trang cách mạng Lào cũng được tập kết và tổ chức lại, đứng chân trên địa bàn hai tỉnh Sầm Nưa, Phông Sa Lỳ được hoàn toàn giải phóng. Đây là căn cứ địa cách mạng của cả nước Lào, dựa lưng vào miền Bắc Việt Nam, kết thành một thế liên hoàn, phối hợp và hỗ trợ nhau trong chiến đấu và xây dựng.
Hai là: Trên cơ sở triển khai lực lượng theo chiến lược phòng thủ quốc gia, quân đội nhân dân Việt Nam đã hăng hái tham gia khôi phục kinh tế, xây dựng đất nước.
Trong giai đoạn cách mạng mới, miền Bắc tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sau 10 năm xây dựng, bộ mặt miền Bắc hoàn toàn thay đối, đời sống nhân dân trên mọi mặt được cải thiện rõ rệt, cơ cấu xã hội thay đổi về chất. Miền Bắc trở thành niềm tự hào của cả dân tộc. Cũng trong 10 năm do nhân dân ở miền Bắc không lúc nào không nghĩ tới đồng bào thân thiết của mình ở miền Nam. Với tư cách là căn cứ địa cách mạng và là hậu phương lớn, miền Bắc đã đón nhận với tất cả tấm lòng ưu ái con em miền Nam tập kết, và cố gắng hết sức mình “một người làm việc bằng hai” để đáp ứng mọi yêu cầu của cách mạng miền Nam.
Ba là: Công cuộc củng cố quốc phòng và xây dựng lực lượng vũ trang đã được quan tâm ngay từ đầu và được triển khai một cách toàn diện theo Nghị quyết 12 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II, năm 1957.
Vấn đề trung tâm then chốt là xây dựng quân đội nhân dân tiến từng bước vững chắc lên chính quy hiện đại. Trung ương Đảng chủ trương trong một thời gian nhất định, tích cực phấn đấu để tiếp tục thực hiện và hoàn thành thắng lợi kế hoạch xây dựng quân đội nhân dân, làm cho quân đội ta trở thành một đội quân cách mạng, chính quy và tương đối hiện đại, đồng thời đặt cơ sở đầu tiên cho các quân chủng, binh chủng khác.
Bộ đội chủ lực - nòng cốt của lực lượng vũ trang nhân dân đã được xây dựng ngày càng hiện đại, có tổ chức cân đối theo phương châm lấy lục quân làm chủ, vừa chú trọng bộ binh, vừa chăm lo các binh chủng quân chủng kỹ thuật, vừa tăng cường lực lượng hậu bị, vừa phát triển bảo đảm kỹ thuật. Trong một thời gian ngắn bên cạnh binh chủng bộ binh thiện chiến, đã hình thành các binh chủng pháo binh – hỏa lực chủ yếu của quân đội ta, xe tăng và thiết giáp, bộ đội công binh, thông tin, hóa học, và đặc công. Với sự phát triển quân đội các binh chủng ngày càng hoàn chỉnh: lục quân ta đã hình thành khối chủ lực binh chủng hợp thành. Quân chủng phòng không - không quân, hải quân nhân dân cũng được khẩn trương xây dựng để bảo vệ tốt vùng trời, vùng biển của Tổ quốc và sẵn sàng chiến đấu trên các chiến trường. Bên cạnh khối chủ lực phát triển, lực lượng vũ trang địa phương và hậu bị cũng được tăng cường.
Bốn là: Việc củng cố và xây dựng miền Bắc Việt Nam gắn chặt với việc củng cố và xây dựng vùng giải phóng của lực lượng yêu nước Pa Thét Lào vì lợi ích của 2 dân tộc.
Thông qua lực lượng cực hữu, đế quốc Mỹ phát động chiến tranh để phá hoại cách mạng Lào, uy hiếp nghiêm trọng Việt Nam từ phía Tây. Quân tình nguyện Việt Nam đã sát cánh chiến đấu với quân đội Pa Thét Lào làm cho cục diện nhanh chóng chuyển biến có lợi cho cách mạng hai nước.
Chính biến Kong-le năm 1960, là biểu hiện sự khủng hoảng cao độ của phái hũu cầm quyền và xu thế đi lên của phong trào dân chủ và tiến bộ ở Lào.
Tiếp đến chiến dịch Cánh Đồng Chum, rồi chiến dịch Nậm Thà (1961 - 1962 ) thắng lợi, đã buộc đối phương ngồi lại tại bàn Hội nghị quốc tế Giơ-ne-vơ và chính phủ trung lập Su-pha-na Phu-ma ra đời từ đó. Việc tổ chức chi viện trực tiếp về người và vật chất cho miền Nam qua con đường chiến lược 559 “đường mòn Hồ Chí Minh”, con đường xuyên Đông Dương, nối liền miền Bắc với các căn cứ địa cách mạng của Lào, và của miền Nam được chính thức tổ chức từ tháng 5-1959. Nó đã nhanh chóng phát triển từ vận chuyển thô sơ đến vận chuyển cơ giới, từ quy mô nhỏ, đơn giản đến quy mô lớn phức tạp theo cường độ phát triển qua cuộc đấu tranh cách mạng ở miền Nam. Tháng 7-1959 con đường vận chuyển trên biển vào Nam cũng được tổ chức, với tên gọi 759. Đó là những con đường huyết mạch sống còn, là tiêu điểm cuộc đọ sức quyết liệt giữa nhân dân ta với đế quốc Mỹ trên mặt trận ngăn chặn, cũng như chống ngăn chặn vận chuyển. Đây là thử thách lớn trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta, khi kẻ thù giàu mạnh nhất, với tiềm năng quân sự, kinh tế và kỹ thuật hết sức to lớn đã huy động mọi khả năng có thể huy động được, để cắt đứt nguồn chi viện từ miền Bắc. Nhưng rút cục, chúng đành chịu bó tay, chấp nhận sự thất bại không thể tránh khỏi. Công cuộc chi viện ngày càng to lớn của miền Bắc nói chung và sự hoạt động liên tục của con đường Hồ Chí Minh nói riêng là biểu hiện rực rỡ ý chí kiên cường bất khuất, nghĩa tình sâu nặng và sức mạnh bất khả chiến thắng của nhân dân miền Bắc hướng về cách mạng miền Nam.
ĐÁNH BẠI “CHIẾN TRANH ĐẶC BIỆT” CỦA ĐẾ QUỐC MỸ VÀ NGỤY QUYỀN
- Tại miền Nam cục diện thay đổi hết sức nhanh chóng dưới tác động trực tiếp của đế quốc Mỹ.
- Nhanh chóng thay thế thực dân Pháp, đế quốc Mỹ phá hoại triệt để hiệp nghị Giơ-ne-vơ thực hiện chính sách xâm lược thực dân kiểu mới.
Với vai trò sen đầm quốc tế đế quốc Mỹ bám chặt lấy miền Nam, hòng biến miền Nam thành căn cứ và thuộc địa kiểu mới để đàn áp phong trào giải phóng dân tộc, ngăn chặn chủ nghĩa xã hội phát triển xuống Đông Nam Á, chuẩn bị tấn công phe xã hội chủ nghĩa.
Ngay từ đầu, theo công thức quân ngụy cộng với cố vấn và sự yểm trợ của Mỹ, chúng ra sức tổ chức, xây dựng một ngụy quyền thật mạnh với một quân đội đồng và bộ máy kìm kẹp lớn, tập trung mọi quyền lực vào bọn tay sai chống cộng khét tiếng với tổng số quân ngụy lên tới 15 vạn quân chính quy, 20 vạn lính bảo an và 11,5 vạn quân dự bị.
Chúng tiến hành triệt phá cơ sở cách mạng một cách khốc liệt qua các chiến dịch “tố cộng”, thiết lập hệ thống “ấp chiến lược” được coi là quốc sách, nhằm tách đảng viên cán bộ khỏi nhân dân. Luật 10-59 đặt Cộng sản ra ngoài vòng pháp luật, được ban hành. Chúng lập tòa án quân sự, lê máy chém khắp nơi, tự do chém giết. Trong ba năm 1954 - 1958 hơn 10 vạn cán bộ đảng viên đã bị giết.
Mặt khác, chúng thẳng tay đàn áp, lần lượt đập tan lực lượng các giáo phái Bình Xuyên, Cao Đài, Hòa Hảo, và các đảng phái thân Pháp như Đại Việt, Quốc Dân Đảng, đồng thời tìm mọi cách khống chế chặt các tôn giáo để thực hiện chế độ độc tài gia đình trị của tập đoàn Diệm - Nhu.
Bên cạnh đó, bộ máy cai trị của Mỹ được triển khai và tăng cường từng bước, đủ sức vừa hỗ trợ đắc lực, vừa không chế ngụy quyền, ngụy quân Sài Gòn hoạt động trong quỹ đạo của chúng. Bắt đầu có phái bộ viện trợ và cố vấn quân sự Mỹ, rồi đến sự tham chiến trực tiếp của quân Mỹ ngày càng đông hơn.
Đế quốc Mỹ lại đặt miền Nam dưới sự bảo trợ của khối quân sự Đông Nam Á - SEATO, tạo tiền đề lôi kéo bọn chư hầu vào cuộc chiến tranh ở Đông Dương, dưới nhãn hiệu “quân đồng minh”.
- Nhân dân Việt Nam thực sự mong muốn hòa bình thống nhất đất nước. Sau 2 năm đấu tranh chính trị đã thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ, phong trào cách mạng bị dìm trong bể máu. Không còn con đường nào khác, phải đứng lên chống bạo lực phản cách mạng của kẻ thù xâm lược mới, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai độc tài phát xít Ngô Đình Diệm.
Con đường được xác định để tiến lên là cách mạng bạo lực theo tư tưởng chỉ đạo Nam Bắc là một, miền Bắc là cội nguồn sức mạnh cả nước, giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc là một mục tiêu và nhiệm vụ chung của toàn Đảng, toàn dân.
Nhân dân ta rất tha thiết với hòa bình. Và vì muốn hòa bình mà chúng ta đã từng nhân nhượng, như trong lời kêu gọi kháng chiến chống Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng, nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới... chúng ta phải đứng lên! Qua một cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ, nhân dân ta càng tha thiết với hòa bình, cho nên đã biết nhân nhượng để chấm dứt được chiến tranh, và kiên trì đấu tranh trong khuôn khổ của Hiệp định Giơ-ne-vơ.
Nhưng ngông cuồng và mù quáng tột độ, đế quốc Mỹ bất chấp tất cả, đơn phương gây chiến, phóng tay cho bè lũ tay sai đàn áp khủng bố, dìm nhân dân miền Nam trong bể máu. Vận mệnh của dân tộc đòi hỏi chúng ta phải chấp nhận cuộc đọ sức với kẻ thù xâm lược mới, trực tiếp đương đầu với tên đế quốc đầu sỏ bằng cuộc chiến tranh giải phóng.
Nghị quyết Trung ương Đảng tháng 4 năm 1956, đã giải quyết những vấn đề then chốt, khẳng định kẻ thù và chỉ ra phương hướng nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới. Xứ ủy Nam Kỳ cũng đã có những dự kiến đúng đắn, khẳng định: “con đường cứu nước và tự cứu mình là con đường cách mạng”.
Rõ ràng tư tưởng lãnh đạo và thực tiễn đấu tranh của quần chúng cũng phát triển thuận chiều, trùng hợp với nhau. Qua kinh nghiệm bản thân trong 2 năm đấu tranh chính trị, trước sự đàn áp dã man, đánh phá tàn khốc của dịch, quần chúng một số nơi đã trỗi dậy, sử dụng bạo lực để chống lại. Một số trận tấn công vào căn cứ, đồn bốt địch đã diễn ra, như các trận ở Minh Thanh - Thủ Dầu Một (10-8-1957), Trại Bè (18-8-1957) và Lò Than (Biên Hòa) tháng 12 năm 1957. Nổi lên có hai trận đánh quy mô, có hiệu suất hơn là: Trận Dầu Tiếng (10-10-1958), diệt gọn quận lỵ và đánh tan tiểu đoàn viện binh địch, thu hơn 200 súng, kết hợp với áp lực quần chúng bức rút 20 đồn bốt và trận tiến công trụ sở phái đoàn MAAG ở giữa thành phố Biên Hòa (25-10-1958) làm 13 tên Mỹ bị chết, 6 tên khác bị thương. Đó là cơ sơ thực tiễn, là tiền đề để đi đến Nghị quyết 15 (1-1959) của Trung ương.
Sau khi xác định hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, có quan hệ chặt chẽ, ảnh hưởng sâu sắc lẫn nhau, hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 15 (khóa II) đã đề ra nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là “giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc, phong kiến, thực hiện dân tộc độc lập, người cày có ruộng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam”.
Nhiệm vụ trước mắt là “đánh đổ tập đoàn thống trị Ngô Đình Diệm, tay sai đế quốc Mỹ, thành lập một chính phủ liên hiệp dân tộc dân chủ ở miền Nam, thực hiện tự do dân chủ, cải thiện đời sống nhân dân, giữ gìn hòa bình, thực hiện thống nhất đất nước”. Về phương thức cách mạng, Nghị quyết nêu rõ: “con đường phát triển của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là dùng bạo lực, lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang hoặc nhiều hoặc ít tùy tình hình để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc phong kiến, dựng lên chính quyền cách mạng của nhân dân”.
Nghị quyết 15 đã thổi bùng lên cao trào cách mạng miền Nam dưới ngọn cờ giải phóng dân tộc.
- Một quá trình cách mạng mới được mở ra. Đó là quá trình từ khởi nghĩa từng phần tiến lên đồng khởi và nhanh chóng phát triển thành chiến tranh cách mạng.
Chống lại chính sách kìm kẹp đàn áp trong các khu dồn dân thâm độc của địch, dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, đồng bào dân tộc miền Tây Khu 5 nổi dậy khởi nghĩa từng phần, ở Bắc Ái (20-1-1959), Vĩnh Thạnh (6-2-1959), Trà Bồng – Quảng Ngãi (28-8-1959), An Lão - Vân Canh (9-1959), xây dựng căn cứ, tổ chức lực lượng vũ trang, củng cố và mở rộng phong trào ra các tỉnh Tây Nguyên và xuống đồng bằng miền Trung.
Phong trào đấu tranh chính trị ở Nam Bộ cũng phát triển đều và mạnh, nhất là ở vùng U Minh, An Xuyên, Kiến Phong, Đồng Tháp Mười. Quần chúng nổi dậy cùng lực lượng vũ trang kéo về làng cũ đuổi tề, diệt ác, đánh đồn bốt địch, chống càn quét. Từ tháng 8 đến tháng 10 năm 1959, ta đã đánh nhiều trận thắng lớn ở sông Ông Đốc, Giồng Thị Đam, Gò Quảng Cung...
Đúng vào lúc ở nhiều vùng Nam Bộ đang xuất hiện tình thế trực tiếp khởi nghĩa, cuộc khởi nghĩa của nhân dân Bến Tre dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Tỉnh ủy nổ ra từ ngày 17 đến 25 tháng 1 năm 1960. Trong một thời gian rất ngắn, các huyện Mỏ Cày, Minh Tân, Thạch Phú nổi dậy đồng loạt, có lực lượng vũ trang hỗ trợ, đập tan hoặc làm tê liệt ngụy quyền thôn xã, thành lập các ủy ban nhân dân tự quản, tịch thu ruộng của bọn địa chủ, cường hào phản động chia cho nông dân, nhanh chóng thành lập và phát triển lực lượng vũ trang, đánh địch phản kích, giữ vững quyền làm chủ của nhân dân ở các thôn xã.
Tiếp theo thắng lợi của Bến Tre, phong trào nổi dậy của đồng bằng sông Cửu Long phát triển mạnh ở Cần Thơ, Kiến Phong, Trà Vinh, An Xuyên, Cà Mau... Ở miền Đông Nam Bộ, đã nổ ra một trận đánh lớn đầu tiên ở miền Nam, trận diệt căn cứ Tua Hai (Tây Ninh) có nội ứng và binh vận phối hợp, diệt và bắt sống 500 tên địch, thu 1500 súng và nhiều đạn dược. Nắm thời cơ, xứ ủy phát động đợt hai đồng khởi, từ tháng 6 đến tháng 9 năm 1960, giành thắng lợi lớn. Phong trào lan rộng thêm ra Tây Nguyên, Khu 5, và ảnh hưởng đến các đô thị. Ở Sài Gòn - Chợ lớn, tự vệ và biệt động có sự hỗ trợ của học sinh, sinh viên, bắt đầu đánh những trận nhỏ, lẻ giữa nội đô.
Như vậy, từ những cuộc khởi nghĩa từng phần lẻ tẻ ở một số địa phương đã bùng lên cuộc đồng khởi hầu khắp các vùng nông thôn miền Nam. Phong trào đã huy động khoảng 10 triệu người tham gia đấu tranh giành quyền làm chủ, thành lập chính quyền tự quản của nhân dân ở 1363 trên 2627 xã ở miền Nam, với số dân trên 5 triệu. Lực lượng vũ trang được xây dựng từ miền, khu đến tỉnh, huyện, xã. Một vùng căn cứ địa liên hoàn được hình thành gồm vùng giải phóng rừng núi, vùng căn cứ địa sau lưng địch. Các khu trù mật của địch bị phá vỡ, tan rã hầu hết.
“Đồng Khởi” là một đòn bất ngờ giáng vào chiến lược Ai-xen-hao ở miền Nam, làm thất bại một hình thức điển hình của chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ.
Trước sự thất bại chiến lược, để lập lại sự thống trị ở thôn xã và tiêu diệt lực lượng vũ trang cách mạng còn non trẻ, đế quốc Mỹ phải chuyển sang chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, phát động một cuộc chiến tranh mới “lấy việc đánh bại Việt Cộng làm mục tiêu thực sự và cuối cùng”. Mở đầu, bằng việc thực hiện kế hoạch Xta-lây Ta-lo, nhằm bình định miền Nam trong 18 tháng với các biện pháp chủ yếu:
Tăng cường lực lượng quân sự của ngụy, có Mỹ yểm trợ bằng xe tăng và trực thăng, giữ vững đô thị, xây dựng ngụy quyền và bộ máy kìm kẹp, lập ấp chiến lược; tích cực ngăn chặn biên giới, kiểm soát ven biển, cắt đứt sự chi viện của miền Bắc.
Đối lại, trên đà tiến công liên tục, nhằm đánh bại âm mưu và thủ đoạn chiến lược mới của địch, giữ vững và phát triển thành quả cách mạng, phong trào “đồng khởi” đã nhanh chóng chuyển thành chiến tranh cách mạng trên quy mô ngày càng lớn, có tổ chức lãnh đạo và chủ trương chặt chẽ, thống nhất.
Trước những chuyển biến có ý nghĩa chiến lược trên cả hai miền, miền Bắc hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa, miền Nam đồng khởi thành công, Đại hội Đảng lần thứ III họp (tháng 9-1960) đã đề ra đường lối và nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới, và nhấn mạnh: hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, là nhiệm vụ chung của cả nước. Riêng đối với miền Nam, yêu cầu nhiệm vụ trước mắt là: “đoàn kết toàn dân kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị Ngô Đình Diệm, tay sai của đế quốc Mỹ, thành lập chính quyền liên hiệp dân tộc dân chủ nhân dân, thực hiện độc lập dân tộc, các quyền tự do dân chủ và cải thiện đời sống nhân dân... “Đại hội quyết định thành lập Trung ương Cục miền Nam. Ngày 20-12-1960 Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời. Đến 15-2-1961 thì các lực lượng vũ trang miền Nam được thống nhất, tổ chức lấy tên là “Quân giải phóng miền Nam”.
Cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân miền Nam đã phát triển theo phương châm chỉ đạo rất sáng tạo: kết hợp đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị song song, tiến công địch trên cả 3 vùng chiến lược bằng 3 mũi giáp công, 2 lực lượng, quân sự, chính trị và 3 thứ quân.
Năm 1961, các lực lượng vũ trang miền Nam đánh 15.529 trận, diệt trên 20.000 tên địch (có 41 Mỹ) thu 6.000 súng. Phong trào đấu tranh chính trị trực diện của quần chúng nông thôn phối hợp với quần chúng đô thị diễn ra sôi nổi, thu hút gần 34 triệu lượt người tham gia và nổi bật là sự xuất hiện “đội quân tóc dài” của phụ nữ miền Nam.
Bước sang năm 1962, để chống đỡ với đà phát triển của cách mạng, đế quốc Mỹ đưa vào miền Nam nhiều phương tiện chiến tranh hiện đại, tăng cường không quân, pháo binh và phương tiện cơ động, như trực thăng, thiết giáp, sử dụng rộng rãi chiến thuật “trực thăng vận”, biệt kích, và rải chất độc hóa học một cách bừa bãi.
Những thủ đoạn mới đó của địch đã gây cho ta không ít khó khăn, tổn thất.
Tháng 2 năm 1962, Bộ Chính trị đề ra chủ trương: đẩy mạnh chiến tranh du kích rộng khắp, kết hợp đòn tấn công của chủ lực ở vùng xung yếu, nhằm không ngừng tiêu hao, tiêu diệt làm tan rã lực lượng địch, bồi dưỡng lực lượng ta về mọi mặt. Quân ủy Trung ương xác định nhiệm vụ, kế hoạch quân sự năm 1962, là phá kế hoạch bình định, kiên quyết giữ vững và phát triển cách mạng miền Nam lên một bước. Phương châm là, lấy hoạt động du kích làm chính kết hợp với những trận vận động nhỏ, tùy điều kiện chiến trường. Theo phương hướng chỉ đạo chiến lược của Trung ương xuất phát từ thực tế chiến trường, Trung ương Cục chủ trương tập trung nỗ lực vào 3 khâu then chốt là: kiên quyết phá địch gom dân, lập ấp chiến lược, ra sức xây dựng và mở rộng căn cứ địa vững chắc, khẩn trương xây dựng lực lượng vũ trang cả 3 thứ quân, đẩy ngạnh đấu tranh vũ trang, tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch. Cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam có thêm sức mạnh đã diễn ra ngày càng mạnh mẽ, đều khắp, và giành nhiều thắng lợi về các mặt trận chống phá “bình định”. Tính đến cuối năm 1962, ta phá được 2.665/4000 ấp chiến lược, phá tan 13 Khu dồn dân ở Khu 5, phá được thế kìm kẹp ở 8.862 thôn và giải phóng hoàn toàn 4.441 thôn, kiểm soát trên 76% nông thôn với số dân hơn 6,5 triệu trên 14 triệu dân miền Nam.
Đòn tấn công chính trị của quần chúng từ nông thôn đã mở rộng ra ở đô thị, có sự lãnh đạo thống nhất về mục tiêu, kế hoạch và thời gian, đồng thời các đội biệt động, đặc công, tăng cường đánh vào kho tàng, cơ quan đầu não của địch. Nổi bật là trận đánh kho xăng Tân Sơn Nhất ngày 29-6-1962, đốt cháy 6 triệu lít làm cho hậu phương của địch ngày càng rối loạn.
Kế hoạch Xta-lây Tay-lo bị đánh bại, buộc đế quốc Mỹ phải kéo dài kế hoạch “bình định” miền Nam thêm 2 năm (1963-1964). Biện pháp chủ yếu của chúng vẫn là: Tăng cường bình định, tăng cường các cuộc hành binh đánh phá nhằm giành thắng lợi quân sự, cô lập miền Nam, ra sức xây dựng ngụy quân, ngụy quyền. Quy mô và mức độ đánh phá lớn hơn, cao hơn trước. Năm 1963 địch tăng quân ngụy lên 407 nghìn (có 266 nghìn chủ lực), tăng gấp đôi lực lượng yểm trợ và cố vấn Mỹ. Chúng còn ép tay sai Lào cho quân ngụy Sài Gòn tự vượt sang đất Lào “truy kích Việt Cộng”, dùng máy bay không mang số hiệu đánh hành lang vận chuyển của ta.
Trên cơ sở kinh nghiệm trong cuộc kháng chiến chống Pháp tháng 12-1962, Bộ Chính trị chỉ ra nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam là: “động viên chính trị toàn dân, tiến hành một cuộc chiến tranh toàn diện và trường kỳ, hết sức mở rộng lực lượng quân sự và chính trị, phát động chiến tranh du kích rộng khắp, tiêu hao tiêu diệt nhiều sinh lực địch, đánh bại kế hoạch lập ấp chiến lược của địch; trước mắt, làm thất bại kế hoạch tấn công của địch trong năm 1963, giữ vững và phát triển lực lượng của ta, mở rộng căn cứ địa và vùng giải phóng, sẵn sàng giữ vững thời cơ, đẩy cuộc cách mạng tiến lên giành nhiều thắng lợi hơn trong tình hình gay go, phức tạp, cũng như trong tình hình có những chuyển biến mới có lợi cho phong trào”. Dự kiến khả năng, Bộ Chính trị còn nêu thêm, cần xúc tiến chuẩn bị “nắm vững thời cơ để có thể tiến tới tổng công kích và tổng khởi nghĩa”. Phương châm tác chiến được xác định là: đánh du kích kết hợp với vận động chiến nhỏ, trong điều kiện thuận lợi và từng bước vững chắc thận trọng thì đánh công kiên, quy mô phổ biến là đánh cấp tiểu đoàn, khi có điều kiện và chuẩn bị tốt, phối hợp 2-3 tiểu đoàn cùng tác chiến, tiêu diệt phổ biến từng đại đội địch. Vì thế, phải tích cực xây dựng lực lượng tập trung, đồng thời mở rộng lực lượng dân quân du kích hơn nữa.
Mở đầu cho năm 1963 là trận thắng oanh liệt ở Ấp Bắc ngày 2-1-1963 (xã Tân Phú, huyện Cai Lậy - Mỹ Tho), đánh bại 3 đợt tấn công của 2.000 quân ngụy, đông hơn 20 lần quân ta, có đầy đủ phi pháo, xe lội nước, có cố vấn Mỹ đi kèm. Ta diệt và làm bị thương 450 tên địch (có 19 Mỹ), bắn hỏng 8 trực thăng, 2 xe M113, 1 tàu đổ bộ. Bị thất bại, địch rút bỏ cuộc hành quân. Cùng với Ấp Bắc, nhân dân 2 huyện Cai Lậy, Châu Thành, phối hợp với chủ lực phá 8 ấp chiến lược, lôi kéo cả thân nhân lính ngụy vào đô thị đòi chồng con, đòi xác chết. Trận đánh quan trọng này đã báo hiệu khả năng của quân giải phóng có thể đánh bại chiến thuật cơ động trực thăng vận, thiết xa vận của Mỹ ngụy, làm lung lay lòng tin của Mỹ vào khả năng chống đỡ của ngụy quân trước sức tiến công của cách mạng. Trong phong trào “thi đua Ấp Bắc, giết giặc lập công”, năm 1963, lực lượng vũ trang toàn miền Nam đã đánh 24.000 trận lớn nhỏ, diệt, sát thương và bắt sống 7 - 8 vạn quân địch (có 600 Mỹ), bắn rơi và phá hủy hơn 600 máy bay, diệt 200 xe thiết giáp và xe vận tải, đánh đổ 34 đoàn xe lửa, diệt 236 tàu xuồng, thu hơn 1 vạn vũ khí các loại, diệt và bức hàng, bức rút trên 800 đồn bốt. Về đấu tranh chính trị và chống phá bình định, có 34 triệu lượt người tham gia, phá hoàn toàn 2.895 ấp chiến lược trong số 6.164 ấp chúng lập được, số còn lại bị phá đi, phá lại nhiều lần. Ta phá được thế kìm kẹp, giải phóng, giành quyền làm chủ 12 nghìn trên tổng số 17 nghìn thôn toàn miền Nam.
Những thắng lợi to lớn nói trên của quân và dân ta đã làm cho quân địch từ thế tiến công chiến lược trong năm 1962 phải trở thành bị động đối phó. Mâu thuẫn Mỹ ngụy trở nên gay gắt, đã dẫn tới việc Mỹ phải thay ngựa giữa dòng, tiến hành đảo chính giết anh em Diệm - Nhu ngày 1 tháng 11 năm 1963, mở đầu cho khủng hoảng triền miên của ngụy quyền Sài Gòn.
- Cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta phát triển lên một bước mới, theo xu thế và thời cơ giành thắng lợi lớn, từ chiến tranh du kích chuyển thành một cuộc chiến tranh nhân dân rộng lớn có cả bộ đội chủ lực mở các chiến dịch.
Trước tình hình ngày càng xấu đi, từ đầu năm 1964 Mỹ ra sức đẩy mạnh chiến tranh đặc biệt đến mức cao nhất. Chúng tăng quân ngụy lên 51,8 vạn, đưa lính đánh thuê Nam Hàn, Thái Lan vào miền Nam, đẩy mạnh càn quét bình định và tung biệt kích ra phá hoại miền Bắc. Chúng còn liều lĩnh cho không quân, hải quân xâm nhập khiêu khích, quấy rối miền Bắc.
Nắm vững thời cơ, tháng 12 năm 1963, Trung ương Đảng mở hội nghị lần thứ 9, vạch ra phương hướng chỉ đạo đưa cách mạng miền Nam tiến lên giành thắng lợi to lớn trong tình thế mới. Hội nghị nhận định rằng: “Cuộc chiến tranh cách mạng miền Nam đang phát triển theo chiều hướng giành thắng lợi từng phần, đẩy lùi địch từng bước tiến tới tổng công kích, tổng khởi nghĩa, nhưng cũng có thể thông qua một bước quá độ trước khi giành thắng lợi hoàn toàn”. Từ đó, ta chủ trương phải có một nỗ lực vượt bậc, nhanh chóng tăng cường lực lượng quân sự để đánh lâu dài, đồng thời tích cực tranh thủ thời cơ để thắng địch trong thời gian tương đối ngắn”. Nghị quyết Trung ương nhấn mạnh: “… đấu tranh vũ trang cần phải theo quy luật của chiến tranh là tiêu diệt sức chiến đấu của địch, không những phải có lực lượng chính trị lớn mạnh và phải có lực lượng quan sự thật lớn mạnh để tạo nên một chuyển biến căn bản về so sánh lực lượng quân sự giữa ta và địch, phải tích cực củng cố và mở rộng căn cứ, nhất là ở những địa bàn chiến lược và cơ động của quân chủ lực để tiến lên tiêu diệt từng bộ phận quân đội địch, phá phần lớn các ấp chiến lược, làm chủ phần lớn xã thôn và rừng núi, tạo điều kiện cho phong trào quần chúng ở đô thị nổi dậy, thúc đẩy chế độ Mỹ và tay sai khủng hoảng và suy sụp nhanh chóng hơn, làm phong trào tiến lên giành thế chủ động chiến lược, sáng tạo ra thời cơ, giành những thắng lợi quyết định”.
Ngày 27 tháng 3 năm 1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tập hội nghị chính trị đặc biệt. tổng kết 10 năm xây dựng miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà, kêu gọi toàn dân sẵn sàng hy sinh phấn đấu vì sự nghiệp cao cả của Tổ quốc và cách mạng thế giới. Người khẳng định: sự thất bại không thể tránh khỏi của đế quốc Mỹ trong chiến tranh đặc biệt.
Một loạt vấn đề quân sự được đặt ra để giải quyết. Căn cứ vào hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng, Quân ủy Trung ương xác định 2 nhiệm vụ chiến lược quân sự trong cuộc kháng chiến chống Mỹ là: bảo vệ an ninh và toàn vẹn lãnh thổ ở miền Bắc; đẩy mạnh cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Bảo vệ miền Bắc là nhiệm vụ của cả nước, đồng thời có tác dụng lớn đối với cả Đông Dương; giải phóng miền Nam là nhiệm vụ cấp thiết nhất; giúp đỡ về quân sự cho cách mạng Lào và Cam-pu-chia, đặc biệt đối với Lào cũng hết sức quan trọng. Phương châm chiến lược: đối với miền Bắc, tích cực phòng ngự, đối với miền Nam, kết hợp đánh lâu dài với tích cực tranh thủ thắng địch trong thời gian tương đối ngắn, đồng thời chuẩn bị đối phó với chiến tranh mở rộng cục bộ hoặc ra cả miền Bắc.
Chủ lực cơ động được đặc biệt chú trọng. Ở Nam Bộ, chuẩn bị thành lập sư đoàn bộ binh và hình thành bộ chỉ huy dã chiến. Công tác vận chuyển chiến lược được giải quyết một cách khẩn trương.
Dưới ánh sáng của phương hướng chỉ đạo mới, phong trào đấu tranh của ta trong năm 1964 diễn ra tương đối đồng đều trên các chiến trường toàn miền Nam, buộc địch phải căng mỏng lực lượng ra đối phó một cách bị động.
Phong trào đô thị phát triển mạnh, tiêu biểu là ở Huế, Sài Gòn, Đà Nẵng, làm cho hậu phương của địch bị thu hẹp và rối loạn.
Tác chiến của bộ đội chủ lực có bước phát triển nhảy vọt, từ quy mô cấp tiểu đoàn lên quy mô trung đoàn hoặc mấy trung đoàn, đánh từng đợt dài ngày trên phạm vi rộng, đạt hiệu suất chiến đấu cao. Nổi bật là các trận đánh của bộ đội đặc công, biệt động vào các cơ quan đầu não và hậu cần của địch, và các trận đánh của chủ lực mang tính chất chuyển dịch như: chiến dịch An Lão (Bắc Bình Định) từ ngày 6 đến 8 tháng 12-1964; chiến dịch Bình Giã (Bà Rịa) từ 2-12-1964 đến 6-3-1965; chiến dịch Ba Gia (Quảng Ngãi) từ 29-5 đến 5-7-1965; chiến dịch Đồng Xoài (Đông Nam Bộ) từ 11-5 đến 22-7-1965 v.v...
Kết quả trên 100 nghìn quân địch bị thương vong và gần 200 nghìn tên đào, rã ngũ. Về phía ta, vào cuối năm 1964 đầu năm 1965 chủ lực Miền và các quân khu đã có 11 trung đoàn, 15 tiểu đoàn bộ binh, và các đơn vị đặc chủng cao xạ, đặc công, công binh đánh giao thông...
Thất bại nặng ở miền Nam, địch trực tiếp gây sức ép ở miền Bắc, gây ra vụ: “sự kiện Vịnh Bắc Bộ” ngày 2 tháng 8 năm 1964, kiếm cớ để mở đầu cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân vào ngày 5-8-1964. Đồng thời tại miền Nam, chúng đưa thêm lực lượng quân Mỹ vào trực tiếp chiến đấu, “bước vào cuộc chiến tranh trên bộ”, đưa cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam sang bước mới hết sức phiêu lưu, chấp nhận kết cục thất bại nhục nhã của chiến lược “chiến tranh đặc biệt”.
MỘT SỐ BÀI HỌC LỚN VỀ CHỈ ĐẠO CHIẾN LƯỢC
- Giải phóng đất nước, chống đế quốc chỉ bằng con đường bạo lực cách mạng. Từ khởi nghĩa từng phần tiến lên đồng khởi, phát triển thành chiến tranh cách mạng.
Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, chúng ta đứng trước những điều rất mới mẻ:
Từ chiến tranh chuyển sang hòa bình là một biến đổi lớn đối với toàn bộ cuộc sống của nhân dân và mọi mặt hoạt động, công tác của chúng ta.
Xây dựng miền Bắc, đồng thời phải tiếp tục đấu tranh giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất đất nước.
Kẻ thù mới là đế quốc Mỹ - tên đế quốc đầu sỏ, sen đầm quốc tế có khả năng và tiềm lực rất lớn, đang thực hiện chính sách xâm lược thực dân kiểu mới đối với miền Nam, hoàn toàn khác với thực dân Pháp, mà ta đã hiểu biết khá rõ ràng sau 9 năm kháng chiến.
Trong khi đó, về hoàn cảnh quốc tế, bên cạnh những thuận lợi căn bản cũng có mặt rất phức tạp. Ba dòng thác cách mạng, đặc biệt là phong trào giải phóng dân tộc, ở thế tiến công mạnh mẽ là sự phối hợp và hỗ trợ có hiệu quả nhất đối với cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta trong giai đoạn mới. Nhưng không phải không có mặt bất lợi, không có trở lực. Đó là thái độ thiếu nhất quán của một số nước bạn vừa ủng hộ, vừa hạn chế, không muốn để vấn đề Việt Nam ảnh hưởng đến đường lối chung sống hòa bình và quan hệ giữa các nước lớn, tìm mọi cách đưa Việt Nam vào quỹ đạo của họ, dùng vấn đề Việt Nam để làm ăn với đế quốc Mỹ, đặc biệt là giữa Liên Xô và Trung Quốc. Đó là sự chia rẽ trong phong trào cộng sản quốc tế, đã tạo ra kẽ hở rất lớn cho sự phản kích của chủ nghĩa đế quốc và phản động quốc tế.
Trong bối cảnh lịch sử như vậy, qua 10 năm đấu tranh tiên tục, ta đã giải quyết những vấn đề chiến lược hết sức phức tạp, mà quyết tâm chính xác chỉ có thể có được khi nắm chắc quan điểm giai cấp và quan điểm thực tiễn.
Đất nước chia làm hai miền, miền Bắc hoàn toàn giải phóng là một thắng lợi qua 9 năm kháng chiến quyết liệt, cần phải đấu tranh để củng cố hòa bình, ngăn ngừa chiến tranh trở lại, vì thế trong khi tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh chính trị ở miền Nam, phải ra sức củng cố miền Bắc, xây dựng chỗ dựa vững chắc cho cách mạng cả nước giành thắng lợi; Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Miền Bắc là cội gốc của cả nước”. Trên cơ sở lòng yêu nước sâu đậm của dân tộc Việt Nam, tin tưởng của nhân dân vào Đảng, Bác và thực tế là Pháp sau thất bại ở miền Bắc cần tập trung xây dựng nước Pháp sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, thì chủ trương thực hiện Hiệp định Giơ-ne-vơ, thi hành tổng tuyển cử trong 2 năm là phù hợp. Nếu thúc đẩy cuộc cách mạng bạo lực ngay sau Hội nghị Giơ-ne-vơ thì sẽ không được nhân dân ta hưởng ứng và thế giới sẽ không đồng tình.
Đế quốc Mỹ, tên sen đầm quốc tế, có sức mạnh và quyết tâm đẩy lùi chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản ở bất kỳ đâu trên trái đất, với ý đồ xâm lược miền Nam, đã gạt thực dân Pháp ra ngoài để thiết lập chế độ thực dân mới và lập một đầu cầu ở phía Nam châu Á chống chủ nghĩa xã hội. Điều đó thực ra chúng ta cũng khó mà xác định được ngay sau khi giải phóng được miền Bắc, lại chưa hiểu rõ kẻ thù mới, nên thiếu chuẩn bị, không kịp thời chỉ đạo chuyển hướng cho quần chúng đấu tranh, từ đấu tranh chính trị hòa bình tiến lên cách mạng bạo lực, chuẩn bị cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, đó là hạn chế của Đảng ta sau 2 năm đấu tranh thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ nên đã gây tổn thất cho lực lượng cách mạng ở miền Nam.
Qua hai năm đấu tranh chính trị hòa bình với địch, thực tiễn đã chỉ rõ cho Đảng ta không ảo tưởng với chúng “chúng ta phải nhớ rằng, kẻ thù của nhân tân ta là đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng còn chiếm giữ một nửa đất nước ta và chúng đang chuẩn bị chiến tranh vì vậy chúng ta cần phải luôn luôn nắm vững ngọn cờ hòa bình, nhưng đồng thời phải luôn luôn nâng cao đề phòng và cảnh giác” (Lời kết luận của Hồ Chí Minh tại Hội nghị Trung ương lần thứ 4, tháng 4-1956)
Tháng 6-1956, Bộ Chính trị ra nghị quyết về chủ trương kết hợp đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang tự vệ, nhanh chóng xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng căn cứ, xây dựng cơ sở quần chúng vững mạnh, tạo điều kiện căn bản để duy trì và phát triển lực lượng vũ trang”.
Tháng 9-1956, Trung ương họp hội nghị lần thứ 10 sửa chữa những sai lầm về cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, kiểm điểm sự chỉ đạo của Trung ương, Bộ Chính trị đối với cách mạng miền Nam, khẳng định thiếu sót trong 2 năm qua, nhất là buông lỏng cách mạng bạo lực, không bám sát nghiên cứu thực tiễn, coi nhẹ vai trò miền Bắc đối với miền Nam mà nguyên nhân là, Trung ương đã “thiếu ý thức lãnh đạo tư tưởng và đường lối”, nặng kinh nghiệm, giáo điều, thiếu độc lập, sáng tạo. Tuy vậy mặc dù cuộc đấu tranh cách mạng ở miền Nam vào cuối năm 1955 qua 1956 đã diễn ra khá gay gắt, nhiều nơi đã có đấu tranh vũ trang hoặc độc lập tiến công địch, hoặc kết hợp với lực lượng giáo phái theo cách mạng. Nhưng, Nghị quyết Trung ương 10 vẫn đề ra những ý kiến không rõ ràng như “phương châm là giữ gìn tích trữ lực lượng, đấu tranh bền bỉ lâu dài chống phiêu lưu, mạo hiểm, đồng thời chống thủ tiêu đấu tranh”. Không bám sát thực tiễn về chỉ đạo, dù đã nắm được tư tưởng bạo lực cách mạng, nhưng vẫn còn chậm chạp trong chủ trương. Sự chậm chạp này càng nặng nề, kéo dài thêm trong những năm 1957, 1958 lúc mà địch đàn áp, đánh phá dữ dội trước sự trỗi dậy của quần chúng.
Cùng với các cuộc nổi dậy lẻ tẻ, các trận đánh cấp tiểu đoàn đã tiến công vào căn cứ, đồn bốt của địch như Minh Thạnh (8-1957), Trại Bè (9-1957), Lò Than, Biên Hòa (12-1957), diệt quận lỵ Dầu Tiếng (10-1958), trụ sở phái đoàn cố vấn Mỹ ở Biên Hòa (10-1958). Hai năm 1957, 1958 tình thế cách mạng ở miền Nam đã vô cùng bức xúc. Sự chậm chạp của Đảng là thiếu sót lớn.
Tháng 1-1959, Trung ương đã họp Hội nghị lần thứ 15 mở rộng kiểm điểm sự lãnh đạo của Trung ương với cách mạng miền Nam và đề ra nhiệm vụ, đường lối cách mạng chung cho cả nước và riêng cho miền Nam.
Về nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam, Trung ương xác định: “Giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc phong kiến”. Trước mắt là “đánh đổ tập đoàn thống trị độc tài Ngô Đình Diệm, tay sai đế quốc Mỹ bằng sử dụng bạo lực, lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang hoặc nhiều, hoặc ít, tùy tình hình để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc phong kiến, dựng lên chính quyền cách mạng của nhân dân”.
Nghị quyết Trung ương 15 chưa về đến nơi, nhiều địa phương đã vùng lên khởi nghĩa: Bắc Ái (từ 10-1958 đến 1-1959), Vĩnh Thanh (tháng 2-1959), Trà Bồng (tháng8-1959), An Xuyên, U Minh (tháng 10-1959). Đấu tranh vũ trang cũng mạnh lên, quy mô lớn hơn, tiêu biểu như trận phục kích Giồng Thị Dam - Gò Quảng Cung ở Hồng Ngự - Đồng Tháp Mười. Rồi nghị quyết 15 như khơi dậy ngọn lửa cách mạng bùng lên khắp miền Nam, “đồng khởi là kết quả của tư tưởng chỉ đạo đúng đắn của Đảng và sức mạnh quật khởi của quần chúng, đã giải phóng nhiều vùng nông thôn rộng lớn, giáng cho đế quốc Mỹ và tay sai một đòn quyết định, đưa cách mạng miền Nam sang giai đoạn mới.
TRONG CHIẾN TRANH CÁCH MẠNG, PHẢI KẾT HỢP ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ VỚI ĐẤU TRANH VŨ TRANG, KẾT HỢP CHIẾN TRANH DU KÍCH VỚI CHIẾN TRANH CHÍNH QUY, ĐÁNH BẠI CÁC BIỆN PHÁP CHIẾN LUỢC CỦA ĐỐI PHUƠNG
Sau “đồng khởi” kẻ địch đã dồn sức phản kích, quyết giành lại những vùng đã mất, đẩy mạnh chiến tranh hòng tiêu diệt lực lượng vũ trang ta còn non trẻ, đánh phá phong trào quần chúng đang nổi dậy rộng khắp. Ta chủ trương, chuyển từ khởi nghĩa vũ trang sang chiến tranh giải phóng, kết hợp đấu tranh chính trị và vũ trang song song, tiến công địch cả chính trị và quân sự tiến lên tổng công kích, tổng khởi nghĩa, giành thắng lợi bằng tổng khởi nghĩa và chiến tranh du kích trường kỳ. Nhưng trong thực tiễn, không thế dùng chiến tranh du kích trường kỳ giành thắng lợi bằng tổng khởi nghĩa, mà phải tiến “theo hướng giành thắng lợi từng phần, đẩy lùi địch từng bước, tiến tới tông công kích, tổng khởi nghĩa” bằng đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang đi đôi nhưng đấu tranh vũ trang cần phải theo quy luật của chiến tranh là tiêu diệt sức chiến đấu của địch. Vì thế “không những phải có lực lượng chính trị lớn mạnh mà phải có lực lượng quân sự thật lớn mạnh” để tạo nên một chuyển biến căn bản về so sánh lực lượng quân sự giữa ta và địch”.
Để làm thay đổi mau chóng so sánh lực lượng giữa ta và địch phải “tích cực mở rộng căn cứ, nhất là ở những địa bàn chiến lược và cơ động của quân chủ lực, để tiến lên tiêu diệt từng bộ phận quân đội địch, phá phần lớn các ấp chiến lược làm chủ phần lớn xã thôn và rừng núi, tạo điều kiện cho phong trào quần chúng ở đô thị nổi dậy mạnh mẽ, thúc đẩy chế độ Mỹ và tay sai khủng hoảng và suy sụp nhanh chóng hơn, làm cho phong trào tiến lên giành chủ động chiến lược, sáng tạo ra thời cơ, giành những thắng lợi quyết định”.
Nghị quyết 9 của Trung ương đã nắm vững quy luật của chiến tranh, thấy rõ yêu cầu cấp bách của tiến công quân sự của đòn tiêu diệt của bộ đội chủ lực. Các chiến trường cũng đã nhạy bén nhận thức được yêu cầu khẩn trương đó, gạt bỏ bất đồng, chống lại những tư tưởng bảo thủ trì trệ trong phương châm chỉ đạo giành thắng lợi bằng tổng khởi nghĩa và chiến tranh du kích trường kỳ.
Những thắng lợi của Bình Giã, Ba Gia, An Lão, Đèo Nhông, Đồng Xoài, Sông Bé, đã làm cho đội quân chủ lực ngụy đứng trước nguy cơ suy sụp, làm thất bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt của đế quốc Mỹ trận chiến trường miền Nam Việt Nam.
Đồng thời những thắng lợi này cũng là thắng lợi của tư tưởng quân sự của Đảng ta, của chiến tranh nhân dân, vừa phát huy các cuộc đấu tranh chính trị của quần chúng rộng khắp trên cả ba vùng chiến lược, vừa đẩy mạnh tác chiến du kích, vừa thực hiện được những đòn tiêu diệt của chủ lực.
Con đường bạo lực cách mạng đã đi qua là, từ đấu tranh chính trị đến vũ trang khởi nghĩa, từ khởi nghĩa từng phần tiến lên đồng khởi rồi nhanh chóng chuyển thành chiến tranh cách mạng, cuộc chiến tranh cách mạng với hình thức đấu tranh vũ trang là chiến tranh du kích chuyển thành một cuộc chiến tranh toàn dân, quy mô ngày càng lớn, mang tính đặc thù Việt Nam trong thời đại mới. Con đường phát triển phải đi qua từng bước như vậy, là do sự tác động của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, cả trong nước và thế giới, nhưng trực tiếp, trước hết là giữa ta và địch. Ta muốn giải phóng triệt để, giành lấy chính quyền; địch muốn giữ chặt quyền thống trị, nhất là đế quốc với tham vọng và tiềm năng lớn, chúng không chịu lùi bước một cách dễ dàng.
Sáng tạo và vận dụng đến mức cao nhất hình thức đấu tranh chính trị và khởi nghĩa vũ trang trong chiến tranh giải phóng, là cống hiến vô cùng to lớn trong việc phát triển nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh và đấu tranh vũ trang, đã đạt được kỳ tích trong việc làm suy yếu cả thế và lực của ngụy quân ngụy quyền - chỗ dựa chủ yếu của Mỹ, để tiến hành chiến tranh đặc biệt. Nhưng khi đã đi vào chiến tranh, thì quy luật chiến tranh và quy luật đấu tranh vũ trang đóng vai trò chủ đạo của nó. Quy luật đó, đòi hỏi về nguyên tắc, phải tiêu diệt cho được sức chiến đấu của kẻ địch. Đi đôi với chiến đấu du kích, phải có những đòn đánh tiêu diệt của chủ lực. Đến đây lại xuất hiện tình trạng chần chừ, chậm chạp có tính bảo thủ trì trệ trong việc xây dựng chủ lực ở chiến trường do ảnh hưởng tư tưởng sai lầm, muốn giành thắng lợi (toàn bộ) bằng tổng khởi nghĩa và chiến tranh du kích trường kỳ, thực tiễn cũng đã chứng minh rõ, khả năng giành thắng lợi quyết định bằng tổng công kích và tổng khởi nghĩa như đã dự liệu trong giai đoạn này không thực hiện được, ít nhất, chưa xuất hiện đầy đủ các nhân tố cơ bản.
MIỀN BẮC LÀ “CÁI GỐC” CHO CÁCH MẠNG CẢ NƯỚC
Đoàn kết toàn dân chiến đấu chống đế quốc xâm lược, giành độc lập toàn vẹn cho Tổ quốc, là ngọn cờ bách thắng. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, quán triệt tư tưởng, “miền Bắc phải là căn cứ địa, là chỗ dựa vững chắc, là cái gốc cho cách mạng cả nước”, Đảng ta đã tập trung mọi cố gắng để củng cố và xây dựng về mọi mặt chính trị, kinh tế, quốc phòng an ninh. Và kết quả là ta đã vượt được rất nhiều khó khăn để khắc phục hậu qủa chiến tranh, ổn định cuộc sống, thiết lập được nền chuyên chính cách mạng của nhân dân, động viên toàn Đảng toàn quân, toàn dân miền Bắc ra sức lao động sản xuất, tăng cường quốc phòng, một lòng một dạ hướng về miền Nam ruột thịt, thiết lập quan hệ quốc tế, tranh thủ sự ủng hộ cho sự nghiệp cách mạng nước ta.
Thực tiễn đã chứng minh, vị trí hết sức quan trọng của miền Bắc xã hội chủ nghĩa đối với cách mạng miền Nam trong việc chi viện về người, vũ khí, cán bộ. Miền Bắc là hậu phương, là niềm tin và hy vọng của cả dân tộc. Đế quốc Mỹ đã sợ sức mạnh về lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam, không dám thực hiện tổng tuyển cử ở miền Nam, vì đế quốc Mỹ muốn thực hiện ý đồ đế quốc thực dân mới, muốn biến miền Nam nước ta thành thuộc địa kiểu mới, thành căn cứ quân sự ngăn chặn sự phát triển của xã hội chủ nghĩa ở khu vực này.
Chính vì thế mà Mỹ đã thay ngựa, giết Ngô Đình Diệm khi thấy Diệm không phục tùng hoàn toàn mình, như một tên bù nhìn nô lệ.
Mỹ luôn luôn dựa vào quân sự, vào khủng bố chém giết, vào bom đạn, để buộc nhân dân Việt Nam khuất phục. Mỹ đã thất bại trước lòng yêu nước vô bờ bến của nhân dân Việt Nam và chính lòng yêu tổ quốc, độc lập, tự do đã chiến thắng sức mạnh quân sự lớn nhất của thời đại.
Chiến tranh nhân dân với nghệ thuật quân sự độc đáo của nó đã chiến thắng chiến tranh đặc biệt của đế quốc Mỹ hùng mạnh nhất thời đại, vì nó đã được thiết lập trên nền tảng của sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, chống đế quốc thực dân kiểu mới.
Mỹ đã thất bại trong chiến lược “chiến tranh đặc biệt” và tiếp tục thất bại khi chúng tiếp tục leo thang chiến tranh. Thất bại đó gắn liền với bản chất đế quốc và mục tiêu phi nghĩa trong cuộc chiến tranh xâm lược của chúng.
Chương 02
Đánh Pháp, đuổi Mỹ giải phóng đất nước giai đoạn 1945-1975 ĐÁNH CHO MỸ CÚT (1965 – 1973)
Nguồn: quansuvn.net
Thu gọn nội dung
ĐÁNH BẠI CHIẾN LƯỢC “CHIẾN TRANH CỤC BỘ” CỦA ĐẾ QUỐC MỸ Ở MIỀN NAM
Những trận mở đầu đánh Mỹ
Sau thắng lợi lớn của chiến thắng Bình Giã (12-1964) đợt tiến công vào khu An Lão ở Khu 5, và một số nơi khác vào cuối năm 1964 và đầu năm 1965, mặc dù còn trên 50 vạn tên, nhưng quân ngụy Sài Gòn đã tỏ ra bất lực. Qua nhiều cuộc đảo chính thay đổi chính phủ, nhưng ngụy quyền tay sai vẫn không đứng vững trước sức tiến công và nổi dậy của cách mạng miền Nam. Quốc sách “ấp chiến lược” của Mỹ - ngụy căn bản bị phá sản. Cuộc “chiến tranh đặc biệt” của địch đã căn bản thất bại. Đế quốc Mỹ đứng trước một sự lựa chọn gay cấn: hoặc rút khỏi Việt Nam, hoặc thay đổi chiến lược leo thang chiến tranh lên một bước mới.
Giôn-xơn sau khi trúng cử, đã dần từng bước thay đổi chủ trương chiến lược đối với Việt Nam. Tháng 2-1965, chúng quyết định mở cuộc chiến tranh phá hoại và phong tỏa bằng không quân và hải quân ra miền Bắc, hòng cứu nguy cho ngụy quân ngụy quyền Sài Gòn. Tháng 3-1965 chúng bắt đầu đưa 2 tiểu đoàn chiến đấu của lực lượng lính thủy đánh bộ Mỹ vào Đà Nẵng.
1-4-1965, hội đồng an ninh quốc gia Mỹ quyết định “chấp nhận quan điểm Mỹ bước vào cuộc chiến tranh trên bộ ở Việt Nam”.
Như vậy, chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ ở Việt Nam đã bắt đầu. Đến ngày 17 tháng 7 năm 1965, Tổng thống Giôn-xơn chuẩn y đề nghị của Oét-moô-len cho triển khai 44 tiểu đoàn Mỹ vào Nam Việt Nam và thực hành chiến lược “an ninh căn cứ” với các cuộc hành quân “tìm diệt” và “bình định”.
Từ đó trở đi, đế quốc Mỹ và chư hầu ngày càng gia tăng việc đưa quân xâm lược vào miền Nam Việt Nam; cho đến cuối 1965 Mỹ đã nâng tổng số quân ở miền Nam lên 4 sư và 1 trung đoàn với tổng số 184.314 tên - Nam Triều Tiên 10 tiểu đoàn (28.500 tên) và đưa tổng số quân ngụy Sài Gòn đến cuối năm 1965 lên tới 630.000 tên (trong đó có 311.000 quân chủ lực).
Từ đó, cả nước ta, từ Nam chí Bắc, thống nhất một ý chí sắt đá: Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
Ngay sau khi Mỹ đưa những tiểu đoàn chiến đấu của chúng vào Đà Nẵng, đồng thời mở cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân ra miền Bắc, Trung ương đã nhìn thấy có những yếu tố của một cuộc “chiến tranh cục bộ”.
Từ 25 đến 27, Trung ương đã họp Hội nghị lần thứ 11 (đặc biệt) về tình hình và nhiệm vụ cấp bách trước mắt. Hội nghị đã nhận định: “từ nửa nước có chiến tranh, nửa nước có hòa bình đã biến thành cả nước có chiến tranh với hình thức và mức độ khác nhau ở mỗi miền...”. Hội nghị đã đề ra nhiệm vụ cơ bản của ta là, tích cực kìm chế và thắng địch trong cuộc chiến tranh cục bộ” ở miền Nam, nếu địch gây ra, và kiên quyết bảo vệ miền Bắc đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại và phong tỏa bằng không quân và hải quân của địch...”. Ngày 8-4-1965 Chính phủ ra tuyên bố về lập trường 4 điểm, khẳng định rằng “Mỹ là kẻ thù xâm lược thì Mỹ phải rút khỏi miền Nam Việt Nam. Mỹ phải tôn trọng Hiệp định Giơ-ne-vơ về Việt Nam, công việc miền Nam do nhân dân miền Nam tự giải quyết. Mặt trận dân tộc giải phóng là người đại diện chân chính duy nhất của nhân dân miền Nam, việc thực hiện hòa bình thống nhất nước Việt Nam do nhân dân Việt Nam ở hai miền tự giải quyết”.
Tháng 8-1965, Mặt trận dân tộc giải phóng tuyên bố lập trường sắt đá của nhân dân miền Nam: “thà chết chứ không chịu làm nô lệ, sẽ chiến đấu đến cùng để bảo vệ Tổ quốc, giành độc lập hoàn toàn”.
Thực hiện Nghị quyết của Trung ương, Tuyên bố của Chính phủ và Mặt trận, nhân dân cả hai miền Nam Bắc quyết tâm bước vào cuộc đọ sức trực tiếp với đế quốc Mỹ.
Tháng 5-1965, các lực lượng vũ trang Nam Bộ mở chiến dịch Đồng Xoài. Lần đầu tiên, ta tập trung lực lượng chủ lực tương đối lớn trên chiến trường Nam Bộ (4 trung đoàn và 2 tiểu đoàn chủ lực + đặc công và hỏa lực) phối hợp với lực lượng địa phương tiến hành tác chiến trên một khu vực rộng. Hướng chính, gồm 2 tỉnh Bình Long và Phước Long; hướng phối hợp, gồm 5 tỉnh Lâm Đồng, Bình Tuy, Long Khánh, Biên Hòa, Bà Rịa.
Từ 11-5 đến 22-7-1965 ta đã đánh vào một khu vực phòng thủ khá kiên cố của địch. Kết quả chiến dịch ta đã diệt 4 chi khu quân sự của địch, diệt gọn 4 tiểu đoàn, 25 đại đội, 6 chi đội cơ giới, 4 phân đội pháo binh, công binh, tiêu diệt trên 4.000 tên có 73 tên Mỹ, bắn rơi 34 máy bay, phá hủy 3 máy bay lên thẳng, thu 1.652 súng các loại.
Bộ đội chủ lực đã trưởng thành thêm một bước trong đánh công sự vững chắc, trình độ chỉ huy tác chiến được nâng cao.
Chiến thắng Đồng Xoài đẩy quân ngụy lâm vào nguy cơ tan rã sụp đổ, và chứng tỏ, trên chiến trường rừng núi ta có khả năng hạn chế được chỗ mạnh, khoét sâu nhược điểm của địch, để thực hành đánh tiêu diệt lớn.
Cùng trong thời gian tháng 5-1965, tại Khu 5, sau khi đưa quân Mỹ vào Đà Nẵng, một tiểu đoàn lính thủy đính bộ Mỹ đã chiếm vùng An Tân, Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam. Đêm 27 rạng 28 tháng 5, 2 tiểu đoàn chủ lực phối hợp với đặc công của quân khu tiến công tiểu đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ, tiêu diệt gọn một đại đội lính thủy đánh bộ Mỹ ở núi Thành, 180 tên Mỹ chết và bị thương.
Lần đầu tiên, lực lượng vũ trang ta diệt gọn đại đội Mỹ trên chiến trường miền Nam. Quân khu 5 vinh dự được Đảng và Chính phủ tuyên dương 8 chữ vàng: “Anh dũng, kiên cường, đi đầu diệt Mỹ”.
Phấn khởi trước thắng lợi núi Thành, quân dân Quân khu 5 lại tiếp tục tiến công địch ở Ba Gia, thuộc huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi.
Từ 1 giờ sáng 29-5 đến 4 giờ ngày 31-5-1965, ta dùng 1 trung đoàn bộ binh, 1 đại đội lựu pháo 75, 1 đại đội phòng không, tiến công 1 chiến đoàn ngụy bằng 1 loạt trận phục kích, tập kích, diệt viện, đánh cả ban ngày và ban đêm và đã giành thắng lợi giòn giã, diệt gọn 4 tiểu đoàn địch (có 6 tên Mỹ) thu 307 súng các loại, bắn rơi 2 máy bay, phá 14 xe vận tải, 2 pháo 105 ly.
Trận Ba Gia lại chứng minh một bước trưởng thành lớn của trình độ tác chiến vận động của bộ đội ta. Trong điều kiện địa hình không thuận lợi, địch chiếm ưu thế binh hỏa lực so với ta mà ta đã đánh thắng, diệt gọn nhiều tiểu đoàn, bắt tù binh thu vũ khí và thương vong ít. Chiến thắng Ba Gia mở đầu khả năng bộ đội ta có thể tiêu diệt từng chiến đoàn quân ngay cả ban ngày và ban đêm, đánh dấu sự phá sản hoàn toàn của “chiến tranh đặc biệt”.
Trước tình hình rối loạn về chính trị, ngụy quyền yếu kém, cùng với sự thất bại liên tiếp của ngụy quân ngụy quyền trên các chiến trường, nguy cơ sụp đổ của chế độ ngụy ở miền Nam đang bầy ra trước mắt chính quyền Giôn-xơn.
Ngay Oét-mo-len, đã phải nhận xét: Mùa xuân 1965 quân đội Việt Nam cộng hòa trung bình mỗi tuần mất 1 tiểu đoàn, và ít nhất cứ một tuần, đối phương kiểm soát thêm 1 quận lỵ Trước tình hình đó, chắc chắn chính quyền Việt Nam cộng hòa không thể tồn tại được trong vòng quá 6 tháng, nếu không có sự tăng cường lực lượng Mỹ.
Chiến nhắng Vạn Tường 18-8-1965, đánh phủ đầu quân viễn chinh Mỹ trong thu đông 1965, mở đầu thắng lợi chống “chiến tranh cục bộ”.
Ngày 17-7-1965, tổng thống Mỹ Giôn-xơn thông báo quyết định đưa 44 tiểu đoàn Mỹ vào Nam Việt Nam và chấp nhận chiến lược “tìm diệt” của Oét-mo-len, quyết định “vượt qua ngưỡng cửa bước vào cuộc chiến tranh trên bộ ở châu Á” Và từ đó cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ đã chuyển sang chiến lược “chiến tranh cục bộ”.
Sau khi chiếm đóng vùng Chu Lai ở Quảng Nam, mờ sáng 18-8-1965, sư đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ mở cuộc hành quân mang tên “ánh sáng sao” nhằm vào thôn Vạn Tường, xã Bình Hải, huyện Bình Sơn, ở sát bờ biển bắc Quảng Ngãi, cách Chu Lai 17 km, nhằm mục đích diệt đơn vị chủ lực ta, tìm kiếm một thắng lợi quân sự để phô trương thanh thế cho quân viễn chinh Mỹ, mở đầu chiến lược tìm diệt.
Địch huy động 9.000 tên (4 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ; 2 tiểu đoàn ngụy), 1 tiểu đoàn tăng và xe lội nước (105 chiếc) cùng một số lực lượng pháo binh, công binh, 100 máy bay lên thẳng, 70 máy bay chiến đấu và 6 tàu đổ bộ.
Ta có 1 E đón quân tại Vạn Tường, đang huấn luyện. Sau 1 ngày chiến đấu, bộ đội và dân quân du kích đã đánh bại cuộc hành quân “tìm diệt” của địch. Địch tìm thấy ta nhưng không diệt được ta mà còn bị diệt 919 tên, bắn cháy 22 xe tăng, xe bọc thép, hạ 13 máy bay.
Lần đầu quân viễn chinh Mỹ sử dụng một lực lượng áp đảo cả hải, lục, không quân để càn quét một thôn nhỏ vùng ven biển nhưng đã bị đòn phủ đầu nặng nề, chịu thất bại thảm hại.
Vạn Tường được coi như Ấp Bắc đối với quân Mỹ, mở đầu cao trào diệt Mỹ. Tướng Oét-mo-len trong sách “Tường trình của người quân nhân” lại cho là, trong cuộc hành quân này Mỹ diệt được 700 cộng quân.
Chiến thắng Vạn Tường chứng tỏ, mặc dù quân Mỹ đông, có trang bị hiện đại ưu thế hơn ta nhiều lần, nhưng nếu chúng ta dám đánh và biết đánh, có cách đánh phù hợp, thì dù tác chiến ngay ở đồng bằng ven biển, sát ngay với căn cứ địch, ta vẫn có thể chiến thắng.
Chiến thắng Plây-me nối tiếp Vạn Tường càng củng cố lòng tin vào đánh thắng chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ.
Tháng 9-1965, đế quốc Mỹ đưa sư đoàn 1 “kỵ binh không vận” lên An Khê. Đó là đơn vị đầu tiên lên chiến trường Tây Nguyên. Lực lượng ta có 3e bộ binh chủ lực, 1 tiểu đoàn đặc công, 1 tiểu đoàn pháo, 1 tiểu đoàn súng máy 12,7.
Từ 19-10 đến 26-11-1965 ta bao vây cứ điểm của ngụy quân, buộc quân Mỹ phải vào ứng cứu để ta diệt Mỹ. Kết quả chiến dịch ta đã giáng một đòn chí tử vào sư đoàn 1 kỵ binh Mỹ, đánh thiệt hại nặng lữ đoàn 3 kỵ binh, diệt gọn 1 tiểu đoàn Mỹ (1.700 tên) bắn rơi 59 máy bay, diệt 1 chiến đoàn thiết giáp ngụy, phá 5 pháo… Quân Mỹ bị thất bại, lần đầu tiên phải tháo chạy.
Đây là chiến công to lớn của quân dân Tây Nguyên, làm cho quân và dân ta càng thêm nức lòng tin tưởng còn kẻ địch thì bàng hoàng kinh ngạc.
Nhưng Oét-mo-len nhận định về trận sư đoàn 1 kỵ binh không vận này ở thung lũng Ia Đrăng như sau; “tháng 10-1965 sau khi địch tấn công Ple-me tôi quyết định dùng sư kỵ binh không vận bước vào trận chiến đấu đầu tiên không phải là không lo ngại, “thất bại trong cuộc thử thách đầu tiên, sẽ làm mất lòng tin, mất tinh thần của chúng ta và nhân dân Mỹ, của Nam Việt Nam. Tấn công đẫm máu ở thung lũng Ia Đrăng đã làm giảm mối lo ấy của tôi và chứng minh giá trị của quân đội chúng ta và quan niệm sử dụng kỵ binh không vận”. Oét-mo-len đã nhận định kết quả của chiến lược tìm diệt của Mỹ thất bại ngay hai trận đầu tiên, rằng quân Mỹ trực tiếp tham gia chiến đấu trên bộ ở Nam Việt Nam, mới giải quyết được một phần lòng tin, không sợ thua trận của một đội quân mạnh nhất của đế quốc chứ không phải một thắng lợi quân sự vì thực tế không diệt được đối phương mà còn bị tiêu diệt một lực lượng quan trọng mà kinh nghiệm trong chiến tranh ở Triều Tiên, giải phóng quân Trung Quốc đã xác nhận diệt một tiểu đoàn Mỹ trong một trận là hiếm có, chứ không phải như kết quả ghi ở trên.
Trên đà chiến thắng, ngày 8-11-1965, tại Đất Cuốc, cách Biên Hòa 30 km về phía Bắc, thuộc phạm vi Chiến khu Đ, miền Đông Nam Bộ, quân Mỹ dùng một lữ đoàn dù mở một cuộc hành quân “tìm diệt”. Sau 2 ngày “tìm diệt” không có kết quả, bất ngờ bị sa vào trận địa phục kích của ta, một tiểu đoàn Mỹ bị diệt gọn. Đây là trận tiêu diệt lớn đầu tiên ở Nam Bộ.
Ngày 12-11, tại Bầu Bàng (Thủ Dầu Một) bằng một trận tập kích, trong vòng 30 phút, ta diệt 2 tiểu đoàn Mỹ, 1 chi đoàn xe cơ giới, diệt và làm bị thương hơn 2.000 tên Mỹ. Sư đoàn “Anh cả đỏ” tức sư đoàn bộ binh số 1 của Mỹ, bị giáng một đòn sét đánh. Đây là trận đánh tập kích diệt Mỹ lớn nhất từ khi chúng đưa quân vào miền Nam.
Đến 27-11, ta lại nổ súng tiến công địch ở Dầu Tiếng tiêu diệt hơn 4.000 tên thuộc sư đoàn bộ binh 1 Mỹ. Sư đoàn “Anh cả đỏ” lại một lần nữa bị giáng đòn nặng nề.
Từ 8 đến 12-12-1965 tại Hiệp Đức, Quảng Nam, ta đánh điểm; buộc quân Mỹ phải đến ứug cứu. Mới đầu, ta đánh quân ngụy là chủ yếu, sau diệt Mỹ là chủ yếu. Bằng phục kích, tập kích, vận động ta tiêu diệt 1.800 tên có 600 tên Mỹ, loại khỏi vòng chiến đấu 1 tiểu đoàn Mỹ, 3 tiểu đoàn ngụy, bắn rơi, phá hủy 21 máy bay.
Đêm 4-12-1965, ta dùng đặc công tiến công khách sạn Mê-tơ-rô-pôn ở Sài Gòn, diệt 200 tên Mỹ, gây chấn động lớn.
Như vậy ngay từ khi bắt đầu đưa quân vào tham chiến đã bị quân ta liên tiếp tiến công từ nhỏ đến lớn: Vạn Tường, Plây-me, Đất Cuốc, Bầu Bàng, Dầu Tiếng, Hiệp Đức... và các trận tập kích táo bạo vào tận hang ổ sào huyệt của chúng ở các căn cứ và ở ngay trong Sài Gòn, cùng các hoạt động liên tục, bền bỉ và mạnh mẽ của các vành đai diệt Mỹ ở Củ Chi, Lái Thiêu, Chu Lai, Đà Nẵng, An Khê... chúng ta đã liên tiếp làm cho quân Mỹ phải chịu nhiều thất bại nặng nề.
Qua thực tiễn đọ sức trên nửa năm giữa quân dân ta với quân Mỹ, Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 12-1965) đã phân tích sâu sắc tình hình và có những kết luận quan trọng: “Mặc dù đế quốc Mỹ đưa vào miền Nam hàng chục vạn quân viễn chinh, lực lượng so sánh giữa ta và địch vẫn không thay đổi”. Trung ương đã dự kiến cuộc chiến tranh sẽ càng trở nên gay go, ác liệt nhưng nhân dân ta đã có cơ sở chắc chắn để giữ vững và tiếp tục giành thế chủ động trên chiến trường. Cách mạng miền Nam, “phải giữ vững và phát triển thể chiến lược tiến công”.
Trung ương Đảng đề ra “Nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước lúc đó là nhiệm vụ thiêng liêng của cả dân tộc ta, của nhân dân ta từ Nam chí Bắc”.
ĐÁNH BẠI CUỘC PHẢN CÔNG CHIẾN LƯỢC MÙA KHÔ XUÂN HÈ 1966
Đầu năm 1966, sau khi đã chuẩn bị kỹ càng, Mỹ bắt đầu mở cuộc phản công chiến lược mùa khô đầu tiên trên chiến trường miền Nam. Sử dụng một đội quân đông gần 75 vạn tên (có 18 vạn tên Mỹ, 2 vạn tên Nam Triều Tiên) gồm 14 sư đoàn bộ binh (có 4 sư đoàn Mỹ, 1 sư đoàn Nam Triều Tiên) với lực lượng yểm hộ trên dưới 1.000 khẩu pháo, 2.000 máy bay, 1.300 xe bọc thép các loại, Mỹ tin rằng sẽ giành được thắng lợi chắc chắn.
Đợt phản công chiến lược lần thứ nhất của địch diễn ra trên 2 hướng: Đông Nam Bộ và đồng bằng Khu 5 nhằm mấy mục tiêu chủ yếu: diệt một bộ phận quan trọng chủ lực của ta, giành lại thế chủ động trên toàn bộ chiến trường ở miền Nam; bình định có trọng điểm và giành dân; khai thông các tuyến giao thông chiến lược; giải tỏa và bảo vệ vững chắc các đô thị và căn cứ của Mỹ; ổn định tình hình chính trị, củng cố ngụy quân, ngụy quyền.
Chiến sự diễn ra vô cùng ác liệt trên toàn miền Nam, bắt đầu từ tháng 1 đến cuối tháng 4 năm 1966.
Với một đội quân đông, trang bị mạnh, Mỹ - ngụy mở liên tiếp 450 cuộc hành quân lớn, nhỏ từ 3 tiểu đoàn đến 21 tiểu đoàn, có sự chi viện của hàng nghìn lần chiếc máy bay B52.
Với mục tiêu chủ yếu đề ra là “tìm diệt chủ lực” ta để giành lại thế chủ động, nhưng cuối cùng địch đã liên tiếp bị ta giáng cho những đòn tổn thất thật nặng nề và buộc phải phân tán, bị động đối phó, phải quay về tiếp tục phòng ngự.
Bằng thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc và linh hoạt, với sự kết hợp chặt chẽ của những “quả đấm” chủ lực với những trận đánh liên tục của bộ đội địa phương và dân quân du kích, ta đã gây cho Mỹ ngụy những thất bại nặng nề.
Ở Củ Chi, ta đã giành thắng lợi lớn trong hai cuộc chống càn, trong tháng 1 và tháng 2 tiêu diệt trên 2.000 tên Mỹ, bắn rơi, phá hủy gần 100 máy bay.
Ở Phú Yên, Bình Định ta đã loại khỏi vòng chiến đấu gần 10.000 tên địch, có trên 5.000 quân Mỹ, và 1.000 quân Nam Triều Tiên, bắn rơi 374 máy bay.
Ở Nhà Đỏ Bông Trang (Thủ Dầu Một), bằng một trận tập kích, trong vài giờ chiến đấu, ta đã diệt 2 tiểu đoàn bộ binh và 2 tiểu đoàn cơ giới Mỹ, phá hủy 40 xe tăng và xe M113.
Ở Quảng Ngãi, liên tục trong 40 giờ chiến đấu, ta đã diệt 2 tiểu đoàn và 4 đại đội lính thủy đánh bộ Mỹ, bắn rơi 25 máy bay.
Ngoài những trận chống càn, tác chiến vận động, giành thắng lợi lớn, chúng ta còn tập kích hỏa lực dùng đặc công đánh vào các căn cứ sân bay Chu Lai, Tân Sơn Nhất, Phú Lợi, ở khách sạn Vic-to-ri-a, ta diệt 200 sĩ quan Mỹ ngày 1-4-1966 làm cho địch bị thiệt hại nặng về máy bay, xăng dầu, kho tàng và sinh lực cấp cao.
Đến cuối tháng 4 năm 1966, do bị tổn thất nặng nề trên cả 2 hướng ở Nam Bộ và Khu 5, quân Mỹ buộc phải kết thúc cuộc ra quân quy mô lớn đầu tiên, sớm hơn dự định hai tháng.
Đạo quân viễn chinh Mỹ trang bị hiện đại, ra quân hùng hổ để “tìm diệt” quân chủ lực ta, đã bị thất bại ngay trong keo thử sức đầu tiên. Trên 100 nghìn tên (có 42.500 tên Mỹ, 3.500 tên Nam Triều Tiên) bị loại ra khỏi vòng chiến đấu, trên 1.000 máy bay bị bắn rơi và bị phá hủy, 600 xe tăng, xe bọc thép bị bắn cháy, hỏng.
Thắng lợi đánh bại cuộc phản công chiến lược đầu tiên của địch có ý nghĩa rất quan trọng. Chúng ta đã đánh thắng “chiến tranh cực bộ” của Mỹ ngay từ hiệp đầu.
Song song với những đòn tiến công quân sự, trên mặt trận chống phá bình định, cũng thu được những thắng lợi lớn. Tính đến tháng 6 năm 1966, ở Nam Bộ, nhân dân ta đã phá được 2.668 ấp chiến lược; ở cực Nam Trung Bộ phá được 238 trong tổng số 560 ấp chiến lược của địch, ở Khu 5 và Bình Trị Thiên, vùng giải phóng được củng cố, nhiều căn cứ du kích hình thành thế liên hoàn, trên 2 triệu dân giành quyền làm chủ.
Thắng lợi Xuân Hè 1966 có ý nghĩa rất to lớn cả về chính trị và quân sự, đặc biệt là về quân sự. Đường lối quân sự chiến lược chiến thuật của ta đã thắng chiến lược, chiến thuật “chiến tranh cục bộ” của Mỹ; chiến tranh nhân dân đã tỏ rõ sức mạnh vô địch và có khả năng đánh bại chiến tranh cục bộ của địch.
THÀNH LẬP QUÂN KHU TRỊ THIÊN VÀ MỞ MẶT TRẬN ĐƯỜNG SỐ 9, BẮC QUẢNG TRỊ ĐỂ PHÂN TÁN LỰC LƯỢNG MỸ
Tháng 4-1966, sau thắng lợi mùa xuân 1966, Bộ Chính trị và Trung ương Đảng quyết định thành lập Quân khu Trị Thiên; Khu ủy Trị Thiên đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Trung ương Đảng. Đây là một quyết định có ý nghĩa chiến lược quan trọng với ý đồ tiêu diệt và làm tan rã phần lớn quân ngụy, tiêu diệt một bộ phận quân Mỹ, ra sức chuẩn bị lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang ở thành phố để phục vụ kế hoạch tổng công kích, tổng khởi nghĩa khi điều kiện chín muồi, cắt đứt đường giao thông chiến lược của địch, xây dựng đường hành lang của ta, giành thắng lợi lớn về mọi mặt và tạo nên một tình thế mới trên chiến trường Trị Thiên phối hợp tốt với các chiến trường khác trong mọi tình huống (kể cả tình huống đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh trên đất liền tiến ra Trung Hạ Lào)1.
Đến tháng 6-1966, Quân ủy lại quyết định mở Mặt trận Đường số 9 Bắc Quảng Trị. Mặt trận này được mở ra buộc địch phải phân tán lực lượng lên rừng để đối chọi với chủ lực mạnh của miền Bắc, tạo điều kiện cho các chiến trường khác hoạt động, trước tiên là đồng bằng Trị Thiên, ngăn chặn âm mưu mở rộng chiến tranh mặt đất ra miền Bắc, trước hết là Quân khu 4.
Việc mở Mặt trận đường 9 Bắc Quảng Trị đã gây cho địch một bất ngờ và chúng phải đảo lộn thế bố trí chiến lược. Chúng phải điều 2 sư đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ, lẽ ra được dùng để tìm diệt “bình định” ở đồng bằng sông Cửu Long và ven biển miền Trung, lên rừng núi Trị Thiên. Địch không thể tập trung lực lượng để tiến công ta ở Nam Bộ và buộc phải phân tán để phòng ngự và đối phó với lực lượng chủ lực của miền Bắc. Sau khi Mặt trận đường số 9, Trị Thiên được mở ra, địch liên tiếp bị tiến công. Ta đã đánh bại cuộc càn quét lớn của địch, mang tên HAT LINH vào Cam Lộ và cuộc hành quân Pô-re-ri vào Tây Do Linh. Trên 8.000 tên địch bị loại khỏi vòng chiến đấu (có 3.000 tên Mỹ). Ta giải phóng hàng trăm thôn ấp, với 40 vạn dân, uy hiếp vùng đồng bằng Thừa Thiên và Quảng Trị.
Trong khi địch bị đảo lộn về thế chiến lược, bị động đối phó với ta ở Trị Thiên, thì ta chủ động tiến công địch trong suốt mùa mưa ở các chiến trường, Mỹ Lộc, Đức Vinh, Chư Pông... gây cho địch nhiều tổn thất nặng nề.
ĐÁNH BẠI CUỘC PHẢN CÔNG LẦN THỨ 2 MÙA KHÔ 1966 - 1967
Để cứu vãn tình hình ngày càng xấu đi, đế quốc Mỹ đã mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, ném bom, bắn phá Thủ đô Hà Nội và cảng Hải Phòng.
Ngày 17-7-1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi lịch sử: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ. Không có gì quý hơn độc lập tự do…”. Lời kêu gọi của Người được coi như lời thề dân tộc, thể hiện ý chí sắt đá của toàn dân Việt Nam kiên quyết dốc toàn lực, quyết chiến thắng kẻ thù xâm lược, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới thống nhất nước nhà, vì độc lập tự do của Tổ quốc.
Cuối tháng 10-1966, Bộ Chính trị, Trung ương Đảng họp, phân tích tình hình và nhận định: năm 1967 sắp đến sẽ có tầm quan trọng lớn đối với cả ta và địch; địch sẽ cố gắng cao nhất để giành thắng lợi, tạo uy tín cho Giôn-xơn chuẩn bị bước vào cuộc tranh cử tổng thống; ta cũng phải nỗ lực vượt bậc, đánh bại cuộc phản công chiến lược lần thứ hai của địch chắc chắn sắp nổ ra, tạo thời cơ, đưa cuộc kháng chiến phát triển lên một bước mới.
Bộ Chính trị yêu cầu phải đánh thiệt hại nặng, cả Mỹ lẫn ngụy làm cho Mỹ không đóng được vai trò cơ động chiến lược và làm cho ngụy không làm nổi chức năng “bình định”.
Sau đó, tháng 11-1966 Bộ Chính trị và Quân ủy đã đề ra 6 phương thức tác chiến chiến lược, trên cơ sở tổng kết những kinh nghiệm rút ra từ nhiều chiến trường. Những quan điểm tư tưởng và nội dung chủ yếu của 6 phương thức tác chiến chiến lược:
1. Mở các chiến dịch vừa và lớn dưới hình thức tiến công hoặc phản công tiêu diệt lớn quân địch (cả Mỹ và ngụy).
2. Đẩy mạnh chiến tranh du kích lên trình độ cao, tiêu hao, phân tán, ghìm chân địch, đập tan các cuộc càn quét, đánh bại âm mưu bình định của chúng, uy hiếp các đô thị.
3. Đánh phá các căn cứ hậu cần, kho tàng, sân bay, bến cảng.
4. Triệt phá các đường giao thông thủy, bộ quan trọng của địch, tạo ra thế chia cắt, bao vây địch, buộc chúng phải đi vào phòng ngự.
5. Đẩy mạnh hoạt động ở đô thị, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang.
6. Tác chiến kết hợp với binh vận, làm tan rã, ly khai, gây binh biến trong hàng ngũ địch.
Có thể nói, 6 phương thức tác chiến chiến lược của Bộ Chính trị và Quân ủy đề ra có ý nghĩa rất quan trọng. Nó thể hiện rõ tư tưởng quân sự, quan điểm chiến lược tiến công, tinh thần tích cực, chủ động, kiên quyết và liên tục tiến công tiêu diệt địch, giữ vững và mở rộng thế làm chủ. Các phương thức đó luôn được phối hợp trong quy mô chiến lược trên toàn miền và từng chiến trường, trong từng chiến dịch, nhằm đạt được các mục tiêu chiến lược đề ra. Nó là cơ sở cho những thắng lợi to lớn sau này.
____________________________________
1. Nghị quyết của Thường trực Quân ủy Trung ương về nhiệm vụ của chiến trường Trị Thiên tháng 4-1966.
Đánh bại cuộc phản công chiến lược lần thứ hai của địch.
Sau thất bại của đợt phản công lần thứ nhất năm 1966 và thất bại liên tiếp trong mùa hè 1966, đế quốc Mỹ tiếp tục tăng thêm quân viễn chinh, chuẩn bị tích cực và nuôi hy vọng sẽ giành thắng lợi trên chiến trường bằng đợt phản công chiến lược lần thứ 2, trong mùa khô 1966-1967. Lực lương tham gia đợt phản công chiến lược lần thứ 2 lớn hơn lần 1 nhiều, gồm 983 ngàn quân (có 389 ngàn tên Mỹ và 52 ngàn tên ngụy và chư hầu), gồm 19 sư đoàn, 9 trung đoàn và 20 tiểu đoàn (có 6 sư đoàn và 3 trung đoàn Mỹ, 2 sư đoàn chư hầu); sử dụng 3.702 máy bay, 2.676 xe tăng, thiết giáp, 1.805 pháo.
Cuộc phản công chiến lược lần thứ hai của địch bắt đầu bằng cuộc hành quân lớn, mang tên At-ten-bô-rô. Mỹ sử dụng 22.000 quân đánh chiếm khu Dương Minh Châu, nhằm mục đích “tìm diệt” lực lượng chủ lực của ta và tiến hành “bình định”. Cuộc hành quân này được bắt đầu từ đầu tháng 11-1966 đến 14-11-1966. Cuộc hành quân lớn thứ hai mang tên Xê-đa-phôn, đánh vào khu tam giác Trảng Bàng-Bến Súc-Củ Chi từ ngày 8-1 đến ngày 26-1-1967, với kết quả như nêu trong báo cáo của Oét-mo-len, Mỹ đã thu được nhiều lương thực, phá được nhiều địa đạo, diệt được 730 địch, bắt sống được 213 Cộng quân.
Cuộc hành quân thứ ba, lớn nhất mang tên Gian-xơn Xi-ti đánh chiếm khu Dương Minh Châu từ 22-2-1967 đến 19-4-1967, huy động 7 lữ đoàn Mỹ và 2 chiến đoàn ngụy, gồm 26 tiểu đoàn nhằm diệt cơ quan đầu não của ta, diệt chủ lực, phá kho tàng dự trữ, lấn chiếm, chia cắt căn cứ của ta, phong tỏa biên giới.
Cả 3 cuộc hành quân lớn và nhiều cuộc hành quân liên tiếp khác đều bị ta lần lượt bẻ gẫy, kể cả cuộc hành quân Gian-xơn Xi-ti lớn nhất cũng sa vào thế trận của ta đã được chuẩn bị tốt đánh bại.
Trong báo cáo của Oét-mo-len có nói, trong cuộc hành quân này Mỹ đã tiêu diệt được 2.738 địch, mà không nói lên sự thất bại về mục đích của cuộc hành quân, về số quân và phương tiện chiến tranh của Mỹ - ngụy bị ta diệt và phá hủy.
Càng tiến sâu vào vùng căn cứ kháng chiến, địch càng sa vào thế bị động, phải đối phó cả trước mặt, bên sườn và phía sau, vừa đối phó với đòn tiến công của chủ lực ta, vừa bị dân quân du kích liên tục tiêu hao, tổn thất của địch ngày càng lớn. Riêng cuộc hành quân Gian-xơn Xi-ti địch bị loại khỏi vòng chiến đấu 14.000 tên, phần lớn là Mỹ, 160 máy bay bị bắn rơi và phá huỷ, 992 xe quân sự trong đó phần lớn là xe tăng, xe bọc thép, 112 pháo cối bị phá hủy.
Cùng với việc bẻ gẫy ba cuộc hành quân lớn, chúng ta còn liên tiếp tiến công tiêu diệt các hậu cứ, sở chỉ huy, cơ quan đầu não của địch, như đánh vào khu vực Long Bình, bắn pháo vào cuộc diễu binh nhân ngày quốc khánh của ngụy (1-11-1967) giữa Sài Gòn, tiến công căn căn cứ, Sóc Trăng, Cần Thơ, Vĩnh Long, tập kích các sân bay Tân Sơn Nhất, Plây Cu, Đà Nẵng.
Ở Trị Thiên ta tập kích hỏa lực vào hệ thống căn cứ Mỹ ở Cồn Tiên, Dốc Miếu.
Kết quả trong năm 1967, chúng ta giành thắng lợi lớn, trên 100 ngàn quân địch bị loại khỏi vòng chiến đấu (có 67 ngàn quân Mỹ) phá hủy hàng ngàn máy bay, bắn chìm và cháy 42 tàu, xuồng.
Cả 2 mục tiêu “tìm diệt” và “bình định” đề ra cho cuộc phản công chiến lược lần 2 đều không đạt. Thất bại của Mỹ - ngụy trong Đông Xuân 1966-1967 là một thất bại toàn diện cả quân sự và chính trị.
Thắng lợi của ta trong năm 1967 có ý nghĩa chiến lược quan trọng đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Nó không chỉ nói lên sự đúng đắn về đường lối cách mạng, đường lối quân sự, quyết tâm và ý chí của quân và dân ta, mà còn chứng tỏ khả năng to lớn của quân dân Việt Nam trong chiến tranh giải phóng chống đế quốc mạnh nhất của thế kỷ XX mà không một nước nào không kiêng nể.
Thắng lợi năm 1967 mở ra triển vọng to lớn trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta.
Song song với thất bại về quân sự, chính trị, cả trên lĩnh vực ngoại giao, đế quốc Mỹ cũng bị thất bại.
Tòa án Giê-béc-tờ-răng-rút-xen đã họp 2 phiên, tại thủ đô Thụy Điển và thủ đô Đan Mạch để xét xử tội ác chiến tranh của đế quốc Mỹ và kết luận: “Chính phủ Mỹ là kẻ phạm tội ác xâm lược Việt Nam; các chính phủ Úc, Tân Tây Lan, Nam Triều Tiên là đồng lõa”. Về phá ta, đến cuối năm 1967, đã có 41 chính phủ, 12 tổ chức quốc tế, 5 tổ chức khu vực, ủng hộ cương lĩnh chính trị của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam.
Những thất bại về quân sự, chính trị, ngoại giao của Mỹ ảnh hưởng rất xấu đến tình hình nội bộ của nước Mỹ. Làn sóng đấu tranh của nhân dân Mỹ, các cuộc biểu tình, bãi công, đốt thẻ quân dịch, từ chối nhập ngũ, sẵn sàng ngồi tù bỏ trốn sang Ca-na-đa ngày càng nhiều.
Do số quân Mỹ thương vong cao, nên từ mùa hè 1967, chính quyền Giôn-xơn phải động viên quân trù bị và nâng mức tuyển lính hàng tháng, để bù đắp tổn thất và thay phiên quân ở Việt Nam.
Nội bộ chính quyền Mỹ phân hóa ra làm 3 phái: phái hiếu chiến, đề nghị tăng quân và tiến hành chiến tranh tổng lực; phái dao động hoài nghi, đề nghị ngừng ném bom, thay chính sách và thương lượng, phái lừng chừng lưỡng lự. Giôn-xơn bối rối buộc Mác-na-ma-ra, bộ trưởng quốc phòng từ chức, nhưng vẫn ngoan cố tiếp tục đưa thêm quân viễn chinh và phương tiện chiến đấu vào miền Nam, nâng tổng số quân viễn chinh ở Việt Nam lên 48 vạn tên vào cuối 1967 và cùng với quân chư hầu và quân ngụy thành một đội quân đông xấp xỉ 1,1 triệu tên.
Mỹ đã huy động tới 70% lục quân, 60% lính thủy đánh bộ, 40% hải quân và 60% không quân của nước Mỹ, 6,5 triệu lượt thanh niên Mỹ trực tiếp tham gia chiến tranh xâm lược Việt Nam, cùng với 22.000 xí nghiệp trên đất Mỹ trực tiếp phục vụ chiến tranh.
“Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ tiến hành đã phát triển đến đỉnh cao, vượt xa dự kiến lúc ban đầu.
TỔNG CÔNG KÍCH VÀ TỔNG KHỞI NGHĨA XUÂN 1968
- Sau khi đập tan cuộc hành quân Gian-xơn Xi-ti, lợi dụng thời cơ kẻ địch đang lúng túng bị động về chiến lược, ta liên tiếp mở nhiều đợt hoạt động tiến công địch trên các chiến trường, không để cho chúng có thời gian củng cố, chuẩn bị cho đợt phản công chiến lược thứ 3.
Ở Nam Bộ, ta tiến công địch ở Phước Long, Lộc Ninh, đẩy mạnh đánh phá cắt giao thông, tiêu diệt địch ở Mỹ Tho, Long An, Cần Thơ, Rạch Giá, Châu Đốc.
Tháng 11-1967, ta mở chiến dịch Đắc Tô (Tây Nguyên). Ở chiến trường Trị Thiên, ta tập kích vào các căn cứ địch.
Một đạo quân đông 1,1 triệu tên với trang bị hiện đại mà buộc phải ở vào thế phân tán trên khắp các chiến trường.
Quân Mỹ, sau gần 3 năm trực tiếp tham chiến, với một đội quân lớn gồm các quân chủng Mỹ, song song với việc đánh phá ác liệt miền Bắc bằng không quân, hải quân, đã mở hàng trăm cuộc hành quân tìm diệt, càn quét, bình định mà vẫn không tìm thấy lối thoát khỏi đường hầm.
Cả 2 mục tiêu chiến lược tìm diệt chủ lực đối phương, bình định, đều không có một kết quả nào cụ thể để chứng minh sức mạnh Hoa Kỳ.
Mỹ đã sa vào một thế trận chiến tranh nhân dân mà chính Oét-mo-len đã phải thốt lên, trong báo cáo của mình, là khác với một cuộc chiến tranh thông thường, không thể chỉ ghi lại một cách đơn giản phát triển từ chiến tuyến này đến chiến tuyến khác cho đến khi tiến đến mục tiêu cuối cùng, không đơn thuần là một cuộc chiến tranh quân sự.
Trước tình hình Mỹ đã đưa lực lượng trực tiếp tham chiến đến đỉnh cao và với sự đánh giá chủ quan của tổng tư lệnh quân đội Mỹ Oét-mo-len, một bất ngờ to lớn đã xảy ra với ông ta, như ông đã viết: “mặc dù vào giữa tháng 1-1968, chúng tôi chắc địch sẽ tiến công lớn vào dịp tết, nhưng chúng tôi không đoán được có một cuộc tiến công quy mô toàn miền Nam”.
Trên cơ sở thế trận đã hình thành, phát huy những thuận lợi về quân sự, chính trị trong nước và trên thế giới, tháng 12-1967, Bộ Chính trị đã họp và ra nghị quyết quan trọng. Bộ Chính trị đã đánh giá tình hình: “chúng ta đứng trước những triển vọng và thời cơ chiến lược lớn. Đế quốc Mỹ đang ở trong tình thế tiến thoái lưỡng nan về chiến lược. Rõ ràng, so với mục đích chính trị và quân sự của chúng ở miền Nam thì những cố gắng chiến tranh (cùng với những thiệt hại nặng nề của chúng) ở Việt Nam đã tới đỉnh cao...” Bộ Chính trị đã quyết định “chuyển cuộc đấu tranh cách mạng miền Nam của ta sang một thời kỳ mới thời kỳ giành thắng lợi quyết định”. Bộ Chính trị đã kết luận: “Điểm cơ bản của tình hình là ta đang ở thế thắng, thế chủ động và thuận lợi, địch đang ở thế thua, thế bị động và khó khăn. Tình hình ấy cho phép ta chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ở miền Nam sang một thời kỳ mới, thời kỳ tiến công và nổi dậy và giành thắng lợi quyết định”.
Bộ Chính trị đề ra: “nhiệm vụ trọng đại và cấp bách của ta là động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân cả 2 miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên bước phát triển cao nhất, dùng phương pháp tổng công kích, tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định”.
Tiến hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa nhằm mục tiêu chiến lược là tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận ngụy quân, ngụy quyền các cấp, giành chính quyền về tay nhân dân, tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực và phương tiện chiến tranh của Mỹ, làm cho Mỹ không thực hiện được nhiệm vụ chính trị và quân sự của chúng, trên cơ sở đó đập tan ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, rút quân viễn chinh về nước. Trước mắt, ta phải giành được mục tiêu độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập ở miền Nam, và tiến tới thống nhất đất nước.
Tuy nhiên, trong điều kiện địch còn hơn 1 triệu quân, tiềm lực chiến tranh lớn, có một bộ máy chính quyền phản động từ Trung ương đến địa phương, do đó, việc tiến hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa sẽ gặp nhiều khó khăn ác liệt. Bộ Chính trị dự kiến, có 3 khả năng:
Một là tổng công kích, tổng khởi nghĩa thành công, ta giành được thắng lợi lớn, địch bị thua, phải thương lượng với ta, dần dần kết thúc chiến tranh theo điều kiện ta đặt ra.
Hai là, ta giành thắng lợi có mức độ, địch vẫn còn giữ được những vị trí quan trọng, nhất là các đô thị lớn, liên tiếp chống lại ta.
Ba là, Mỹ tăng thêm lực lượng mở rộng chiến tranh ra cả phần lãnh thổ miền Bắc, Lào, Cam-pu-chia, hòng xoay chuyển cục diện chiến trường, gỡ thế thất bại, khả năng này có ít, nhưng phải đề phòng.
Một vấn đề quan trọng mà Bộ Chính trị vạch ra là: tổng công kích, tổng khởi nghĩa là một quá trình ta tiến công và nổi dậy liên tục để đè bẹp sức kháng cự của địch, đồng thời cũng là quá trình địch phản công ác liệt để giành lại vị trí đã mất.
Bộ Chính trị giao cho Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh xây dựng phương án tổng công kích, tổng khởi nghĩa. Nội dung chính của phương án tổng công kích, tổng khởi nghĩa của Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh đề ra là: cùng với đòn tiến công của bộ đội chủ lực ở chiến trường chính là đường số 9 - Khe Sanh nhằm tiêu diệt, thu hút ghìm chân lực lượng chiến lược của Mỹ, mỗi đòn tiến công chiến lược đánh vào thành phố, thị xã, quy mô trên toàn miền Nam, kết hợp với nổi dậy của quần chúng ở nông thôn và đô thị mở đầu cho tổng công kích, tổng khởi nghĩa, lấy chiến trường chính là Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng và các thành phố lớn, trọng điểm là Sài Gòn.
Trong thư gửi cho Trung ương Cục và Quân ủy miền Nam ngày 18-1-1968, đồng chí Lê Duẩn viết: “Đế quốc Mỹ đang ở vào tình thế tiến thoái lưỡng nan về chiến lược. So với mục đích chính trị, kinh tế xã hội của nước Mỹ, thì những cố gắng chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam hiện nay đã lên đến đỉnh cao nhất... Tình hình trên đây cho phép ta có thể chuyển cuộc chiến tranh cách mạng sang thời kỳ tiến hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa... giáng cho chúng những đòn tiến công sấm sét, làm thay đổi cục diện chiến tranh, làm lung lay hơn nữa ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc phải thay đổi chiến lược, phải xuống thang chiến tranh...”.
Để phân tán lực lượng định và hỗ trợ cho nhau, Đảng ta và Đảng nhân dân cách mạng Lào thống nhất chủ trương mở chiến dịch Nậm Bạc. Từ 12-1 đến 27-1-1968 ta tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 11 tiểu đoàn địch, loại khỏi vòng chiến đấu 3000 tên.
Thực hiện chủ trương tổng công kích, tổng khởi nghĩa của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, trong lúc ta và bạn đang mở chiến dịch Nậm Bạc thì ngày 21-1-1968, chủ lực ta bất ngờ nổ súng tiến công vào toàn bộ tuyến phòng thủ đường 9 của địch, trọng điểm là Khe Sanh, Hương Hóa, tiêu diệt quận lỵ Hương Hóa và làng Vây, uy hiếp Tà Cơn.
Đòn tiến công này đã làm cho bộ chỉ huy Mỹ ở Sài Gòn bất ngờ, lúng túng. Chúng vội vàng điều ngay ra Trị Thiên sư đoàn 1 kỵ binh bay và 2 lữ đoàn dù, thuộc sư đoàn 101 vừa từ Mỹ sang.
Cùng thời gian này, các chiến trường Nam Bộ, Khu 5, Tây Nguyên đẩy mạnh hoạt động, thu hút, phân tán lực lượng địch, tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận sinh lực và phương tiện chiến tranh của chúng.
Trong lúc địch đang lúng túng, bị động, thì đêm 30 rạng ngày 31-1-1968 tức là đêm giao thừa Tết Mậu Thân, quân dân miền Nam đồng loạt tổng tiến công và nổi dậy trên toàn chiến trường, đánh vào 5 trong 6 thành phố, 37 trong 44 thị xã và hàng trăm quận lỵ, căn cứ, kho tàng, sở chỉ huy của địch.
Tại Sài Gòn, từ đêm 30- 1 - 1 968, ta phối hợp lực lượng trong và ngoài thành phố tiến công Tòa đại sứ Mỹ, dinh Độc Lập, Bộ Tổng tham mưu, Đài phát thanh, Bộ tư lệnh biệt khu thủ đô, sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ tư lệnh hải quân v.v... Lực lượng tự vệ và nhân dân ta đã tiến công các cơ quan ngụy quyền.
Tại Huế, ta tiến công và làm chủ phần lớn thành phố, cắm cờ mặt trận lên cột cờ thành Huế. Trên 30 thành phố, thị xã đồng loạt bị tiến công. Trong vài ngày đầu năm hầu hết các thị trấn, thị xã ở miền Nam đều có tiến công và nổi dậy của quân dân ta.
Địch bị một đòn bất ngờ, choáng váng trước quy mô tiến công và nổi dậy của ta. Nhiều tuyến giao thông bị cắt đứt, tê liệt. Khí thế cách mạng dâng cao. Nhân dân nô nức, hết lòng giúp lực lượng vũ trang, tiếp tế, cứu chữa thương binh, tiêu diệt ác ôn...
Địch phải điệu đồng quân dù, lính thủy đánh bộ, máy bay, xe tăng, cảnh sát dã chiến để phản kích. Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt trong những khu phố, căn nhà kéo dài cả tháng 1 và tháng 2.
- Kết thúc đợt 1 cuộc tiến công và nổi dậy trên toàn chiến trường miền Nam, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu trên 100 ngàn tên địch (có 43 ngàn tên Mỹ) gần 20 vạn ngụy quân đào, rã ngũ, một khối lượng lớn phương tiện chiến tranh bị phá huỷ (2.370 máy bay, 1.700 xe tăng, xe bọc thép, hàng ngàn ô tô, trên 1 triệu tấn vật tư chiến tranh).
Quần chúng ở nhiều vùng nông thôn nổi dậy giành quyền làm chủ, thành lập chính quyền cách mạng. Hơn 1,2 triệu dân được giải phóng.
Thắng lợi quan trọng của đòn tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân có ý nghĩa chiến lược to lớn.
Tập đoàn cầm quyền ở Mỹ bị phân hóa và dao động cao độ. Ngày 22 tháng 3 năm 1968, Giôn-xơn ra lệnh cách chức tướng Oét-mo-len, từ bỏ chiến lược “tìm diệt”, chuyển sang chiến lược “quét và giữ”.
Ngày 31-3 Giôn-xơn ra lệnh ngừng nén bom miền Bắc, từ vĩ tuyến 20 trở lên, đồng thời thông cáo quyết định không ra tranh cử tổng thống nhiệm kỳ 2, và cứ đại diện đàm phán với đại diện chính phủ ta tại Pa-ri.
Cuối tháng 4-1968, Bộ Chính trị họp đánh giá tình hình và kết quả đợt hoạt động Tết Mậu Thân và ra nghị quyết, tiếp tục mở đợt tổng tiến công đợt 2 (bắt đấu từ 4-5-1968).
Đến tháng 8-1968, Bộ Chính trị họp và quyết định đẩy mạnh tổng công kích, tổng khởi nghĩa, đẩy mạnh thế tiến công toàn diện quân sự, chính trị, bằng 3 mũi giáp công, nhằm đạt được mục tiêu chiến lược đã đề ra, giành thắng lợi quyết định, làm cho địch thất bại ở chiến trường, thất bại ở các thành thị lớn và thất bại ở ngay nước Mỹ.
Đợt tổng tiến công thứ 3 bắt đầu tù 17-8 đến 30-9-1968.
Mặc dù đã co cụm về phòng giữ hết sức cẩn mật các thành phố, thị xã, các đường giao thông chiến lược quan trọng và tổ chức nhiều cuộc hành quân giải tỏa các vùng, quân địch vẫn bị ta tiến công vào các thành phố, thị xã, thị trấn, quận lỵ và chi khu, các căn cứ, kho tàng, sân bay...
Đường 9 và Khe Sanh là một trong những mục tiêu quan trọng, có ý nghĩa chiến lược mà theo chỉ thị của Tổng thống Mỹ Giôn-xơn, địch đã tập trung một lực lượng lớn để phòng giữ bằng bất cứ giá nào, không để xảy ra một “Điện Biên Phủ” thứ 2 ở đây.
Trong quá trình bị bao vây, địch đã sử dụng hàng chục tiểu đoàn pháo để chi viện, đã sử dụng 100 nghìn tấn bom của máy bay B52 và máy bay chiến đấu chiến thuật, tiếp tế đường không khoảng 15 ngàn tấn hàng, dùng 9.100 lượt máy bay lên thẳng để chuyên chở quân và thương binh.
Chiến dịch Khe Sanh đã thu hút và giam chân một lực lượng quan trọng của Mỹ. tạo điều kiện cho các hướng khác tổng tiến công và nổi dậy từ Tết Mậu Thân.
Trước sức ép nặng nề về quân sự, để tránh một Điện Biên Phủ, ngày 26-6-1968 quân Mỹ đã rút chạy khỏi Khe Sanh. Sau 170 ngày vây hãm và đánh địch rút chạy, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 17.000 tên địch (có 13.000 tên Mỹ), bắn rơi và bị thương 4.800 máy bay, phá hủy 120 xe quân sự, 65 đại bác và súng cối, thu hàng ngàn tấn vũ khí và đạn dược, giải phóng hoàn toàn quận Hương Hóa, với hơn 1 vạn dân. Một tuyến phòng thủ chiến lược quan trọng, kéo dài gần 40 km, trên đường 9, từ Lao Bảo đến Ca Lu bị bỏ ngỏ. Đây là một thắng lợi có ý nghĩa chiến lược.
Kết thúc năm 1968, miền Nam giành thắng lợi lớn, loại khỏi vòng chiến đấu gần 630 ngàn tên (có 230 ngàn tên Mỹ và chư hầu), bắn rơi và phá hủy 600 máy bay các loại, diệt 13.500 xe quân sự các loại, san bằng, bức rút 1500 đồn bốt, giành chính quyền cách mạng ở 1.000 thôn ấp với trên 2 triệu dân.
Mặc dù đế quốc Mỹ đã đưa số quân viễn chinh lên đến gần 53 vạn tên cuối năm 1968, nhưng vẫn không xoay chuyển nổi tình hình chung trên chiến trường. Việc đánh phá và ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc không thu được kết quả đáng kể, nội bộ tập đoàn cầm quyền Mỹ bị chia rẽ sâu sắc, phong trào chống chiến tranh của nhân dân Mỹ lên cao, vấn đề Việt Nam đã trở thành hàng đầu trong cuộc tranh cử tổng thống vào tháng 11 năm 1968 của Đảng dân chủ đang cầm quyền ở Mỹ.
Trước tình hình đó, ngày 1-11-1968, chính quyền Giôn-xơn buộc phải tuyên bố chấm dứt hoàn toàn việc ném bom bắn phá miền Bắc nước Việt Nam dân chủ cộng hòa bằng không quân, hải quân và pháo binh, chấp nhận họp hội nghị bốn bên về Việt Nam tại Pa-ri, có đại diện của Mặt trận dân tộc giải phóng, để tìm giải pháp chính trị cho vấn đề Việt Nam.
Chương 02
Đánh Pháp, đuổi Mỹ giải phóng đất nước giai đoạn 1945-1975 ĐÁNH CHO MỸ CÚT (1965 – 1973)
Nguồn: quansuvn.net
Thu gọn nội dung
ĐÁNH GIÁ THẮNG LỢI VÀ NHỮNG BÀI HỌC RÚT RA TRONG GIAI ĐOẠN ĐÁNH BẠI CHIẾN LƯỢC CHIẾN TRANH CỤC BỘ CỦA ĐẾ QUỐC MỸ (1965 - 1968)
Từ 1965 đến 1968, đế quốc Mỹ đã tiến hành cuộc “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam và chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân ở miền Bắc vô cùng khốc liệt, hòng khuất phục nhân dân ta.
Bằng cuộc chiến tranh nhân dân thần kỳ, nhân dân ta đã từng bước đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của chúng trên cả 2 miền, giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh, chịu ngồi vào đàm phán ở Hội nghị Pa-ri và tìm cách rút dần ra khỏi Việt Nam.
Sức mạnh khổng lồ của đế quốc Mỹ, cả về kinh tế và quân sự đã không thắng nổi cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta, không cứu được chúng khỏi thất bại thảm hại ở Việt Nam.
Thắng lợi của nhân dân Việt Nam đánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ có một ý nghĩa vô cùng to lớn. Trước tiên, nó chứng minh cho nhân dân thế giới thấy rõ sức mạnh và khả năng to lớn của cách mạng và của chiến tranh cách mạng có thể thắng được các thế lực đế quốc xâm lược hao người tốn của ghê gớm như cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam.
Đánh bại chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ, chúng ta đã tạo được thế và lực mới để tiếp tục tiến lên giành những thắng lợi to lớn hơn trong những năm tiếp theo và giành thắng lợi cuối cùng trong năm 1975.
Thắng lợi của nhân dân ta ở cả hai miền Nam, Bắc, đánh bại chiến tranh cục bộ và chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ đã tạo cơ sở quan trọng và vững chắc cho việc hoàn thành nhiệm vụ chiến lược “đánh cho Mỹ cút”.
Không đánh thắng “chiến tranh cục bộ” trong những năm 1965 và 1968, buộc đế quốc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, thì không có điều kiện và tiền đề để giành thắng lợi hoàn toàn và triệt để trong cuộc kháng chiến.
Từ những thắng lợi chiến lược đã giành được và cả những khuyết điểm, hạn chế trong chỉ đạo chiến lược, rút ra những bài học kinh nghiệm quan trọng về chỉ đạo chiến tranh.
Trước nhất là phải có tinh thần dám đánh và quyết đánh Mỹ, từ đó sẽ dần tìm ra cách đánh tốt nhất để thắng chúng.
Khi Mỹ đưa quân viễn chinh vào trực tiếp tham chiến ở miền Nam, đồng thời tiến hành chiến tranh phá hoại lần thứ nhất bằng không quân và hải quân ở miền Bắc, không phải không có những bạn bè lo lắng cho chúng ta, liệu chúng ta có đủ sức đương đầu nổi với tên đế quốc đầu sỏ không? lấy gì để chống Mỹ?
Nhưng nhân dân Việt Nam với truyền thống yêu nước đã được thử thách và tôi luyện, sẵn sàng chấp nhận, bước vào cuộc đọ sức mới. Đế quốc Mỹ đã gặp phải một đối tượng là dân tộc Việt Nam, một dân tộc luôn luôn giữ vững lời thề “thà hy sinh tất cả chứ không chịu làm nô lệ”. Đế quốc Mỹ xâm lược Việt Nam, chúng đã khơi dậy sức mạnh yêu nước tiềm tàng của dân tộc và càng làm cho dân tộc Việt Nam đoàn kết lại.
Trong lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 17-7-1966 Người chỉ rõ “Giôn-xơn và bè lũ phải biết rằngchúng có thể đưa 50 vạn quân, một triệu quân hoặc nhiều hơn nữa để đẩy mạnh chiến tranh xâm lược ở miền Nam Việt Nam, chúng có thể dùng hàng nghìn máy bay tăng cường đánh phá miền Bắc, nhưng chúng quyết không lay chuyển được ý chí sắt đá, quyết tâm chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam anh hùng... Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa, Hà Nội, Hải Phòng và một số xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt nam quyết không sợ. Không có gì quý hơn độc lập tự do...”.
Sau khi đế quốc Mỹ đưa quân viễn chinh vào miền Nam Việt Nam tháng 3-1965, đến 27-5-1965 bộ đội Quân khu 5 đã tiến công tiêu diệt gọn 1 đại đội lính thủy đánh bộ Mỹ ở Núi Thành. Tiếp theo là trận Vạn Tường, giữa ban ngày, 1 trung đoàn chủ lực của ta cùng với bộ đội địa phương và dân quân du kích xã đánh bại cuộc hành quân tìm diệt của hơn 8.000 quân Mỹ, có máy bay, xe tăng, hải quân chi viện.
Những trận thắng Mỹ đầu tiên có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nó vạch ra một đáp án để đánh thắng Mỹ, đó là phải dám đánh Mỹ. Và khi đã dám đánh Mỹ thì sẽ dần tìm ra cách đánh hay nhất, tốt nhất để đánh thắng chúng.
Sau Núi Thành, Vạn Tường, tiến đến Plây-me, Đất Cuốc, Dầu Tiếng, Bầu Bàng, Đồng Dương, khách sạn Mê-tơ-rơ-pôn, chúng ta đã thắng Mỹ liên tiếp, trận sau lớn hơn trận trước và tiếp theo là bẻ gãy 2 đợt phản công chiến lược của địch trong hai mùa khô 1965 - 1966 và 1966 - 1967 để đến Xuân 1968, bằng các đợt tổng tiến công và nổi dậy, chúng ta đánh thắng chiến lược chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ, buộc Mỹ phải xuống thang và quyết định rút quân Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam.
Thứ hai đánh giá đúng so sánh lực lượng giữa ta và địch:
Khi đế quốc Mỹ đưa 20 vạn quân vào trực tiếp chiến đấu, tiến hành chiến lược “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam thì hội nghị Trung ương lần thứ 14 (tháng 12-1965) đã xem xét, đánh giá và rút ra kết luận vô cùng quan trọng:
“Mặc dù đế quốc Mỹ đưa vào miền Nam hàng chục vạn quân viễn chinh, nhưng lực lượng so sánh giữa ta và địch vẫn không thay đổi lớn”.
Rút ra kết luận trên đây là xuất phát từ các căn cứ:
- Đế quốc Mỹ đưa quân vào miền Nam trong thế thua để cứu cho ngụy quân, ngụy quyền khỏi sụp đổ, nên bị động về chiến lược trong một cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa. Vừa leo thang chiến tranh từng bước, vừa phải thăm dò dư luận trên thế giới và trong nước Mỹ. Đế quốc Mỹ đưa quân vào trong hoàn cảnh cách mạng miền Nam đang trưởng thành, đang phát triển, đã đủ sức đánh bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ, có khả năng tiêu diệt chế độ ngụy quyền ở miền Nam.
Về lực lượng quân sự, đã hình thành thế trận chiến tranh nhân dân với 3 thứ quân, đứng vững trên tất cả các địa bàn quan trọng cả 3 vùng, đã xây dựng được thế trận xen kẽ, có lực lượng cắm sâu tận sào huyệt địch.
- Địch vào tuy đông, nhưng không thể điều động lực lượng theo ý muốn ban đầu. Do phải đối phó với thế trận chiến tranh nhân dân không chiến tuyến phát triển nên chỗ nào cũng thấy hở, địch phải dàn mỏng lực lượng và dốc toàn lực để tiến công chiến lược, tiến từ tuyến này đến tuyến khác.
Việc hội nghị Trung ương lần thứ 14 đánh giá so sánh tương quan lực lượng địch, ta đúng đắn, chính xác và rất khoa học, có ý nghĩa chiến lược vô cùng quan trọng, vì nó là cơ sở để định hướng cho quyết tâm chiến lược.
Thứ ba: quyết tâm giữ vững và phát triển chiến lược tiền công.
Từ đánh giá so sánh tương quan lực lượng, mặc dù để quốc Mỹ đưa vào hàng chục vạn quân viễn chinh, nhưng so sánh tương quan thế, lực ta và địch vẫn không thay đổi lớn, ta đã hạ quyết tâm tiếp tục đẩy mạnh chiến lược tiến công mà không quay về phòng ngự chiến lược, là một chủ trương sáng suốt, dũng cảm.
Nhờ tiếp tục đẩy mạnh thế tiến công, nên ta đã đẩy quân địch vào thế bị động chiến lược. Đặc biệt việc lập quân khu Trị Thiên và mở mặt trận đường 9 - Bắc Quảng Trị để đẩy địch vào thế lúng túng, bị động đối phó, giam chân một lực lượng chủ lực lớn của Mỹ vào chiến trường rừng núi, trực tiếp đương đầu với chủ lực miền Bắc của ta, tạo điều kiện cho các chiến trường khác giành quyền chủ động.
Trên cả 3 vùng, ta đều căng địch ra mà đánh, nơi nào chúng cũng bị đánh, bị tiêu hao, tiêu diệt bằng những trận tập kích, phục kích, vận động, tiến công bất ngờ.
Khi địch mở các cuộc phản công chiến lược hy vọng giành lại thế chủ động thì đã bị ta đánh bại. Chiến thắng đợt phản công chiến lược lần 1 của địch, tạo điều kiện, tiền đề để tập tan đợt phản công chiến lược lần 2, giành thắng lợi lớn hơn, đặc biệt việc đập tan cuộc hành quân Gian-xơn Xi-ti có ý nghĩa quan trọng cả về chiến lược và chiến thuật.
Sau khi đánh bại 2 cuộc phản công chiến lược, không để cho địch có thời gian củng cố, ta tiếp tục phát triển tiến công địch trên tất cả các chiến trường Tây Nguyên, mở chiến dịch Đắc Tô, tập kích một loạt căn cứ của địch ở Trị - Thiên.
Địch đã bị động càng thêm bị động, vội vã điều quân về giữ các khu trọng điểm then chốt ở Trị Thiên, Tây Nguyên và quanh Sài Gòn.
Một đạo quân 1,1 triệu tên phải sa vào thế phân tán, bị động để đối phó với thế tiến công rộng khắp của chiến tranh nhân dân ta.
Toàn bộ âm mưu chiến lược “tìm diệt” và “bình định” đều bị thất bại - thất bại cả quân sự và chính trị, ngoại giao.
Trước tình hình đó, Bộ Chính trị đã quyết định phát triển chiến lược tiến công lên một đỉnh cao mới; tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968, đưa cuộc chiến tranh cách mạng sang thời cơ mới. Và cuộc tổng tiến công nổi dậy Xuân 1968 lại giáng thêm một đòn chí tử vào chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ, giáng một đòn nặng nề vào ý chí xâm lược của chúng, làm đảo lộn thế chiến lược của địch, buộc chúng từ bỏ chiến lược “tìm diệt” quay sang chiến lược “quét và giữ”, xuống thang chiến tranh.
Thứ tư: nghệ thuật chọn hướng tổng tiến công bất ngờ Xuân 1968.
Trong khi địch có trên 1,1 triệu quân, trang bị hiện đại, bố trí thành 1 hệ thống phòng thủ chiến lược với nhiều căn cứ, nhiều tập đoàn phòng ngự ở khắp nơi, ta đã phát hiện đúng nơi hiểm yếu và sơ hở của địch. Đó là các đô thị, thành phố, các sở chỉ huy, căn cứ hậu cần, sân bay của địch.
Phát hiện chính xác nơi sơ hở và hiểm yếu về chiến lược của địch, tập trung cao nhất mọi nỗ lực cố gắng của ta, tiến hành tổng công kích và nổi dậy một cách mạnh mẽ, bất ngờ, đồng loạt giáng cho địch một đòn hiểm hóc, giành thắng lợi chiến lược to lớn. Thắng lợi trong cuộc tổng tiến công nổi dậy Tết Mậu Thân là một thành công to lớn về vận dụng, quán triệt chiến lược tiến công, trong điều kiện lực lượng địch mạnh hơn ta nhằm đánh bại ý chí xâm lược của chúng.
Thứ năm: nghệ thuật tổ chức thực tiễn tài giỏi của ta.
Bác Hồ thường dạy: quyết tâm 10, biện pháp 20. Nghĩa là muốn biến quyết tâm thành thắng lợi hiện thực, đòi hỏi phải có công tác tổ chức thực tiễn tài giỏi.
Trong hoàn cảnh địch tiến hành chiến tranh cục bộ ở miền Nam, đồng thời tiến hành chiến tranh phá hoại ở miền Bắc, gây cho ta muôn vàn khó khăn tưởng chừng như không vượt nổi, nhưng với sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân và chiến tranh nhân dân, chúng ta đã khắc phục hết khó khăn này đến khó khăn khác, để giành thắng lợi từng bước, từ thấp đến cao cho đến đợt tổng tiến công Mậu Thân, là một quá trình nỗ lực phấn đấu hy sinh vô bờ bến của nhân dân cả hai miền và đặc biệt của hậu phương lớn miền Bắc xã hội chủ nghĩa.
Miền Bắc vừa phải đánh thắng chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ, vừa phải tổ chức chi viện sức người, sức của cho miền Nam, hệ thống đường chiến lược Trường Sơn ngày càng phát triển và không ngừng được củng cố chi viện chiến lược theo đường biển cũng được tổ chức thực hiện.
Ở miền Nam, việc phát triển và củng cố 3 thứ quân cả vế số lượng và chất lượng, nhất là quân chủ lực, bộ đội đặc công và pháo binh được phát triển và củng cố nhanh chóng đã bảo đảm sức mạnh tổng hợp của 3 thứ quân được nâng lên rõ rệt.
Việc tổ chức mạng lưới tình báo chiến lược, chiến thuật thành công vững chắc đã góp phần quan trọng cho việc chỉ huy lãnh đạo, hạ quyết tâm có cơ sở chắc chắn đánh bại được các cuộc phản công chiến lược của địch và tổ chức thắng lợi các đợt tiến công của ta.
Thứ sáu: có một chiến lược tổng hợp để phát huy sức mạnh của dân tộc, của cả nước và sức mạnh của thời đại.
Phải phát huy được sức mạnh quân sự, chính trị, kinh tế, ngoại giao của chiến tranh cách mạng, toàn dân, toàn diện.
Chiến lược tổng hợp trong giai đoạn đánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ từ 1965 đến 1968, khi Mỹ trực tiếp tham chiến trên chiến trường Việt Nam, không những đã phát huy được sức mạnh của dân tộc ta, của lòng yêu nước, chống đế quốc thực dân, giải phóng dân tộc và yêu chế độ xã hội chủ nghĩa, làm chủ của nhân dân lao động, mà còn phát huy sức mạnh của thế giới tiến bộ, của ba dòng thác cách mạng. Tác động của nó vượt ra ngoài lĩnh vực hoạt động quân sự, ngoài không gian của chiến trường Việt Nam, đi vào toàn thế giới, trong đó có cả nước Mỹ và các nước chư hầu, có quân đội trực tiếp tham chiến ở Việt Nam.
Chiến lược tổng hợp của Đảng ta, đã xác định mục tiêu phù hợp và đề ra phương hướng, phương châm, nguyên tắc cơ bản để xây dựng tổ chức lực lượng cách mạng, bao gồm lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, và có phương thức tiến hành chiến tranh và nghệ thuật quân sự chính xác, khoa học.
Trong giai đoạn này, Đảng ta đã đề ra mục tiêu chiến lược được Bác Hồ khái quát ngắn gọn “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”. Mục tiêu này xác định mức độ, yêu cầu đạt được với từng kẻ thù mà đặc biệt là cần có với kẻ thù chủ yếu, là đội quân viễn chinh của Mỹ và chư hầu, Đảng ta không đặt yêu cầu quá cao là diệt hết quân Mỹ đang tiến hành chiến tranh trên lãnh thổ Việt Nam, mà phải đánh làm sao cho Mỹ cút.
Đứng về chiến lược trong chiến tranh, muốn buộc quân Mỹ phải cút, qua kinh nghiệm chiến thắng đế quốc Mỹ ở miền Nam và miền Bắc Việt Nam, thì quan trọng nhất là phải làm cho chúng một ý chí xâm lược, trên cơ sở các biện pháp chiến lược của chúng bị thất bại.
Còn quân đông mà phải rút khỏi nước ta, đó là kinh nghiệm của Việt Nam chống xâm lược có tính chất truyền thống dân tộc chống kẻ thù mạnh hơn.
Trải qua lịch sử chiến tranh Việt Nam, quân Tống đã phải rút chạy sau thất bại trước phòng tuyến sông Như Nguyệt; quân Mông Nguyên 3 lần bị tiêu diệt trong quá trình xâm lược, phải rút chạy về nước. Quân Pháp đã phải rút khỏi Điện Biên Phủ 1954. Đế quốc Mỹ là tên đế quốc đầu sỏ và mạnh nhất phe đế quốc tư bản, có tiềm lực quân sự, kinh tế mạnh, có quyết tâm chống cộng sản, hết sức ngoan cố, sẵn sàng đi bất cứ đâu để bảo vệ chế độ tự do tư sản, như tổng thống Ken-nơ-đi đã từng tuyên bố, khi can thiệp vào Việt Nam.
Đánh cho Mỹ mất ý chí xâm lược, phải xuống thang chiến tranh và rút quân viễn chinh trên 50 vạn tên khỏi nước ta, không phải dễ dàng có thể xác định được ngay, khi Giôn-xơn tuyên bố đưa quân Mỹ trực tiếp tham chiến vào năm 1965.
Buộc đế quốc Mỹ phải chấp nhận từ bỏ chiến lược “chiến tranh cục bộ”, thực hiện “Việt Nam hóa chiến tranh” khi quân Mỹ trực tiếp tham chiến với lực lượng cao nhất, là một nghệ thuật. Ngay tướng Oét~mo-len, tổng tư lệnh quân đội Mỹ ở miền Nam cũng phải nhận rằng Mỹ đã thua và ta đã giành được thắng lợi tâm lý ở Mỹ, ảnh hưởng đến tổng thống Giôn-xơn và các cố vấn dân sự của ông ta, buộc Giôn-xơn phải chấp nhận xuống thang chiến tranh, tuyên bố không ra ứng cử tổng thống nhiệm kỳ thứ 2 và cách chức Oét-mo-len.
Mất ý chí đem quân trực tiếp tham chiến, thất bại trong “chiến tranh cục bộ”, Mỹ phải quyết định “phi Mỹ hóa chiến tranh” để đến năm 1975, toàn bộ chính quyền ngụy với trên 1 triệu quân đổ nhào, chỉ là một diễn biến tất yếu của sự thất bại của chiến tranh cục bộ năm 1968.
Mỹ phải cút, mất ý chí xâm lược, phải chịu xuống thang vì các biện pháp chiến lược tìm diệt và bình định của Mỹ đều thất bại trên 2 năm tham chiến trực tiếp. Mỹ đã không thắng nổi chiến tranh toàn dân của Việt Nam, Mỹ đã phải chấp nhận những trận chiến đấu theo ý đồ của đối phương, trong khi họ định đi tìm đối phương để diệt. Quân Mỹ trên chiến trường đã không phát huy được sở trường, sức mạnh của hỏa lực phi pháo, sức đột kích của xe tăng thiết giáp. Trái lại, cái sở đoản của đội quân cơ giới hợp đồng binh chủng khi bị đánh bất ngờ, mặt đối mặt với bộ binh tinh nhuệ của đối phương đã lúng túng giống như quân kỵ binh Mông Cổ giáp dầy giáo dài bị tập kích ban đêm, quân không kịp lên ngựa, bị các chiến binh ta dùng đoản binh chém giết, không chống đỡ nổi. Các chiến dịch tiến công, phản công vận động với các trận phục kích, tập kích, vận động tiến công đưa địch vào thế trận đã chuẩn bị của ta, buộc địch đánh trong thế bị động. Lấy phát huy tinh thần và cách đánh bám thắt lưng địch mà đánh, đã làm cho quân đội chính quy hiện đại của Mỹ khó trở tay kịp và cũng không biết cách đối phó ra sao. Đúng như Mo-sơ-đai - Jăng nguyên Bộ trưởng Quốc phòng Ixraen khi đi thăm quân Mỹ ở miền Nam, đã phát biểu: “Chỉ nằm mơ mới thấy lực lượng của Hoa Kỳ triển khai tác chiến ở Việt Nam, nhưng lực lượng Mỹ đi tìm diệt thì đi đến đâu đối phương cũng biết. Trái lại, Việt Cộng chỉ chấp nhận chiến đấu khi họ muốn; Mỹ như một võ sĩ hạng nặng nhưng bị bịt cả hai mặt, trái lại, Việt Cộng như võ sĩ hạng nhẹ nhưng có cả hai mắt ở sau gáy”.
Hai đợt phản công trong năm 1966 và trong năm 1967 đều thất bại, không tìm - diệt được đối phương mà lại còn bị thiệt hại nặng. Trên 200.000 quân (có 100.000 Mỹ và Nam Triều Tiên) bị loại khỏi vòng chiến đấu; trên 1.000 máy bay, trên 1.000 xe bọc thép bị phá hủy.
Năm 1968, với đòn tổng tiến công và nổi dậy của quân dân miền Nam, đã làm cho địch thiệt hại lớn chưa từng có:
- Trên 600.000 địch bị loại khỏi vòng chiến đấu, trong đó có trên 200.000 lính Mỹ, 6000 máy bay bị phá hỏng, 13.500 xe quân sự các loại bị phá hoại, 15.000 đồn bốt phải rút bỏ, trên 1.000 thôn ấp với trên 2 triệu dân được giải phóng.
Biện pháp “tìm diệt” không có kết quả cộng với sự thất bại của “bình định”, mà một đòn sét đánh vào dịp Tết Mậu Thân, 5 trong 6 thành phố, 37 trong 44 thị xã và hàng trăm quận lỵ, căn cứ kho tàng, sở chỉ huy nằm sâu trong hậu phương địch đồng loạt bị tiến công, ngay đến tổng hành dinh của Mỹ, ngụy cũng đều bị đánh. Chỉ trong 1 tháng mà trên 100.000 tên địch, trong đó có trên 40.000 tên Mỹ bị loại khỏi vòng chiến đấu, 20 vạn ngụy quân rã ngũ, 2.370 máy bay, 1.700 xe tăng, xe bọc thép trên 1.200.000 dân được giải phóng.
Cuộc tiến công Tết Mậu Thân 1968 có ý nghĩa to lớn, vì nó nổ ra sau hơn 2 năm quân Mỹ trực tiếp tham chiến và nó diễn ra ngay sau khi tổng tư lệnh Mỹ Oét-mo-len báo cáo cho tổng thống Mỹ, là chủ lực Việt Cộng đã bị đẩy ra xa gần biên giới và nông thôn, đô thị miền Nam cơ bản đã được bình định.
Nó thể hiện phương hướng tác chiến chiến lược của Đảng đề ra đã có hiệu lực lớn, chiến tranh du kích đã được phát triển lên đỉnh cao, đã tiêu hao, phân tán, ghìm chân địch, đập tan các cuộc càn quét, đánh bại âm mưu bình định, uy hiếp các đô thị của địch.
Trên cơ sở 2 biện pháp chiến lược “tìm diệt” và “bình định” của địch bị đánh bại, chiến tranh nhân dân của ta ngày càng vững vàng, các phương thức tác chiến chiến lược được đề ra đã phát huy hiệu quả đánh địch trên toàn bộ chiến trường miền Nam.
Các căn cứ hậu cần, sân bay, hải cảng bị đánh phá.
Các đường giao thông thủy bộ quan trọng của địch đều bị đánh, tạo ra thế chia cắt, bao vây địch, buộc chúng phải đi vào phòng ngự.
Trong các đô thị, việc kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang phát triển.
Tác chiến kết hợp với binh vận, làm địch tan vỡ, ly khai, phát huy hiệu lực cao, đặc biệt trong tổng công kích và nổi dậy mùa Xuân Mậu Thân.
Sáu phương thức tác chiến chiến lược là bài học kinh nghiệm quan trọng, đã trở thành những tư tưởng quân sự của chiến tranh nhân dân Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.
Thứ bảy là theo tôi trong giai đoạn này, trong lãnh đạo chiến tranh ta cũng có khuyết điểm ảnh hưởng đến kết quả của chiến thắng, gây thiệt hại và kéo dài thời gian chiến tranh.
- Ý định chuyển cuộc chiến tranh cách mạng sang thời kỳ mới, thời kỳ giành thắng lợi quyết định mà Nghị quyết hội nghị Trung ương 14 đề ra, tháng 12-1967 vượt khả năng thực tế của ta lúc đó, vì kẻ địch còn hơn 1,1 triệu quân, được trang bị hiện đại, được bố trí thành hệ thống phòng thủ chặt chẽ trên khắp miền Nam.
- Cuộc tổng tiến công Tết Mậu Thân mang tính chất và hình thức là một cuộc tổng tiến công chiến lược, hay tập kích chiến lược nhiều hơn là tổng tiến công, tổng khởi nghĩa. Trên thực tế, lực lượng sử dụng tổng tiến công không nhiều, sức mạnh tổng khởi nghĩa chưa thật rõ nét và đồng loạt mà mới biểu hiện ở một số nơi, còn chủ yếu là sự tham gia giúp đỡ của nhân dân trong việc đưa đường, tiếp tế nuôi giấu thương binh.
- Cuộc tổng tiến công Tết Mậu Thân giành thắng lợi to lớn và có ý nghĩa chiến lược chủ yếu và tập trung là ở đợt một.
Sau đợt 1, yếu tố bất ngờ đã mất, địch đã chuẩn bị đối phó quyết liệt.
Nếu sau đợt 1, ta rút về củng cố các khu căn cứ và vùng giải phóng, đẩy mạnh chống phá “bình định”, củng cố lực lượng, thì thắng lợi sẽ lớn hơn, ít bị tổn thất. Việc đặt vấn đề tổng công kích, tổng khởi nghĩa là một quá trình, và tổ chức liên tiếp hết đợt 1, sang đợt 2 và đợt 3, là một sai lầm, đã gây cho ta nhiều thiệt hại và khó khăn lớn. Thực tiễn chứng minh, với tương quan lực lượng thực tế lúc đó việc đặt ra mục đích đánh đổ ngụy quyền, cô lập và buộc Mỹ xuống thang chiến tranh, chấp nhận chính quyền liên hiệp là không phù hợp.
Dù sao thắng lợi của tổng tiến công Tết Mậu Thân, kết thúc giai đoạn đánh bại chiến lược chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ, đã có ý nghĩa chiến lược to lớn. Bằng sức mạnh của chiến tranh nhân dân phát triển cao, kết hợp chặt chẽ hai phương thức tiến hành chiến tranh, bằng sức mạnh của cả lực lượng chính trị và vũ trang, tiến công địch trên cả 3 vùng chiến lược, nắm đúng thời cơ và tạo thời cơ, phá chiến lược, “tìm diệt” và “bình định” của đế quốc Mỹ, đánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” của chúng, buộc chúng phải xuống thang, phải ngồi vào bàn thương lượng.
Thắng lợi của giai đoạn 1965 - 1968 đã tạo điều kiện thuận lợi cho chúng ta đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước lên một bước mới, giành thắng lợi to lớn hơn trong cuộc chiến tranh giải phóng.
ĐỘNG VIÊN NỖ LỰC CAO NHẤT CỦA CẢ NƯỚC, KIÊN QUYẾT ĐÁNH BẠI CHIẾN LƯỢC “VIỆT NAM HÓA CHIẾN TRANH” VÀ CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI LẦN THỨ HAI CỦA ĐẾ QUỐC MỸ (1969 - 1973)
Cuối những năm 60, tương quan lực lượng trên thế giới biến đổi bất lợi cho Mỹ. Sức mạnh của hệ thống xã hội chủ nghĩa được nâng lên rõ rệt, trào lưu cách mạng giải phóng dân tộc tiếp tục nâng cao, một số nước đồng minh của Mỹ cũng bước vào cạnh tranh mạnh với Mỹ. Cuộc chiến tranh Việt Nam đã tác động sâu sắc đến tình hình chính trị, kinh tế xã hội và tinh thần nước Mỹ và là một trong những nhân tố chủ yếu làm thay đổi các mối liên hệ chiến lược nói trên.
Lợi dụng thất bại của chính quyền Giôn-xơn trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, Ních-xơn đã trúng cử tổng thống Mỹ nhiệm kỳ 1969 - 1973. Trước di sản nặng nề mà chính quyền cũ để lại, chính quyền mới ở Mỹ cho ra đời học thuyết “Ních-xơn” và chiến lược quân sự toàn cầu “ngăn đe thực tế” thay thế cho chiến lược “phản ứng linh hoạt” đã bị phá sản. Học thuyết Ních-xơn vẫn nhằm chống phá xã hội chủ nghĩa, phong trào cách mạng giải phóng dân tộc, duy trì vị trí của Mỹ trên thế giới, nhưng bằng cách cố gắng cải thiện nội tình chính trị, kinh tế - xã hội nước Mỹ, tăng cường lợi dụng mâu thuẫn giữa một số nước xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh việc sử dụng các đòn bẩy ngoại giao, nhất là với các nước lớn, sử dụng tối đa các đạo quân tay sai ở các khu vực để có thể giảm bớt gánh nặng quân sự cho Mỹ và “thay đổi màu da xác chết”.
Đối với miền Nam Việt Nam, chính quyền Mỹ tiến hành “Việt Nam hóa chiến tranh”, “Dùng người Việt đánh người Việt” với vũ khí trang bị và chỉ huy của Mỹ. Chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” bao gồm 3 giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Làm cho ta suy yếu, nâng cao sức mạnh quân ngụy Sài Gòn, chuyển giao dần nhiệm vụ chiến đấu trên bộ cho quân ngụy, rút từng phần quân chiến đấu Mỹ về nước.
- Giai đoạn 2: Làm cho ta suy yếu thêm 1 bước nghiêm trọng, buộc ta phải lui vào phòng thủ và hoạt động nhỏ, rút phần lớn quân Mỹ về nước.
- Giai đoạn 3: Hoàn thành việc rút quân Mỹ, củng cố sự kiểm soát của ngụy quân, ngụy quyền ở Nam Việt Nam.
Mỹ đã ráo riết thi hành nhiều biện pháp kết hợp để thực hiện kế hoạch chiến lược này.
Chúng ra sức tăng cường ngụy quân, củng cố ngụy quyền. Tới cuối năm 1971, quân ngụy đã có tới 1,04 triệu tên, được trang bị thêm nhiều máy bay, tàu chiến, xe tăng, pháo. Chúng quan tâm củng cố bọn tay sai chóp bu, chấn chỉnh chính quyền các cấp ở tỉnh, quận, gắng phục hồi kinh tế Nam Việt Nam vừa để lừa bịp, vừa để giảm gánh nặng cho Mỹ.
Lợi dụng sự thiệt hại của ta qua 2 năm liên tiếp tiến công bộc lộ lực lượng chúng chủ trương tiến hành đồng thời ba loại chiến tranh: chiến tranh giành dân, chiến tranh ngăn chặn và bóp nghẹt, chiến tranh hủy diệt. Lực lượng Mỹ, ngụy kết hợp đã liên tiếp mở các cuộc hành quân phản kích, dùng B52 và các máy bay chiến thuật đánh phá ác liệt để đẩy lùi các đơn vị bộ đội chủ lực của ta ra xa các vùng xung yếu. Địch tiến hành “chiến dịch bình định”, lấy các vùng ven thành phố, thị xã làm trọng điểm rồi loang rộng dần với mục đích gom dân, phá các cơ sở cách mạng và du kích.
Không dừng ở đó, địch còn đẩy mạnh “chiến tranh đặc biệt” ở Lào, giật dây bọn Lon Non tay sai, làm đảo chính lật Xi-ha-núc (3-1970), mở rộng chiến tranh sang Cam-pu-chia. Từ tháng 4-1970 đến hết năm 1971, địch đã liên tiếp mở các chiến dịch tiến công sang Cam-pu-chia và Lào. Mục đích của Mỹ là lập một liên minh phản động khu vực, cô lập, bóp nghẹt cách mạng miền Nam Việt Nam và áp đặt sự thống trị lên cả ba nước Đông Dương.
Đối với miền Bắc Việt Nam, Mỹ vi phạm điều cam kết ngừng ném bom, bắn phá và các hành động chiến tranh khác, chúng dùng máy bay trinh sát và đánh phá án liệt tuyến vận chuyển chiến lược.
Cùng với hành động đẩy mạnh chiến tranh, chính quyền Ních-xơn đã tích cực xúc tiến các hoạt động ngoại giao xảo quyệt. Chúng cố tình dây dưa ở Hội nghị Pa-ri, lợi dụng hội nghị để tuyên truyền lừa bịp. Chúng chơi trò ngoại giao giữa “các trung tâm sức mạnh”, gây sức ép trong việc ép nhân dân Việt Nam phải nhân nhượng Mỹ.
Mỹ đã có tham vọng rất lớn khi đề ra chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” cùng với những biện pháp thực hiện thâm độc, xảo quyệt được tính toán kỹ lưỡng. Song ngay bản thân chiến lược này đã chứa đựng những mâu thuẫn không khắc phục được. Việc Mỹ mở rộng chiến tranh xâm lược ra toàn bán đảo Đông Dương và gây lại cuộc chiến tranh phá hoại tàn bạo, quy mô lớn đối với miền Bắc Việt Nam (tháng4-1972 - 12-1972) không chỉ buộc Mỹ lại phải dính sâu vào cuộc chiến tranh, mà còn chứng tỏ “học thuyết Ních-xơn” áp dụng vào Việt Nam đã tỏ ra bất lực.
Cuối năm 1968, sau các đợt tổng tiến công đợt 2, đợt 3 của ta không dứt điểm, không đạt được mục tiêu đề ra, địch đã tập trung sức phản kích quyết liệt. Ta bị tổn thất lớn. Nửa đầu năm 1969, ta vẫn gặp nhiều khó khăn. Vùng giải phóng bị thu hẹp, mất đất, mất dân. Địch đã bình định cấp tốc trên 9.200 ấp với số dân gần 16 triệu, trong tổng số 12.395 ấp với 17,5 triệu dân. Nhiều cơ sở bị vỡ, thế chiến tranh nhân dân suy giảm. Lực lượng chủ lực tuy còn đủ số lượng sư đoàn, nhưng không đủ sức thực hiện các chiến dịch tiến công quy mô vừa và lớn; một số sư đoàn chủ lực ở Khu 5 và Nam Bộ phải ra đứng chân ngoài biên giới Cam-pu-chia và Hạ Lào. Các căn cứ hậu cần, kho tàng bị địch đánh thiệt hại, khả năng bổ sung tại chỗ rất hạn chế.
Trong điều kiện có những khó khăn to lớn trước mắt như vậy, đầu năm 1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi cả nước và vạch rõ phương hướng phát triển của cách mạng miền Nam là “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”. Tháng 4-1969, Bộ Chính trị họp và nhận định rằng “Việt Nam hóa chiến tranh” là một chủ trương đề ra trong thế thất bại, chứa dựng đầy những mâu thuẫn không thể khắc phục được nó rất xảo quyệt, thâm độc và tàn bạo, nhưng là sự phản ánh thế đi xuống, thế thua của Mỹ.
Tháng 1-1970 Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 18 để xem xét nghiêm túc các khuyết điểm, điểm yếu của ta, phân tích kỹ lưỡng tình hình, lực lượng địch và đề ra nhiệm vụ cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trong bước chuyển biến mới của tình hình. Hội nghị nhấn mạnh phải “... tiếp tục phát triển chiến lược tấn công một cách toàn diện, liên tục và mạnh mẽ, đẩy mạnh tiến công quân sự, chính trị và kinh tế, kết hợp tiến công ngoại giao, vừa tiến công địch, vừa ra sức xây dựng lực lượng quân sự và chính trị của ta ngày càng lớn mạnh... Đánh cho Mỹ phải rút hết quân, đánh cho ngụy phải suy sụp, tạo điều kiện cơ bản để thực hiện một miền Nam độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập, tiến tới thống nhất đất nước”. Trung ương Đảng và Bộ Chính trị nêu rõ, công tác hậu cần có tầm quan trọng chiến lược, đề ra yêu cầu phải chuẩn bị tốt về mọi mặt, chủ động trước tình hình diễn biến phức tạp ở Cam-pu-chia và Lào có thể làm cho việc vận chuyển chi viện cho Nam Bộ và Tây Nguyên gặp nhiều khó khăn.
Nắm vững tinh thần chỉ đạo của Trung ương và Bộ Chính trị, ta đã từng bước khắc phục những thiếu sót, khuyết điểm, chuyển hướng đấu tranh trên cả 3 vùng chiến lược, kiên cường chống phá “bình định” nông thôn của địch và củng cố vùng giải phóng. Một số đơn vị chủ lực được phân công xuống các địa phương để củng cố cơ sở, phục hồi và phát triển chiến tranh du kích, xây dựng và củng cố bộ đội địa phương, dân quân du kích. Các Đảng bộ, đảng viên ở các cơ sở còn lại, quyết tâm bám trụ, vượt qua những thử thách ác liệt nhất để lãnh đạo phong trào. Ở các vùng giải phóng, bộ đội và nhân dân vừa đánh giặc vừa ra sức tăng gia sản xuất, cố gắng tự túc một phần lương thực.
Kết quả là, quá trình “bình định” của địch từng bước bị chặn đứng, đẩy lùi. Từ cuối quý ba 1969, lực lượng vũ trang của ta lại bắt đầu mở các hoạt động quân sự có hiệu quả.
Ngày 2-9-1969 Bác Hồ qua đời. Trong di chúc, Người căn dặn: “Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước có thể còn kéo dài. Đồng bào ta có thể phải hy sinh nhiều của, nhiều người. Dù sao chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn”. Trước tổn thất vô cùng lớn lao đó, một phong trào “biến đau thương thành hành động cách mạng” đã được phát động trong cả nước. Ở miền Nam, ta đã mở hàng loạt các cuộc tiến công vừa và nhỏ ở Phước Long, Quảng Đức, Đà Lạt, Rạch Giá, Mỹ Tho, Bến Tre, Kiến Tường, An Giang, Tây Nguyên, Thừa Thiên. Đặc biệt tháng 11-1969 lực lượng vũ trang Tây Nguyên đã đánh bại cuộc hành quân của địch ở Chư Pa và Tây Bắc Kon Tum, đồng thời phá vỡ tuyến phòng thủ Tây Nam Đắc Lắc của địch, uy hiếp Buôn Ma Thuộc. Ta còn tiến hành tập kích vào các thành phố Đà Nẵng, Huế, Quy Nhơn, Cần Thơ, Sài Gòn, gây cho địch nhiều thiệt hại.
Phối hợp với chiến trường miền Nam, quân và dân bạn cùng lực lượng vũ trang ta đã thu được những thắng lợi quân sự quan trọng trên các chiến trường Lào và Cam-pu-chia. Quân dân Lào, được sự giúp đỡ của quân tình nguyện Việt Nam, đã đánh bại cuộc hành quân lớn nhất của địch ra Cánh Đồng Chum (9-1969 đến tháng 1-1970). Cuối tháng 4-1970, liên quân Lào - Việt tiến công giải phóng thị xã A-tô-pơ (Hạ Lào), rồi thừa thắng tiến công thị xã Sa-ra-van (9-6-1970), giải phóng một vùng rộng lớn ở Nam Lào. Tháng 4-1970 Mỹ ngụy sử dụng tới 5 vạn quân Mỹ và 5 vạn quân ngụy tiến sang Đông Bắc Cam-pu-chia, hy vọng đập tan căn cứ đầu não và hậu cần của ta. Song cuộc hành quân lớn này của địch đã bị chặn đánh quyết liệt. Tính đến tháng 6-1970 lực lượng vũ trang ta và bạn đã loại khỏi vòng chiến đấu 17 nghìn quân Mỹ ngụy, phá hỏng 15.000 xe quân sự có 750 xe tăng và xe bọc thép, giải phóng hoàn toàn 5 tỉnh ở Đông Bắc Cam-pu-chia, và phần lớn nông thôn của 10 tỉnh khác, hình thành một vùng giải phóng rộng lớn.
Như vậy là vào nửa đầu năm 1970, một vùng căn cứ giải phóng liên hoàn đã hình thành, kéo dài từ Thượng Lào xuống Trung, Hạ Lào, nối liền với Đông Bắc Cam-pu-chia, liên kết với Tây Trị Thiên, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ.
Trước tình hình nghiêm trọng mới do Mỹ mở rộng chiến tranh ra toàn bán đảo Đông Dương, cũng như thế trận thuận lợi cho bước phát triển mới của cách mạng ba nước, ngày 19-6-1970 Bộ Chính trị ra nghị quyết nêu rõ nhiệm vụ mới của chúng ta, là “động viên sự nỗ lực cao nhất của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân cả hai miền Nam - Bắc nước ta, tăng cường khối đoàn kết chiến đấu của nhân dân ba nước Đông Dương thành một khối thống nhất, có chiến lược chung, kiên trì và đẩy mạnh cuộc kháng chiến cứu nước của nhân dân ba nước chống đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai”. Bộ Chính trị chỉ rõ: Miền Nam là “chiến trường quan trọng nhất” trong cuộc kháng chiến của nhân dân ba nước chiến trường Cam-pu-chia là khâu yếu nhất của địch; chiến trường Lào có vị trí hiểm yếu, nhất là Trung và Hạ Lào, vì đó là hành lang nối liền hậu phương miền Bắc với chiến trường miền Nam và Cam-pu-chia; còn miền Bắc là hậu phương chung của tiền tuyến lớn miền Nam, cũng như của cách mạng Lào và Cam-pu-chia.
Bước vào năm 1971, mặc dù đã thua đau trên chiến trường ba nước Đông Dương, đế quốc Mỹ vẫn không cam chịu thất bại, tiếp tục lao vào cuộc phiêu lưu mới. Ngày 8-2-1971 Mỹ ngụy bắt đầu mở cuộc hành quân “Lam Sơn 719” đánh lên khu vực biên giới Đường 9 - Nam Lào, đưa đại bộ phận lực lượng dự bị chiến lược quân chủ lực ngụy, có sự chi viện tối đa của hỏa lực không quân, pháo binh Mỹ vào tham chiến. Âm mưu của địch là cắt đứt hành lang vận chuyển chiến lược của ta, lập tuyến ngăn chặn cắt đôi Đông Dương. Cuộc hành quân này cũng nhằm vào thử thách công thức bộ binh ngụy cộng hỏa lực Mỹ trong chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ. Phối hợp với hướng Đường 9 - Nam Lào và để phân tán lực lượng của ta, địch còn mở cuộc hành quân “Toàn thắng 1971” đánh sang Công Pông Chàm, Kra Chiê (Cam-pu-chia) và cuộc hành quân “Quang Trung” đánh ra vùng Ba biên giới tại Tây Nguyên.
Ngày 9-2-1971, Quân ủy Trung ương ra chỉ thị “tập trung lực lượng, kiên quyết tiêu diệt nhiều sinh lực địch và phương tiện chiến tranh của Mỹ - ngụy, bảo vệ bằng được con đường chi viện cho tiền tuyến, phối hợp với các chiến trường, với nhân dân Lào và Cam-pu-chia anh em, đập tan hành động phiêu lưu quân sự của đế quốc Mỹ và tay sai”.
Chiến dịch phản công của ta ở Đường 9 - Nam Lào kéo dài từ ngày 8-2-1971 đến 23-3-1971 đã kết thúc thắng lợi, làm phá sản hoàn toàn âm mưu và tham vọng của địch. Ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 23 nghìn tên địch, phá hủy và bắn rơi gần 500 máy bay, phá hủy và thu gần 600 xe quân sự, 150 khẩu pháo. Cùng với thắng lợi vang dội trên mặt trận Đường 9 - Nam Lào, ta đã cùng với bạn Cam-pu-chia đánh bại cuộc hành quân “Toàn thắng 171” của quân ngụy Sài Gòn (4-2 - 31-5-1971), tiêu diệt gần 20 nghìn tên địch, chủ yếu là quân ngụy Sài Gòn.
Cuối năm 1971, bộ đội ta cùng với quân dân Cam-pu-chia và Lào giành tiếp những thắng lợi to lớn, đánh bại cuộc hành quân Chen-la II của quân ngụy Lon Non (có sự yểm trợ mạnh mẽ của không quân Mỹ và ngụy Sài Gòn), cuộc hành quân của một lực lượng lớn quân Thái Lan và Vâng Pao lấn chiếm Cánh Đồng Chum và cuộc hành quân của quân ngụy Lào và Thái Lan lấn ra vùng giải phóng A-tô-pơ Xa-ra-van.
Những thắng lợi quân sự trong 2 năm 1970 - 1971, đặc biệt là thắng lợi của các chiến dịch phản công trong năm 1971 có một ý nghĩa thắng lợi sâu sắc. Trên phạm vi toàn chiến trường Đông Dương, ta đã giành lại thế chủ động chiến lược, phá một bước quan trọng âm mưu thực hiện “cuộc chiến tranh bóp nghẹt”. Cục diện chiến trường mở ra triển vọng hiện thực đánh bại “Việt Nam hóa chiến tranh” và “học thuyết Ních-xơn” của Mỹ ở Đông Dương nhằm lấy quân ngụy Sài Gòn làm lực lượng xung kích ở Nam Việt Nam và cả trên bán đảo Đông Dương. Âm mưu “Khơ-me hóa chiến tranh” và biện pháp chiến lược mới của Mỹ ở Lào (dùng quân Thái Lan làm nòng cốt cùng quân phỉ Vàng Pao và quân ngụy Lào được Mỹ chi viện hỏa lực và hậu cần lấn chiếm vùng giải phóng) đã bị giáng một đòn nặng. Những thắng lợi quân sự còn hỗ trợ mạnh mẽ cho thế tiến công về ngoại giao của ta trên chiến trường quốc tế, cũng như tại hội nghị Pa-ri.
Tuy nhiên, vấn đề tồn tại và nổi lên cơ bản trong năm 1971 là, tại chiến trường chính miền Nam Việt Nam ta chưa tạo được chuyển biến lớn về chiến lược có lợi cho ta.
Ngay vào tháng 5-1971, Bộ Chính trị đã họp và đề ra nhiệm vụ “kịp thời nằm lấy thời cơ, trên cơ sở phương châm chiến lược đánh lâu dài, đẩy mạnh tiến công quân sự, chính trị và ngoại giao..., phát triển thế chiến lược tiến công mới trên toàn chiến trường miền Nam và trên cả chiến trường Đông Dương, đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ..., giành thắng lợi quyết định trong năm 1972, buộc đế quốc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh bằng thương lượng trên thế thua, đồng thời sẵn sàng chuẩn bị kiên trì và đẩy mạnh kháng chiến trong trường hợp chiến tranh còn kéo dài”.
Tháng 6-1971, Quân ủy Trung ương họp bàn biện pháp thực hiện nghị quyết Bộ Chính trị. Quân ủy xác định quyết tâm chiến lược trong năm 1971 - 1972 là tập trung mọi cố gắng đẩy mạnh tiến công quân sự và chính trị trên cả 3 vùng ở miền Nam Việt Nam là chiến trường chính và khắp cả chiến trường Đông Dương.
Tiếp đó tháng 2-1972, Quân ủy chỉ đạo tích cực đánh thắng bằng 3 đòn chiến lược: bộ đội chủ lực phải tiêu diệt một bộ phận lực lượng ngụy quân miền Nam, phá vỡ từng bộ phận thế bố trí phòng ngự của chúng, mở rộng vùng giải phóng; coi quân ngụy là đối tượng tác chiến chủ yếu nhưng vẫn tiến công tiêu diệt quân Mỹ, đẩy mạnh đòn tiến công và nổi dậy ở vùng đồng bằng nông thôn quan trọng, kết hợp tiến công quân sự, chính trị và binh vận, đẩy mạnh phong trào chiến tranh du kích; đẩy mạnh phong trào đấu tranh ở các đô thị.
Để thực hiện những tư tưởng chỉ đạo trên, ngày 11-3-1972 thường vụ Quân ủy Trung ương ra nghị quyết mở cuộc tổng tiến công chiến lược năm 1972, lấy hướng chủ yếu là Trị Thiên, nhằm “tiêu diệt lớn quân địch, mở rộng vùng giải phóng, góp phần làm thay đổi so sánh lực lượng giữa ta và địch, thay đổi cục diện chiến tranh ở miền Nam, đưa cuộc kháng chiến tiến lên một bước mới”. Quân ủy còn chỉ rõ: “Chiến dịch Trị Thiên là 1 chiến dịch quy mô lớn, là một trong những hướng chiến lược rất quan trọng, một chiến dịch hợp đồng binh chủng, một chiến dịch tổng hợp cả về quân sự và chính trị”.
Đối với ta, thời điểm mở cuộc tổng tiến công có nhiều thuận lợi. Địch bị đánh đau trong năm 1971, chưa hồi phục về tinh thần, công tác “bình định” bị chậm lại do ta chống phá quyết liệt. Quân Mỹ và chư hầu rút theo kế hoạch, tạo nên một lỗ hổng lớn khả năng cơ động và hỏa lực quân ngụy không bù đắp nổi. Đặc biệt là địch đã có sai lầm trong đánh giá khả năng của ta. Chúng cho rằng mức độ hoạt động của ta năm 1972 cũng chỉ như 6 tháng cuối năm 1971 và nhiều khả năng là ta sẽ tập trung đánh vào dịp Mỹ bầu cử tổng thống, tháng 11-1972. Từ nhận định đó, địch đã sử dụng 1 bộ phận chủ lực quan trọng đánh lên biên giới Đông Bắc Cam-pu-chia, củng cố tuyến phòng thủ Đông Bắc Cam-pu-chia, Tây Nguyên và các tuyến phòng thủ vòng ngoài. Đồng thời cũng phải thấy rằng, lực lượng địch còn mạnh. Đến 30-3-1972, chúng có khoảng 140 máy bay, 120 tàu chiến, khoảng 1.600 khẩu pháo; quân Mỹ vẫn còn 90.000 tên, hải quân Mỹ vẫn chi viện đắc lực cho các cuộc hành quân ven biển. Địch lại tăng cường đánh phá ác liệt đường mòn Hồ Chí Minh và các khu vực cơ sở phía sau của ta ở Lào và Cam-pu-chia. Và tuy mắc vào cuộc vận động tranh cử tổng thống, nhưng việc Mỹ móc được với các nước lớn thực hiện đòn bẩy ngoại giao cũng là một yếu tố để chúng có thể tăng cường gây sức ép đối với ta bằng sức mạnh quân sự.
Cuộc tiến công chiến lược năm 1972 trên toàn miền Nam mở đầu bằng chiến dịch tiến công Trị Thiên ngày 30-3 kéo dài đến ngày 24-6. Đây là một chiến dịch hợp đồng binh chủng, tiến công liên tục dài ngày, đột phá một hệ thống trận địa phòng ngự kiên cố của dịch. Thắng lợi của chiến dịch có ý nghĩa chiến lược, lần đầu tiên trong kháng chiến chống Mỹ, ta giải phóng hoàn toàn một tỉnh, tỉnh Quảng Trị. Tuy vậy, ta chưa thực hiện được mục tiêu giải phóng Thừa Thiên.
Chiến dịch tiến công Tây Nguyên (ngày 31-3 đến ngày 3-5) là chiến dịch quy mô lớn đầu tiên đánh vào các thị xã ở vùng rừng núi Tây Nguyên. Chiến dịch đã đột phá vào hệ thống phòng thủ kiên cố của địch trên chiều sâu hơn 100 km, cả 1 vùng rộng lớn phía Bắc Kon Tum được giải phóng. Tuy nhiên, ta chưa giải phóng được thị xã Kon Tum.
Cùng với 2 chiến dịch trên, ta mở chiến dịch Nguyễn Huệ (1-4-1972 - 19-1-1973), một chiến dịch có quy mô lớn nhất từ trước tới nay ở Nam Bộ. Chiến dịch kéo dài tới 10 tháng, ta làm chủ và giải phóng nhiều khu vực, nhưng ta chưa dứt điểm khi đánh vào thị xã Bình Long.
Ngoài ra, ta đây mở chiến dịch tổng hợp đánh phá kế hoạch “bình định” của địch ở Khu 5. Chiến dịch đã kết hợp chặt chẽ hoạt động của cả ba thứ quân với quá trình nổi dậy của quần chúng. Kết quả là ta đã giải phóng 1 vùng rộng lớn, 1 số quận, thị trấn và cắt đứt đường số 1.
Trong năm 1972, cùng với các chiến dịch tiến công chiến lược, ta cùng với bạn còn tiến hành những chiến dịch phòng ngự lớn. Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum phối hợp với cuộc tiến công trên mặt trận Quảng Trị, mùa hè năm1972 đã giành thắng lợi lớn, thể hiện rõ tính chủ động, sáng tạo sự chu đáo trong công tác tổ chức và chỉ huy chiến dịch.
Riêng việc ngăn chặn địch giữ Quảng Trị (28-6-1972 - 31-1-1973) đã phải tổ chức gấp rút trong quá trình phát triển chiến dịch tiến công, nên không thành công. Bên cạnh đó quan điểm tư tưởng và lý luận nghệ thuật chiến dịch phòng ngự còn chưa thông suốt, nhất quán từ trên xuống dưới, nên ta đã gặp nhiều khó khăn. Do khắc phục được những khuyết điểm ban đầu, ta đã phòng ngự có kết quả và giành thắng lợi trong việc tổ chức những đòn phản đột kích.
Ý nghĩa chiến lược của đòn tổng tiến công và các hoạt động quân sự, chính trị khác của ta trên chiến trường năm 1972 là ở chỗ: ta đã đẩy Mỹ - ngụy vào thế hết sức bị động và lúng túng, phá vỡ và làm tê liệt công cuộc “bình định” của chúng ở nhiều nơi, đặt “Việt Nam hóa chiến tranh” trước nguy cơ phá sản hoàn toàn.
Sẽ không đầy đủ nếu như không nói đến sự chi viện to lớn của hậu phương lớn miền Bắc cho tiền tuyến và thắng lợi của quân dân ta trong cuộc đánh trả chiến tranh phá hoại lần thứ hai của đế quốc Mỹ.
Ngay sau khi Mỹ buộc phải chấm dứt ném bom bắn phá miền Bắc (1-1-1968), nhân dân miền Bắc đã tranh thủ thời gian, ra sức khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế ổn định đời sống và tiếp tục chi viện cho tiền tuyến.
Trước việc thỏa hiệp của các nước lớn với Mỹ nhằm gây sức ép với ta, Đảng và Chính phủ ta luôn luôn kiên quyết và nêu rõ lập trường, nguyên tắc của chúng ta là: vấn đề Việt Nam phải do nhân dân Việt Nam tự giải quyết, không ai có quyền bàn với Mỹ trong vấn đề này; dù trong tình huống nào nhân dân Việt Nam cũng kiên quyết chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn. Ta chủ trương vừa đánh vừa đàm, vừa giữ vững tính độc lập tự chủ, vừa phối hợp chặt chẽ với các nước xã hội chủ nghĩa anh em, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ rộng rãi của các lực lượng tiến bộ toàn thế giới, kể cả nhân dân Mỹ. Trong tình hình mới, miền Bắc càng phải dốc sức làm tròn nghĩa vụ đối với miền Nam và Cam-pu-chia, Lào, chuẩn bị sẵn sàng cho đòn tiến công chiến lược. Hàng chục vạn thanh niên được gọi nhập ngũ, lên đường vào Nam và tham gia quân tình nguyện ở Lào, Cam-pu-chia. Khối lượng vũ khí trang bị đưa vào các chiến trường trong 3 năm 1969 - 1971 tăng gấp 1,6 lần so với 3 năm trước.
Trước nguy cơ “Việt Nam hóa chiến tranh” bị thất bại, ngày 6 tháng 4 năm 1972, đế quốc Mỹ gây lại cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc với mức độ ác liệt gấp bội. Đồng thời, với việc dùng lực lượng không quân, hải quân (kể cả máy bay ném bom chiến lược B52) tàn phá miền Bắc, Mỹ còn tiến hành phong tỏa gắt gao vùng biển và các hải cảng của ta.
Trong khói lửa đạn bom, chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại ở miền Bắc phát triển ngày càng hoàn thiện. Các thứ quân, các quân chủng đều lập thành tích rực rỡ. Chỉ trong vòng 7 tháng (4-1972 - 10-1972) ta đã bắn rơi 651 máy bay Mỹ, bắn bị thương 80 tàu chiến địch, bắt sống hàng trăm giặc lái. Miền Bắc xã hội chủ nghĩa đã tỏ rõ sức mạnh chính trị, kinh tế, quân sự, và cả tri thức kỹ thuật của mình trong cuộc đọ sức với tên đế quốc đầu sỏ.
Vừa ném bom, phong tỏa miền Bắc, gây nhiều tổn thất cho ta vừa móc ngoặc với các nước lớn gây sức ép nhưng chúng vẫn không lung lay nổi ý chí của dân tộc ta, không ngăn chặn được sự chi viện của hậu phương cho tiền tuyến. Miền Bắc động viên 220 nghìn thanh niên bổ sung cho lực lượng vũ trang và đưa vào chiến trường. Năm 1972, khối lượng vật chất vận chuyển cho các chiến trường vẫn tăng 1,7 lần so với năm 1971. Hàng triệu lượt người đi dân công phục vụ chiến đấu và tham gia “dân công hỏa tuyến” tại các khu vực trọng điểm ác liệt.
Để lừa bịp dư luận thế giới và dư luận Mỹ, tìm kiếm lá phiếu trong cuộc bầu cử tổng thống, ngày 20-10-1972 Ních-xơn tuyên bố Mỹ chỉ ném bom hạn chế ở miền Bắc - (Nam vĩ tuyến 20) và “hòa bình đã ở trong tầm tay”.
Hiểu rõ dã tâm kẻ thù, đánh giá chính xác âm mưu của chúng, Trung ương Đảng đã động viên toàn dân, toàn quân, đề cao cảnh giác, chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc đọ sức mới, quyết đánh cho chúng một đòn thật đau hơn nữa, buộc chúng phải thương lượng trong thế yếu, thế thua.
Đúng như Trung ương Đảng đã dự kiến, sau khi trúng cử tổng thống, Ních-xơn lật lọng, đòi ta nhân nhượng. Ngày 18-12-1972, Mỹ mở cuộc tập kích chiến lược, dùng 729 lần chiếc máy bay B52 cùng với gần 2.000 lần chiếc máy bay chiến thuật liên tục 12 ngày đêm đánh phá ác liệt thủ đô Hà Nội, thành phố Hải phòng và một số điểm khác ở Bắc vĩ tuyến 20. Lần đầu tiên ta đã tiến hành một chiến dịch phòng không hiện đại quy mô lớn. Nhờ chuẩn bị tốt về tư tưởng và tổ chức, sáng tạo trong nghệ thuật quân sự, biết phát huy vai trò của các lực lượng phòng không, đặc biệt là của lực lượng tên lửa phòng không với tư cách là binh chủng chủ yếu đánh bại các đòn tập kích của B52, ta đã giành thắng lợi vẻ vang, bắn rơi 81 máy bay Mỹ, trong đó có 31 máy bay B52. Hành động man rợ ném bom rải thảm Hà Nội, Hải Phòng của Mỹ còn bị cả thế giới lên án mạnh mẽ. Chính quyền Ních-xơn hết sức bị cô lập về chính trị và ngoại giao.
Cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai của đế quốc Mỹ đã thất bại thảm hại; 728 máy bay, trong đó 59 máy bay B52 bị bắn rơi, hàng trăm giặc lái bị bắt sống, hàng trăm tên khác bỏ mạng, 137 tàu chiến các loại bị bắn cháy và bắn hỏng. Thắng lợi của chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không” đập tan cuộc tập kích chiến lược bằng không quân của Mỹ cũng như những nỗ lực của quân dân ta phối hợp với bạn Lào và Cam-pu-chia trên khắp các chiến trường trong năm 1972 đã đẩy địch vào thế bị động, đặt “Việt Nam hóa chiến tranh” trước nguy cơ phá sản, đã buộc Mỹ phải trở lại cuộc đàm phán ở Pa-ri trong thế yếu. Ngày 15-1-1973, Mỹ tuyên bố ngừng ném bom bắn phá miền Bắc và ngày 27-1-1973 “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam” được ký kết, Mỹ phải cam kết tôn trọng độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.
Sau 4 năm chiến đấu kiên cường (1969 - 1973), bằng cách đẩy mạnh cuộc đấu tranh trên cả 3 mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao, đánh địch ở cả miền Nam và miền Bắc, phối hợp chặt chẽ với bạn Lào, Cam-pu-chia, đánh địch trên toàn chiến trường Đông Dương, bằng cách đẩy mạnh 3 đòn chiến lược, tiến công quân sự, chống phá “bình định”, đấu tranh ở đô thị, đặc biệt là nâng cao và hoàn thiện từng bước các đòn tiến công của bộ đội chủ lực, quân và dân ta đã làm phá sản về căn bản chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Ních-xơn. Quân Mỹ và nước ngoài phải rút hết khỏi miền Nam Việt Nam, còn quân chủ lực của ta vẫn ở tại chỗ.
Một số bài học về chiến lược quân sự trong chiến thắng “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ.
Bị thất bại trong “cuộc chiến tranh cục bộ” ở Việt Nam, sau gần 4 năm chiến tranh khốc liệt trên cả hai miền Nam và Bắc Việt Nam, chính quyền Mỹ buộc phải tuyên bố xuống thang, “phi Mỹ hóa chiến tranh”, rút quân Mỹ về nước sau khi đã huy động một đội quân khổng lồ mạnh nhất của đế quốc trong thời đại. Mỹ phải chịu rút quân sau khi chúng huy động trên 50 vạn quân với lực lượng không quân và hải quân mạnh trên 30% phi cơ chiến đấu, trên 50% phi cơ chiến lược của không quân và đại bộ phận hạm đội Thái Bình Dương từ cuối năm 1968.
Nhưng do sai lầm về chiến lược của ta, là đã kéo dài tổng công kích và nổi dậy đến hết năm 1969, khi bất ngờ chiến lược đã hết, không kịp thời chuyển hướng chiến lược, phát triển thắng lợi sau năm 1968 về làm chủ nông thôn ở miền Nam. Do phải liên tiếp huy động toàn lực cả về quân sự, chính trị toàn miền vào tổng công kích và khởi nghĩa liên tiếp ở thành phố, thị xã, nơi địch đã củng cố lại, trong khi ta có nhiều khó khăn về mọi mặt, xa căn cứ, bàn đạp, nên địch đã lợi dụng được chỗ yếu này mà phản ứng quyết liệt, gây cho ta tổn thất to lớn, như mất đất, mất dân, cơ sở chính trị bị bộc lộ, bị tiêu hao lớn, lực lượng vũ trang bị tổn thất, đại bộ phận chủ lực bị bật ra khỏi chiến trường miền Nam. Thế và lực của chiến tranh nhân dân bị suy yếu nghiêm trọng.
Đảng ta kịp thời rút kinh nghiệm và biết lợi dụng triệt để sai lầm của Mỹ khi chúng mở rộng chiến tranh ra cả 3 nước Đông Dương, vừa muốn rút quân Mỹ về nước vừa muốn tiếp tục thực hiện ý đồ giành thắng lợi trong chiến tranh, một mơ tưởng thiếu thực tế, khi mà cả lực lượng của Mỹ trực tiếp tham chiến còn chịu thất bại, huống hồ lại mong chỉ có hỏa lực Mỹ cộng với quân ngụy mà có thể thắng được một cuộc chiến tranh nhân dân vô địch của dân tộc Việt Nam và của cả 3 nước Việt, Lào, Cam-pu-chia.
Tư tưởng chủ quan sẵn có của đế quốc Mỹ là luôn luôn ỷ lại vào sức mạnh của vũ khí và đồng đô la một lần nữa bị thất bại trước sức mạnh của chiến tranh nhân dân Việt Nam, của quyết tâm giành độc lập tự do, của một dân tộc bất khuất dưới sự lãnh đạo đúng đắn sáng tạo của Đảng và một nền khoa học, nghệ thuật quân sự tài giỏi.
Trên cơ sở thực tiễn chiến tranh, qua 4 năm từ 1969 đến 1972 có thể rút ra mấy kết luận có tính quy luật trong giai đoạn chiến thắng “Việt Nam hóa chiến tranh” của Ních-xơn như sau:
1. Trong chiến tranh cách mạng, tiến công và khởi nghĩa là một quy luật, nhưng tổng tiến công không nhất thiết phải đi đôi với tổng khởi nghĩa, lại càng không thể lấy tổng khởi nghĩa làm đòn chủ yếu, còn tổng tiến công chỉ là đòn bổ trợ, kìm giữ quân địch khi lực lượng quân sự của chúng còn mạnh chưa hoảng loạn, tan vỡ. Khởi nghĩa, tổng khởi nghĩa trong chiến tranh phải tuân theo quy luật của chiến tranh. Kinh nghiệm tổng khởi nghĩa ở Pra-ha (Tiệp Khắc) và Vác-xô-vi (Ba Lan) trong chiến tranh thế giới thứ hai lại càng sáng tỏ khi so sánh với cuộc tổng công kích và tổng khởi nghĩa ở miền Nam năm 1968 - 1969 và năm 1975. Tổng khởi nghĩa trong chiến tranh phải có thời cơ và không thể kéo dài. Quan điểm cho rằng, tổng công kích, tổng khởi nghĩa là một quá trình có thể kéo dài tới 2 năm, là một sai lầm chiến lược.
2. Đông Dương là một chiến trường. Đây là một quy luật của chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc của ba nước, khi có chung một kẻ thù như Pháp, Mỹ, có chung một mục tiêu cách mạng do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo trên ba nước.
Chiến trường Việt Nam, lực lượng vũ trang Việt Nam bao giờ cũng mang tính chất quyết định trong chiến tranh liên minh ba nước, ba dân tộc.
Ba nước đều có hậu phương riêng đồng thời có hậu phương chung là miền Bắc Việt Nam và không có chiến tuyến ngăn cách giữa ba nước.
3. Chiến lược tiến công trong chiến tranh cách mạng là chiến lược đem lại chiến thắng trong chiến tranh giải phóng, ngay cả khi địch mở rộng chiến tranh trong giai đoạn địch tiến công, phản công chiến lược.
Chiến dịch phản công, tiến công hiệp đồng binh chủng mang tính vận động trong chống Mỹ đã phát triển có mang tính chất trận địa, khi trên chiến trường phương án tác chiến đã thay đổi, lấy quân ngụy làm chủ yếu, có sự chi viện hỏa lực, phương tiện cơ động của các binh chủng Mỹ.
Các loại hình chiến dịch tiến công, phản công, tổng hợp, phòng ngự, phòng không đều xuất hiện trong “Việt Nam hóa chiến tranh”.
Các chiến dịch quy mô ngày càng lớn là một quy luật khi chiến tranh phát triển, yêu cầu bảo đảm hậu cần kỹ thuật và bổ sung lực lượng ngày càng lớn trong quá trình mở rộng chiến tranh.
4. Thế trận và thời cơ là 2 yếu tố quyết định để giành thắng lợi trong chiến tranh, khi mà lực lượng không chiếm ưu thế.
“Có thời có thế thì mất biến thành còn, nhỏ hóa ra lớn, không thời mất thế thì mạnh hóa ra yếu, yên hóa thành nguy, sự việc như thay đổi trong trở bàn tay” là một quy luật trong chiến tranh Việt Nam đã được Nguyễn Trãi tổng kết, vẫn là một tư tưởng chỉ đạo nghệ thuật quân sự Việt Nam hiện đại.
5. Đế quốc Mỹ rất ngoan cố và có tiềm lực rất lớn cả về quân sự, kinh tế, khoa học kỹ thuật, yêu cầu đánh bại ý chí xâm lược của chúng, buộc chúng phải rút khỏi đất nước ta trên cơ sở gây thiệt hại to lớn về người và phương tiện chiến tranh là một kinh nghiệm lớn về chiến lược khác hẳn với các cuộc chiến tranh chống xâm lược của các thế kỷ trước. Trong thời đại văn minh của thế kỷ XX sức mạnh của chiến tranh bao gồm cả sức mạnh quân sự, kinh tế, chính trị, ngoại giao, tư tưởng xã hội, phương tiện thông tin tác động tâm lý xã hội có giá trị không kém các phương tiện quân sự.
Chương 02
Đánh Pháp, đuổi Mỹ giải phóng đất nước giai đoạn 1945-1975 ĐÁNH CHO NGỤY NHÀO (1973 - 1975)
Nguồn: quansuvn.net
Thu gọn nội dung
Sau 4 năm chiến đấu kiên cường (1969 - 1973), bằng cuộc đấu tranh trên cả 3 mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao; đánh địch trên cả chiến trường miền Nam và miền Bắc, đồng thời phối hợp chặt chẽ với nhân dân Lào và Cam-pu-chia anh em; bằng cách đẩy mạnh cả ba đòn chiến lược tiến công quân sự, chống phá “bình định”, đấu tranh ở đô thị, trong đó đặc biệt nâng cao sức mạnh tiến công của bộ đội chủ lực, quân dân ta đã làm phá sản căn bản chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Ních-xơn.
Cùng với thắng lợi to lớn ở miền Nam, thắng lợi của quân dân miền Bắc đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại lấn thứ hai bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ, đặc biệt là thắng lợi oanh liệt, đập tan cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B52 (12-1972) của Mỹ đã góp phần quyết định buộc Ních-xơn phải ký Hiệp định Pa-ri, cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, rút quân Mỹ và quân chư hầu về nước.
Lần đầu tiên trong lịch sử, đế quốc Mỹ đầu sỏ đã chịu thất bại, buộc phải rút quân xâm lược về nước.
Cuộc chiến tranh đến đây đã có bước thay đổi lớn có lợi cho nhân dân ta; kết thúc thắng lợi giai đoạn: đánh cho Mỹ cút.
Tuy nhiên ngay sau khi ký kết Hiệp định Pa ri, Mỹ - ngụy đã liên tiếp vi phạm các điều khoản của hiệp định, âm mưu xóa bỏ chính quyền cách mạng, lấn chiếm các vùng giải phóng, ra sức áp đặt chế độ thực dân mới ở miền Nam Việt Nam. Mỹ ra sức ủng hộ và viện trợ cho ngụy quyền Sài Gòn, điên cuồng chống phá sự nghiệp thống nhất nước ta. Trước khi rút quân, chúng đã viện trợ thêm cho ngụy quân 652 máy bay, 200 xe tăng, thiết giáp, 70 khẩu pháo. Chúng đã đề ra kế hoạch chiến tranh nhằm những mục tiêu sau:
- Trong 3 năm (1973 – 1975) lấn chiếm toàn bộ vùng giải phóng.
- Tiến hành “bình định đặc biệt” trong sáu tháng, từ 3-1973 đến 8-1973.
- Kế hoạch xây dựng quân đội 5 năm.
- Kế hoạch phục hồi kinh tế 1973 - 1974.
Chúng dự định, đến năm 1975 thì lực lượng cách mạng của ta sẽ bị đẩy lùi về 15 căn cứ nhỏ ở biên giới, chỉ còn khả năng hoạt động ở quy mô tiểu đội. Từ năm 1976 trở đi, củng cố miền Nam thành một quốc gia riêng biệt trong quỹ đạo của Mỹ, chia cắt lâu dài đất nước ta.
Từ 28-1-1973 đến 10-1973, địch ráo riết thực hiện kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ” và “bình định đặc biệt”, thu được một số kết quả. Theo tài liệu địch, đến tháng 10-1973 trên toàn miền Nam, địch lấn chiếm thêm 900 ấp, đóng thêm 525 đồn.
Cuộc chiến dấu giữa ta và địch ngay sau khi ký Hiệp định Pa-ri đã trở nên vô cùng quyết liệt.
Trước tình hình mới, tháng 7-1973, Ban Chấp hành Trung ương đã họp Hội nghị lần thứ 21.
Trung ương Đảng chỉ ra 2 khả năng: hoặc hòa bình được lập lại, hoặc địch ngoan cố mà ta còn phải tiến hành chiến tranh gay go, quyết liệt để đánh bại địch, giành thắng lợi hoàn toàn. Trung ương đã khẳng định: “con đường cách mạng của miền Nam là con đường bạo lực cách mạng. Bất kể trong tình hình nào ta cũng phải nằm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công”. Đối với hành động vi phạm hiệp định của địch, “ta phải kiên quyết phản công và tiến công địch, giữ vững và phát huy thế chủ động về mọi mặt của ta, nhằm đánh bại kế hoạch “bình định” và lấn chiếm của địch, đặc biệt là vùng đồng bằng và vùng giáp ranh”.
Dưới ánh sáng của nghị quyết Trung ương lần thứ 21, hoạt động của quân và dân ta trên các chiến trường đã chuyển biến mạnh mẽ.
Chúng ta kiên quyết đánh trả địch lấn chiếm, trừng trị các đơn vị ác ôn ngoan cố, đẩy mạnh chiến tranh chống phá bình định, tiến công vào các nơi xuất phát các cuộc hành quân của chúng.
Các chiến trường đã đẩy mạnh hoạt động, phối hợp chặt chẽ ba mũi giáp công làm cho quân ngụy bị tổn thất nặng cả sinh lực và phương tiện chiến tranh, tinh thần sa sút, phong trào đào, rã ngũ xuất hiện và lan rộng.
Đồng thời với tiến công, phản công, đánh trả địch, đánh quân địch lấn chiếm và chống phá bình định, ta đã khẩn trương và tích cực xây dựng lực lượng, ra sức tạo một lực lượng cơ động mạnh, tạo nên so sánh lực lượng có lợi cho ta.
Từ sau Hội nghị Trung ương 21 đến hết năm 1974, ta ra sức tạo thế và lực, vừa tác chiến vừa xây dựng và tạo thời cơ mới.
- 24-10-1973 thành lập quân đoàn 1
- 17-5-1974 thành lập quân đoàn 2
- 20-7-1974 thành lập quân đoàn 4 ở Nam Bộ.
Từ năm 1974, các cuộc hành quân lấn chiếm của địch thưa dần. Chúng phải chuyển về lo giữ các vùng xung yếu. Nhiều đồn bốt nhỏ phải rút, co lại quanh các căn cứ lớn. Nhiều sân bay, kho tàng nằm sâu trong vùng kiểm soát của địch bị ta liên tiếp tấn công.
Địch bị dồn vào thế bị động trên hầu hết các chiến trường, kế hoạch bình định cũng bị phá sản. Nhiều vùng ở đồng bằng sông Cửu Long, miền Đông Nam Bộ, ven biển miền Trung được giải phóng. Một số khu vực quan trọng, như: Thượng Đức, Minh Long, Tánh Linh, Nha Bích, Măng Đen, Gia Vụt, Đắc Pét, Nông Sơn v.v… đã được giải phóng. Địch không còn đủ sức để phản kích chiếm lại.
Năm 1974 ta giải phóng 1.225.000 dân, 1.040 ấp, 12 chi khu quận lỵ, diệt và bức rút 4.465 đồn bốt.
Ngày 30-9-1974, Bộ Chính trị họp để đánh giá tình hình, nhận định thời cơ chiến lược mới, thông qua kế hoạch quyết tâm giải phóng miền Nam trong hai năm 1975 - 1976. Bộ Chính trị đánh giá: “khả năng chiến đấu của bộ đội chủ lực cơ động đã hơn hẳn quân chủ lực cơ động địch”.
- Thực hiện kế hoạch chiến lược hai năm (1975 – 1976) tháng 12-1974 ta chủ trương mở một đợt hoạt động mùa khô hướng chính là Nam Bộ. Các hướng khác hoạt động phối hợp, hoàn thiện thế trận, tạo điều kiện cho các đòn tiến công chiến lược lớn.
- Đồng bằng sông Cửu Long đã mở các chiến dịch tiến công tổng hợp, kết hợp tiến công quân sự với nổi dậy của quần chúng, diệt trên 1.000 đồn bốt, làm chủ hơn 100 xã, giải phóng 50 vạn dân, giành được 2 triệu rưỡi dân trong tổng số 7 triệu, có 1 triệu 44 vạn dân mới được giải phóng.
Ở Đông Nam Bộ, ta diệt chi khu Đồng Xoài, tiểu khu Phước Long rồi thừa thắng giải phóng toàn bộ tỉnh Phước Long (6-1-1975), sau đó tiến công chiếm núi Bà Đen (7-1-1975), uy hiếp sát vùng ven Sài Gòn, diệt 84 đồn bốt, củng cố bàn đạp vững chắc cho đòn tiến công vào Sài Gòn sau này.
Trước các hoạt động mạnh mẽ, dồn dập của ta khắp nơi, địch buộc phải phân tán đối phó, phản ứng yếu ớt. Mất tỉnh Phước Long và núi Bà Đen, mà quân ngụy chỉ đối phó chủ yếu bằng không quân (116 khu trục - 160 trực thăng). Lực lượng cơ động chiến lược địch không dám điều động đến để cứu nguy cho Phước Long.
Đế quốc Mỹ đang bê bối trước vụ Oa-tơ-ghết, Ních-xơn bị đổ Pho lên thay, không có phản ứng gì mạnh mẽ, chỉ lên tiếng đe dọa sẽ đánh bom trở lại nếu ta tiếp tục tiến công; nhưng ngày 9-1-1975 thì đại sứ Mỹ báo cho Thiệu biết: “việc yểm hộ bằng máy bay Mỹ lúc này chưa được phép”, và ngày 21-1 Pho tuyên bố: “không có hành động nào khác ngoài việc bổ sung viện trợ cho Sài Gòn...”.
Thắng lợi cuối năm 1974 và đầu 1975 rất to lớn, đặc biệt việc giải phóng hoàn toàn tỉnh Phước Long và vùng núi Bà Đen có ý nghĩa rất quan trọng. Nó đánh dấu sự suy sụp mới của quân ngụy Sài Gòn. Chủ lực cơ động chiến lược của địch không còn đủ khả năng để cứu nguy, giải tỏa với quy mô lớn để chiếm lại các vùng, các căn cứ quan trọng và thị xã mà ta đã giải phóng trên các vùng núi và giáp ranh. Qua phản ứng của Mỹ, chứng tỏ bước thụt lùi của chúng trong ý đồ và khả năng can thiệp trở lại vào Việt Nam. Nội bộ của chúng bị phân hóa nên đã phản ứng yếu ớt trước những đòn tiến công của ta.
Vùng nông thôn giải phóng của ta ngày càng mở rộng và được củng cố, tạo được địa bàn và thế liên hoàn, tiến sát đến khu vực trọng yếu của địch.
Tình hình đã mở ra khả năng mới. Thế và lực của ta đã khác. Chúng ta có khả năng đánh chiếm và giữ được thị xã trên chiến trường rừng núi, có khả năng giải phóng hoàn toàn 1 tỉnh.
Trước tình hình mới đó, Bộ Chính trị đã có quyết tâm chiến lược mới giải phóng miền Nam.
Để đạt được mục đích tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ ngụy quân, ngụy quyền, giải phóng hoàn toàn miền Nam, quân và dân ta mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy vào mùa Xuân năm 1975, phải đánh một đòn quyết định vào trung tâm đầu não của địch ở Sài Gòn. Và muốn thế, trước đó phải đánh những đòn thật mạnh, tiêu diệt và làm tan rã lực lượng quân sự của địch trên chiến trường Tây Nguyên và chiến trường phía Bắc.
Vào thượng tuần tháng 8 năm 1975, trên tất cả các chiến trường miền Nam từ Trị Thiên đến Khu 5, từ Tây Nguyên đến miền Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long, quân và dân ta đã mở hàng loạt trận tiến công và nổi dậy quy mô vừa và nhỏ, đồng thời chuẩn bị sẵn sàng về mọi mặt để bước vào các trận tiến công lớn.
Trong tình hình quân địch đã bị động càng thêm bị động, đã phân tán càng thêm phân tán, không phán đoán được ý đồ chiến lược của ta, quân và dân ta đã mở các chiến dịch tiến công lớn giành thắng lợi dồn dập, bắt đầu là chiến dịch đại thắng Tây Nguyên, tiếp theo là chiến dịch đại thắng Huế - Đà Nẵng và kết thúc bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ quân địch, buộc chúng phải đầu hàng không điều kiện.
1. Chiến dịch Tây Nguyên đại thắng.
Cuộc tiến công chiến lược mở đầu bằng chiến dịch đại thắng Tây Nguyên. Chiến dịch Tây Nguyên bước đầu bằng trận điểm đúng huyệt vào Buôn Mê Thuộc ngày 10 tháng 3 năm 1975, sau khi quân ta đã tiêu diệt Thuần Mẫn và Đức Lập, hai cứ điểm quan trọng trên đường 14. Ngay từ ngày 04-3, quân ta đã cắt đứt các đường 19 và 14, cô lập PPlây Cu - Kon Tum, bao vây uy hiếp các căn cứ quân sự này. Ta khéo nghi binh làm cho địch phán đoán sai hướng, và mục tiêu tiến công của ta, thu hút sự chú ý của chúng về hướng PPlây Cu, buộc chúng điều động lực lượng đối phó theo đúng ý định của ta, bộc lộ sơ hở ở Buôn Mê Thuộc. Buôn Mê Thuộc, mục tiêu rất hiểm yếu của chiến dịch Tây Nguyên lúc này trở nên tương đối yếu và sơ hở. Nắm vững thời cơ, quân ta dùng lối đánh táo bạo bất ngờ, nhanh chóng cơ động lực lượng, tiến công thẳng vào các mục tiêu chủ yếu trong thị xã và sau 2 ngày chiến đấu, ta làm chủ hoàn toàn thị xã Buôn Mê Thuộc.
Bị đòn choáng váng, địch vội vã điều động lực lượng thực hành phản kích hòng đánh chiếm lại thị xã Buôn Mê Thuộc. Ta đã nhanh chóng tập trung và cơ động lực lượng, liên tiếp tiến công quân địch từ ngày 14 đến 18 tháng 3, đánh bại hoàn toàn cuộc phản kích lớn của địch, tiêu diệt toàn bộ sư đoàn bộ binh số 23 ngụy, giáng cho địch một đòn choáng váng mới và đẩy chúng vào thế tan vỡ lớn ở Tây Nguyên. Sau chiến thắng Buôn Mê Thuộc, Quân ủy Trung ương dự kiến 2 tình huống: một là, địch sẽ tập trung lực lượng phòng ngự Plây Cu. Hai là, nếu ta thực hiện tốt việc chia cắt chiến lược thì có thể buộc chúng phải rút lui chiến lược. Vì vậy, ta hình thành ngay việc bao vây chặt Plây Cu và chuẩn bị tốt để tiêu diệt địch trong cả hai tình huống. Trước tình thế bị động, chiến trường Tây Nguyên bị bao vây chia cắt, lực lượng cơ động chiến lược của địch không còn, trong lúc hoạt động của ta trên khắp các chiến trường đã lên đều và mạnh. Ngày 14-3-1975 Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh rút chạy khỏi Plây Cu - Kon Tum để về giữ vững vùng duyên hải miền Trung, sau đó sẽ tập trung lực lượng phản kích chiếm lại Tây Nguyên, khôi phục thế phòng ngự ở Quân khu II.
Ngày 15 tháng 3, địch bắt đầu rút chạy khỏi Plây Cu. Chúng dự định rút nhanh trong vòng 3 đến 5 ngày theo đường 7 để ta không kịp cơ động lực lượng đánh chặn. Chiều 16 tháng 3 khi phát hiện chắc chắn địch rút, ta bắt đầu thực hành truy kích. Ngày 17 tháng 3 ta có bộ phận bám địch ở Nam Cheo Reo và bộ đội địa phương Quân khu 5 đã chặn địch ở Củng Sơn. Từ ngày 18 tháng 3 đến 24 tháng 3, bằng một loạt trận tiến công kiên quyết, ta lần lượt tiêu diệt gần hết quân địch rút chạy. Chiến dịch Tây Nguyên về cơ bản đã kết thúc. Ta đã tiêu diệt về cơ bản quân đoàn 2 ngụy, giải phóng toàn bộ vùng cao nguyên chiến lược.
Ở các chiến trường khác, ta đã đẩy mạnh các hoạt động tiến công và nổi dậy với nhiều quy mô khác nhau nhằm phối hợp chặt chẽ với chiến trường Tây Nguyên, kìm chân và phân tán lực lượng địch, tiêu diệt một bộ phận sinh lực quan trọng của chúng, giải phóng nhiều vùng đất đai rộng lớn và đông dân, tạo nên một thế mới để tiếp tục phát triển tiến công với quy mô ngày càng lớn hơn.
Ở chiến trường Khu 5, triển khai thực hiện đợt 1 chiến dịch xuân hè, đã tiêu diệt một bộ phận sinh lực quan trọng của địch, giải phóng nhiều huyện miền tây Quảng Nam và Quảng Ngãi, tạo được thế phát triển tiến công về đồng bằng và đô thị. Ở chiến trường Trị Thiên, do hoạt động mạnh của bộ đội chủ lực, từ ngày 8 đến 17 tháng 3, trên đường 14 và Phòng Sơn lực lượng vũ trang địa phương đánh mạnh vào hơn 30 phân, chi khu quân sự của địch, do tác động của những thắng lợi to lớn dồn dập ở Tây Nguyên, ngày 18 tháng 3 quân địch ở Quảng Trị đã hoang mang rút chạy. Hệ thống phòng ngự kiên cố phía Bắc của địch bị phá vỡ và rối loạn. Ở chiến trường miền Đông Nam Bộ, phối hợp với chiến dịch Tây Nguyên, ta đã mở một số chiến dịch quy mô vừa, đánh thiệt hại nặng sư đoàn 3 kỵ binh và một bộ phận của sư đoàn bộ binh 25 ngụy, chiếm được một bàn đạp quan trọng trên hướng Tây Bắc Sài Gòn và mở thông hành lang xuống Khu 8, đánh chiếm một số đầu mối giao thông chiến lược quan trọng trên đường 20, đường số 1 và số 3. Ở đồng bằng sông Cửu Long, chiến dịch tiến công tổng hợp của Quân khu 8 đã thu được một số kết quả ở các vùng trọng điểm, thọc sâu được vào một số vùng yếu. Ở Khu 9 ta giành quyền làm chủ một số nơi và chuyển hướng tiến công lên Vĩnh Long - Cần Thơ.
2. Chiến dịch Huế - Đà Nẵng.
Thắng lợi Tây Nguyên đánh dấu một bước suy sụp mới của Mỹ - ngụy, một bước ngoặt trong quá trình phát triển của cục diện quân sự và chính trị ở miền Nam. Với chiến thắng Tây Nguyên, cuộc chiến tranh cách mạng đã bước sang một giai đoạn mới, từ tiến công có ý nghĩa chiến lược phát triển thành cuộc tổng tiến công chiến lược trên toàn chiến trường miền Nam, cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam đã bước vào giai đoạn phát triển nhảy vọt.
Hội nghị Bộ Chính trị, ngày 18 tháng 3 năm 1975, đã hạ quyết tâm hoàn thành kế hoạch hai năm trong năm 1975 và xác định phương hướng tiến công chiến lược chủ yếu là Sài Gòn và trước mắt, cần phải tiêu diệt ngay Quân khu 1 của ngụy.
Chiến dịch Huế - Đà Nẵng là chiến dịch tiến công tổng hợp quy mô lớn, được hình thành trong quá trình phát triển của cuộc tổng tiến công, là một trong ba đòn chiến lược mà Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã dự kiến khi xây dựng kế hoạch chiến lược của cuộc tổng tiến công. Nó được hình thành trên cơ sở hai chiến dịch tiến công của địa phương là chiến dịch Xuân Hè của Trị Thiên và chiến dịch Xuân Hè của Khu 5. Ở hướng Huế, ngày 22-3, cánh quân chủ yếu ở phía Nam Huế đã kịp thời thay đổi hướng đánh: không đột phá tuyến phòng ngự vòng ngoài của địch mà đã nhanh chóng thọc sâu, chia cắt đường quốc lộ 1, đánh chiếm quận lỵ Phú Lộc, thực hiện chia cắt chiến lược Huế - Đà Nẵng. Một đơn vị khác của cánh quân này, phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương nhanh chóng chặn đường rút ra biển của địch ở cửa Tư Hiền. Ở Bắc Huế, một đơn vị quân ta đã vượt sông Mỹ Chánh, qua quận lỵ Phong Điền, Hướng Điền, tiến thẳng về cửa Thuận An. Pháo binh ta chế áp sân bay Phú Bài, sở chỉ huy sư đoàn bộ binh số 1 ngụy, bắn chặn ngã ba Sình và cửa Thuận An. Thế trận của địch đột nhiên bị phá vỡ, quân địch hoang mang, vội vã rút khỏi các khu vực phòng ngự, hỗn loạn chạy về cửa Thuận An và cửa Tư Hiền, hòng theo đường biển rút về Đà Nẵng.
Ngày 24-3, quân ta đã bao vây chặt toàn bộ tập đoàn phòng ngự của địch ở Huế. Ngày 25 tháng 3 các cánh quân của ta tiến công vào khu vực cảng Tân Mỹ, Thuận An, tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ quân địch đã dồn về đây. Cùng ngày, các mũi tiến công khác của chủ lực, kết hợp với lực lượng vũ trang địa phương tiến vào thành phố Huế, kết hợp với quần chúng nổi dậy giải phóng cố đô Huế, kết thúc vẻ vang trận đánh Thừa Thiên Huế vào trưa ngày 26-3. Thắng lợi Thừa Thiên - Huế là một đòn phủ đầu chí mạng giáng vào kế hoạch phòng ngự co cụm chiến lược mới của địch ở vùng đồng bằng và ven biển miền Trung. Thế thừa thắng của chiến dịch Tây Nguyên đã làm quân địch hoảng loạn và tan vỡ nhanh chóng.
Trong khi trận đánh Huế chưa kết thúc, thì ở phía Nam Đà Nẵng diễn ra trận đánh Tam Kỳ và Quảng Ngãi. Sau khi giải phóng Tiên Phước và Phước Lâm, quân ta giải phóng Tam Kỳ, ngày 24 tháng 3 và liền sau đó gấp rút phát triển tiến công về hướng Đà Nẵng, trong khi đó, lực lượng vũ trang địa phương đã nhanh chóng đánh chiếm căn cứ Chu Lai. Các lực lượng vũ trang địa phương Quảng Ngãi đã dấy lên cao trào tiến công và nổi dậy, giải phóng toàn tỉnh ngày 25 tháng 3. Một lực lượng lớn quân ngụy trong đó gồm phần lớn sư đoàn bộ binh số 2 ngụy đã bị tiêu diệt. Chiến thắng Tam Kỳ Quảng Ngãi đã đẩy căn cứ quân sự Đà Nẵng vào thế hoàn toàn bị cô lập.
Sau thất bại Thừa Thiên - Huế, Tam Kỳ và Quảng Ngãi, địch đã tập trung về Đà Nẵng hơn 10 vạn quân. Thiệu tuyên bố “tử thủ” Đà Nẵng bằng mọi giá. Đế quốc Mỹ cũng vội vã điều động một số tàu chiến đến vùng biển Đà Nẵng để làm lực lượng ngăn đe. Chúng tính toán, ta phải mất hàng tháng chuẩn bị mới tiến công Đà Nẵng được.
Về phía ta, từ trung tuần tháng 3, khi chiến dịch Tây - Nguyên chưa kết thúc, quân và dân ta đã gấp rút đẩy mạnh công tác chuẩn bị. Ngay khi trận đánh Huế đang bước vào giai đoạn khẩn trương, ngày 24 tháng 3, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã đánh giá đúng xu thế phát triển của tình hình và nhận định rằng sau khi mất Huế và Tam Kỳ thì trước sức tiến công sắp tới của quân ta, địch nhất định phải rút khỏi Đà Nẵng. Chúng có thể rút nhanh, đồng thời cũng chuẩn bị mọi mặt tiêu diệt địch trong tình huống tiếp tục cố thủ. Quân ta đã hành động theo phương châm kịp thời nhất, nhanh chóng nhất, táo bạo nhất, bất ngờ nhất, đồng thời phải chắc thắng.
Ngày 28 tháng 3 cuộc tiến công Đà Nẵng bắt đầu với trận đột kích mãnh liệt của pháo binh vào sân bay, quân cảng Đà Nẵng, sân bay Nước Mặn, bán đảo Sơn Trà, triệt hẳn mọi con đường rút chạy của địch, bộ binh và xe tăng của ta tiến mạnh trên các hướng vào trung tâm Đà Nẵng phối hợp với nổi dậy của đông đảo quần chúng giành quyền làm chủ ở nhiều khu vực. Đến 15 giờ ngày 29 tháng 3, các binh đoàn tiến công của ta đã gặp nhau ở trung tâm Đà Nẵng, trước cuộc rút chạy hỗn loạn của địch.
Trận tiến công và nổi dậy giải phóng Đà Nẵng đã kết thúc toàn thắng. Căn cứ quân sự liên hợp mạnh nhất của địch ở miền Trung với trên 10 vạn quân đã bị đập tan trong một cuộc tiến công và nổi dậy thần tốc, trong 32 tiếng đồng hồ, xóa bỏ hoàn toàn quân khu 1 ngụy.
Sau thắng lợi của chiến dịch Huế - Đà Nẵng trước sức tiến công và nổi dậy của quân và dân ta, toàn bộ hệ thống phòng ngự còn lại của địch ở Quân khu 2 bị sụp đổ dồn dập. Kế hoạch co cụm chiến lược hòng cố thủ vùng đồng bằng và ven biển miền Trung, vừa mới triển khai đã bị đập tan.
Thắng lợi chiến dịch Huế - Đà Nẵng đã đẩy quân địch vào tình trạng tuyệt vọng, suy sụp lớn về tinh thần, tan rã lớn về tổ chức, tổn thất lớn về vật chất và bế tắc hoàn toàn về chiến lược, chiến thuật.
Cũng trong thời gian này, quân và dân miền Đông Nam Bộ đã đẩy mạnh tiến công và nổi dậy, tiêu diệt hàng loạt chi khu quân sự và quận lỵ, giải phóng hoàn toàn tỉnh Bình Long, mở ra một vùng giải phóng rộng lớn, liên hoàn ở phía Bắc và Tây Bắc Sài Gòn. Quân và dân đồng bằng sông Cửu Long phát triển tiến công và nổi dậy tiêu diệt địch, bức rút hàng ngàn đồn bốt, giành quyền làm chủ ở nhiều địa phương, mở rộng vùng giải phóng, tạo thế áp sát các đô thị và đẩy mạnh hoạt động ở các đô thị.
3. Chiến dịch Hồ Chí Minh
Sau khi bị quét sạch khỏi Quân khu 1 và Quân khu 2, địch thu thập tàn quân, chấn chỉnh lực lượng còn lại, gấp rút khôi phục một số sư đoàn đã bị tiêu diệt, chấn chỉnh bố trí củng cố các địa bàn còn lại ở cực Nam Trung Bộ và Nam Bộ. Ý định chiến lược của địch là dựa vào lực lượng và hệ thống bố trí phòng ngự còn lại để trì hoãn cuộc tiến công của ta cho đến mùa mưa, tích cực tạo điều kiện chuyển sang phản công, chiếm lại một số khu vực đã mất, nhằm cải thiện về cơ bản thế phòng ngự của chúng ở khu vực Sài Gòn - Gia Định và đồng bằng sông Cửu Long. Trên cơ sở đó kết hợp với thủ đoạn chính trị và ngoại giao xảo quyệt, chúng mong tạo ra một thế lợi nào đó trong bước đường cùng cứu vãn tình thế của chúng, hạn chế thắng lợi triệt để của ta.
Nhìn chung, tập đoàn phòng ngự còn lại cửa địch ở khu vực Quân khu 3, Sài Gòn - Gia Định và Quân khu 4 tuy số lượng đông, nhưng sức chiến đấu rất sút kém. Các biện pháp phòng ngự của địch đã hoàn toàn phá sản. Thế chiến lược của địch đã hoàn toàn bị đảo lộn. Quân địch đang đứng trước nguy cơ sụp đổ hoàn toàn.
Về phía ta, lực lượng mọi mặt đều sung sức, đang trên đà chiến thắng, đang xông lên với thế chẻ tre.
Vào giữa hạ tuần tháng 3, trong khi trận đánh Huế sắp kết thúc, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã chính thức hạ quyết tâm mở chiến dịch lịch sử đánh chiếm Sài Gòn.
Trải qua hàng chục năm đấu tranh quyết liệt với địch, quân và dân ta đã dần dần xây dựng được một thế trận chiến lược rất độc đáo. Thế trận đó vững và hiểm, có thể trực tiếp đánh ngay vào Sài Gòn sau những chiến thắng Tây Nguyên và Huế - Đà Nẵng. Lực lượng vũ trang ta đã mạnh càng thêm mạnh. Các binh đoàn chủ lực của ta không những đã đứng vững trên các địa bàn xung yếu xung quanh Sài Gòn, mà còn bám trụ ngay các vùng ven và cả trong nội thành. Các lực lượng chính trị quần chúng ngày càng phát triển. Thế trận độc đáo đó là điều kiện rất thuận lợi cho các binh đoàn chủ lực của ta thần tốc triển khai thực hành chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Phương châm hành động của toàn quân, toàn dân ta lúc này là thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng giành thắng lợi hoàn toàn.
Để liên tục tiến công địch và tạo thế cho chiến dịch này, từ ngày 9 tháng 4, quân ta đã hoạt động mạnh trên các hướng Đông Sài Gòn, đánh vào thị xã Xuân Lộc, gây thiệt hại nặng cho sư đoàn bộ binh số 18 ngụy, lữ dù 1 và lữ kỵ binh thiết giáp số 3. Một cánh quân ta trên đường cơ động thần tốc tham gia chiến dịch đã tiêu diệt toàn bộ quân địch phòng ngự ở Phan Rang, giải phóng Phan Rang ngày 16 tháng 4. Tiếp đó, các lực lượng vũ trang địa phương và lực lượng chính trị của quần chúng tiến công và nổi dậy mạnh mẽ, lần lượt giải phóng tỉnh Bình Thuận với thị xã Phan Thiết, tỉnh Bình Tuy với thị xã Hàm Tân. Ngày 24 tháng 4 quân địch ở Xuân Lộc buộc phải rút chạy trên hướng Tây Nam Sài Gòn, quân ta mở hành lang thông suốt từ biên giới Miên xuống đường số 4 và mở bàn đạp tiến công ở phía Nam Sài Gòn.
17 giờ ngày 26 tháng 4 năm 1975 Chiến dịch Hồ Chí Minh bắt đầu. Trên hướng Đông, quân ta đã đánh chiếm chi khu quân sự Trảng Bom, chi khu quân sự Long Thành, trường sĩ quan thiết giáp Nước Trong, phát triển về hai hướng Biên Hòa và Nhơn Trạch. Các đơn vị tinh nhuệ của ta đã thọc sâu chiếm cầu xa lộ trên sông Sài Gòn. Trong khi đó, một binh đoàn khác đánh chiếm Bà Rịa.
Trên hướng Tây Nam, quân ta cắt đứt hoàn toàn quốc lộ 4, mở rộng bàn đạp tiến công ở mặt Tây và Nam Sài Gòn.
Trên hướng Bắc và Tây Bắc, quân ta dùng pháo binh làm tê liệt các trận địa pháo của địch và tiếp tục cắt đứt quốc lộ số 22.
Thế là, từ ngày 26 tháng 4 đến 28 tháng 4, ta đã tiêu diệt một bộ phận sinh lực quan trọng trên tuyến phòng ngự vòng ngoài, siết chặt vòng vây, tạo nên thế tiến công áp đảo để có thể đồng thời tổng công kích Sài Gòn từ các hướng. Trong những ngày này, tình hình chính trị của địch ở Sài Gòn đã lâm vào một cuộc khủng hoảng cực kỳ trầm trọng. Sự đột biến về chính trị có thể xảy ra vào bất cứ lúc nào. Quần chúng sẵn sàng đứng lên giành quyền làm chủ. Để tránh thất bại nhục nhã, đế quốc Mỹ đã phải bỏ cuộc. Ngày 18 tháng 4, tổng thống Mỹ ra lệnh di tản. Cuộc di tản kéo dài đến ngày 29 tháng 4 bằng cuộc tháo chạy hốt hoảng của đại sứ Mỹ. Ngày 21 tháng 4, Mỹ gạt Thiệu đưa Hương lên. Chính quyền mới sống thoi thóp một tuần thì Minh lên thay Hương.
Chiều 28 tháng 4, quân ta ném bom sân bay Tân Sơn Nhất. Đêm 28 tháng 4, các cánh quân hùng mạnh của ta từ các hướng tiến công đồng loạt vào Sài Gòn, vừa bao vây tiêu diệt địch ở vòng ngoài, vừa thần tốc táo bạo thọc sâu đánh chiếm các mục tiêu quan trọng bên trong.
Đêm 29 tháng 4, các binh đoàn chủ lực hướng Đông và Đông Bắc Sài Gòn, sau khi tiêu diệt địch ở Biên Hòa và Nhơn Trạch, đã dùng lực lượng bộ binh và xe tăng thọc sâu vượt cầu Biên Hòa và sáng ngày 30 tháng 4, đã đánh thẳng vào Sài Gòn, nhanh chóng chiếm phủ tổng thống ngụy. Một binh đoàn khác tiến xuống giải phóng Vũng Tàu: cánh quân lớn phía Bắc sau khi tiêu diệt sư đoàn bộ binh số 5 ngụy ở Phú Lợi, Thủ Dầu Một, Lai Khê, Bến Cát đã phái một đơn vị đánh thẳng vào bộ tổng tham mưu ngụy. Cánh quân lớn hướng Tây Bắc, sau khi đánh chiếm căn cứ quân sự Đồng Dù, giải phóng thị trấn Trảng Bàng, tiêu diệt và làm tan rã sư đoàn bộ binh số 25 ngụy đã dùng lực lượng thọc sâu tiến nhanh xuống Bà Quẹo diệt địch ở ngã tư Bảy Hiền, sân bay Tân Sơn Nhất. Cánh quân lớn hướng Tây Nam chia làm hai mũi, một mũi từ phía Tây đánh chiếm Hậu Nghĩa mở đường cho một binh đoàn thọc sâu đánh thẳng vào biệt khu thủ đô ngụy. Trước đó, một đơn vị tinh nhuệ đã đánh chiếm khu trung tâm truyền tin Phú Lâm. Một mũi khác từ phía Nam đánh chiếm bộ tư lệnh cảnh sát ngụy, khu Nhà Bè, trong khi đó các bộ phận khác của cánh quân này đánh chiếm Tân An, Bến Lức, Thủ Thừa, tiêu diệt phần lớn sư đoàn bộ binh số 22 ngụy, chia cắt Sài Gòn với đồng bằng sông Cửu Long.
Phối hợp chặt chẽ với các đòn tiến công của các binh đoàn chủ lực, các lực lượng tinh nhuệ, biệt động, tự vệ của ta hoạt động ở vùng ven và nội thành Sài Gòn đã nhanh chóng và táo bạo tập kích chiếm lĩnh một số mục tiêu quan trọng ở trong và xung quanh thành phố. Quần chúng nội và ngoại thành đã nổi dậy giành quyền làm chủ ở nhiều ấp, thôn, đón quân giải phóng vào thành phố, dẫn đường tiếp tế cho bộ đội, truy lùng ác ôn, kêu gọi binh lính địch hạ vũ khí đầu hàng.
Trước sức mạnh tấn công áp đảo của ta, toàn bộ quân ngụy trong thành phố Sài Gòn - Gia Định đã mất hết tinh thần chiến đấu. Sau khi quân ta chiếm lĩnh phủ tổng thống ngụy, ngụy quyền trung ương Sài Gòn đã phải tuyên bố đầu hàng không điều kiện. Đúng 11 giờ 30 phút ngày 30 tháng 4 năm 1975, quân ta cắm lá cờ của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam lên phủ tổng thống ngụy. Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng.
Phát huy thắng lợi, từ ngày 30 tháng 4 đồng bào và chiến sĩ miền Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long đã đồng loạt tiến công và nổi dậy mạnh mẽ. Toàn bộ lực lượng quân sự của địch ở quân khu 4, gồm các sư đoàn bộ binh số 7, số 9 và số 21 cùng các đơn vị quân chủng, binh chủng và quân địa phương đã đầu hàng. Ngày 1 tháng 5, toàn bộ lãnh thổ trên đất liền miền Nam Việt Nam đã được hoàn toàn giải phóng.
Trong những ngày đầu tháng 5, các đảo Côn Sơn, Phú Quốc được giải phóng, trước đó quân ta đã giải phóng các đảo dọc bờ biển Trung Bộ và các đảo nằm trong quần đảo Trường Sa do quân ngụy chiếm giữ.
Trong cuộc tiến công và nổi dậy lịch sử này, quân và dân ta đã tiêu diệt và làm tan rã 40 vạn quân địch thuộc hai quân khu 3 và 4 gồm 10 sư đoàn bộ binh, 4 sư đoàn không quân, 12 trung đoàn thiết giáp, 30 đơn vị hải quân, toàn bộ quân bảo an cảnh sát dã chiến và dân vệ, làm tan rã toàn bộ lực lượng phòng vệ dân sự, đập tan toàn bộ hệ thống kìm kẹp của địch từ trung ương đến cơ sở, giải phóng thành phố Sài Gòn - Gia Định và tất cả các tỉnh, thành phố còn lại ở miền Nam. Ta thu toàn bộ vũ khí, phương tiện chiến tranh và căn cứ quân sự của địch.
Trải qua 55 ngày đêm chiến đấu vô cùng anh dũng và sáng tạo, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 đã giành thắng lợi hoàn toàn.
Thắng lợi quyết định này có ý nghĩa lớn lao trong lịch sử hào hùng của dân tộc Việt Nam.
Thắng lợi hoàn toàn và triệt để của trận quyết chiến chiến lược lịch sử vĩ đại này, là chương kết thúc tuyệt đẹp trên 20 năm chiến đấu chống Mỹ hết sức oanh liệt của nhân dân ta. Đây là thắng lợi vĩ đại nhất, hiển hách nhất trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.
Ta đã đập tan hoàn toàn bộ máy quân sự khổng lồ và hiện đại của chính quyền tay sai của Mỹ được xếp vào loại mạnh nhất ở Đông Nam Á; loại khỏi vòng chiến đấu trên 1 triệu quân địch, tiêu diệt và làm tan rã 4 quân đoàn gồm 13 sư đoàn, nhiều trung đoàn, lữ đoàn bộ binh, lính dù, lính thủy đánh bộ, quân biệt động, 6 sư đoàn không quân, 22 trung đoàn thiết giáp, 22 trung đoàn hải quân, 66 tiểu đoàn pháo binh, toàn bộ lực lượng cảnh sát dã chiến, bảo an, dân vệ cùng mọi tổ chức quân sự khác của chúng.
Ta đã phá hủy và thu toàn bộ vũ khí, phương tiện, thiết bị, căn cứ quân sự, hệ thống kho tàng, sân bay, hải cảng gồm hàng ngàn máy bay, hàng ngàn xe tăng, xe bọc thép, hàng ngàn tàu chiến, hàng ngàn khẩu pháo, nhiều kho dự trữ chiến lược lớn, nhiều sân bay, hải cảng lớn và hiện đại. Ta đã quét sạch bộ máy ngụy quyền, bộ máy kìm kẹp to lớn và tàn bạo được dày công xây dựng trong hơn 20 năm qua, làm tan rã hàng chục vạn nhân viên ngụy quyền, đập tan mọi đảng phái và tổ chức phản động.
Ta đã giải phóng hoàn toàn 44 tỉnh và thành phố ở miền Nam, tất cả các hải đảo do quân ngụy chiếm giữ, bao gồm cả vùng đất, vùng trời và vùng biển của miền Nam.
Nhân dân ta đã giành được độc lập tự do hoàn toàn cho Tổ quốc, giành lại trọn vẹn chủ quyền dân tộc, quyền làm chủ hoàn toàn đối với đất nước thân yêu của mình. Lần đầu tiên sau 117 năm, trên đất nước ta hoàn toàn không còn một bóng tên xâm lược. Họa đất nước bị chia cắt được thanh toán. Nam Bắc nối liền một dải. Nguyện vọng tha thiết trên 100 năm nay của dân tộc ta giành độc lập tự do và thống nhất đất nước đã được thực hiện.
Với thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn cả nước độc lập, thống nhất.
Đây là thất bại quân sự và chính trị lớn nhất của đế quốc Mỹ từ trước đến nay.
Cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới tàn bạo nhất trong lịch sử của đế quốc Mỹ đã bị thất bại. Âm mưu biến miền Nam nước ta thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của chúng, chia cắt vĩnh viễn đất nước ta đã bị đập tan. Ách thống trị của chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ trên miền Nam nước ta đã bị quét sạch. Chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ và chức năng sen đầm quốc tế cùng uy tín của tên đế quốc đầu sỏ đã bị giáng một đòn rất nặng.
Rõ ràng, đây là thất bại có tầm lịch sử, thất bại nghiêm trọng nhất trong toàn bộ lịch sử 200 năm của Hoa Kỳ. Đế quốc Mỹ đã bị đánh bại trong cuộc chiến tranh xâm lược kiểu mới, quy mô lớn nhất và dài nhất từ sau chiến tranh thế giới thứ hai. Thất bại này đã làm đảo lộn chiến lược toàn cầu của tên đế quốc đầu sỏ, đẩy Mỹ vào tình thế khó khăn chưa từng thấy, thu hẹp và làm suy yếu hơn nữa hệ thống đế quốc chủ nghĩa, củng cố tiền đồ của chủ nghĩa xã hội ở Đông Nam Á và châu Á; mở rộng và tăng cường hệ thống xã hội chủ nghĩa, tăng thêm sức mạnh và thế tiến công của cách mạng thế giới.
Thắng lợi của Việt Nam cũng là thắng lợi to lớn của các lực lượng độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới.
Tiến hành chiến tranh xâm lược nước ta, đế quốc Mỹ không những nhằm đè bẹp cách mạng Việt Nam, mà còn nhằm ngăn chặn và dập tắt phong trào độc lập và chủ nghĩa xã hội ở khu vực Đông Nam Á và các nơi khác trên thế giới. Cuộc chiến đấu của nhân dân ta chống đế quốc Mỹ xâm lược là hình ảnh của cuộc đấu tranh rộng lớn đang diễn ra trên thế giới, giữa một bên là các lực lượng xã hội chủ nghĩa, dân tộc dân chủ và hòa bình và một bên là chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ cùng mọi lực lượng phản động khác. Ý nghĩa thời đại của cuộc chiến đấu của chúng ta chính là ở chỗ đó và chúng ta nhận thức sâu sắc rằng thắng lợi của Việt Nam cũng chính là thắng lợi của các lực lượng xã hội chủ nghĩa, dân tộc, độc lập, hòa bình trên thế giới. Thắng lợi của Việt Nam có ý nghĩa lịch sử hết sức quan trọng đối với tiền đồ phát triển của chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ, làm phá sản hoàn toàn học thuyết Ních-xơn ở một trọng điểm trong chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chúng. Nhân dân ta đã phá vỡ khâu mạnh nhất trong phòng tuyến của chủ nghĩa đế quốc ở Đông Nam Á; góp phần to lớn làm đảo lộn chiến lược toàn cầu phản cách mạng của đế quốc Mỹ và mở ra một thời kỳ mới, vô cùng thuận lợi cho phong trào cách mạng thế giới.
NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ TRONG TRẬN QUYẾT CHIẾN CHIẾN LƯỢC MÙA XUÂN 1975
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam trên 50 năm qua, Đảng ta đã đưa dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, đánh bại những tên đế quốc Nhật, Pháp, Mỹ, mạnh nhất trong thời đại.
Cuộc đấu tranh vô cùng quyết liệt, lâu dài, nhưng thắng lợi vang dội của dân tộc ta mang tính chất lịch sử lớn lao và có ý nghĩa quốc tế to lớn. Biết bao kinh nghiệm, bài học xương máu mà thế hệ Hồ Chí Minh đã sáng tạo trong cuộc đấu tranh gian khổ quyết liệt này còn có giá trị mãi mãi cho các thế hệ tiếp nối của dân tộc và cống hiến cho cuộc đấu tranh cách mạng trên toàn thế giới, chống đế quốc và phản động bành trướng bá quyền. Trong kho tàng quý báu và lớn lao đó, trong phần này, tôi chỉ xin trình bày một số kinh nghiệm rút ra về nghệ thuật chỉ đạo chiến lược trong trận quyết chiến chiến lược kết thúc chiến tranh, mà Đảng ta đã chỉ đạo, giành thắng lợi giòn giã trong chiến tranh giải phóng miền Nam với trận quyết chiến chiến lược mùa xuân năm 1975, tiêu diệt hơn 1 triệu quân ngụy Sài Gòn trong 55 ngày đêm lịch sử.
Đặc điểm nổi bật của trận quyết chiến chiến lược này là, một cuộc tổng tiến công và nổi dậy ở giai đoạn cuối của một cuộc chiến tranh lâu dài, diễn ra theo quy luật phát triển biện chứng, tuần tự đến nhảy vọt, về chiến lược. Việc tạo ra thời cơ chiến lược và chỉ đạo sự phát triển của tình hình biến động to lớn và nhanh chóng của cuộc chiến chiến lược kịp nắm bắt thời cơ mới để giành chiến thắng quyết định trong chiến tranh đòi hỏi một nghệ thuật chỉ đạo chiến lược năng động sắc bén. Nghệ thuật chỉ đạo chiến lược này bao gồm nhiều mặt, diễn ra trong một quá trình, thể hiện trên một loạt yếu tố có quan hệ hữu cơ với nhau, mà bốn vấn đề sau có thể là các yếu tố chính:
1. Vấn đề quyết tâm chiến lược.
2. Lực lượng và thế chiến lược.
3. Tạo thời cơ và nắm thời cơ chiến lược.
4. Quy hoạch chiến lược.
1. Quyết tâm chiến lược trong quyết chiến chiến lược kết thúc chiến tranh.
Mục đích của trận quyết chiến chiến lược này là giành thắng lợi cho cuộc chiến tranh mà thể hiện chủ yếu là phải tiêu diệt, làm tan rã toàn bộ hệ thống ngụy quân, ngụy quyền toàn miền Nam.
Trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp giải phóng miền Bắc, chống Mỹ và tay sai giải phóng miền Nam, một kinh nghiệm hết sức quan trọng là diễn biến chiến cuộc hết sức nhanh. Trong Đông Xuân 1953 - 1954 chỉ 55 ngày đêm, trong mùa xuân 1975 cũng chỉ 55 ngày đêm. Nếu ta mở rộng ra liên hệ với chống chiến tranh xâm lấn biên giới Tây Nam, thì trong cuộc giải phóng Cam-pu-chia khỏi tay bọn diệt chủng cũng chỉ trong thời gian 1 tuần, chiến tranh lớn kết thúc với thời gian hết sức ngắn.
Quy luật vận động theo bước nhảy vọt của thời cơ chiến lược trong giai đoạn kết thúc chiến tranh, đã được thể hiện rất rõ trong các trận quyết chiến chiến lược.
Quyết tâm ban đầu tháng 10-1974, giải phóng miền Nam trong 2 năm 1975 - 1976 đã được bổ sung trong hội nghị Bộ Chính trị tháng 1-1975 bằng việc đánh giá tình hình có thể phát triển nhanh, dự kiến thời cơ chiến lược cụ thể có thể đến sớm và chủ trương chuẩn bị thêm phương án nhanh chóng nắm lấy thời cơ, hoàn thành nhiệm vụ giải phóng miền Nam ngay trong năm 1975.
Tiêu diệt hơn 1 triệu quân, trang bị hiện đại với 1 hệ thống kìm kẹp dày đặc được tổ chức khá chặt chẽ, ràng buộc hàng chục triệu dân không phải dễ dàng gì giải quyết được trong thời gian ngắn. Đặt thời hạn trong cuộc tổng công kích và nổi dậy kết thúc chiến tranh theo 2 phương án, phương án 2 năm và phương án chớp thời cơ giải quyết trong 1 năm cũng đã thể hiện tính khoa học và vững chắc.
Quyết tâm tháng 1 - 1975 của Bộ Chính trị lại đã được thực hiện với một sự chỉ đạo hết sức nhạy bén, kịp thời khuếch trương thắng lợi trước sự suy sụp đột biến của địch sau chiến thắng Tây Nguyên 3-1975 của ta, cho nên thời gian giành toàn thắng chỉ trong 5 ngày đêm là ngoài dự kiến ban đầu.
Bài học quan trọng rút ra từ quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam là nó đã dựa trên một sự phân tích tình hình chiến lược hết sức chính xác và Bộ Chính trị đã xác định một ý định chiến lược tài tình.
Đánh giá tình hình trong giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh về mặt chiến lược để hạ quyết tâm chiến lược, giành thắng lợi hoàn toàn trong cuộc chiến tranh, là một yếu tố quan trọng đòi hỏi phải nắm vững phương pháp luận biện chứng duy vật. Phải căn cứ vào thực tiễn diễn ra trên chiến trường trong thời kỳ cuối của chiến tranh và xem xét thực tế địch, ta về mặt chiến lược với con mắt biện chứng của sự vận động mâu thuẫn đối kháng trong thời kỳ biến chuyển chất lượng của chiến tranh theo bước nhảy vọt.
Bộ Chính trị đã nghiên cứu toàn diện các yếu tố chiến lược cả về quân sự, chính trị, kinh tế của cả địch và ta, so sánh các mặt cả về lực lượng và thế trận, chú ý phân tích cả tình hình trong nước và thế giới, đặc biệt là nghiên cứu khả năng can thiệp của Mỹ khi ta tổng công kích.
Không phải chỉ nhìn tình hình với các hiện tượng đang diễn ra trên chiến trường, mà còn dự kiến được khả năng phát triển, khuynh hướng vận động của tình hình theo quy luật chuyển hóa, từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất của phép biện chứng duy vật đặc biệt là trong bước nhảy vọt cuối cùng của chiến tranh.
Trong khi phân tích tình hình, Bộ Chính trị đã suy xét cụ thể các vấn đề thực tiễn đang diễn ra trên chiến trường trong 2 năm 1973 - 1974, giai đoạn trực tiếp của tổng công kích và nổi dậy:
- Về địch:
Quân ngụy còn hàng triệu quân, còn chiếm giữ đại bộ phận các địa bàn chiến lược quan trọng. Nổi lên là so sánh tương quan lực lượng về số lượng quân đội, tổng số địch còn nhiều hơn ta (địch 690.000, ta 418.225), nhưng chủ lực quân của địch ít hơn ta (địch 336.500, ta 364.498) còn về lực lượng địa phương thì địch hơn ta với tỷ lệ 4,9/1 (địch 353.500, ta 71.727). Tổng quát diễn biến trên chiến trường cho thấy, tuy số lượng địch còn đông, chúng còn chiếm giữ các thành phố thị xã, còn khống chế các vùng chiến lược đồng bằng, đô thị nhưng liên tiếp bị thất bại, mất đâu bỏ đó, ngay việc mất thị xã Phước Long địch cũng chịu không phản công lấy lại được. Ngay sát Sài Gòn 40km mà cuộc hành quân càn quét của nhiều sư đoàn địch cũng thất bại. Tại đồng bằng sông Cửu Long chỉ trong 3 tháng mà địch bị tiêu diệt 20.000 tên. Quân chủ lực ngụy không còn lực lượng dự bị cơ động chiến lược, 2 sư đoàn thủy quân lục chiến, sư đoàn dù đều phải triển khai phòng thủ ở Quân khu 1.
- Về ta:
Ta đã giành được thắng lợi trên các chiến trường, đang nắm quyền chủ động chiến dịch tiến công địch. Bộ đội chủ lực của ta được tăng cường trang bị, chất lượng chiến đấu được nâng lên, đã triển khai trên các địa bàn chiến lược trọng yếu có khả năng đánh địch trên toàn địa bàn chiến lược, có thể thực hiện đánh chia cắt chiến lược, hoặc cơ động tập trung đánh vào các trung tâm đô thị, như Sài Gòn, Đà Nẵng. Các quân đoàn chủ lực đã được thành lập, có khả năng cơ động cao hơn và tiêu diệt được sư đoàn địch, giải phóng thị xã, vùng giải phóng của ta đã nối liền từ Bắc đến Nam, hệ thống đường giao thông chiến lược được củng cố, phát triển. Tuy lực lượng địa phương số lượng phát triển còn ít, nhưng chất lượng có tiến bộ, sức mạnh phối hợp tiến công với chủ lực ngày càng cao ở đồng bằng đông dân.
Trước thực tiễn chiến trường này, với sự phân tích tình hình sắc bén trong sự so sánh cả về lực và thế chiến lược, Bộ Chính trị đã kết luận: Rõ ràng ta đang ở thế thắng, thế đi lên, thế chủ động và thuận lợi, địch đang ở thế thua thế đi xuống, thế bị động và khó khăn. Chiều hướng này không thể đảo ngược lại được. Những chỗ mạnh của địch chỉ là tạm thời, chứa đầy mâu thuẫn bên trong, không những không phát huy được mà đang giảm sút dần. Chúng suy yếu một cách toàn diện với nhịp độ ngày càng nhanh. Do hoạt động của ta, lại do mâu thuẫn và khó khăn nội bộ của chúng, địch có thể trải qua những bước xuống dốc nghiêm trọng.
So sánh lực lượng địch, ta trên phạm vi cả nước cũng như trên chiến trường miền Nam đã có những chuyển biến cơ bản và rõ rệt có lợi cho cách mạng, ta đã mạnh hơn địch. Chúng ta đang đứng trước thời cơ chiến lược lớn, chưa bao giờ ta có điều kiện đầy đủ về quân sự như hiện nay để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.
Rõ ràng kết luận đã đặt vấn đề thế chiến lược và thời cơ chiến lược lên vị trí quyết định. Lực lượng của địch còn đông trên 1 triệu, lực lượng của Mỹ vẫn khá mạnh, nhưng thế của ngụy là thế thua, thế đi xuống, thế bị động và khó khăn, thế của Mỹ là thế khó quay trở lại trước sự chán ghét chiến tranh của nhân dân Mỹ và sau vụ Oa-tơ-ghết mà tổng thống Pho nắm chính quyền không qua bầu cử, khó có thể quyết định mang quân trở lại can thiệp sau nhiều năm thất bại trên chiến trường miền Nam và đã phải rút quân về nước.
Ý định chiến lược là hạt nhân của quyết tâm chiến lược đã được Bộ Chính trị xác định trên cơ sở chọn phương hướng đột kích chủ yếu mở đầu vào Tây Nguyên, lấy Buôn Ma Thuộc làm mục tiêu chủ yếu của chiến dịch, trong thế trận chiến lược của 3 đòn tiến công chiến lược đồng thời và liên tiếp trên ba hướng là Tây Nguyên, Huế - Đà Nẵng và Sài Gòn, mà tiến công Sài Gòn là đòn quyết định cuối cùng, giải quyết toàn bộ mục đích của chiến lược. Đánh và giành thắng lợi ở Sài Gòn, thủ đô của ngụy quyền để giải quyết chiến tranh là một quyết tâm có tính chất kinh điển trong nghệ thuật quân sự thế giới như đã diễn ra trong chiến tranh thế giới thứ hai giữa Liên Xô và phát xít Đức - Ý với chiến dịch công phá Béc-lin hoặc trong nhiều cuộc chiến tranh cổ kim khác.
Nhưng quyết tâm giải phóng miền Nam với tình hình tương quan thế lực như đã trình bày ở trên, không thể chỉ bằng một đòn đánh thẳng vào Sài Gòn mà phải trên cơ sở một cuộc tiến công chiến lược với 3 đòn liên tiếp, làm thay đổi tương quan thế lực có ý nghĩa chiến lược.
Giá trị của từng đòn, quy hoạch thứ tự và sự tập trung nỗ lực của từng đòn là hạt nhân trong quyết tâm, để tạo ra sự phát triển bùng nổ dây chuyền mà trong nghệ thuật quân sự thường được gọi là sự tiếp nối của phá vỡ với khuếch trương chiến quả (Dislocaton et Exploitation).
Xuất phát từ mục tiêu chiến lược của cuộc tiến công, căn từ vào tương quan thế lực địch ta cụ thể lúc đầu cuộc quyết chiến, liên tục giáng nhiều đòn mạnh nối tiếp, tạo ra thế mới, lực mới để tiến từ mục tiêu này tới mục tiêu khác mà cuối cùng là chiến dịch đánh vào Sài Gòn với thế chẻ tre, trên cơ sở tự tan vỡ chiến lược của địch cả về quân sự, chính trị tinh thần, cả về thế và lực.
Quyết tâm chiến lược ban đầu phải được thực hiện với nhiều quyết tâm tiếp nối liên tục trước các biến động, thời cơ mới xuất hiện theo quy luật vận động đột biến, nhảy vọt về chiến lược.
Bài học quan trọng trong quyết tâm chiến lược là, với lực lượng không hơn địch mà biết bố trí, sử dụng lực lượng vào thế buộc địch phân tán, dàn mỏng lực lượng, tạo ra sơ hở ở khu vực hiểm yếu, để ta tập trung mọi lực lượng, và chỉ đạo đánh đòn mở đầu làm cho địch choáng váng, vỡ thế chiến lược, từ đó mà phát triển các đòn tiếp nối và đòn quyết định, đánh bại hoàn toàn quân địch ở điểm quyết định cuối cùng.
Nghệ thuật quân sự của Đông Xuân 1953 - 1954 đã thể hiện rõ tư tưởng chỉ đạo này và cuộc tổng công kích năm 1975 cũng đã khẳng định nghệ thuật quân sự ưu việt truyền thống của ta.
55 ngày đêm thật là nhanh như trở bàn tay để tiêu diệt hơn một triệu quân đang chiếm giữ hầu hết địa bàn chiến lược ở miền Nam Việt Nam với một bộ máy chính trị đã được xây dựng 20 năm trời.
Thực tiễn đã chứng minh là, hạ quyết tâm trong trận quyết chiến chiến lược kết thúc chiến tranh phải nắm vững quy luật bước nhảy vọt của phương pháp luận duy vật biện chứng mà Bộ Chính trị của ta đã nắm và vận dụng hết sức nhuần nhuyễn.
Với việc tiêu diệt quân địch, giải phóng Tây Nguyên, toàn bộ hệ thống phòng ngự chiến lược của địch đã nhanh chóng bị chia cắt và rung chuyển mạnh. Quân khu 1 bị cô lập, Quân khu 3 trong đó có cả Sài Gòn, Gia Định bị uy hiếp trực tiếp. Thế chiến lược của địch đã bị suy yếu nghiêm trọng. Lực lượng của địch tuy còn đông (tổng quân số địch còn 625.000 mà ta có 451.200), nhưng chủ lực địch so với chủ lực ta đã thay đổi (địch còn 299.800 ta có 374.473 với tỷ lệ 1/1,26), tinh thần chúng hoang mang cao độ, đang đứng trước nguy cơ tan rã từng mảng lớn. Thời cơ chiến lược mới đã xuất hiện, và sau thời gian ngắn, khi chiến dịch Huế - Đà Nẵng đã kết thúc thắng lợi ngày 29-3-1975, đã xuất hiện thời cơ nhảy vọt để đạt mục tiêu cuối cùng.
Chương 02
Đánh Pháp, đuổi Mỹ giải phóng đất nước giai đoạn 1945-1975 ĐÁNH CHO NGỤY NHÀO (1973 - 1975)
Nguồn: quansuvn.net
Thu gọn nội dung
2. Vấn đề lực lượng và thế chiến lược trong trận quyết chiến chiến lược.
Lực lượng và thế trận là cơ sở vật chất để hạ quyết tâm chiến lược, và quyết tâm chiến lược phải chỉ ra phương hướng để xây dựng lực lượng, sử dụng bố trí lực lượng vào thế trận chiến lược và luôn phát triển thế chiến lược có lợi, tạo ra các thời cơ chiến lược mới, đi tới kết thúc thắng lợi của chiến tranh.
a) Vấn đề xây dựng và sử dụng lực lượng:
Trong mỗi thời kỳ khác nhau của chiến tranh, việc xây dựng lực lượng, xác định vị trí của các lực lượng cách mạng và chiến tranh cách mạng, và sử dụng các lực lượng đều có khác nhau, nó phục tùng mục tiêu chiến lược và phương thức tiến hành chiến tranh của từng giai đoạn.
Trong cuộc quyết chiến chiến lược kết thúc chiến tranh, để thực hiện mục tiêu chiến lược, tiêu diệt hàng triệu quân, phá tan cả một bộ máy chính trị phản động lớn, giải phóng hoàn toàn miền Nam, Đảng ta đã phát triển chưa từng có việc động viên và xây dựng lực lượng cả về số lượng và chất lượng với nhưng hình thức tổ chức thích hợp, bảo đảm thực hiện quyết tâm chiến lược, kể cả khi có bước nhảy vọt lớn của cục diện chiến tranh.
Trên cơ sở đường lối xây dựng lực lượng của Đảng là, động viên và tổ chức toàn dân xây dựng lực lượng chính trị rộng rãi của quần chúng, đồng thời xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh gồm ba thứ quân làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc, phát huy sức mạnh tổng hợp của hai lực lượng chính trị và quân sự trong trận quyết chiến chiến lược kết thúc chiến tranh. Chúng ta thấy trong quyết tâm chiến lược, Đảng đã chỉ rõ vai trò đòn bẩy của chủ lực thúc đẩy các lực lượng khác cùng phát triển để giải quyết nhiệm vụ cơ bản, chủ yếu nhất của chiến tranh là tiêu diệt lực lượng vũ trang đối phương mà trước hết là khối chủ lực của địch. Khối chủ lực của ta trong giai đoạn cuối của chiến tranh đã có các quân đoàn chủ lực binh chủng hợp thành, được trang bị mạnh, có pháo binh, cơ giới và cả xe tăng thiết giáp trong biên chế, có khả năng tổ chức chiến dịch hiệp đồng binh chủng trên từng hướng chiến dịch và có bộ máy chỉ huy chiến dịch chiến lược quy mô nhiều quân đoàn để tiêu diệt trung tâm Sài Gòn, do nhiều sư đoàn địch phòng giữ. Các chiến dịch quy mô quân đoàn đã diễn ra liên tiếp và đồng thời trên các chiến trường chiến lược như Tây Nguyên Trị Thiên, Quảng Nam, Đà Nẵng, miền Đông Nam Bộ.
Trên bản thống kê tương quan lực lượng giữa ta và địch, chúng ta đã thấy trong trận quyết chiến chiến lược với quy luật nhảy vọt, lực lượng khi mở đầu chiến cuộc chỉ xấp xỉ, nhưng tương quan lực lượng đã thay đổi hết sức nhanh chóng sau từng chiến dịch lớn.
Nói tới lực lượng là phải nói đến vật chất, lương thực đạn dược, xăng dầu bảo đảm và cả số quân bổ sung với số lượng đủ cho các chiến dịch lớn liên tiếp trong thời gian ngắn. Thành công lớn của ta là, đã bảo đảm tốt các yêu cầu vật chất các loại với một khối lượng lớn mà nếu không có sự chuẩn bị trước, khi mở đầu chiến cuộc đã được bố trí vào các địa bàn dự kiến, thì không thể bảo đảm kịp thời. Cụ thể, trong mùa Xuân 1975 khối lượng vật chất bảo đảm đã lên tới 576.963 tấn, đã phải sử dụng tới trên 17.000 chiếc ô tô, xe xích, 270 tàu thuyền và xà lan, 300 toa xe lửa và nhiều chuyến máy bay để vận chuyển.
Một vấn đề lớn trong chuẩn bị lực lượng cho trận quyết chiến chiến lược là, lực lượng dự bị chiến lược và quân bổ sung. Chúng ta đã có một quân đoàn, 3 sư đoàn dự bị chiến lược ngoài 3 khối chủ lực mạnh đã bố trí sẵn trên 3 chiến trường chủ yếu khi mở đầu chiến cuộc, và đến khi tiến hành chiến dịch Hồ Chí Minh, trong tay Bộ tổng tư lệnh còn 4 sư đoàn mạnh. Ngoài ra ta đã chuẩn bị một lực lượng quân bổ sung đông đảo trong 2 năm 1973 - 1974 là 26 vạn, riêng mấy tháng đầu năm 1975, đã huy động 23 vạn quân bổ sung. Con số hết sức lớn nếu so với tổng số quân là 418.225 lúc mở đầu chiến dịch.
Xây dựng, tích lũy và sử dụng tối ưu các lực lượng dự bị chiến lược các loại là một trong những nhiệm vụ quan trọng của chỉ đạo chiến lược. Đó là một trong những nhân tố để giành và giữ quyền chủ động chiến lược. Xây dựng những binh đoàn dự bị lớn trong một thời hạn ngắn và bất ngờ đối với địch, sẽ có thể có được ưu thế quyết định về lực lượng và khi có thời cơ, kịp thời nắm thời cơ chiến lược quyết định trạng thái chiến tranh. Việc này không thể làm trong một vài tháng mà có kết quả lớn về chiến lược được, cần phải làm một cách có kế hoạch. Trái lại, lực lượng dự bị chiến lược của địch lại bị phân tán, bó chân vào các chiến trường, không thể huy động để đối phó với các tình huống chiến lược khẩn cấp, do đó tác dụng của chủ lực cơ động tập trung vào trọng điểm lại càng lớn.
Xác định vai trò, vị trí các lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, của đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị, của khởi nghĩa, tổng khởi nghĩa và tiến công quân sự, tổng công kích trong mối quan hệ kết hợp giữa hai mặt đấu tranh của một phương thức tổng thể trong quy luật chiến tranh cách mạng, chiến tranh nhân dân Việt Nam, mà thế giới đã từng gọi là một phát minh của thời đại, là một vấn đề lớn trong thực tiễn lãnh đạo cách mạng, chiến tranh và cả trong lý luận cách mạng của Đảng ta trong suốt ba chục năm tiến hành chiến tranh giải phóng đất nước.
Những quan điểm, luận điểm khác nhau đã nổi lên trong quá trình lãnh đạo cách mạng và chiến tranh giải phóng miền Nam trong 20 năm là:
1. Giải quyết cách mạng miền Nam bằng khởi nghĩa tiến lên tổng khởi nghĩa của lực lượng chính trị, có phối hợp với lực lượng vũ trang của chiến tranh du kích để giành chính quyền về tay nhân dân, mà lực lượng chính trị giữ vai trò chính1.
2. Giải quyết chiến tranh giải phóng miền Nam bằng tổng khởi nghĩa của quần chúng có phối hợp với tổng công kích của lực lượng vũ trang thực hiện nhiệm vụ chiến lược quan trọng là tiêu diệt sinh lực địch, tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền2.
3. Giải quyết chiến tranh bằng kết hợp tổng tiến công và tổng khởi nghĩa, lấy đòn tổng công kích là đòn “quan trọng” từ Mậu Thân 1968 đến hết năm 19693.
4. Và cuối cùng, trong tổng công kích và nổi dậy mùa xuân 1975, tổng công kích phải đi trước một bước.
Trong mỗi thời kỳ khác nhau của chiến tranh, việc xây dựng lực lượng, xác định vị trí của các lực lượng cách mạng và chiến tranh cách mạng, sử dụng các lực lượng đều khác nhau, nó phục tùng mục tiêu chiến lược và phương thức tiến hành chiến tranh của từng giai đoạn. Như trong thư gửi Trung ương Cục miền Nam của đồng chí Lê Duẩn, tháng 7-1970, đã viết: Phải đánh giá đúng lực lượng so sánh cụ thể giữa ta và địch trong từng thời gian, ở từng vùng để có phương hướng đúng đắn trong việc xây dựng, phát triển lực lượng cũng như trong việc phối hợp các mặt đấu tranh, đặc biệt phải đánh giá thật đầy đủ vai trò của quần chúng nổi dậy dưới sự lãnh đạo của Đảng, vai trò của ba thứ quân. Chúng ta chủ trương kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, nhưng có khi chính trị đi trước, có khi quân sự đi trước, rồi mới thực hiện được đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị kết hợp, mới có thể thực hiện phương châm: hai chân, ba mũi4. Trong trận quyết chiến chiến lược kết thúc chiến tranh, chúng ta thấy vai trò đòn bẩy của chủ lực giải phóng nhiệm vụ cơ bản chủ yếu nhất của chiến tranh là, tiêu diệt lực lượng vũ trang mà chủ yếu là khối chủ lực của địch. Khối chủ lực của ta trong giai đoạn cuối cùng chiến tranh so sánh với khối chủ lực của địch là: ta: 1,03 (35 vạn); địch: 1 (34 vạn). Ta đã có các quân đoàn chủ lực binh chủng hợp thành được trang bị mạnh, có pháo binh cơ giới (riêng trong chiến dịch Hồ Chí Minh ta đã dùng 50 tiểu đoàn pháo) và cả xe tăng thiết giáp trong biên chế (trên 600 chiếc), có khả năng tổ chức chiến dịch hiệp đồng binh chủng trên từng hướng chiến dịch và có bộ máy chỉ huy chiến dịch chiến lược quy mô nhiều quân đoàn để tiêu diệt trung tâm Sài Gòn, do nhiều sư đoàn địch phòng giữ. Các chiến dịch quy mô quân đoàn đã diễn ra liên tiếp và đồng thời trên các địa bàn chiến lược, như Tây Nguyên, Trị Thiên, Quảng Nam, Đà Nẵng, miền Đông Nam Bộ.
Chủ lực ta trong thực tiễn cuộc tổng công kích và nổi dậy mùa xuân 1975 đã giữ vai trò trực tiếp, quyết định tiêu diệt quân chủ lực ngụy, xương sống của “Việt Nam hóa chiến tranh” trong 3 chiến dịch lớn có ý nghĩa chiến lược: Chiến dịch Tây Nguyên, chiến dịch Huế - Đà Nẵng, chiến dịch Hồ Chí Minh, đã kéo theo sự sụp đổ của bộ máy ngụy quyền, tạo điều kiện cho quần chúng nổi dậy, đã chứng minh sự chỉ đạo đúng đắn của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương. Trong cuộc chiến tranh cách mạng, vai trò của lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang địa phương có ý nghĩa chiến lược to lớn đã từng là lực lượng chủ yếu để giành thắng lợi chiến lược trong đồng khởi 1959 - 1960, trong quá trình chiến tranh đã buộc đế quốc Mỹ và tay sai phải dàn mỏng lực lượng, chủ lực cơ động chiến lược cũng bị phân tán đối phó với từng địa phương, tạo điều kiện cho chủ lực ta tập trung giáng đòn quyết định ở nơi quyết định. Riêng trong cuộc tổng công kích và nổi dậy cuối cùng, kết thúc chiến tranh, lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang địa phương cũng đã góp phần có ý nghĩa chiến lược cùng chủ lực giành thắng lợi hoàn toàn, mặc dầu, trong giai đoạn cuối, lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang địa phương của ta không sung sức bằng trước trong so sánh với địch, đặc biệt ở các thành thị, trung tâm của các đòn tiến công của chủ lực. Trong thực tiễn chiến cuộc, lực lượng vũ trang địa phương đã tranh thủ đánh địch khắp nơi, tiêu diệt, làm tan rã nhiều địch, bức hàng hàng ngàn đồn bốt, đánh phá giao thông, đập tan bộ máy kìm kẹp của địch ở cơ sở, trực tiếp hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy giành chính quyền ở địa phương, kể cả việc giải phóng quận lỵ, thị trấn, thị xã. Nhờ có lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang địa phương ta đã nhanh chóng đập tan lực lượng vũ trang và chính trị tại chỗ của địch, nhanh chóng xây dựng chính quyền cách mạng, các lực lượng và đoàn thể cách mạng, mà chủ lực có điều kiện cơ động nhanh chóng lên phía trước, giải quyết liên tục các mục tiêu chiến lược của tổng tiến công. Đặc biệt là, sau khi ngụy quyền trung ương đầu hàng ở Sài Gòn, thì trên 20 tỉnh còn lại ở Nam Bộ hầu hết đều do lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang địa phương giải phóng.
Ngay ở các trọng điểm tiến công của chủ lực, như ở Đà Nẵng, Sài Gòn, lực lượng vũ trang địa phương cũng đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc nổ súng đánh chiếm một số yếu điểm trong trung tâm thị xã, góp phần làm cho kẻ địch thêm rối loạn, hoang mang, tăng thêm tác động của đòn chủ lực, làm tan rã quân địch, giống như trên bàn cờ, khi một tốt đã đứng ở trong cung đối phương, thì tác dụng của xe, pháo lại càng lớn.
___________________________________
1. Thư vào Nam. Lê Duẩn, tr. 31.
2. Thư vào Nam. Lê Duẩn, tr. 36.
3. Nghị quyết Quân ủy Trung ương.
4. Thư vào Nam. Lê Duẩn, tr. 225.
Nếu không có lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang địa phương, ta có thể khẳng định chiến thắng của chủ lực không thể giòn giã nhanh chóng như vậy, và không có sự vùng lên của lực lượng chính trị thì không sao ta có thể nhanh chóng giữ vững trật tự an ninh, khôi phục lại các sinh hoạt bình thường ở cả miền Nam rộng lớn mà địch đã thống trị trong bao nhiêu năm ròng.
Thực tiễn diễn biến của tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975 thành công đã thể hiện đúng quy luật của chiến tranh cách mạng trong việc đặt mối quan hệ giữa tổng công kích và tổng khởi nghĩa: Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 1-1975 cũng như đồng chí Lê Duẩn đã viết trong thư gửi thành ủy Sài Gòn và Gia Định ngày 1-7 năm 1967: Kinh nghiệm ở nước ta cũng như nhiều nước cho thấy khởi nghĩa chỉ có thể nổ ra và thành công khi kẻ thù không còn khả năng cai trị được nhân dân như trước nữa, đông đảo quần chúng quyết tâm vùng lên chiến đấu, khi các công cụ bạo lực trong tay giai cấp thống trị bị tê liệt, lực lượng vũ trang bị suy sụp, tan rã do chiến tranh đế quốc hoặc do nội chiến. Nếu bọn thống trị có lực lượng quân sự mạnh thì khởi nghĩa khó thành công. Chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam vừa là chiến tranh chống xâm lược, vừa là nội chiến cách mạng, cuộc tổng khởi nghĩa, nhất là các cuộc khởi nghĩa ở thành thị, muốn thành công thì về quân sự phải giành cho được thắng lợi cơ bản, làm cho quân ngụy bị tiêu diệt một bộ phận quan trọng, đi đến tan rã, không còn khả năng phục hồi. Như vậy trong quá trình khởi nghĩa đứng về toàn cục mà xét, chúng ta không chỉ đánh địch bằng lực lượng chính trị mà còn phải đánh địch bằng lực lượng quân sự mà tổng công kích về quân sự phải đi trước một bước. Thực tiễn chiến tranh qua các thời kỳ 1965, 1968, 1972 và 1975 đều thể hiện sự chính xác của quan điểm này.
Ví như cuộc tổng công kích và tổng khởi nghĩa bắt đầu vào mùa xuân năm 1968 đã đánh vào cơ quan đầu não của địch ở Sài Gòn và các thành thị ở miền Nam, đồng thời đánh địch trên nhiều vùng quan trọng chiến lược, cả nông thôn và rừng núi, đã giành được thắng lợi chiến lược, buộc đế quốc Mỹ phải xuống thang, thay đổi chiến lược quân sự của chúng, buộc Mỹ phải chấm dứt không điều kiện chiến tranh phá hoại miền Bắc, nhận dự hội nghị bốn bên tại Pa-ri, mở đầu cho việc “đánh cho Mỹ cút”, tạo điều kiện cho thắng lợi hoàn toàn “đánh cho ngụy nhào”. Nhưng tổng công kích và tổng khởi nghĩa 1968 chưa thực hiện được những đòn tiêu diệt lớn quân chủ lực địch, cả Mỹ và ngụy, chưa phá vỡ được thế chiến lược của chúng trên những địa bàn chiến lược quan trọng ở rừng núi và đồng bằng, chưa làm thay đổi cơ bản so sánh lực lượng và cục diện chiến trường ở miền Nam, vì vậy chưa tạo điều kiện thực hiện mục tiêu cao nhất đề ra cho tổng công kích và tổng khởi nghĩa là giành chính quyền về tay nhân dân và ta đã gặp nhiều khó khăn trong một thời gian. Nghị quyết Trung ương 21 đã nêu nguyên nhân của thiếu sót này là chủ quan trong đánh giá tình hình, cho nên đề ra yêu cầu chưa thật sát với thực tế lúc đó, nhất là sau đợt tiến công Tết Mậu Thân, ta chưa thấy những cố gắng mới của địch, những khó khăn lúc đó của ta, không đánh giá hết âm mưu địch trong kế hoạch bình định nông thôn nhằm thực hiện chính sách “Việt Nam hóa chiến tranh” của Ních-xơn. Ngoài ra, tôi nghĩ, việc kết hợp tổng công kích và nổi dậy, lấy đòn chính của ta nhằm vào các thành thị quan trọng, bằng kết hợp lực lượng xung kích về quân sự với lực lượng chính trị của quần chúng, đánh sụp cơ quan đầu não của Mỹ và ngụy, đánh phá các hậu cứ, còn đòn tổng công kích của chủ lực lại nhằm căng địch trên khắp chiến trường có lợi, kéo chủ lực địch ra nhằm đánh gục các binh đoàn chủ lực địch, ra sức kiềm chế và phân tán lực lượng quân sự của địch để phục vụ cho đòn chính là tổng khởi nghĩa ở các đô thị lớn Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng, thì đó cũng chưa phải là một chủ trương hoàn toàn chính xác.
Trong điều kiện chiến tranh đã phát triển cao, địch có lực lượng quân sự mạnh, chúng không từ bất cứ một thủ đoạn bạo lực phản cách mạng nào để chống trả quyết liệt, thì không thể có khởi nghĩa ở các thành thị chủ yếu, nếu như không tiêu diệt và làm tan rã về cơ bản quân đội đối phương, đặc biệt là trong giai đoạn kết thúc chiến tranh. Quy luật của chiến tranh cách mạng giải phóng miền Nam đã được Đảng ta tổng kết, là sự phát triển quan điểm của Ăng-ghen: “một dân tộc muốn giành độc lập cho mình thì không được tự giới hạn trong những phương thức tiến hành chiến tranh thông thường (là chỉ bằng đấu tranh vũ trang của quân đội chính quy). Khởi nghĩa của quần chúng, chiến tranh cách mạng, các đội du kích ở khắp mọi nơi, đó là phương thức duy nhất mà một dân tộc nhỏ có thể thắng một dân tộc lớn, mà một quân đội ít mạnh hơn có thể đương đầu với một quân đội mạnh hơn và có tổ chức hơn”. Rõ ràng, từ đồng khởi đến Xuân Mậu Thân (1968) đến tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 là một bước phát triển mới của nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh cách mạng, trong việc kết hợp các đòn khởi nghĩa của quần chúng với đấu tranh vũ trang của quân đội.
Tổng tiến công và nổi dậy biểu hiện cụ thể sự kết hợp của khởi nghĩa vũ trang với chiến tranh trong chiến tranh cách mạng, trong giai đoạn kết thúc chiến tranh, tổng công kích phải đi trước một bước, phải là đòn chủ yếu trong chiến tranh cách mạng.
Khởi nghĩa, tổng khởi nghĩa hoặc nổi dậy và nổi dậy đều khắp trong chiến tranh cách mạng phải tuân theo quy luật của chiến tranh cách mạng. Bài học của khởi nghĩa Pa-ri 1871 trong chiến tranh Pháp - Phổ, bài học của khởi nghĩa ở Ba Lan, Tiệp Khắc trong chiến tranh thế giới thứ 2, bài học của nổi dậy đều khắp của Mậu Thân 1968 và mùa Xuân 1975, đều chứng minh quy luật này.
b) Vấn đề thế trận trong trận quyết chiến chiến lược.
Lực lượng là một yếu tố quan trọng để tạo nên sức mạnh hơn địch để chiến thắng. Nhưng lực lượng có khi đông hơn cũng chưa phải đã giành chiến thắng nếu không biết sử dụng một cách khéo léo. Khi lực lượng không ưu thế hơn mà muốn thắng kẻ địch đông hơn thì nghệ thuật quân sự lại càng phải cao hơn. Quá trình chống ngoại xâm của dân tộc ta trong nhiều nghìn năm lịch sử, kẻ địch thường đông hơn ta, do có truyền thống của nghệ thuật quân sự Việt Nam là lấy ít địch nhiều, lấy yếu đánh mạnh. Nghệ thuật quân sự tài giỏi của dân tộc đã được phát huy tới đỉnh cao trong thời đại Hồ Chí Minh, mà một nội dung quan trọng là lập thế ta và phá thế địch, để với một lực lượng ít hơn tạo ra một sức mạnh lớn hơn đối phương để giành chiến thắng.
Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 với lực lượng địch còn hơn ta 1,7/1, Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 1-1975 đã quyết định: “phải hướng mũi nhọn tiến công vào những nơi yếu nhất của địch là nông thôn, rùng núi, đồng bằng và ven đô thị, nhưng muốn giành được thắng lợi hoàn toàn thì cuối cùng phải tập trung lực lượng tiêu diệt lực lượng quân sự địch trên chiến trường được lựa chọn, đồng thời tiến công vào sào huyệt của chúng là thành thị, đánh đổ chính quyền đầu não của chúng, giành toàn thắng về tay nhân dân”. Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng tư lệnh của ta đã lập thế trận chiến lược rất hiểm, cho nên đã tạo nên một sức mạnh áp đảo, giành thắng lợi quyết định trong thời gian ngắn.
Thế trận được thể hiện trên cơ sở ta đã triển khai được cả lực lượng quân sự, chính trị, cả 3 thứ quân vào một thế chiến lược hiểm và cơ động. Nòng cốt của thế trận này là thế trận của khối chủ lực và trên các hướng gồm các quân đoàn, sư đoàn của các quân khu và của Bộ tổng tư lệnh. Ta bố trí 3 khối chủ lực lớn ở Tây Nguyên - Huế - Quảng Nam, miền Đông Nam Bộ, có khả năng giáng những đòn tiêu diệt lớn về chiến dịch trên từng khu vực và khi cần có thể tập trung nhanh chóng tạo được thế áp đảo trên hướng quyết định.
Ngoài lực lượng chủ lực, ta đã biết tập trung các lực lượng vũ trang địa phương và lực lượng chính trị vào các thành phố, thị xã, quận lỵ, chi khu để sẵn sàng phối hợp với chủ lực khi có thời cơ.
Thế trận này đã tạo ra các khả năng:
Một là, vừa đánh được địch trên diện rộng lại vừa tập trung được lực lượng đánh địch mạnh trên hướng chủ yếu, đánh được địch trên cả ba vùng chiến lược, rừng núi, đồng bằng, đô thị và khi cần nhanh chóng tập trung vào đô thị, trung tâm quân sự chính trị, kinh tế của từng vùng, cũng như toàn miền Nam, buộc địch phân tán lực lượng, kể cả khối chủ lực cơ động chiến lược, không sao tập trung nổi.
Hai là, thế trận có thể chia cắt chiến lược ở Tây Nguyên và miền Trung, bao vây, cô lập cụm quân phía Bắc, không cho địch rút lui, co cụm chiến lược, không cho địch ứng cứu lẫn nhau.
Ba là, có thể cơ động lực lượng, tập trung nhanh chóng, chớp thời cơ chiến lược mới xuất hiện vào hướng chủ yếu là Sài Gòn - Gia Định.
Bốn là, có thể cho phép ta bằng đòn tiến công mạnh vào nơi hiểm yếu của địch là Tây Nguyên, tạo nên một phản ứng mạnh làm cho địch rối loạn và suy sụp nhanh chóng, có tính chất dây chuyền ở từng khu vực cũng như trên quy mô toàn bộ chiến trường. Thế trận này bảo đảm đánh địch trong phương án thời cơ, bảo đảm giành thắng lợi của cuộc tổng tiến công theo quy luật nhảy vọt của giai đoạn kết thúc chiến tranh.
Thế trận thể hiện nghệ thuật sử dụng lực lượng trong mối tương quan với kẻ địch cụ thể, cả về lực và thế - thế trận không phải chỉ là biết tập trung lực lượng vào địa điểm và thời cơ có lợi để đánh đòn tiêu diệt, mà còn để biết phân tán địch cao độ, điều khiển được địch theo ý muốn của ta trong quá trình diễn biến tác chiến.
Thế trận vận động, chuyển hóa trên toàn chiến trường chiến lược chứ không tĩnh tại ở một khu vực, một điểm, nó bao gồm cả tập trung lực lượng ta, phân tán lực lượng địch, tạo nên sự phát triển dây chuyền, từ phá vỡ đối phương đến khuếch trương thắng lợi và tiêu diệt địch khi thời cơ đến, cho nên không nên hiểu thế trận chỉ là bố trí lực lượng.
Bài học quan trọng là, với lực lượng không hơn địch mà biết bố trí, sử dụng lực lượng vào thế buộc địch phải phân tán dàn mỏng lực lượng, tạo ra sơ hở ở khu hiểm yếu, để tập trung mọi nỗ lực chủ yếu của lực lượng và chỉ đạo đánh đòn mở đầu choáng váng, phá vỡ thế chiến lược, đó mà phát triển các đòn tiếp nối và đòn quyết định đánh bại hoàn toàn quân địch ở điểm quyết định cuối cùng.
Có thế trận lợi hại thì lực lượng nhỏ cũng thành sức mạnh lớn, lực lượng lớn lại càng phát huy tác dụng gấp nhiều lần và có thể tạo nên một sức mạnh gấp bội áp đảo đối phương, giành thắng lợi trong thời gian ngắn với hiệu suất cao. Đại thắng mùa xuân năm 1975 cũng như đại thắng Đông Xuân 1953 – 1954, đã thể hiện nghệ thuật quân sự tài tình của ta trong việc lập thế trận ta và phá thế trận địch. Chỉ trong một thời gian ngắn mà hàng triệu quân địch trong một thế trận ổn định, xây dựng hàng chục năm trời cũng tan vỡ ra từng mảnh rất nhanh. Nghệ thuật lập thế, tạo thế được thể hiện cụ thể trên quyết tâm ở việc xác định đúng phương hướng và mục tiêu tiến công. Bộ máy chiến tranh của địch được bố trí trên toàn bộ chiến trường miền Nam rộng lớn, làm thế nào chọn hướng và mục tiêu để đánh đòn chủ yếu quyết định tiêu diệt, làm tan rã địch trên quy mô lớn, phá vỡ thế bố trí chiến lược tạo ra một phản ứng dây chuyền làm rung chuyển thế chiến lược, dẫn đến đòn quyết định nhất. Trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 ta đã chọn thủ đô ngụy là Sài Gòn - Gia Định làm phương hướng và mục tiêu chủ yếu quyết định số phận của ngụy quân và ngụy quyền. Nhưng với lực lượng có hạn, phải dùng 3 đòn liên tiếp có tác động dây chuyền thì việc chọn hướng và mục tiêu cho đòn mở đầu cuộc tổng tiến công có tác dụng thối động là hết sức quan trọng, chứ không thể đánh mở đầu ngay vào Sài Gòn mà kết thúc được chiến tranh. Bộ Chính trị đã chọn Tây Nguyên là nơi định yếu hơn cả, nhưng lại hiểm yếu có tác dụng chia cắt chiến lược, cô lập Quân khu 1 và khi cần có thể tập trung lực lượng nhanh vào hướng chủ yếu. Thắng lợi ở Tây Nguyên vừa có ý nghĩa tiêu diệt một lực lượng quân sự có ý nghĩa chiến lược, vừa có ý nghĩa phá thế phòng ngự hoàn chỉnh về chiến lược của địch và có khả năng thực tế tạo ra một thế mới để khuếch trương thắng lợi, chuyển thắng lợi cục bộ thành thắng lợi toàn bộ. Như vậy, bắt đầu vào chỗ yếu nhưng hiểm yếu, kết thúc vào nơi quyết định nhất của phòng ngự chiến lược của địch, là thủ đô của ngụy quyền.
Giá trị của từng đòn, trình tự và tập trung nỗ lực của từng đòn là hạt nhân trong quyết tâm để tạo ra sự phát triển bùng nổ dây chuyền mà trong nghệ thuật quân sự thường được gọi là sự nối tiếp của phá vỡ với khuếch trương chiến quả của chiến lược yếu đánh mạnh ít địch nhiều. Ta có thể dùng mấy câu thơ sau để mô tả chiến lược này:
Một trận đầu, Miền Nam đứt đoạn,
Trận thứ hai, nửa Bắc sạch trơn.
Thế chục năm, vụt đã rối loạn,
Trận cuối cùng, tan nát triệu quân.
Khác với nghệ thuật quân sự của các nước có sức mạnh quân sự thường đánh vào chỗ mạnh bằng một đòn chết tươi. Bài học nghệ thuật quân sự của ta trong chiến tranh giải phóng, trong lấy ít định nhiều, lấy yếu đánh mạnh này đã được Nguyễn Trãi, nhà lý luận thiên tài của dân tộc khái quát trong mấy câu thơ:
Một tiếng trống, ngạc kình đứt đoạn
Hai tiếng trống, chim muông sợ tan
Tổ kiến hổng, làm toang đê vỡ.
Trận gió rung, rụng trút lá khô.
Nghệ thuật này đã được phát huy trong chiến tranh chống Pháp với đỉnh cao là chiến cục Đông Xuân 1953 - 1954 bằng năm đòn liên tiếp, buộc định phân tán và đòn quyết định kết thúc chiến tranh chống Pháp ở Điện Biên Phủ. Trong chiến tranh giải phóng miền Nam: nghệ thuật này đã được phát triển đến đỉnh cao và còn có giá trị về sau này đối với chúng ta trong chiến tranh bao vệ Tổ quốc
3. Vấn đề tạo thời cơ và tận đụng thời cơ chiến lược:
Trong nghệ thuật đấu tranh cách mạng cũng như nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh, Đảng ta rất coi trọng nhân tố thời cơ, coi thời cơ là lực lượng hết sức quan trọng.
Thời cơ do nhiều nhân tố phát triển đến chín muồi tạo thành, gồm cả nhân tố chủ quan và khách quan, cả về địch và ta, tác động lẫn nhau. Những nhân tố đó đều có quá trình phát triển tiệm tiến, ta có thể nhận thức được xu thế phát triển của nó. Muốn tạo và vận dụng thời cơ phải nắm vững các nhân tố, nắm được xu hướng phát triển của nó và phải có nỗ lực chủ quan để tác động thúc đẩy chúng phát triển chín muồi, hạn chế những nhân tố không có lợi và nỗ lực chuẩn bị những điều kiện chủ quan để tận dụng thời cơ. Các chiến dịch Biên Giới 1950, Điện Biên Phủ 1954, cuộc tiến công và nổi dậy 1968, đặc biệt là tổng công kích và nổi dậy Xuân 1975 đều là những điển hình thành công về sáng tạo và tận dụng thời cơ chiến lược một cách có ý thức và có hệ thống của ta.
Thời cơ chiến lược của trận quyết chiến chiến lược Xuân 1975 tạo ra bước nhảy vọt của chiến tranh đã được xác định trong quyết tâm của Bộ Chính trị, tháng 1-1975 trên cơ sở phân tích các yếu tố địch, ta đã trình bày và đặc biệt được xác định sau chiến thắng Buôn Ma Thuộc và Tây Nguyên. Trong nghị quyết Bộ Chính trị ngày 18 và 25-3-1975 đã xác định thời cơ chiến lược mới trên cơ sở các yếu tố sau:
- Một là, tinh thần quân ngụy đã có bước sa sút mới, đòn Tây Nguyên làm rung động cả đồng bằng và đô thị.
- Hai là, ta đã phá vỡ thế chiến lược phòng ngự của địch xây dựng từ 20 năm nay, buộc địch phải điều chỉnh bố trí chiến lược.
- Ba là, chỉ đạo của quân ngụy bắt đầu rối loạn và mất hiệu lực, có triệu chứng bước đầu của sự tan rã và suy sụp lớn.
- Bốn là, khả năng can thiệp của Mỹ, một lần nữa, tỏ ra rất hạn chế.
- Năm là, ta còn sung sức, khí thế ngày càng cao, lực lượng và khả năng chiến đấu được tăng thêm, đã tạo ra một thế chiến lược mới rất cơ động và có lợi.
Trình độ chiến đấu của chủ lực đã có bước phát triển mới, có khả năng đánh hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, giải quyết nhanh gọn một thị xã lớn và đánh tiêu diệt gọn từng đơn vị cấp sư đoàn của địch.
Như vậy, rõ ràng đến 24-3-1975 tổng số quân địch tuy còn lớn (trên 60 vạn), trong đó có 30 vạn quân chủ lực, gồm 10 sư đoàn và 8 trung đoàn, nhưng thế và tinh thần chiến đấu của chúng hoàn toàn khác.
Thời cơ chiến lược được tạo ra do hành động tích cực của ta mà thể hiện chủ yếu là đòn tiêu diệt lớn ở Tây nguyên và nó cũng còn do địch phạm sai lầm nghiêm trọng về chiến lược, là vội vã rút bỏ Tây Nguyên một cách thiếu tổ chức.
Thời cơ xuất hiện trong một thời gian nhất định, kịp thời nắm thời cơ chiến lược là một vấn đề quyết định của thắng lợi. Lúc này, thời gian là lực lượng mọi hành động phải theo đúng phương châm “kịp thời nhất, nhanh chóng nhất, táo bạo nhất, bất ngờ nhất, chắc thắng”. Chiến dịch Huế - Đà Nẵng và cả chiến dịch Hồ Chí Minh đều là sản phẩm của nghệ thuật chỉ đạo tài tình về nắm thời cơ và tạo thời cơ mới liên tiếp trong quy luật nhảy vọt của giai đoạn kết thúc chiến tranh. Nắm thời cơ thể hiện ở chỗ, nắm vững địch, đặc biệt thế chiến lược của chúng, có dự kiến đối với sự phát triển tuần tự và nhảy vọt của chiến tranh, có chuẩn bị mọi mặt cả lực lượng, vật chất, sẵn sàng ứng phó với tình thế, đồng thời nắm vững lực lượng dự bị chiến lược, kịp thời cơ động lực lượng để khuếch trương chiến quả. Chỉ trong vài ngày 40 vạn quân địch đã bị tiêu diệt. Điều đó không thể có được nếu không có thời cơ chiến lược và không có sự chỉ đạo kiên quyết, tài giỏi và nghệ thuật tổ chức chỉ huy, tập trung lực lượng, hiệp đồng tác chiến của chiến dịch chiến lược nhiều quân đoàn và phát động được các lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang địa phương phối hợp hành động.
Thời cơ tới phải có sức mạnh của quần chúng, sự nhất trí từ trên xuống dưới và hành động nhanh chóng, kịp thời của các cấp chỉ huy binh đoàn đến phân đội và lãnh đạo chính trị các cấp xuống quần chúng nhân dân trong lực lượng chính trị.
Nghệ thuật tạo thời cơ, nắm thời cơ có liên quan mật thiết đến nghệ thuật tạo lực lượng, sử dụng lực lượng và nghệ thuật lập thế trận.
Lực - Thế - Thời là ba yếu tố có quan hệ hữu cơ với nhau tạo ra chiến thắng, đặc biệt là đối với các cuộc chiến tranh, chiến dịch, chiến đấu mà lực lượng ta ít hơn đối phương thì thời thế lại có tác dụng quyết định đến sự phát huy lực lượng nhỏ thành sức mạnh lớn hơn địch để chiến thắng đối phương. Đúng như Nguyễn Trãi đã viết: “Có thời, có thế thì mất biến thành còn, nhỏ hóa ra lớn. Không thời mất thế thì mạnh hóa ra yếu, yên lại thành nguy, sự thay đổi đó chỉ trong trở bàn tay mà thôi”.
4. Vấn đề quy hoạch chiến lược:
Tổng công kích và nổi dậy trong trận quyết chiến chiến lược giai đoạn kết thúc chiến tranh phải được thực hiện bằng những chiến dịch đồng thời và kế tiếp nhau và cuối cùng kết thúc bằng chiến dịch chủ yếu quyết định. Muốn vậy, phải có quy hoạch chiến lược. Ăng-ghen đã viết: “chiến tranh bao gồm một loạt các chiến dịch quân sự liên hệ chặt chẽ với nhau bằng một kế hoạch chiến lược nhằm đạt được mục đích chiến lược”.
Quy hoạch chiến lược là xây dựng những dự án chiến lược nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược một cách khoa học, chủ động, tránh được tình trạng rời rạc lẻ tẻ, ngăn chặn được sự mất phương hướng trong chỉ đạo chiến lược. Quy hoạch chiến lược gồm nhiều chiến dịch chiến lược. Mỗi chiến dịch đều phải dựa vào quyết tâm chiến lược, xác định rõ nhiệm vụ vị trí, vai trò của từng chiến dịch, có kế hoạch hiệp đồng các chiến dịch đồng thời và kế tiếp theo ý định chiến lược.
Trong kháng chiến chống Pháp quy hoạch chiến lược của chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954 gồm 2 thời kỳ. Một là tiến công tiêu diệt địch ở những hướng quan trọng tương đối sơ hở của địch, buộc chúng phải phân tán binh lực và bị động đối phó bằng 5 đòn chiến lược: giải phóng Lai Châu, bao vây Điện Biên Phủ, giải phóng Thà Khẹt; giải phóng cao nguyên Bô Lô Ven, A-tô-pơ, giải phóng Kon Tum Bắc Tây Nguyên; giải phóng Phông Xa Lỳ, khu vực Nậm U, uy hiếp Luông-phra-băng.
Hai là, tiến công tiêu diệt Điện Biên Phủ.
Trong tổng công kích và nổi dậy mùa xuân 1975 quy hoạch chiến lược đã mở đầu bằng chiến dịch Tây Nguyên và kết thúc bằng chiến dịch tiến công vào Sài Gòn thủ đô ngụy, ở giữa có một loạt chiến dịch song song và kế tiếp ở Quân khu 1 và Quân khu 3 của địch, tiêu diệt Huế - Đà Nẵng, giải phóng miền trung Trung Bộ và miền Đông Nam Bộ.
Chúng ta đã giành thắng lợi bằng một loạt các chiến dịch đồng thời và kế tiếp nhau nhằm từng bước tiêu diệt từng bộ phận lực lượng quan trọng của địch, làm tan rã từng mảng lớn quân địch, cuối cùng tập trung lực lượng áp đảo, mở chiến dịch cuối cùng đánh vào Sài Gòn.
Các chiến dịch đều có quy mô từ quân đoàn trở lên và càng về sau càng lớn, với lực lượng ngày càng mạnh, có sức đột kích lớn, hỏa lực mạnh và sức cơ động cao, có khả năng thọc sâu vào trung tâm chiến lược của địch, với các binh đoàn xe tăng, thiết giáp và cơ giới cơ động nhanh.
Các trận đánh quy mô sư đoàn là hết sức phổ biến trong chiến dịch chiến lược.
Quy hoạch chiến lược này “được sắp xếp theo thứ tự hành động có tác động của nghệ thuật tạo thời cơ, lập thế trận và sử dụng lực lượng cụ thể, trong điều kiện thế của chiến trường có thể bảo đảm các mặt cho sự vận động, triển khai, quy hoạch được tiến hành thuận lợi bằng việc tích lũy vật chất, kỹ thuật ở những nơi dự kiến của chiến trường và một mạng lưới giao thông cơ giới chiến lược và chiến dịch được tính toán kỹ cả đường ta và đường địch sau khi ta giải phóng.
Tính mục đích và tính kế hoạch là những điều kiện quan trọng của thắng lợi trong đấu tranh vũ trang. Việc bảo đảm có được những tính đó phụ thuộc vào kinh nghiệm, tri thức và tài nghệ của cán bộ chỉ huy và cơ quan các cấp, đặc biệt của cấp chiến lược và chiến dịch.
Trận quyết chiến chiến lược diễn ra trên một không gian rộng lớn, một thời gian dài, với quy mô lực lượng lớn, với chi phí một số lớn vật chất kỹ thuật, đòi hỏi trình độ khoa học và nghệ thuật chỉ đạo chiến lược cao mà Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng tư lệnh, Bộ Tổng tham mưu ta đã điều khiển cuộc tổng công kích nổi dậy Xuân 1975 một cách tài tình, sắc bén.
Những bài học rút ra trên đây chỉ nói lên được một phần những nghệ thuật chỉ đạo chiến lược thành công của ta trên khía cạnh vận động của quy luật nhảy vọt trong giai đoạn kết thúc chiến tranh.
Chương 02
Đánh Pháp, đuổi Mỹ giải phóng đất nước giai đoạn 1945-1975 CHIẾN LƯỢC TỔNG HỢP TRONG CHIẾN TRANH GIẢI PHÓNG CHỐNG THỰC DÂN PHÁP VÀ ĐẾ QUỐC MỸ
Nguồn: quansuvn.net
Thu gọn nội dung
Trong lịch sử Việt Nam, hai cuộc chiến tranh giải phóng chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ là hai cuộc chiến tranh lâu dài nhất, ác liệt nhất, kéo dài trong suốt 30 năm. Nhân dân ta đã phải liên tiếp đương đầu với những kẻ thù mạnh nhất của thời đại, và đã giành thắng lợi oanh liệt, vẻ vang, triệt để.
Trong chiến tranh, quy luật bao trùm là “mạnh được yếu thua”. Muốn giành thắng lợi nhất thiết phải mạnh hơn đối phương. Không thể giải thích thắng lợi bằng những khái niệm mơ hồ, ngẫu nhiên, may rủi trong chiến tranh, nhất là trong những cuộc chiến tranh lâu dài, diễn ra ác liệt, liên tục, trong đó kẻ địch đã lần lượt thực hiện hết các thủ đoạn chiến lược, chiến thuật, và các loại binh khí kỹ thuật hiện đại (trừ vũ khí hạt nhân).
Vấn đề quan trọng nhất là xem xét, đánh giá một cách khách quan, khoa học, biện chứng sức mạnh vĩ đại mà chúng ta đã có, nguồn gốc, biện pháp tạo ra sức mạnh đó, và cách sử dụng nó như thế nào để làm nên chiến thắng vĩ đại.
Trong các cuộc chiến tranh cách mạng, chiến tranh giải phóng trên thế giới nói chung và ở nước ta nói riêng, lực lượng quân sự của bọn xâm lược và giai cấp thống trị, ban đầu, bao giờ cũng lớn mạnh hơn lực lượng quân sự của các dân tộc và giai cấp bị áp bức nhiều lần.
Thực dân Pháp và đế quốc Mỹ cậy có tiềm lực quân sự mạnh, một đội quân nhà nghề đông, với trang bị kỹ thuật lớn và hiện đại hơn ta nhiều lần, hy vọng giành chiến thắng dễ dàng và nhanh chóng.
Nếu như Việt Nam, một dân tộc với nền kinh tế lạc hậu, với giá trị thu nhập quốc dân ít hơn Mỹ mấy chục lần, một đội quân non trẻ, trang bị thua kém đối phương nhiều, cả về số lượng và chất lượng, lại tiến hành cuộc chiến tranh giải phóng bằng một phương pháp cổ điển thì liệu có chiến thắng được hay không? Nói cách khác, nếu không có một chiến lược đúng đắn, sáng tạo, một nghệ thuật lãnh đạo, chỉ huy tài giỏi thì chắc chắn cuộc chiến tranh cách mạng của chúng ta cũng bị dìm trong biển máu và chúng ta đã bị thất bại từ những năm 1946, 1947, chứ không còn tồn tại để có thể tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ. Đúng như Ăng-ghen đã viết: “Một dân tộc muốn giành độc lập cho mình thì không được tự giới hạn trong những phương thức tiến hành chiến tranh thông thường. Khởi nghĩa quần chúng, chiến tranh cách mạng, các đội du kích ở khắp mọi nơi, đó là phương thức duy nhất, nhờ đó mà một dân tộc nhỏ có thể thắng được một dân tộc lớn, mà một đội quân ít mạnh hơn có thể đương đầu được với một quân đội mạnh hơn có tổ chức tốt hơn”1.
Về phương diện học thuật quân sự, từ sau chiến tranh thế giới thứ nhất, đã có nhiều nhà lý luận quân sự phát biểu về các quan điểm chiến lược trong chiến tranh hiện đại.
Trong thực tiễn chiến tranh, các bên tham chiến bao giờ cũng dốc nỗ lực mọi mặt, trên mọi lĩnh vực, tiến hành cuộc chiến tranh trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, tâm lý, ngoại giao nhằm phục vụ cho cuộc đấu tranh quân sự. Nhiều nhà lý luận quân sự tư sản cũng đã đề ra các khái niệm về “chiến lược lớn”, “chiến lược toàn diện”, “chiến lược chiến tranh tổng lực”... và đã đưa các khái niệm trên vào các Bách khoa toàn thư quân sự ở các nước trên thế giới.
Nhân dân Việt Nam đã tiến hành thắng lợi toàn diện và triệt để hai cuộc chiến tranh giải phóng, đặc biệt cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ, mà trong đó đối phương đã thử nghiệm tất cả các chiến lược, chiến thuật, chiến lược quân sự các hình thức và thủ đoạn đấu tranh, phối hợp cả chính trị, quân sự, kinh tế, ngoại giao... hòng áp đặt chủ nghĩa thực dân mới, thực thi một học thuyết mới của chủ nghĩa đế quốc đối với nước ta.
Thắng lợi của nhân dân Việt Nam trong hai cuộc chiến tranh giải phóng, chống Pháp và chống Mỹ, là thành quả của sức mạnh tổng hợp của cách mạng Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.
Sức mạnh tổng hợp của cách mạng Việt Nam là tổng hòa sức mạnh của cả thế và lực Việt Nam trong thời đại mới, là sự kết hợp nhuần nhuyễn cả hai ngọn cờ, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; là sức mạnh của cả đường lối chính trị và đường lối quân sự sáng tạo của Việt Nam; là sự vận dụng tài giỏi chiến lược cách mạng và phương pháp cách mạng đúng đắn.
______________________________________
1. Ăng-ghen: Sự thất bại của Pi-ê-mông, trong tuyển tập bàn về chiến tranh nhân dân, Nxb Sự thật, Hà Nội, trang 72.
Toàn bộ sức mạnh Việt Nam trên mọi lĩnh vực phát huy bằng một chiến lược tổng hợp, có mối liên hệ hữu cơ, tác động lẫn nhau, hỗ trợ cho nhau, cùng phát triển không ngừng.
Chiến lược tổng hợp của Việt Nam, khác với chiến lược “chiến tranh tổng lực” của đối phương cả về bản chất và phương pháp tổ chức thực hiện.
Chiến lược chiến tranh tổng lực của các nước đế quốc và các thế lực phản động, trước tiên đều dựa chủ yếu vào lực lượng binh khí kỹ thuật, coi trang bị kỹ thuật là yếu tố quyết định nhất, còn các mặt chính trị, ngoại giao, tâm lý v.v... đều là phần hỗ trợ tuy rất quan trọng.
Còn chiến lược tổng hợp của cách mạng Việt Nam là dựa trên sự thống nhất hữu cơ của các mặt chính trị, quân sự, kinh tế, ngoại giao, trong đó lực lượng trang bị kỹ thuật của ta nhìn chung, suốt từ đầu chiến tranh đến khi kết thúc chiến tranh đều luôn luôn thua kém đối phương, như không quân, hải quân, xe tăng thì đối phương có sức mạnh tuyệt đối so với ta. Chiến lược tổng hợp của Việt Nam bao giờ cũng xuất phát từ đường lối chính trị đúng, chính nghĩa của chiến tranh, từ yếu tố tinh thần, tư tưởng, tâm lý, tinh thần đoàn kết, vững lòng tin, kiên định của nhân dân và quân đội ta.
Đây là sức mạnh cơ bản trong chiến lược tổng hợp của ta. Sức mạnh này cho phép ta càng đánh càng mạnh. Đây lại chính là mặt yếu cơ bản, yếu chí mạng của đối phương mà chúng không có biện pháp nào khắc phục nổi. Do đó càng đánh, nội bộ chúng càng chia rẽ, nhân dân và quân đội chúng càng mất lòng tin, không có cách nào khác là tuyên truyền lừa bịp, xuyên tạc, cưỡng bức, mua chuộc, do tính chất phi nghĩa của chiến tranh.
Từ cái yếu cơ bản nói trên dẫn đến các mặt yếu khác, về quân sự, cách đánh, về đối nội, đối ngoại.
Qua hai cuộc chiến tranh giải phóng, chống Pháp và chống Mỹ nói lên một cách đặc trưng chung là chúng ta đều thắng địch trong lúc đối phương vẫn còn lực lượng quân sự lớn. Địch thất bại chủ yếu là do chiến lược sai lầm, yếu kén chứ không phải do tiềm lực kinh tế, quân sự thua kém.
Chiến lược tổng hợp của ta đã huy động được toàn bộ sức mạnh của cả dân tộc và thời đại, để phục vụ cho mục tiêu chiến tranh chính nghĩa của ta. Chiến lược tổng hợp đã huy động được tất cả các lĩnh vực quân sự, chính trị, kinh tế, ngoại giao, tư tưởng và tâm lý. Chiến lược tổng hợp chỉ đạo phương châm, phương thức đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh quân sự, ngoại giao trong từng thời kỳ một cách chặt chẽ, nhịp nhàng. Chiến lược tổng hợp động viên sức mạnh vô tận của tất cả các tầng lớp nhân dân chi viện cho chiến trường trong từng giai đoạn một cách có kế hoạch. Riêng về mặt quân sự, chúng ta lại có chiến lược quân sự.
Chiến lược quân sự là bộ phận cấu thành quan trọng nhất trong chiến lược tổng hợp; chiến lược quân sự chỉ đạo toàn bộ nghệ thuật quân sự và có ảnh hưởng quyết định đến thành, bại của chiến tranh.
Chiến lược quân sự có nhiệm vụ:
- Nghiên cứu vận dụng quy luật đấu tranh vũ trang.
- Xác định các nguyên tắc chỉ đạo tác chiến.
- Đề ra và chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ, chủ trương, kế hoạch chuẩn bị và tiến hành các hoạt dộng quân sự bao gồm các chiến cuộc, chiến dịch có ý nghĩa chiến lược, chỉ đạo kế hoạch, động viên, tổ chức xây dựng và sử dụng lực lượng vũ trang bao gồm các tập đoàn chiến lược, các thứ quân, các quân binh chủng.
- Vạch kế hoạch, huy động mọi tiềm lực đất nước phục vụ cho chiến tranh.
- Đề ra phương thức tiến hành đấu tranh vũ trang cho từng lực lượng (chủ lực, địa phương, dân quân du kích) trong từng giai đoạn, thời kỳ.
- Tổ chức theo dõi, nghiên cứu đánh giá đối phương.
- Vận dụng và phát triển hệ thống kỹ thuật quân sự và trang bị quân sự cho lực lượng vũ trang.
- Xác định về nguyên tắc tổ chức chỉ huy và tổ chức lãnh đạo các lực lượng vũ trang.
- Nghiên cứu lý luận tiến hành và kết thúc chiến tranh.
Chiến lược quân sự do Quân ủy và Bộ Tổng tư lệnh chỉ đạo dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Đảng ủy Quân sự Trung ương.
Chiến lược tổng hợp của cách mạng Việt Nam mang tính chất toàn dân, toàn diện, cách mạng. Chiến lược tổng hợp do Bộ Chính trị, Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra.
Chiến lược tổng hợp Việt Nam vượt ra ngoài lĩnh vực hoạt động quân sự, mặc dù hoạt động quân sự là lĩnh vực chủ yếu trong chiến lược tổng hợp, nhưng nó không phải chỉ hoàn toàn chỉ đạo về mặt quân sự, nó vượt ra ngoài không gian chiến trường Việt Nam và gắn liền Việt Nam với Lào,Cam-pu-chia trong một chiến trường thống nhất của 3 nước Đông Dương, nó còn gắn Việt Nam với thời đại, tận dụng sự ủng hộ mạnh mẽ và có hiệu quả của lực lượng yêu chuộng tự do, dân chu trên thế giới, tận dụng được sự ủng hộ của cả nhân dân Pháp, nhân dân Mỹ và nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới.
Chiến lược tổng hợp Việt Nam vì vậy không chỉ mang tính dân tộc, mà còn mang tính thời đại.
Chiến lược tổng hợp Việt Nam vì vậy vừa mang tính cách mạng, vừa mang tính khoa học.
MỤC TIÊU CHIẾN LƯỢC
Mục tiêu chiến lược phải phục tùng mục đích chính trị xuyên suốt của cuộc cách mạng Việt Nam, là độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, vì xét cho cùng, chiến tranh chỉ là kế tục của chính trị.
Mục tiêu của chiến lược phải phù hợp với quy luật phát triển xã hội, phù hợp với quy luật chiến tranh.
Trong chiến tranh, phải hành động đúng. Trước tiên và điều quyết định nhất là, xác định đúng kẻ thù chủ yếu, đánh giá đúng chỗ mạnh, chỗ yếu, âm mưu cơ bản, lâu dài và trong từng giai đoạn chiến lược.
Xác định chính xác kẻ thù, cô lập kẻ thù chính, tập hợp mọi lực lượng có thể tập hợp, lợi dụng mâu thuẫn giữa các kẻ thù nguy hiểm nhất trong từng giai đoạn chiến lược, để đánh bại hoàn toàn kẻ thù chính.
Một yếu tố cơ bản trong quá trình xác định kẻ thù, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh chưa hề có sự lầm lẫn giữa thực dân Pháp với nhân dân Pháp, giữa đế quốc Mỹ với nhân dân Mỹ. Đặc điểm lớn nhất, xuyên suốt trong các cuộc chiến tranh giải phóng của chúng ta, là luôn luôn phải đương đầu với những kẻ thù lớn mạnh hơn ta nhiều lần, cả về tiềm lực kinh tế và trang bị kỹ thuật quân sự, có một đội quân nhà nghề, được huấn luyện và trang bị tốt. Chúng ta phải luôn lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều, lấy trang bị thô sơ thắng hiện đại.
Từ các đặc trưng cơ bản xuyên suốt đó, vấn đề quan trọng nhất để nhằm thực hiện được mục tiêu cơ bản của cách mạng của cuộc chiến tranh là phải chia mục tiêu ra làm nhiều nấc thang (hoặc nhiều giai đoạn, bước đi thích hợp).
+ Trong chống Pháp, trên cơ sở đánh giá đúng tương quan lực lượng giữa ta và địch, Đảng ta đã chia cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ra từng thời kỳ; cho đến khi ký Hiệp định Giơ-ne-vơ 7-1954 về Dông Dương, ta đã có được một miền Bắc hoàn toàn giải phóng, làm cơ sở cho cuộc đấu tranh tiếp theo từ 1954 đến 1975 để giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
+ Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cũng trên cơ sở, tương quan lực lượng giữa ta và địch, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có quyết định vô cùng sáng suốt về phân chia mục tiêu cụ thể thành hai bước: đánh cho Mỹ cút đánh cho ngụy nhào.
Mỗi bước, mỗi giai đoạn lại có nhiệm vụ chính trị, quân sự cụ thể, kết hợp và phát huy sức mạnh của cuộc kháng chiến toàn dân trong chiến lược tổng hợp.
Trong kháng chiến chống Pháp cũng như trong kháng chiến chống Mỹ, do lực lượng của ta mới đầu còn nhỏ bé, yếu hơn địch, ta lại ở trong thế bị động, bị bao vây, chiến trường bị chia cắt, Đảng ta đã chủ trương đánh lâu dài, giành thắng lợi từng bước, phát động rộng rãi chiến tranh du kích.
Trong chống Pháp, chúng ta đã lần lượt phá tan các chiến lược của thực dân Pháp:
- Chiến lược “Tiến công chớp nhoáng”.
- Chiến lược “Siết chặt và vết dầu loang”.
- Đánh bại chiến lược “Bình định gấp rút và phản công” của địch.
- Đánh bại chủ trương chiến lược Na-va bằng cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954 với chiến thắng Điện Biên Phủ, kết thúc cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp.
Trong chống Mỹ, chúng ta đã lần lượt đánh bại các chiến lược:
- Chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Ken-nơ-đi 1961 - 1964
- Chiến lược “Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam và chiến tranh phá hoại ở miền Bắc bằng không quân và hải quân Mỹ của Giôn-xơn 1965 - 1968.
- Chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” 1969 - 1972.
Qua việc lần lượt đánh bại các chiến lược nói trên, tiềm lực của Mỹ bị suy giảm nghiêm trọng, tinh thần quân đội Mỹ sa sút, suy yếu và cuối cùng đế quốc Mỹ đã mất ý chí xâm lược buộc Mỹ phải “cút” khỏi nước ta.
Cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam chuyển sang giai đoạn mới, vừa mang tính chất chiến tranh giải phóng, vừa là nội chiến. Quân và dân miền Nam tiếp tục cuộc tiến công “đánh cho ngụy nhào”.
Mục tiêu giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, hoài bão lý tưởng sâu xa của nhân dân được thực hiện.
Vấn đề thực hiện mục tiêu chính trị, quân sự trong các cuộc chiến tranh giải phóng chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ nổi lên một đặc điểm về khái niệm tiêu diệt, không có nghĩa là phải giết chết, bắt sống đại bộ phận quân lính của đối phương, đặc biệt với một đối tượng tác chiến mạnh như Pháp và Mỹ.
Cũng như ông cha ta trước đây, tư tưởng chỉ đạo hàng đầu của Đảng ta là đánh bại ý chí xâm lược của đối phương, làm tan rã ý chí kẻ địch, ngay lúc chúng còn lực lượng rất lớn cả Pháp, Mỹ và ngụy.
- Thực dân Pháp sau khi thất bại ở Điện Biên Phủ vẫn còn một lực lượng quân viễn chinh và ngụy quân lớn, mà vẫn buộc phải chấp nhận ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ.
- Đế quốc Mỹ sau Tết Mậu Thân còn tại miền Nam Việt Nam một lực lượng quân sự bao gồm cả hải - lục - không quân mà phải chấp nhận ký kết Hiệp định Pa-ri.
- Ngụy quyền, ngụy quân Sài Gòn đến 30 tháng 4-1975, vẫn còn lực lượng hơn 1 triệu quân mà phải chịu thất bại hoàn toàn. Tóm lại, để đạt được mục đích chính trị của chiến tranh, việc xác định cho đúng mục tiêu chiến lược của từng giai đoạn, từng thời kỳ là cực kỳ hệ trọng.
Trong chiến tranh, một nước nho chống lại quân đội xâm lược của những đế quốc lớn có tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh thì mục tiêu đề ra không nhất thiết phải là tiêu diệt hoàn toàn lực lượng địch mới giành thắng lợi hoàn toàn, mà điều quan trọng nhất là phải làm mất ý chí xâm lược, buộc chúng phải từ bỏ ý đồ xâm lược, buộc chúng phải chấm dứt chiến tranh, rút quân về nước.
Đối với quân ngụy thì vấn đề chủ yếu là phải tiêu diệt một bộ phận và làm tan rã đại bộ phận quân chủ lực của chúng, làm cho chúng mất chỗ dựa chủ yếu, mất công cụ bạo lực chủ yếu, không còn đủ sức để tiếp tục chiến tranh.
Trong chiến tranh, việc sử dụng chiến lược tổng hợp nhằm đạt mục tiêu chính trị - quân sự đề ra phải biết lấy đòn tiến công quân sự là quyết định, đi trước một bước, tạo điều kiện và hỗ trợ cho đấu tranh chính trị, cho nổi dậy của quần chúng, cho đấu tranh ngoại giao.
TỔ CHỨC VÀ SỬ DỤNG LỰC LƯỢNG TRONG CHIẾN LƯỢC TỔNG HỢP
Để tiến hành chiến tranh nhân dân thắng lợi, sau khi đã vạch ra được đường lối chiến lược đúng đắn, thì phải giải quyết ngay vấn đề sử dụng lực lượng như thế nào để có thể phát huy được cao độ sức mạnh tổng hợp của cả nước để tiến hành chiến tranh.
Trong điều kiện cụ thể của nước ta, dân tộc ta nền kinh tế của ta còn nghèo nàn lạc hậu, chúng ta phải có kế hoạch tổ chức và sử dụng lực lượng thật khôn khéo, vừa phát huy truyền thống dân tộc, phát huy truyền thống ngàn xưa của dân tộc, vừa kết hợp được sức mạnh thời đại, vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện Việt Nam, lực lượng để tiến hành chiến tranh bao gồm lực lượng chính trị và lực lượng quân sự của cả nước theo quan điểm “động viên và tổ chức toàn dân, xây dựng lực lượng chính trị rộng rãi của quần chúng, đồng thời xây dựng lực lượng vũ trang hùng mạnh gồm 3 thứ quân làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc”
Quán triệt quan điểm xây dựng lực lượng nói trên, chúng ta đã kế thừa và phát triển lên một trình độ mới truyền thống “cả nước đánh giặc”, “trăm họ đều là binh”, “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”.
Đó là quan điểm phát động toàn dân, động viên và tổ chức toàn dân bước vào cuộc đấu tranh chung, sinh tử với kẻ thù, thực hiện một cuộc chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, triệt để.
Trong tổ chức và sử dụng lực lượng, Đảng ta đã coi trọng đầy đủ và phát huy cao độ cả 2 lực lượng: lực lượng chính trị của quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân gồm 3 thứ quân.
Cả lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang đều có vai trò chiến lược rất cơ bản, quyết định.
Lực lượng chính trị của quần chúng là lực lượng của toàn dân tham gia khởi nghĩa và chiến tranh một cách có tổ chức, với những hình thức và quy mô thích hợp, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của các tổ chức Đảng bộ địa phương. Nó bao gồm các giai cấp cách mạng, các tầng lớp nhân dân trong các dân tộc, tôn giáo, được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau, bao gồm các thành viên trong các đảng phái, các đoàn thể quần chúng, các nghề nghiệp, tập hợp rộng rãi trong mặt trận dân tộc thống nhất, lấy công nông liên minh làm nền tảng dưới sự lãnh đạo của Đảng, của giai cấp công nhân.
Lực lượng chính trị của quần chúng là cơ sở để xây dựng và phát triển lực lượng mọi mặt của cách mạng, tiến hành khởi nghĩa vũ trang và đấu tranh trên các mặt trận, chính trị, quân sự và các lĩnh vực kinh tế, văn hóa tư tưởng, ở cả tiền tuyến và vùng sau lưng địch, trên mọi địa bàn hoạt động.
Lực lượng chính trị là cơ sở để xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang cách mạng của nhân dân, là chỗ dựa vững chắc cho lực lượng vũ trang nhân dân chiến đấu:
Bạo lực cách mạng bao gồm cả lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang. Lực lượng chính trị tham gia cả trong khởi nghĩa và trong chiến tranh cách mạng bằng nhiều hình thức phong phú, linh hoạt.
Trong cách mạng tháng Tám, nhân dân ta đã phát huy sức mạnh to lớn của lực lượng chính trị của quần chúng, có lực lượng vũ trang làm nòng cốt, đã thành lực lượng chủ yếu trong tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945.
Trong kháng chiến chống Pháp, nhân dân ta đã xây dựng lực lượng vũ trang trên cơ sở lực lượng chính trị lớn mạnh của toàn dân không chỉ ở vùng tự do, ở khu căn cứ địa, mà cả trong vùng địch chiếm.
Trong cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam, lực lượng chính trị quần chúng đã phát huy tác dụng cực kỳ to lớn trong cuộc đấu tranh quyết liệt, chống lại mọi chính sách tàn bạo thâm hiểm của địch, góp phần quan trọng đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ, nhất là đánh bại chính sách bình định và ấp chiến lược của chúng.
Những “đội quân tóc dài” đã thực sự thành một đạo quân sáng người tinh thần yêu nước và lòng dũng cảm vô song, tay không thắng giặc bằng lòng quả cảm và trí thông minh, kiên quyết.
Trên miền Bắc xã hội chủ nghĩa, trong những năm chống Mỹ, lực lượng chính trị của toàn dân đã góp phần quan trọng trong việc đánh trả cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của địch, góp phần đắc lực chi viện sức người, sức của cho cách mạng miền Nam trong các chiến dịch vận tải, phục vụ trên tuyến đường mòn Hồ Chí Minh, trong việc tiêu diệt bắt sống giặc lái, biệt kích của địch, trong việc giữ gìn trật tự an ninh xã hội, bảo vệ vững chắc hậu phương, chi viện cho tiền tuyến.
Bài học về xây dựng và sử dụng lực lượng chính trị của quần chúng trong chiến tranh cách mạng của Đảng ta đã và mãi mãi là kinh nghiệm quý báu và còn nguyên giá trị thực tiễn.
Đi đôi với việc xây dựng và sử dụng lực lượng chính trị, Đảng ta đặc biệt coi trọng xây dựng và sử dụng lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt cho phong trào toàn dân đánh giặc.
Suốt mấy chục năm qua, lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam đã phát triển từ phong trào đấu tranh và từ lực lượng chính trị của quần chúng; lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng thường khởi đầu xuất thân từ một đội du kích, tự vệ nhỏ bé, từ các cơ sở vũ trang tuyên truyền phát triển dần lên, trưởng thành từng bước thành lực lượng vũ trang gồm 3 thứ quân.
Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích và tự vệ là những bộ phận cấu thành của lực lượng vũ trang 3 thứ quân, tổ chức theo hình chóp nón; phía dưới là lực lượng dân quân, tự vệ đông đảo, và chóp nón là quân đội nhân dân.
Lực lượng vũ trang là lực lượng xung kích làm nòng cốt cho phong trào toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền và bảo vệ chính quyền khởi nghĩa vũ trang.
Lực lượng vũ trang là lực lượng nòng cốt chủ yếu trong chiến tranh giải phóng, trực tiếp tiêu diệt lực lượng quân sự địch, đè bẹp ý chí xâm lược của chúng, giành thắng lợi trong chiến tranh cách mạng.
Quá trình tổ chức, phát triển và sử dụng lực lượng vũ trang là quá trình không những rèn luyện, bồi dưỡng cho lực lượng đó cả về mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức; cả về trang bị kỹ thuật và nghệ thuật quân sự để lực lượng vũ trang thực sự là lực lượng vũ trang cách mạng, là công cụ chủ yếu của chuyên chính vô sản của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Đảng Cộng sản Việt Nam, người tổ chức và lãnh đạo lực lượng vũ trang đã và mãi mãi là nhân tố quyết định, cơ bản nhất làm cho lực lượng vũ trang ta không ngừng phát triển và trưởng thành, mãi mãi trung thành với lợi ích của dân tộc và của giai cấp.
Qua kinh nghiệm của cuộc chiến tranh giải phóng chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, nếu không xây dựng được một lực lượng vũ trang cách mạng tuyệt đối trung thành, có đủ số lượng cần thiết, có chất lượng cao, có trang bị kỹ thuật ngày càng hiện đại, có nền nghệ thuật quân sự ưu việt, có đội ngũ cán bộ tải giỏi thì không thể giành thắng lợi trong chiến tranh và tất nhiên không thể đạt được các mục tiêu chính trị, quân sự đề ra trong từng giai đoạn nói riêng và đạt được mục đích của cả cuộc cách mạng nói chung.
Sử dụng bạo lực cách mạng bằng sự kết hợp chặt chẽ và nhuần nhuyễn cả hai lực lượng; lực lượng chính trị của quần chúng và lực lượng vũ trang là nét đặc trưng tiêu biểu cho nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh trong chiến lược tổng hợp của Đảng ta. Trong quá trình tiến hành chiến tranh nhân dân, Đảng ta đã chỉ đạo thường xuyên việc kết hợp chặt chẽ đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, kết hợp khởi nghĩa với chiến tranh cách mạng.
Lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang đều có những khả năng to lớn và cùng phát huy tác dụng, hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển, phát huy sức mạnh tổng hợp to lớn của cả nước, của toàn thể dân tộc. Không có lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang sẽ bị cô lập, đơn độc, mất hẳn sức mạnh chính trị, tinh thần và vật chất từ hậu phương, ngược lại, nếu lực lượng vũ trang yếu thì lực lượng chính trị của quần chúng sẽ mất chỗ dựa cho thế tiến công và thế phòng thủ, địch sẽ nhanh chóng đàn áp phong trào.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Ở những nơi địch càn quét khủng bố ác liệt, lập vành đai trắng, dồn dân vào trại tập trung, các ấp chiến lược, lực lượng vũ trang không có chỗ đứng chân, mất cơ sở, các đảng bộ địa phương đã tách một bộ phận bộ đội chủ lực tổ chức thành các đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung, đi sâu vào hoạt động gây cơ sở vừa đánh giặc, vừa phát triển và củng cố lực lượng chính trị, đẩy mạnh hoạt động chiến tranh du kích, từng bước xây dựng lại địa bàn, khôi phục cơ sở quần chúng trung kiên, tổ chức cho quần chúng nổi dậy, diệt ác, phá tề, trừ gian, và tiêu diệt các tháp canh, đồn bốt nhỏ lẻ của địch, phá ấp chiến lược trở về quê hương làng mạc cũ.
Từ các lực lượng du kích nhỏ lẻ lại phát triển dần lên thành các đơn vị bộ đội địa phương tập trung cơ động trong một khu vực 3 - 4 xã, trong huyện, tỉnh thành và hỗ trợ cho các cuộc nổi dậy của nhân dân.
Như vậy, sự hoạt động kết hợp một cách nhịp nhàng, ăn khớp giữa hai lực lượng, lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang đã trở thành một truyền thống tốt đẹp trong nghệ thuật tiến hành chiến tranh nhân dân của Việt Nam.
Bài học tổ chức, xây dựng và sử dụng cả hai lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, tiến hành đấu tranh vũ trang kết hợp với đấu tranh chính trị để nhằm đạt được mục tiêu chính trị, quân sự đề ra cho từng giai đoạn trong chiến tranh giải phóng là bài học về phương pháp cách mạng đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta. Phương pháp cách mạng đúng đắn bảo đảm cho việc tổ chức thực hiện đường lối cách mạng thắng lợi với ít tổn thất nhất.
PHƯƠNG CHÂM CỦA CHIẾN LƯỢC TỔNG HỢP
Có đường lối chính trị, quân sự đúng đắn là những yếu tố rất cơ bản để giành thắng lợi trong đấu tranh cách mạng, trong đó, phương châm chính xác đúng đắn của chiến lược tổng hợp là một nội dung quan trọng.
Để đánh thắng những tên thực dân, đế quốc xâm lược đầu sỏ có tiềm lực kinh tế và quân sự phát triển vượt hẳn ta nhiều lần, có bộ máy chiến tranh khổng lồ, hoàn thiện, đòi hỏi ta phải có những phương châm những biện pháp chiến lược linh hoạt, sáng tạo phù hợp với quy luật của chiến tranh.
Kế thừa và phát triển truyền thống giữ nước chống ngoại xâm của dân tộc, vận dụng tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lê-nin về chiến tranh và quân đội một cách sáng tạo, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm đấu tranh cách mạng của các nước xã hội chủ nghĩa và phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, Đảng ta đã đề ra cho chiến tranh cách mạng Việt Nam những phương châm chiến lược phù hợp với thực tiễn tình hình và khả năng của ta.
Chương 02
Đánh Pháp, đuổi Mỹ giải phóng đất nước giai đoạn 1945-1975 CHIẾN LƯỢC TỔNG HỢP TRONG CHIẾN TRANH GIẢI PHÓNG CHỐNG THỰC DÂN PHÁP VÀ ĐẾ QUỐC MỸ
Nguồn: quansuvn.net
Thu gọn nội dung
1. Tiêu diệt địch và giành quyền làm chủ:
Tiêu diệt địch và giành quyền làm chủ là 2 nội dung cơ bản, liên quan mật thiết, quan hệ hữu cơ với nhau trong chiến tranh giải phóng, là 2 mặt của một vấn đề của chiến tranh giải phóng cách mạng.
Trong chiến tranh, yêu cầu phải tiêu diệt lực lượng quân sự của đối phương đã và luôn luôn là yêu cầu trước tiên, chủ yếu và xuyên suốt. Đương nhiên, như phần trên đã trình bày, do tương quan lực lượng giữa ta và địch không cho phép ta lúc nào cũng có thể thực hành những chiến cuộc lớn bao vây tiêu diệt, bắt làm tù binh từng cụm lớn lực lượng quân địch. Tuy nhiên, vấn đề đánh tiêu diệt từng bộ phận địch trong phạm vi chiến thuật, chiến dịch phải được coi như yêu cầu số 1 về quân sự, phải tiêu diệt một bộ phận quan trọng làm tan rã đại bộ phận, đập tan ý chí xâm lược của đối phương, nhất là tiêu diệt các cơ quan đầu não, trung tâm chỉ huy, các cơ sở hậu cần kỹ thuật làm tê liệt từng phần sức chiến đấu của địch, là một vấn đề rất quan trọng.
Muốn đánh tiêu diệt thì phải có đòn quân sự mạnh đi trước một bước, phải có những chiến dịch hợp đồng quân binh chủng quy mô ngày càng lớn. Để thực hiện đánh tiêu diệt lớn, nhất thiết phải có những đòn tiến công quân sự mạnh mẽ và có hiệu quả lớn của các binh đoàn chiến lược, làm động lực tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận lực lượng quân sự của địch. Muốn vậy phải chăm lo chuẩn bị và xây dựng lực lượng vũ trang 3 thứ quân ngày càng phát triển lớn mạnh, trong đó, bộ dội chủ lực phải trở thành quả đấm mạnh, có hiệu quả, có các đơn vị dự bị chiến lược và cụm cơ động lớn sẵn sàng triển khai trên các chiến trường; bộ đội địa phương phải có khả năng tiến công địch liên tục ở quy mô vừa và nhỏ, kìm địch, giam chân địch, gây cho địch nhiều tổn thất, buộc địch phải phân tán đối phó, không có lực lượng và điều kiện tập trung mở các chiến dịch lớn hoặc tiến công phản công ta.
Trong trường hợp có các đòn tiến công quân sự của bộ đội chủ lực, tạo nên những tác động sụp đổ có tính dây chuyền, thì lực lượng vũ trang địa phương nhanh chóng nắm vững thời cơ, cùng với lực lượng chính trị của quần chúng tiến lên tự mình giải phóng các huyện lỵ, quận lỵ, thị trấn, giải tán ngụy quân, ngụy quyền, thành lập chính quyền cách mạng.
Dân quân du kích phải thực sự tạo ra một thế trận thiên la địa võng, đánh địch mọi lúc, mọi nơi, tiến công bằng mọi loại vũ khí có trong tay, không những góp những tiêu hao nhỏ thành số lượng lớn mà còn tiến công địch về mặt tinh thần, tâm lý, tạo cho chúng tâm trạng thường xuyên căng thẳng, lo âu, mệt mỏi sợ hãi.
Tóm lại, có thực hiện được đánh tiêu diệt thì mới làm chuyển biến tương quan lực lượng ngày càng có lợi cho ta, khó khăn cho địch và cuối cùng làm cho địch bị sụp đổ tinh thần ý chí mặc dù lực lượng còn đông, nhưng tan rã về tổ chức, không thể tiếp tục ý đồ xâm lược, buộc phải chấm dứt chiến tranh, chấp nhận thất bại theo các điều kiện quân sự, chính trị do ta đề ra.
Nhưng trong chiến tranh giải phóng, chiến tranh cách mạng, có một vấn đề lớn đặt ra là giành quyền làm chủ, giải phóng đất đai, giành chính quyền về tay nhân dân.
Đó chính là mục đích cuối cùng của chiến tranh giải phóng, chiến tranh cách mạng. Xét cho cùng, tiêu diệt địch chưa phải là mục đích cuối cùng mà mới chỉ là phương tiện, vì vấn đề cơ bản của cách mạng là vấn đề giành chính quyền.
Nếu tiêu diệt được địch, nhưng cuối cùng không giải phóng được đất đai, không giải tán được bộ máy ngụy quyền, không thiết lập được chính quyền cách mạng, thì đánh tiêu diệt vẫn chưa đạt được mục đích của nó.
Do đó, đòn đánh tiêu diệt và làm tan rã lực lượng định, nhất là quân chủ lực của chúng, phải mở đường cho hành động cách mạng của quần chúng nổi dậy, tiến hành khởi nghĩa diệt ác, phá kìm, đập tan bộ máy ngụy quyền địch, thiết lập chính quyền cách mạng, giải phóng đất đai giải phóng nhân dân. Khi đã giành được quyền làm chủ ở mức độ khác nhau, thì phải tạo ra thế mới, có lợi cho lực lượng vũ trang tiêu diệt địch và phát triển lực lượng vũ trang.
Tất cả những chiến dịch lớn, nhỏ ở chiến trường miền Nam suốt từ 1960 đến 1975, đều thể hiện đậm nét phương châm tiến công và giành quyền làm chủ nói trên. Tuy nhiên, giành quyền làm chủ được bao nhiêu lâu, phạm vi bao nhiêu xã quận, huyện v.v... là còn tùy thuộc vào điều kiện tương quan lực lượng giữa ta và địch.
Vấn đề giành quyền làm chủ là một nội dung cơ bản trong chiến tranh cách mạng; nó là cuộc đọ sức quyết liệt giữa ta và địch, đòi hỏi phải có quyết tâm cao, kiên quyết, phải hy sinh trả giá, bởi vì kẻ địch không bao giờ cam chịu thất bại mà chúng sẽ liên tục phản kích, phản công, hòng giành lại những khu vực đã mất.
Phạm vi làm chủ rất linh hoạt, do tương quan lực lượng giữa ta và địch quyết định. Có những vùng, lực lượng địch còn mạnh, bộ máy kìm kẹp của chúng còn lớn, ta chỉ có thể giành quyền làm chủ từng phần, về đêm, còn ban ngày thì địch vẫn kiểm soát.
Tiêu diệt địch và giành quyền làm chủ là một quá trình đấu tranh ác liệt, gay go, giành đi giật lại suốt cả tiến trình chiến tranh giải phóng, từ khi bắt đầu đến khi kết thúc chiến tranh giành thắng lợi hoàn toàn và triệt để.
Bản chất của tiêu diệt địch và giành quyền làm chủ chính là, thực hiện yêu cầu hoạt động quân sự phải phục vụ cho yêu cầu của mục đích chính trị. Trong khi địch còn mạnh thì giành dân lại là mục đích chủ yếu để phát triển lực lượng, phá tề trừ gian xây dựng cơ sở cách mạng trong những năm đầu của chiến tranh thường có vị trí rất quan trọng.
2. Luôn quán triệt tư tưởng chiến lược tiến công.
Thông thường, trong chiến tranh quy ước thì chỉ thực hành tiến công địch khi ta có ưu thế hơn địch trong so sánh tương quan lực lượng, còn khi yếu hơn địch thì chỉ thực hành phòng ngự.
Nếu vận dụng quan điểm lý luận đó vào cuộc chiến tranh giải phóng của những nước có tiềm lực kinh tế và quân sự yếu hơn đối phương nhiều lần như Việt Nam so với thực dân Pháp và đế quốc Mỹ thì có thể không bao giờ đặt vấn đề tư tưởng chiến lược tiến công quân địch ngay từ đầu được.
Trong chiến tranh, nếu không thực hành tiến công, không có những đòn tiến công sắc bén, quyết định, tiêu diệt và làm tan rã đối phương, đánh bại ý chí xâm lược của chúng, thì không có thắng lợi. Nói cách khác, trong chiến tranh cách mạng, chiến tranh giải phóng, nếu không tiến công được kẻ địch, thì nhất định thất bại và không bao giờ giành được độc lập tự do.
Tư tưởng chiến lược tiến công là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt trong các cuộc chiến tranh giải phóng của chúng ta.
Nhìn lại toàn bộ lịch sử giữ nước qua mấy chục thế kỷ, chúng ta luôn phải đương đầu với những kẻ thù xâm lược mạnh hơn ta nhiều lần.
Ông cha ta đã từng lấy ít địch nhiều, lấy nhỏ thắng lớn, lấy đoản binh thắng trường trận. Từ khi có Đảng, quan điểm lấy tư tưởng tiến công làm phương châm chiến lược lại càng được quán triệt vận dụng một cách nhuần nhuyễn, sáng tạo.
Với tư tưởng chiến lược tiến công, chúng ta đã đi từ thắng lợi này sang thắng lợi khác, thắng lợi sau to hơn thắng lợi trước cho đến khi giành thắng lợi hoàn toàn và triệt để.
Bản chất của tư tưởng chiến lược tiến công là tinh thần triệt để và kiên quyết cách mạng của giai cấp công nhân. Tư tưởng chiến lược tiến công phản ánh tinh thần “dám đánh và biết đánh” và tiến công trên mọi lĩnh vực một cách chủ động, không khiếp sợ trước sức mạnh kẻ thù, dám sẵn sàng hy sinh để giành thắng lợi. Trong thực tế, không có thắng lợi nào mà không phải trả giá. Phải có lòng yêu nước thiết tha với ý chí “không có gì quý hơn độc lập tự do”, “sẵn sàng quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” thì mới thực hiện được tư tưởng chiến lược tiến công.
Bác Hồ đã dạy về cách đánh du kích: “du kích là tiến công, mình bao giờ cũng đánh trước. Du kích mà để quân thù tấn công, mình phải phòng ngự là không tốt rồi, là phải ở vào thế khó rồi...”.
Tuy nhiên, mặt khác cần nhận thức đúng đắn: Tư tưởng chiến lược tiến công không đồng nghĩa với phiêu lưu, liều lĩnh.
Cho nên tư tưởng chiến lược tiến công chính là:
“… Phải nhìn cho rộng, suy cho kỹ
Kiên quyết không ngừng thế tiến công”.
Quán triệt tư tưởng chiến lược tiến công, trước tiên là phải dám đánh. Sợ hy sinh thì không thể tiến công được. Nhưng dám đánh phải luôn đi đôi với biết đánh, đánh như thế nào để giành thắng lợi cao nhất, ít tổn thất.
Quán triệt tư tưởng chiến lược tiến công là luôn luôn bình tĩnh, sáng suốt, thông minh, mưu lược, tính toán tường tận, tìm cho ra điểm yếu và hiểm yếu trong cái mạnh chung của địch, để đánh cho trúng, điểm đúng huyệt. Đã đánh là thắng, là rung chuyển, tạo ra được phản ứng sụp đổ dây chuyền cho kẻ địch.
Dám đánh và biết đánh chính là kết hợp chặt chẽ dũng với mưu; luôn chủ động, không ỷ lại, không đợi phải có điều kiện chủ quan, khách quan cho phép mà tự mình vắt óc ra suy nghĩ kế hay, mưu giỏi, khắc phục muôn vàn khó khăn, tạo ra thời cơ thuận lợi, điều động địch v.v...
Trong chiến tranh, không bao giờ có thuận lợi một chiều, chiến tranh bao giờ cũng là sự đối chọi giữa hai thế lực đối kháng một cách vô cùng ác liệt. Ta biết lừa địch, thì địch cũng biết lừa ta. Ta có thuận lợi này, thì địch có thuận lợi khác. Bên nào kiên cường hơn, dũng cảm hơn, mưu lược hơn thì bên đó sẽ thắng.
Chân lý và thực tiễn của tư tưởng chiến lược tiến công là ở chỗ: Bị mất nước thì phải tiến công mới giành lại được nước từ tay kẻ thù. Phải khởi nghĩa, nổi dậy, lấy ít địch nhiều, lấy thô sơ thắng hiện đại, giành thắng lợi từ nhỏ đến lớn từ bộ phận đến toàn cục. Đó cũng là mối quan hệ nhân quả biện chứng.
Tư tưởng chiến lược tiến công không mâu thuẫn gì với khi cần thiết phải thực hành phòng ngự.
Trong quá trình tiến công nhưng phải đồng thời biết phòng ngự, biết giữ mình. “Công” phải đi đôi với “thủ”.
Phòng ngự, phòng thủ để rồi lại tiếp tục tiến công, tiếp tục phát triển giành thắng lợi lớn hơn, triệt để hơn.
Biết đánh nhưng phải biết giữ. Tiến công giành được thắng lợi nhưng lại phải biết bảo vệ thành quả vừa giành được, không để mất trở lại vào tay kẻ địch.
Biết đánh mà không biết giữ, thì có rồi lại hết, như “công dã tràng”, không bao giờ đạt được mục đích cuối cùng.
Khái niệm của phương châm tư tưởng chiến lược tiến công mang ý nghĩa rộng. Ngoài lĩnh vực tiến công quân sự là chủ yếu, còn phải biết kết hợp cả các đòn tiến công về chính trị, ngoại giao đồng thời để tạo nên sức mạnh tổng hợp, liên tục và chủ động tiến công.
Các đòn tiến công trên mặt trận chính trị, kinh tế, và ngoại giao phải kết hợp chặt chẽ với tiến công quân sự và hỗ trợ lẫn nhau, dưới sự chỉ đạo chung trong một chiến lược tổng hợp của thế trận chiến tranh nhân dân. Nhờ những đòn tiến công phối hợp chặt chẽ và rộng khắp trên mặt trận chính trị ngoại giao tuyên truyền, binh, địch vận một cách thường xuyên mà chúng ta đã chinh phục và tranh thủ được sự đồng tình của nhân loại tiến bộ và của nhân dân Pháp và nhân dân Mỹ trong các cuộc chiến tranh giải phóng, nhân thêm sức mạnh của chúng ta, khoét sâu thêm nhược điểm, khuyết điểm của đối phương, góp phần thúc đẩy cuộc chiến tranh mau kết thúc thắng lợi.
3. Phải luôn biết tạo thời cơ và lập thế trận vũng mạnh, hiểm hóc.
Tạo thời cơ và nắm thời cơ đánh những đòn quyết định về chiến lược là vấn đề lớn trong nghệ thuật khởi nghĩa và nghệ thuật chiến tranh.
Trong chiến tranh, tình huống luôn đối chọi ác liệt và phát triển, vận động không ngừng. Từ thuận biến thành nghịch hoặc ngược lại, chỉ xẩy ra trong chốc lát, trong phạm vi chiến thuật, xảy ra hàng ngày trong phạm vi chiến dịch và trong vài ba ngày, vài tuần trong phạm vi chiến lược.
Trong quá trình đối chọi tình huống một cách quyết liệt giữa ta và địch trong chiến dịch, chiến lược, thường xuất hiện những thời cơ có lợi cho ta để phát triển tiến công một cách nhanh chóng, nhảy vọt, tạo ra đột biến về chất trong chiến tranh, chiến dịch, chiến đấu.
Thời cơ thuận lợi xuất hiện do nhiều nguyên nhân, chủ quan và khách quan nhưng trước nhất và quyết định nhất bao giờ cũng do nỗ lực chủ quan của ta, do tài nghệ chỉ huy, chỉ đạo chiến lược, chiến dịch, do quyết tâm đúng đắn, do lòng dũng cảm phi thường của cán bộ, chiến sĩ ta tạo nên; giáng cho địch những đòn tiêu diệt lớn, có ý nghĩa quyết định. Đồng thời, cũng với những thắng lợi lớn đầu tiên của ta, kẻ địch lâm vào thế bị động, phán đoán sai tình huống, dẫn đến những quyết định sai lầm trong ý đồ tác chiến, trong điều động binh lực, tạo nên những lỗ hổng, những nhược điểm lớn hơn. Trong trường hợp đó, những nhà chiến lược của ta phải kịp thời nắm chắc, khắc phục mọi khó khăn, dùng lực lượng tương đương hoặc ít hơn địch, nhưng với thế mạnh hơn, nhanh chóng; dũng cảm, táo bạo, tiếp tục những đòn tiến công mạnh mẽ hơn, dồn dập hơn, giành thắng lợi lớn hơn, gây ra cho địch những tan rã, sụp đổ dây chuyền từ chiến dịch sang chiến lược.
Nghệ thuật tạo thời cơ và nắm bắt thời cơ hoàn toàn không phải là yếu tố ngẫu nhiên, mà do hoạt động với ý thức chủ động của người chỉ huy. Ví như: người đánh cờ khi đi một nước đã lường trước được đối phương sẽ xử trí lại như thế nào và ta sẽ tiếp tục phải đi những nước cờ tiếp theo ra sao để giành thắng lợi.
Sáng tạo thời cơ, nắm thời cơ là nghệ thuật trong khởi nghĩa và chiến tranh, là tính năng động của những nhà lãnh đạo, chỉ huy chiến dịch chiến lược.
Muốn tạo thời cơ, nắm vững thời cơ thì hành động phải kiên quyết, quả cảm, kịp thời và đòi hỏi những nhà cầm quân phải có tinh thần quyết đoán, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước sự thành bại của việc hạ quyết tâm, do dự thiếu quyết đoán thì sẽ không tạo được thời cơ, sẽ bỏ lỡ thời cơ.
Tạo thời cơ và nắm vững thời cơ, nói cách khác và tạo nên khả năng đột biến về chất, có lợi cho ta trong chiến tranh và khởi nghĩa.
Thời cơ liên quan đến thế trận. Không có thế trận vững thì không bao giờ tạo và tận dụng được thời cơ. Thế trận vững là cơ sở vật chất bắt buộc phải có để có thể tạo thời cơ và nắm bắt kịp thời khi thời cơ đến. Thế trận điều kiện, hoàn cảnh trạng thái hoạt động của lực lượng rộng hơn khái niệm thế trận.
Thế trận là cách bài binh bố trận đúng đắn, tối ưu, nhằm kết hợp chặt chẽ được các yếu tố địa hình và lực lượng với công tác tổ chức nghi binh, tổ chức hệ thống giao thông, đường vận tải quân sự, tổ chức thông tin chỉ huy, là toàn bộ kế hoạch sử dụng binh hỏa lực, kế hoạch hành động của các lực lượng vũ trang trong từng tình huống cụ thể, kế hoạch tổ chức các trận then chốt và then chốt quyết định về chiến dịch và các đòn quyết định chiến lược. Thế trận phải được nghiên cứu hết sức công phu.
Càng đặt ra nhiều giả thuyết cho các tình huống có thể xảy ra và có nhiều phương án cụ thể để giải quyết cho từng tình huống một cách có hiệu quả thì thế trận càng vững chắc.
Một thế trận vững chắc bao giờ cũng phải tính toán và dự kiến được những khó khăn lớn nhất, những khả năng và phản ứng lớn nhất của địch và có những biện pháp cụ thể để đối phó, giải quyết với từng trường hợp, không bị động, bị bất ngờ.
Để giành chủ động, nắm được thời cơ và hành động kịp thời, điều quan trọng là phải có lực lượng dự bị chiến dịch, chiến lược hùng mạnh, sẵn sàng cơ động cao.
Điều động lực lượng cơ động đúng lúc, vào đúng các mục tiêu lựa chọn, giáng đòn quyết định, kịp thời để giành thắng lợi quyết định là tài nghệ của các nhà lãnh đạo, chỉ huy chiến tranh.
Các chiến dịch lớn trong kháng chiến chống Pháp và trong kháng chiến chống Mỹ của ta đều thể hiện rõ việc tạo thời cơ, nắm vững thời cơ và lập thế trận vững. Đặc biệt, trong tổng tiến công chiến lược mùa xuân 1975 ta đã đưa nghệ thuật tạo thời cơ, nắm vững thời cơ và lập thế trận vững mạnh phát triển lên một trình độ cao.
Từ kế hoạch chuẩn bị giải phóng miền Nam trong 2 năm 1975 và 1976, nhưng khi xuất hiện thời cơ một khả năng sụp đổ dây chuyền, Đảng ta đã kịp thời nắm thời cơ hạ quyết tâm giải phóng hoàn toàn miền Nam trước mùa mưa năm 1975. Để thực hiện quyết tâm đó Đảng ta đã triển khai cả bộ máy nhà nước, cả sức mạnh của miền Bằc xã hội chủ nghĩa và miền Nam, dốc toàn lực cho việc lập thế trận, nắm vững thời cơ, thần tốc, táo bạo giải phóng hoàn toàn miền Nam, quần đao Trường Sa vào mùa xuân 1975. Đó là một ví dụ điển hình về tạo thời cơ, nắm vững thời cơ và lập thế trận hiểm hóc, vững chắc của chiến tranh nhân dân Việt Nam.
PHƯƠNG THỨC, PHƯƠNG PHÁP ĐẤU TRANH CỦA CHIẾN LƯỢC TỔNG HỢP
Sau khi đã có đường lối chính trị, quân sự đúng, đã xác định rõ mục tiêu chiến lược, tổ chức và sử dụng lực lượng của cuộc chiến tranh giải phóng, đề ra được phương châm chiến lược chỉ đạo đúng đắn cho từng giai đoạn của cuộc chiến tranh, Đảng ta còn đề ra các phương thức, phương pháp đấu tranh thích hợp để phát huy được sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân trong thời đại mới.
Trong điều kiện hoàn cảnh đế quốc Mỹ xâm lược miền Nam, thiết lập bộ máy chính quyền phản động cai trị từ trung ương đến địa phương và bộ máy quân sự khổng lồ, bao gồm cả quân xâm lược viễn chinh Mỹ với quân ngụy hàng triệu tên, trang bị hiện đại cùng với bộ máy cảnh sát, an ninh mật vụ, kìm kẹp đàn áp mua chuộc, lừa phỉnh nhân dân bằng tất cả các thủ đoạn vừa tinh vi xảo quyệt, vừa dã man tàn bạo, thì nhân dân ta làm thế nào để giành lại độc lập tự do trong tay kẻ thù?
Con đường duy nhất là, Đảng lãnh đạo nhân dân vùng lên khởi nghĩa. Từ khởi nghĩa từng phần, bắt đầu từ khâu yếu nhất của địch là vùng rừng núi và nông thôn đồng bằng, phát triển dần ra các nơi, các vùng và phát triển thành chiến tranh cách mạng. Bằng mọi loại vũ khí, giáo mác, gậy gộc, cuốc, thuổng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân đã nhất tề đứng dậy diệt ác, phá kìm, trừ gian, tiêu diệt và giải tán bọn ngụy quân, ngụy quyền ở cơ sở, giành chính quyền về tay nhân dân, nhanh chóng tổ chức lực lượng vũ trang cách mạng, dân quân tự vệ, tiến hành phát động chiến tranh du kích. Trên cơ sở của những thắng lợi đầu tiên, nhanh chóng phát triển lực lượng, kết hợp khởi nghĩa của quần chúng với chiến tranh cách mạng (chiến tranh du kích); nổi dậy và tiến công, tiến công và nổi dậy, liên tục mở rộng phạm vi đánh địch trên cả ba vùng chiến lược: rừng núi, nông thôn đồng bằng và thành thị; đánh địch bằng cả ba mũi giáp công, quân sự, chính trị và binh vận.
Trong quá trình tiến hành khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng, Đảng ta thường xuyên chú trọng kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh chính trị, đấu tranh quân sự, với đấu tranh ngoại giao.
Về nghệ thuật quân sự ta kết hợp chặt chẽ hoạt động của ba thứ quân, kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy, kết hợp đánh lớn, đánh vừa, đánh nhỏ.
Phương thức đấu tranh nói trên là những vấn đề có tính quy luật của các cuộc chiến tranh giải phóng, chiến tranh cách mạng.
Từ tay không trong vòng kìm kẹp, bằng lực lượng chính trị nhân dân miền Nam đã tiến hành “đồng khởi” trên những vùng nông thôn và miền núi ở Nam Bộ và miền Trung: phát triển khởi nghĩa từng phần trong chiến tranh cách mạng, quy mô ngày càng rộng lớn, làm cho chế độ độc tài Ngô Đình Diệm phải sụp đổ.
Khởi nghĩa chỉ mới là mở đầu. Khởi nghĩa chưa đập tan hoàn toàn và triệt để bộ máy nhà nước phản động của địch mà phải tiến hành một cuộc chiến tranh cách mạng lâu dài, gian khổ để tiếp tục tiêu diệt hoàn toàn quân địch, giành thằng lợi hoàn toàn và triệt để. Kinh nghiệm cách mạng tháng Mười Nga, sau khi khởi nghĩa thành công phải tiến hành liên tiếp ba năm chống quân Bạch Vệ và bọn can thiệp nước ngoài. Cách mạng tháng Tám vừa thành công phải tiếp tục ngay 9 năm kháng chiến chống thực dân mới giành được thắng lợi trên nửa đất nước. Cách mạng miền Nam, từ cao trào đồng khởi năm 1960 cho đến tháng 4-1975, nghĩa là 15 năm sau mới giành được thắng lợi hoàn toàn.
Khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng là hai bước đi tiếp của một quá trình đấu tranh cách mạng để giành và giữ chính quyền.
Trong chiến tranh cách mạng phải thường xuyên nắm chắc việc kết hợp chặt chẽ đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị và ngoại giao.
Mỗi hình thức đấu tranh đều có vị trí và vai trò của nó.
Đấu tranh quân sự là hình thức đấu tranh cơ bản, giữ vai trò quyết định trực tiếp trong việc tiêu diệt lực lượng quân sự địch, kết thúc thắng lợi chiến tranh.
Đấu tranh chính trị cũng là một hình thức đấu tranh cơ bản và quyết định, là phương thức tiến công kẻ thù, kể cả hợp pháp và bất hợp pháp. Đấu tranh chính trị luôn là cơ sở cho sự phát triển của đấu tranh quân sự.
Đấu tranh chính trị bằng nhiều hình thức, từ thấp đến cao. Nhân dân, bằng kinh nghiệm thực tiễn của mình đã sáng tạo ra nhiều hình thức vô cùng phong phú và có hiệu qủa lớn. Đấu tranh chính trị đã tập hợp quần chúng, giác ngộ, động viên, tổ chức, rèn luyện và đưa vào đấu tranh từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, và khi điều kiện đã chín muồi thì tiến hành vũ trang khởi nghĩa, dùng bạo lực cách mạng lật đổ chính quyền địch, giành quyền làm chủ, thành lập chính quyền cách mạng.
Đấu tranh ngoại giao cũng là một mặt trận quan trọng có ý nghĩa chiến lược. Qua các hoạt động ngoại giao của Nhà nước và các hoạt động đối ngoại của các tổ chức quần chúng và tổ chức quốc tế, chúng ta đã dần dần làm cho nhân dân thế giới hiểu rõ bản chất xâm lược phi nghĩa của địch, thấy được bản chất chính nghĩa, yêu tự do, yêu hòa bình của nhân dân ta, nên ngày càng đồng tình ủng hộ ta.
Chúng ta đã giành được nhiều thắng lợi to lớn trên mặt trận ngoại giao, làm nổi bật tính chất chính nghĩa của cuộc đấu tranh của nhân dân ta.
Đấu tranh quân sự, chính trị, ngoại giao được kết hợp trong chiến lược tổng hợp chung, dưới sự chỉ đạo chặt chẽ của Đảng ta, thực sự là một phát triển sáng tạo trong việc vận dụng các phương thức đấu tranh trong thời đại mới. Các cuộc đấu tranh quân sự, chính trị, ngoại giao đã hỗ trợ, thúc đẩy lẫn nhau, tạo nên sức mạnh to lớn của chiến tranh nhân dân chiến thắng chiến tranh tổng lực của đế quốc Mỹ.
Trong các mặt đấu tranh quân sự, chính trị, ngoại giao thì phải lấy đấu tranh quân sự làm chủ yếu. Đây là mặt trận quyết định, vì trong chiến tranh, trước hết phải đánh thắng địch về quân sự. Đấu tranh quân sự phải đi trước một bước, làm đòn bẩy, tạo điều kiện cho các đấu tranh khác phát triển.
Đấu tranh quân sự phục vụ cho đấu tranh chính trị và đấu tranh ngoại giao; và ngược lại, các cuộc đấu tranh chính trị và ngoại giao cũng xoay quanh phục vụ cho nhiệm vụ đấu tranh quân sự.
Đấu tranh quân sự trong chiến tranh trở thành mặt trận chủ yếu, trực diện với kẻ địch. Trong đấu tranh quân sự, lực lượng vũ trang làm nòng cốt có vị trí chiến lược quan trọng hàng đầu. Lực lượng vũ trang nhân dân gồm ba thứ quân làm nòng cốt cho phong trào toàn dân đánh giặc phát triển từ chiến tranh du kích tiến lên chiến tranh chính quy và khi đã thực hiện được chiến tranh chính quy ngày càng phát triển thì đồng thời cũng phải không ngừng phát triển chiến tranh du kích, kết hợp song song phát triển cả chiến tranh du kích với chiến tranh chính qui, liên tục tiêu hao, tiêu diệt nhỏ và tiêu diệt lớn, đánh bại mọi chiến lược quân sự của địch, giành thắng lợi có tính chất quyết định về mặt quân sự.
Tiến hành chiến tranh du kích đã trở thành nhột phương thức hoạt động có tính chiến lược, là hình thức đấu tranh vũ trang sâu rộng, phổ biến của quần chúng nhân dân và của cả bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, kết hợp và liên hệ chặt chẽ với nhau giữa các vùng chiến lược thành một hệ thống mặt trận liên hoàn, đánh địch mọi lúc, mọi nơi, bằng mọi loại vũ khí, thực hiện mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xã, phường, ấp là một pháo đài.
Chiến tranh du kích của Việt Nam đã phát triển đến một trình độ cao và góp phần to lớn có ý nghĩa chiến lược vào chiến thắng chung. Chiến tranh du kích luôn được kết hợp chặt chẽ với chiến tranh chính quy trong tổng thể chiến tranh nhân dân rộng lớn.
Chiến tranh chính quy là hình thức đấu tranh vũ trang tập trung, tác chiến hiệp đồng quân binh chủng của bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương, hình thành các chiến dịch tiến công, phòng ngự, phản công quy mô ngày càng lớn, phát triển thành các chiến dịch - chiến lược, tạo nên những bước nhảy vọt làm thay đổi cục diện chiến tranh.
Phải có chiến tranh chính quy với những quả đấm chiến lược mạnh mẽ, tiêu diệt lớn địch, giải phóng đất đai thì mới giải quyết được chiến tranh, mới giành được thắng lợi triệt để.
Đối với nước ta, sự kết hợp giữa chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy đã trở thành truyền thống và mang tính quy luật trong chiến tranh giải phóng. Hai hình thức này tạo điều kiện và hỗ trợ cho nhau cùng phát triển, cùng phát huy tác dụng. Có kết hợp chặt chẽ được chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy mới thực hiện được kết hợp đánh lớn, đánh vừa, đánh nhỏ, đánh địch liên tục; rộng khắp, tạo ra khả năng to lớn, bền bỉ đấu tranh với một kẻ thù lớn mạnh hơn ta nhiều lần trong một cuộc chiến tranh lâu dài, ác liệt và kết thúc thắng lợi chiến tranh một cánh giòn giã.
Trong giai đoạn cuối kết thúc chiến tranh, chiến tranh chính quy có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nhằm thực hiện những trận tiêu diệt lớn có ý nghĩa chiến lược, tiêu diệt đội quân chủ lực của địch, xương sống và chỗ dựa chủ yếu của kẻ thù.
Chính vì vậy nên càng về cuối chiến tranh, chiến tranh chính quy càng giữ vai trò quan trọng. Bằng những chiến dịch hợp đồng quân binh chủng quy mô vừa và lớn, thực hành bao vây tiêu diệt từng cánh quân, từng tập đoàn chiến lược của địch, giải phóng các thị xã, đô thị lớn, các địa phương, hỗ trợ cho phong trào quần chúng nổi dậy giành quyền tiến lên giải phóng hoàn toàn đất nước. Nói cách khác phải có chiến tranh chính quy với những đòn tiêu diệt lớn lực lượng quân sự địch, mới tạo được những bước nhảy vọt làm thay đổi cục diện chiến tranh.
Ở giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh chống Mỹ, đấu tranh quân sự được thực hiện bằng các chiến dịch khác nhau của lực lượng vũ trang ba thứ quân, kết hợp với lực lượng chính trị. Nghệ thuật quân sự Việt Nam đã phát triển lên một trình độ mới và có nhiều kinh nghiệm thực tiễn quý báu, độc đáo.
- Những chiến dịch tổng hợp ở mặt trận đồng bằng, nông thôn, kết hợp tiến công quân sự với khởi nghĩa vũ trang của lực lượng chính trị của quần chúng, đập tan hệ thống kìm kẹp, đánh bại kế hoạch “bình định” của địch, tiêu diệt lực lượng quân sự của chúng, giải phóng nông thôn.
- Những chiến dịch tiến công của các binh đoàn chủ lực trên chiến trường có lựa chọn nhằm tiêu diệt lực lượng quân sự chủ yếu là quân chủ lực cơ động của địch.
- Những chiến dịch lớn tiến công vào các đô thị (hoặc những chiến dịch tổng hợp có kết hợp với nổi dậy của lực lượng chính trị ở các đô thị) đánh vào cơ quan đầu não của địch, kết hợp vây hãm, tiến công quân sự với khởi nghĩa vũ trang để giải phóng thành phố, thị xã.
Đặc biệt từ năm 1973 trở đi, sau khi ký Hiệp định Pa-ri về Việt Nam, trước âm mưu phá hoại và lấn chiếm của địch, từ những cuộc chống lấn chiếm, bình định, giữ vững vùng giải phóng, chúng ta đã chuyển sang những chiến dịch tiến công tổng họp, phá vỡ từng mảng hệ thống kìm kẹp của địch ở các địa bàn xung yếu, uy hiếp mạnh các vùng ven đô và các thị trấn, thị xã.
Với phương thức liên tục tiến công và nổi dậy, đẩy mạnh việc tiêu diệt và tiêu hao lực lượng quân sự của địch trên các vùng chiến lược, phá vỡ từng mảng hệ thống kìm kẹp của địch ở cơ sở thôn xã, giành dân, giành quyền làm chủ, ta đã dồn địch vào thế bị bao vây, căng kéo, buộc chúng phải phân tán lực lượng chủ lực đối phó khắp mọi nơi, không còn đủ lực lượng cơ động mạnh trên các địa bàn quan trọng hoặc chi viện, ứng cứu cho các chiến trường. Lực lượng bảo an, dân vệ bị tan rã, mất tinh thần, không đủ sức đương đầu với lực lượng chính trị của quần chúng và lực lượng vũ trang cách mạng.
Thực hiện đánh địch bằng ba mũi giáp công: quân sự, chính trị, binh vận với nhiều hình thức phong phú, linh hoạt, sắc bén, có hiệu lực đã dồn địch vào thế bị động của chiến lược và chiến dịch từ những sụp đổ chiến thuật chuyển hóa thành bùng nổ dây chuyền mạnh mẽ mang ý nghĩa chiến địch và chiến lược.
Cùng với những chiến dịch hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, với sức cơ động cao, đột phá mạnh, liên tục, chọc thủng các hệ thống và khu vực phòng ngự chiến lược của địch, tiêu diệt và làm tan rã các binh đoàn chủ lực chủ yếu của chúng, nắm vững thời cơ ở các tỉnh, huyện bộ đội địa phương cùng với dân quân du kích, tự vệ đã phát triển tiến công, bao vây các đồn bốt, tiêu diệt, gọi hàng, diệt ác, trừ gian, hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy phá tan kìm kẹp của địch, xây dựng chính quyền cách mạng.
Bằng chiến lược tổng hợp, từ khởi nghĩa vũ trang phát triển thành chiến tranh cách mạng, kết hợp đấu tranh chính trị quân sự, ngoại giao, kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy, bằng ba mũi giáp công, đánh địch trên cả ba vùng chiến lược, phát triển tuần tự đến nhảy vọt, cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, từ đồng khởi 1959 - 1960 đến tổng tiến công nổi dậy Tết Mậu Thân (1968), với tiến công chiến lược 1975, chúng ta đã phát triển tư tưởng quân sự Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh lên đỉnh cao mới, kết hợp tính truyền thống dân tộc với tính thời đại.
Chiến lược tổng hợp thể hiện tinh thần sáng tạo của Đảng ta. Với chiến lược tổng hợp, chúng ta đã động viên được sức mạnh của toàn dân, sức mạnh chính trị và quân sự cả nước, sức mạnh từ hậu phương đến tiền tuyến, sức mạnh cả dân tộc và sức mạnh thời đại, sức mạnh của độc lập dân tộc với sức mạnh của chủ nghĩa xã hội tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn vô địch của chiến tranh nhân dân đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, kẻ thù mạnh nhất của thời đại.
Muốn thắng được một kẻ địch có sức mạnh vật chất lớn, có lực lượng quân sự và trang bị kỹ thuật mạnh, hiện đại, ta nhất thiết phải có đường lối chính trị, quân sự đúng đắn, dựa vào sức mạnh của toàn dân, phát huy cao độ nhân tố chính trị, tinh thần, phải tạo ra được sức mạnh tổng hợp to lớn và ngày càng phát triển.
Với đường lối xây dựng và củng cố nền quốc phòng toàn dân, Đảng ta đã đặt lên hàng đầu quan điểm “lấy dân làm gốc” trong xây dựng và củng cố quốc phòng. Từ quan điểm “lấy dân lành gốc”, chúng ta đã thực sự phát huy được sức mạnh của toàn dân, của cả nước, tập hợp và huy động cao nhất sức mạnh của nhân dân và sức mạnh của thời đại để đánh thắng kẻ thù.
Bài học về chiến lược tổng hợp không chỉ là kinh nghiệm đã qua mà còn là bài học lớn, nóng hổi mãi mãi sau này.
Trên mấy nghìn năm lịch sử, từ khi vua Hùng dựng nước Văn Lang đến nay, dân tộc ta đã bao lần chiến đấu chống ngoại xâm phong kiến phương Bắc và đế quốc Âu, Mỹ thường mạnh hơn ta về tiềm lực chiến tranh.
Biết bao chiến tích oai hùng trước những kẻ thù mạnh nhất thời đại, như các đế chế phong kiến Trung Quốc đời Tần, Đường, Hán, Tống, Nguyên, Minh, Thanh, thực dân Pháp, và đế quốc Mỹ, còn vang dậy trong lòng nhân dân Việt Nam và được nhiều người trên thế giới biết đến và đánh giá cao.
Nước ta ở vào một vị trí địa lý đặc biệt, nơi tiếp xúc giữa đất liền và hải đảo, nằm ở góc cực Đông Nam của đại lục châu Á, nhìn ra Thái Bình Dương, ở trên con đường giao thông thủy bộ thuận lợi từ Nam lên Bắc, từ Đông sang Tây... Mặt khác nước ta vốn từ xưa đã nổi tiếng là nơi có “rừng vàng biển bạc”. Với vị trí trọng yếu và những nguồn tài nguyên phong phú, nước ta đã trở thành nơi gặp gỡ nhiều nhóm dân cư trên đường thiên di, nơi giao lưu nhiều luồng văn hóa phương Đông và cũng là địa bàn chiến lược, mà nhiều thế lực xâm lược thèm khát, nhòm ngó. Bởi vậy, ngay từ buổi đầu dựng nước, nhiệm vụ chống ngoại xâm đã trở nên cấp thiết trong sự nghiệp giữ nước. Quy luật dựng nước đi đôi với giữ nước đã ăn sâu trong đầu óc người dân Việt Nam. Bác Hồ yêu quý của chúng ta đã căn dặn quân đội ta ngay từ khi giải phóng hoàn toàn miền Bắc năm 1954: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau ra sức giữ nước”.
Kẻ thù muốn đánh chiếm nước ta không chỉ để bóc lột nhân dân, vơ vét của cải, khai thác nguồn tài nguyên phong phú, mà còn muốn biến nước ta thành một đầu cầu chiến lược để bành trướng khắp vùng Đông Nam Á. Vì thế, trong tiến trình lịch sử, dân tộc ta phải luôn luôn trong tư thế sẵn sàng chống xâm lược và liên tiếp phải đương đầu với nhiều cuộc chiến tranh xâm lược của những thể lực bành trướng cường bạo.
Trong lịch sử đấu tranh giữ nước nói chung, hầu hết các cuộc chiến tranh chống ngoại xâm của dân tộc ta đều diễn ra trong hoàn cảnh so sánh lực lượng rất chênh lệch. Kẻ xâm lược là những quốc gia phong kiến lớn, là những đế quốc cường bạo vào bậc nhất thế giới.
Cuộc đụng đầu lịch sử đầu tiên giữa dân tộc ta với thế lực phong kiến bành trướng phương Bắc xảy ra vào thế kỷ thứ III trước công nguyên, cũng là một cuộc chiến tranh có quy mô lớn, nhưng lực lượng hai bên rất khác nhau. Bấy giờ, đế chế Tần đã lập ra một đế quốc phong kiến rộng lớn, còn nước Văn Lang mới có số dân khoảng 2 triệu, cư trú chủ yếu trên địa bàn rừng núi phía Bắc tổ quốc; Thế kỷ thứ X - XI, dân tộc ta hai lần kháng chiến chống xâm lược Tống. Lúc đó, nước Tống có khoảng trên 50 triệu dân, còn Đại Việt chỉ có chừng 4 triệu người.
Ở thế kỷ XIII, giặc Mông - Nguyên ba lần sang xâm lược Đại Việt. Ai cũng biết, đế chế Mông - Nguyên là một đế quốc khổng lồ, tàn bạo nhất thế giới đương thời, đang nuôi tham vọng làm bá chủ thế giới. Trước khi đánh vào Đại Việt, bè lũ Mông - Thát đã kiến lập được một đế quốc rộng lớn từ Bắc Á đến Đông Âu. Khi nhà Nguyên thành lập (1279), chúng đã thu phục cả lục địa Trung - Hoa và trở nên một đế quốc rộng lớn với số dân khoảng 60 triệu. Đến thế kỷ thứ XVIII, dân tộc ta có trên dưới 10 triệu người mà đã anh dũng chống lại và chiến thắng đế quốc Mãn Thanh to lớn, kẻ đã chinh phục thống trị cả một miền rộng lớn với trên 300 triệu dân. Trong thời kỳ cận đại và hiện đại, dân tộc ta đã phải chiến đấu chống đế quốc Pháp, Mỹ. Chúng đều là những đế quốc mạnh, không những đông quân hơn ta, mà còn hơn hẳn ta về trình độ phát triển kinh tế, kỹ thuật, trang bị và vũ khí.
Là những kẻ thống trị ôm mộng bá chủ thế giới, bọn đế quốc chủ tâm xây dựng những đạo quân lớn mạnh chuyên để đàn áp và xâm lược. Về quân số, kẻ thù bao giờ cũng có số lượng gấp ta nhiều lần.
Tóm lại, một quy luật phổ biến trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc ta là kẻ thù thường là những nước lớn, có quân đội đông, còn ta là một nước nhỏ, ít quân. Về số lượng quân đội của kẻ xâm lược bao giờ cũng gấp ta nhiều lần.
Thực tế trên chiến trường, quân địch đã tạo được một binh lực lớn hơn ta. Tạo nên được ưu thế lớn hơn đối phương về binh lực và hỏa lực là một nhân tố thắng lợi trên chiến trường. Song, trong chiến tranh, dân tộc ta không có điều kiện để thực hiện điểm này. Ta là một nước nhỏ, dân số ít, nên khả năng huy động quân đội ra chiến trường của ta có hạn. Trái lại, do tiềm lực của nước lớn, các đế chế Trung Quốc và Âu, Mỹ có khả năng huy động được những đạo quân xâm lược có ưu thế về số lượng, về trang bị, tiếp tế và có nguồn bổ sung to lớn.
Do đó, nhìn về binh lực trong các cuộc chiến tranh trước đây, ban đầu bao giờ quân xâm lược cũng có ưu thế hơn ta rất nhiều. Lý chống Tống (1077) ta có 10 vạn, địch có 30 vạn quân. Trần chống Mông - Nguyên lần thứ hai (năm 1285) và lần thứ ba (1288) ta có 20 vạn quân, địch có 50 vạn quân, thời kỳ Quang Trung chống quân xâm lược nhà Thanh: ta có 10 vạn, địch có 30 vạn quân. Trong chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ ta so với địch cả về số lượng và trang bị đều thua kém nhiều. Trong chiến tranh tháng 2-1979 chống xâm lược biên giới phía Bắc: ta 10 sư đoàn, đối phương 32 sư đoàn.
Như vậy, dân tộc ta không những phải chống ngoại xâm thường xuyên, mà còn phải chiến đấu trong hoàn cảnh rất gian khổ, ác liệt với so sánh lực lượng hết sức chênh lệch. Lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều là một quy luật xuyên suốt trong lịch sử đấu tranh giữ nước của dân tộc ta. Phải thắng mọi thế lực xâm lược, bất kể đó là những thế lực to lớn và phản động như thế nào; phải bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc là một yêu cầu khách quan trong sự nghiệp đấu tranh dựng nước và giữ nước.
Nhìn lại lịch sử trong suốt hơn 2.000 năm (từ thế kỷ thứ III trước công nguyên đến nay), dù kẻ thù là đế quốc Tần hung ác, dù chúng là Tống, Nguyên, Minh, Thanh, hay Pháp, Mỹ to lớn, đông quân, lắm mưu mô xảo quyệt và tàn bạo, dù chúng là những đội quân đã lừng danh trên thế giới từ những cuộc chiến tranh nội bộ hay từ những cuộc chinh phục Đông - Tây, nhưng khi vào Việt Nam, cuối cùng chúng đều không thoát khỏi thất bại thảm hại. Tại sao vậy? Tại sao một nước nhỏ, dân ít mà lại chiến thắng những đế quốc to lớn gấp nhiều lần? Tại sao một đội quân không đông mà đánh tan những đạo quân viễn chinh khổng lồ, hiếu chiến và tàn bạo? Những kinh nghiệm truyền thống của dân tộc Việt Nam chống xâm lược đối với chúng ta thật có ý nghĩa.
LÒNG YÊU NƯỚC NỒNG NÀN.
Bác Hồ, lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam đã từng nói: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”.
“Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, là quyết tâm sắt đá của dân tộc Việt Nam.
“Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”1.
Những lời nói đanh thép của Chủ tịch Hồ Chí Minh làm rung động lòng người dân Việt Nam, như những lời nhắc nhủ, lời kể chuyện của ông bà, cha mẹ cho trẻ thơ Việt Nam. Đã là người Việt Nam, không ít thì nhiều, ai cũng nhớ trong tâm trí câu chuyện Phù Đổng Thiên Vương, hình ảnh chú bé làng Gióng “roi ngà, mảnh áo nhung, Thiên Vương 3 tuổi đã anh hùng”.
Ngay từ buổi đầu tiên kháng chiến chống xâm lược của nhà Tần, tinh thần thà hy sinh tất cả, chứ không đầu hàng giặc đã nổi bật trong nhân dân Âu Lạc. Sử ký Tư Mã Thiên chép: “Quân Tần đánh giữ lâu ngày, lương thực bị tuyệt và thiếu. Quân Tần đóng ở đất vô dụng, tiến không được, thoái cũng không xong”. Và Hoài Nam Tử thời Hán, trong Nhân gian huấn đã ghi: “Người Việt đều vào rừng ở với cầm thú, không ai chịu để cho quân Tần bắt. Họ cùng nhau đặt người tuấn kiệt lên làm tướng, ban đêm ra đánh quân Tần, đại phá quân Tần và giết được Đồ Thư. Quân Tần thân phơi máu chảy hàng mấy chục vạn người”.
Tinh thần bất khuất thà hy sinh tất cả, bỏ hết tài sản ruộng vườn, vào rừng sống với cầm thú để kháng chiến, nhất định không chịu sống nô lệ, đã ngày càng ăn sầu vào târn tư dân Việt trong quá trình mấy ngàn năm lịch sử chống ngoại xâm.
Biết bao lời kêu gọi của các lãnh tụ và hành động quyết hy sinh vì Tổ quốc đã được ghi trong sử sách và đã được thể hiện đậm nét qua cuộc kháng chiến trường kỳ giải phóng và bảo vệ Tổ quốc chống đế quốc Pháp - Mỹ vừa qua. Một câu nói tương truyền là lời Bà Triệu phát ra trên núi Nghĩa nghìn thu còn vang: “Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở Biển Đông, đánh đuổi quân Ngô, giành lại giang san, cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom lưng làm tỳ thiếp người ta”.
Bài thơ của Lý Thường Kiệt từ thể kỷ XI, đã nói lên quyền độc lập thiêng liêng của dân tộc Đại Việt.
“Nam quốc sơn hà nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư,
Như hà nghịch lỗ, lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”
Bài hịch kêu gọi tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn đã rung động lòng quân dân thời Trần:
“Từ xưa đến nay, trung thần nghĩa sĩ dâng mình cho nước, đời nào lại không có?... Ta thường đến bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ giận không được xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Tuy trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn thân ta bọc trong da ngựa cũng nguyện xin làm... Làm sao bêu được đầu Hốt Tất Liệt ở nơi cửa khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai”.
Trong Đại Cáo Bình Ngô sau thắng lợi chống xâm lược nhà Minh năm 1427, có viết về tinh thần không đội trời chung với giặc thù như sau:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn dựng nền văn hiến đã lâu,
Cõi bờ sông núi đã riêng,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Trải Triệu, Đinh, Lý, Trần nối đời dựng nước,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên đều chủ một phương.
Tuy mạnh, yếu có lúc khác nhau,
Mà hào kiệt không bao giờ thiếu.
Quân Minh cường bạo thừa dịp hại dân,
Đảng ngụy gian tà, manh tâm bán nước…
Tát cạn nước Đông Hải không rửa sạch tanh hôi,
Chặt hết trúc Nam Sơn khó ghi đày tội ác…
Nghĩ khó đội trời cùng quân địch,
Thề không chung sống với giặc thù”…
Trước khi xuất quân tiêu diệt quân Mãn Thanh xâm lược, Quang Trung đã kêu gọi tướng sĩ “Đánh cho nó chích luân bất phản, đánh cho nó phiến giáp bất hoàn, đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ”.
Các lãnh tụ kiệt xuất của dân tộc từ xưa đến nay đều nói lên quyết tâm của nhân dân Việt Nam quyết giữ quyền độc lập của dân tộc và trong hành động thực tế của quá trình lịch sử, biết bao anh hùng đã hy sinh cho Tổ quốc.
Lời của Trần Bình Trọng “thà làm ma nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc” trong kháng chiến chống Mông -Nguyên năm 1285 còn hòa vang với lời hô cuối cùng của Nguyễn Văn Trỗi và biết bao người con anh hùng của dân tộc trên đoạn đầu đài, trước khi bị kẻ thù xử tử. Biết bao người Việt Nam sẵn sàng đem hết tài sản và cả tính mạng mình hiến dâng cho Tổ quốc. Không phải bất cứ đâu trên trái đất này, người dân đều sẵn sàng làm thanh dã, phá cửa nhà, phá bỏ các thành phố để đánh giặc. Nhưng nhân dân Việt Nam đã thực hiện tiêu thổ kháng chiến trong chống Pháp, phá các đô thị không cho địch lợi dụng, tản cư đi kháng chiến. Hàng triệu bà mẹ Việt Nam đã hiến dâng những đứa con thân yêu của mình cho Tổ quốc.
Truyền thống anh dũng bất khuất, yêu nước nồng nàn đã cứu dân Âu Lạc (Việt) khỏi bị Hán hóa đã hun đúc tinh thần quyết chiến quyết thắng, đánh Pháp, Nhật, Mỹ, quét sạch bóng quân xâm lược ra khỏi nước ta. Truyền thống đó là lời cảnh cáo với mọi kẻ thù muốn xâm lược, bắt dân Việt Nam lệ thuộc, dù chúng mạnh như thế nào đi chăng nữa. Những kẻ còn có ảo tưởng muốn xâm chiếm biên giới, hải đảo, lãnh thổ, lãnh hải của Việt Nam, muốn bắt chúng ta khuất phục trước sức của chúng.
Việt Nam trên bước đường tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, còn nhiều khó khăn, còn có nhược điểm, khuyết điểm, thậm chí có lúc có sai lầm nghiêm trọng, nhưng dân tộc Việt Nam đã có một lịch sử lâu dài chứng minh tinh thần bất khuất của mình. Những kẻ xâm lược mạnh nhất của thời đại, như Mông - Nguyên ở thế kỷ thứ XIII và đế quốc Mỹ trong thế kỷ thứ XX đã thất bại trước dân tộc Việt Nam, là bài học đáng nhớ cho những kẻ ôm mộng xâm lược.
____________________________________
1. Hồ Chí Minh, Tuyển tập, Nxb Sự Thật, t. 2, 1980, tr. 430.
CẢ NƯỚC CHUNG SỨC ĐÁNH GIẶC CHIẾN TRANH TOÀN DÂN.
Tổng kết thắng lợi của ba lần kháng chiến chống quân xâm lược Mông - Nguyên, Trần Quốc Tuấn nêu lên một nguyên nhân chủ yếu là “bây giờ vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước góp sức chiến đấu, nên giặc phải bó tay”! sách An Nam chí lược cũng ghi rằng, đời nhà Trần “toàn dân đánh giặc”. Nhà sử học Phan Huy Chú cũng viết trong tác phẩm của mình “Đời nhà Trần nhân dân ai cũng là binh nên mới phá được giặc dữ làm cho thế nước được mạnh”. Đó là những biểu hiện cụ thể, là những tổng kết và kinh nghiệm lịch sử xuất phát từ những quan điểm chiến lược có ý nghĩa trong hệ thống tri thức quân sự, không chỉ thể hiện ở thời Trần mà cả trong tiến trình lịch sử đấu tranh giữ nước của dân tộc ta.
Mỗi khi có xâm lăng, bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng của mỗi người dân sống trên lãnh thổ này. Ý thức độc lập tự chủ là tư tưởng, tình cảm của dân tộc. Ý thức đó, từ rất sớm đã trở thành mục đích đấu tranh chung của tất cả các tầng lớp, mọi dân tộc trong nước. “Tình làng nghĩa nước”, “nước mất thì nhà tan” là nếp sống, là những suy nghĩ chung. Cho nên, người dân ta từ ngàn xưa đã có ý thức rất sâu rộng, nếu để kẻ thù cướp nước dày xéo quê hương, thì mất cả gia đình, mất cả của cải, mất cả nền văn hóa dân tộc, mất cả lẽ sống và đạo lý làm người. Tất cả nhân dân đều nhận thức rằng: “Quốc gia hữu sự toàn dân hữu trách” (Quốc gia có ngoại xâm thì toàn dân đều phải có trách nhiệm). Đó là tình cảm lớn nhất thúc đẩy mỗi người dân yêu nước đứng lên chiến tranh giữ nước với những thử thách gian lao, dân tộc ta ai cũng hiểu rõ giá trị thiêng liêng của độc lập dân tộc, nên đã “dĩ thân tuẫn quốc” (sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc). Sự sống còn của dân tộc đoàn kết toàn dân, thúc đẩy mọi tầng lớp góc sức chiến đấu và chiến thắng quân thù cường bạo.
Ở nước ta, sức mạnh giữ nước không chỉ là sức mạnh của một nhà nước, mà là sức mạnh của cả nước. Thấm nhuần quan điểm đó trong lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh giặc Pháp cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, ai không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc, ai cũng phải ra sức chống thực dân cứu nước”.
Quan điểm chiến tranh toàn dân được Đảng ta xác định năm 1951, trong chính cương của Đảng ở đại hội Đảng lần thứ 2, đã bắt nguồn từ truyền thống lịch sử lâu đời đó của dân tộc.
Tư tưởng chiến lược “cả nước chung lòng, toàn dân đánh giặc” cũng xuất phát từ yêu cầu khách quan của các cuộc chiến tranh chống ngoại xâm của dân tộc. Đất nước ta đất không rộng, người không đông, nhân tài vật lực của ta có hạn, lực lượng quân đội của ta không nhiều. Trái lại, kẻ thù của dân tộc có đất rộng, người đông, có tiềm lực quân sự và kinh tế mạnh, chúng cậy số đông, trang bị mạnh và có nhiều kinh nghiệm trong chiến tranh xâm lược. Với điều kiện tương quan lực lượng giữa ta và địch như vậy, nếu dùng lực lượng quân đội đơn thuần thì chắc chắn không thể đánh thắng được. Muốn thắng quân thù to lớn và cường bạo, thì phải dựa vào sức mạnh cả nước, huy động toàn dân đánh giặc.
Trải qua các giai đoạn lịch sử, tổ tiên ta đều nhận thức một các rõ ràng vai trò của toàn dân đánh giặc giữ nước. Quan điểm quốc phú binh cường thì gốc rễ là ở dân thể hiện trong nhiều triều đại. Cho nên, để động viên được sức mạnh tiềm tàng đó, tổ tiên ta đã phải thi hành nhiều chính sách tiến bộ để “an dân”. Lý Thường Kiệt coi “đủ ăn” là nguyện vọng của dân. Trần Quốc Tuấn chủ trương “Khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc”. Buổi đầu đời Lê, triều đình đã ban lệnh “Không được khinh động đến sức dân” và Nguyễn Trải cho “việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”. Đến thế kỷ thứ XVIII, Nguyễn Huệ đã có nhiều biện pháp để làm nước giàu, quân mạnh, trong đó có chủ trương “làm sao cho dân yên ổn, có ruộng cày...” hoặc “mở mang cửa ải, thông chợ búa, khiến cho các hàng hóa không ứ đọng, làm lợi cho dân”. Các triều đại phong kiến tiến bộ ở nước ta đều chú ý bồi dưỡng, khoan thư sức dân, ra chiếu khuyến nông, chăm lo thủy lợi, có khi giảm miễn tô thuế một phần để mở mang kinh tế, phần nữa để tăng cường khối đoàn kết giữa các dân tộc, giữa triều đình và dân chúng.
Khi quyền lợi của giới quý tộc phong kiến chưa đối lập với quyền lợi của bình dân, khi quyền lợi của giai cấp còn gắn liền với quyền lợi của dân tộc, thì các triều đại phong kiến có khả năng động viên được đông đảo nhân dân tham gia kháng chiến. Vào những thời kỳ đó, những chính sách tiến bộ của nhà nước là một nhân tố để triều đình tập họp toàn dân đánh giặc. Mặt khác, do hoàn cảnh luôn luôn bị kẻ thù hung bạo đe dọa xâm lược, nên các triều đại phong kiến đều chăm lo xây dựng tiềm lực đất nước.
Vì lợi ích của toàn dân Việt Nam mà phải bảo toàn nền độc lập của dân tộc, chủ quyền của đất nước, điều đó đã ăn sâu vào lòng người Việt Nam, trong bất kỳ tầng lớp nào qua các thời đại. Vì toàn dân mà cũng phải do toàn dân làm mới đánh được kẻ thù hung bạo mạnh hơn, cho nên, chính sách đúng đắn của các chính quyền nhà nước qua quá trình lịch sử Việt Nam, đều phải có sức phát huy khối đoạn kết toàn dân, chung sức đánh giặc.
Trong cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, trong chiến tranh giải phóng cũng như bảo vệ Tổ quốc, mục đích vì dân và do dân lại càng được phát huy lên trình độ cao, vì quyền lợi của chính quyền nhà nước, của giai cấp công nhân, của Đảng vô sản, cũng là quyền lợi của toàn dân.
Tư tưởng “Tận dân vi binh” được thực hiện ở các triều đại phong kiến ở nước ta. Tổ chức lực lượng quân sự phải như thế nào để khi cần nhân dân ai cũng có thể là binh. Đó cũng là đường lối quốc phòng toàn dân, chiến tranh toàn dân và lực lượng vũ trang nhân dân. Ở thế kỷ thứ X, triều đình Đinh, Lê tổ chức lực lượng theo chế độ “thập đạo quân”. Về danh nghĩa, trong nước có một đạo quân đông đến một triệu người, song trên thực tế đó là chế độ tổ chức quân đội theo “ngạch biên số”. Lúc hòa bình, hầu hết số quân đó ở nhà sản xuất, lúc có chiến tranh, tất cả được huy động vào đội ngũ đã định sẵn. Đó là tiền đề của quốc sách “ngụ binh ư nông” của thời Lý - Trần. Theo cách hiểu của sử gia Ngô Thì Sĩ thì “bấy giờ binh và nông chưa chia, khi có việc thì gọi ra, xong việc lại giải tán về làm ruộng”1. Đây là biện pháp tổ chức toàn dân là lính, toàn dân tham gia luyện tập quân sự.
Tổ chức lực lượng vũ trang gồm ba thứ quân, có bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân tự vệ như hiện nay để làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc bắt nguồn từ truyền thống tổ chức ba thứ quân, gồm quân triều đình, quân các lộ và hương quân của tổ tiên từ thời Lý, Trần.
“Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” là câu ngạn ngữ có từ ngàn xưa. Những tấm gương liệt nữ trong chiến tranh cứu nước triều đại nào cũng có: Hai Bà Trưng cùng các nữ tướng của mình đã anh dũng khởi nghĩa giành lại giang sơn và hy sinh trong cuộc kháng chiến chống quân Đông Hán xâm lược. Thái hậu Dương Vân Nga và sau đó là Ỷ Lan phu nhân, đã thể hiện vai trò lớn lao trong kháng chiến chống xâm lược Tống. Linh từ quốc mẫu, vợ thái sư Trần Thủ Độ trong kháng chiến chống quân Nguyên, nữ tướng Bùi Thị Xuân chỉ huy đạo tượng binh Tây Sơn hồi thế kỷ XVIII. Trong cuộc kháng chiến lâu dài vừa qua của dân tộc ta, biết bao phụ nữ đã tham gia đóng góp sức mình cho chiến thắng lịch sở của dân tộc. Đó là những biểu hiện cụ thể của truyền thống anh hùng của phụ nữ trong sự nghiệp đấu tranh giữ nước của dân tộc.
Hình ảnh Thánh Gióng là biểu tượng của thiếu nhi Việt Nam trong chiến tranh chống xâm lược với câu “phá tặc đản, hiếm tam tuế văn” (trừ giặc còn hiếm ba tuổi là muộn). Trong cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên, hình ảnh Trần Quốc Toản bóp nát quả cam vì hận mình còn nhỏ tuổi không được dự bàn kế đánh giặc ở Bình Than còn đậm sâu trong trí óc của người Việt Nam. Già, trẻ, trai, gái cùng đánh giặc là một hiện tượng phổ biến trong lịch sử nước ta. Truyền thống này lại càng được phát huy mạnh mẽ trong thời đại Hồ Chí Minh.
Trong đội ngũ điệp trùng chống xâm lăng có đủ các thành phần dân chúng, các tầng lớp dân tộc từ khắp mọi miền đất nước. Trên chiến trường diệt quân xâm lược Tống cùng với Lý Thường Kiệt, Hoàng Chấn, Chiêu Văn, có cả Tôn Đản, Hoàng Kim Mãn, Thân Cảnh Phúc, là những tộc trưởng của các dân tộc ít người. Trong quân đội thời Trần, bên cạnh những tướng chỉ huy xuất thân từ hàng ngũ quý tộc như Trần Quốc Tuấn, Trần Khánh Dư v.v... còn có những người xuất thân từ tầng lớp bình dân như Phạm Ngũ Lão, Yết Kiêu, Dã Tượng. Người anh hùng “áo vải cờ đào” ở thế kỷ XVIII, được nhiều sĩ phu yêu nước cộng sự nhiệt tình trong kháng chiến. Nhân dân đứng lên tham gia kháng chiến đông đảo, hoặc gián tiếp hoặc trực tiếp đánh giặc diệt thù “từ việc rèn đúc vũ khí, chuẩn bị chiến thuyền, sửa chữa cầu đường, đóng góp lương thực, vận tải tiếp tế cho quân đội, đến việc cất giấu lương thực, có khi đốt cả lúa má để thóc gạo khỏi lọt vào tay giặc” hoặc chạy vào rừng quyết không hợp tác với giặc, hoặc nhiều hình thức đánh giặc ngay ở các bản làng, thôn ấp, bảo vệ quê hương sứ sở của mình. Toàn dân là lính, cả nước chung sức đánh giặc là nét đặc sắc, một truyền thống lâu đời của dân tộc ta.
Việc Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương để mất nước là mối hận của mỗi một người dân Đại Việt thời bấy giờ. Nhà Hồ có quân đông, có vũ khí tốt và thành lũy kiên cố, nhưng do sai lầm về đường lối chính trị, đã không huy động được sức mạnh chiến đấu của toàn dân và do không có phương pháp đánh địch thích hợp, nên đã chịu thất bại cay đắng, để rồi dân tộc ta phải tiến hành cuộc kháng chiến kéo dài hơn chục năm mới đánh đuổi được giặc Minh, giành lại nền độc lập.
Người xưa nói “chúng chí thành thành”, nghĩa là ý chí của quần chúng là bức thành kiên cố.
Từ những nhận thức như vậy, các quan lại, quý tộc nhà Trần đều vững lòng tin vào sức mạnh của lực lượng kháng chiến. Lòng tin đó thể hiện trong hành động, trong chiến đấu và ngay cả trong những lời nói khảng khái trước mặt quân thù. Như trước sự hăm dọa láo xược của vua Nguyên là sẽ tiếp tục tiến công đập nát thành Thăng Long, sứ giả Đại Việt, Đào Tử Kỳ đã hiên ngang nói: “Thành Thăng Long kia chỉ là vật nhỏ mọn để phòng kẻ trộm cướp vặt, phá tan nó có khó gì. Còn như để chống với kẻ địch bên ngoài đến chực ăn cướp nước chúng tôi thì chúng tôi đã có một tòa thành vững vàng như núi, không kẻ nào phá được, đó là sức mạnh của nhân dân chúng tôi”.
Truyền thống chiến tranh toàn dân, toàn diện đã được phát triển cao độ trong thời đại Hồ Chí Minh, trong kháng chiến chống Pháp và đặc biệt là trong chiến tranh chống Mỹ giải phóng miền Nam. Đế quốc Mỹ mạnh nhất trong phe đế quốc hiện đại, có một tiềm lực quân sự, kinh tế lớn nhất thế giới đã huy động trên một triệu quân Mỹ và chư hầu (trong đó có trên 50 vạn quân Mỹ), với các phương tiện vũ khí hiện đại có uy lực lớn, có sức cơ động rất cao, hòng đè bẹp lực lượng kháng chiến Việt Nam. Chúng đã sử dụng lực lượng quân sự hùng hậu và sức mạnh kinh tế lớn lao của tên đế quốc giàu nhất thế giới vào cuộc chiến tranh mà từ xưa đến nay kẻ thù của nhân dân Việt Nam chưa hề có và sử dụng. Không những ta phải đấu tranh vũ trang chống lại một đạo quân đông, trang bị hiện đại, mà còn phải đấu tranh toàn diện trên các mặt kinh tế, chính trị, ngoại giao chống một kẻ thù giàu có và nhiều thủ đoạn chính trị ngoại giao xảo quyệt. Đế quốc Mỹ không phải chỉ dùng quân sự đánh ta mà còn dùng sức mạnh kinh tế để buộc dân ta phải khuất phục. Chúng đã dồn dân vào các ấp chiến lược, các thị trấn, thành phố hòng cô lập cách mạng, đây là một thủ đoạn hết sức nguy hiểm mà từ xưa đến thời kỳ kháng chiến chống pháp chưa từng có.
Đối với một kẻ thù như vậy, nhân dân Việt Nam đã phát huy mạnh mẽ chiến tranh toàn dân, toàn diện, đấu tranh của toàn dân trên các mặt trận chính trị, kinh tế, đã phối hợp với đấu tranh quân sự của lực lượng vũ trang trên quy mô chưa từng có trong lịch sử. Sức mạnh của chiến tranh nhân dân Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh đã đánh bại tên hung nô của thời đại, làm cho toàn thế giới sửng sốt, khâm phục và đem lại lòng tin cho cách mạng của các dân tộc nhỏ chống các đế quốc to trên phạm vi thế giới.
Sức mạnh đó được phát huy cao như vậy vì có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động Việt Nam, có sức mạnh của chính nghĩa độc lập dân tộc chống ngoại xâm. Nó đã đoàn kết toàn dân và phát huy tinh thần chiến đấu chống kẻ thù. Nó tạo ra sức sáng tạo phong phú trong việc tìm kiếm các thủ đoạn đánh địch trên các mặt trận quân sự, chính trị, kinh tế của mọi tầng lớp, mọi thành phần trong xã hội. Trong thời đại Hồ Chí Minh, phương thức tiến hành chiến tranh nhân dân của ta là huy động toàn dân đánh giặc một cách toàn diện trên cả ba vùng chiến lược, phát huy sức mạnh tổng hợp của lực lượng vũ trang và lực lượng chính trị kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị và binh địch vận; kết hợp khởi nghĩa vũ trang với chiến tranh, kết hợp nổi dậy của quần chúng với tác chiến của lực lượng vũ trang; kết hợp tiêu diệt địch với giành và giữ quyền làm chủ của dân, kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy.
Chiến tranh nhân dân ở nước ta đã huy động được hàng triệu người ra tiền tuyến, đã khai thác và phát huy đến mức cao nhất tiềm lực cửa đất nước.
Nó đã làm cho đội quân xâm lược khổng lồ bị sa lầy trong biển lửa của toàn dân, bị lúng túng, bị động, bị cột chặt vào mâu thuẫn giữa phân tán và tập trung, giữa phòng ngự và tiến công, giữa đánh nhanh và đánh kéo dài, làm cho lực lượng địch ngày càng hao mòn, ý chí xâm lược ngày càng sa sút. Và cuối cùng, đế quốc Mỹ, đế quốc mạnh nhất thời đại chưa hề bị thất bại, đã phải nuốt hận chịu thua trong cuộc chiến tranh kéo dài nhất và tốn kém nhất trong lịch sử nước Mỹ.
______________________________________
1. Theo Phan Huy Chú - Lịch triều hiến chương loại chí, binh chế chí. NXB Sử học, Hà Nội, 1961, Tập 4, trang 4.
NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ ĐỘC ĐÁO
Từ khi Vua Hùng dựng nước Văn Lang đến nay, dân tộc ta đã trải qua nhiều cuộc khởi nghĩa vũ trang, chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc chống ngoại xâm. Từ khi có Đảng Cộng sản lãnh đạo, dân tộc Việt Nam đã mấy chục năm liên tiếp chiến đấu quyết liệt.
Trên các trang lịch sử còn lưu lại, ngay từ thế kỷ III trước công nguyên, nhân dân Việt (Âu Lạc) đã phải chống quân Tần xâm lược và đã chiến thắng. Trên 10 vạn quân Tần đã chịu thất bại trong một cuộc chiến tranh kéo dài 10 năm trên đất nước Âu Lạc.
Trong 1.000 năm Bắc thuộc, bắt đầu từ năm 179 trước công nguyên, An Dương Vương để mất nước trước mưu sâu của Triệu Đà, dân tộc Việt đã bao lần nổi dậy khởi nghĩa giành lại chủ quyền và kiên cường chiến dấu giữ chính quyền mới giành được. Cuộc đấu tranh anh dũng và bền bỉ của dân tộc chống xâm lược, chống đồng hóa dân tộc đã diễn ra hết sức quyết liệt trải qua bao thành công oanh liệt và cả thất bại đẫm máu. Bắt đầu bằng cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Tnmg giành quyền trên 65 thành rồi đến các cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu, Lý Bí, Mai Thúc Loan, Phùng Hưng, cuộc chiến tranh du kích kéo dài của Triệu Quang Phục, Lý Phật Tử. Và kết thúc 1.000 năm Bắc thuộc với chiến thắng trên sông Bạch Đằng, Ngô Quyền dựng nước Đại Việt.
Từ thế kỷ thứ X, năm 938, với sự ra đời của nước Đại Việt tới nay, dân tộc ta đã phải trải qua trên 10 cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và giải phóng dân tộc chống ngoại xâm. Các cuộc chiến tranh chống Tống xâm lược năm 981 của Lê Hoàn và cuộc kháng chiến đời Lý năm 1077, dưới sự chỉ huy của Lý Thường Kiệt đã đem lại cho dân tộc ta gần 200 năm hòa bình xây dựng đất nước.
Sau khi đánh bại nhà Tống, đế quốc Mông - Nguyên trong 30 năm, từ 1258 đến 1288 đã gây 3 cuộc chiến tranh xâm lược lớn vào nước ta, có cuộc chúng huy động đến 60 vạn quân thiện chiến nhất của thời đại, như cuộc xâm lăng lần thứ hai năm 1285. Trong 3 lần kháng chiến đó, dân tộc Việt Nam đã lập nên những chiến công hiển hách ở Đông Bộ Đầu, Hàm Tử, Chương Dương, Thăng Long, Vạn Kiếp, Bạch Đằng giang. Những thắng lợi rực rỡ đó đã bảo vệ nền độc lập của ta, đưa lại hòa bình cho đất nước trên 100 năm, và cũng góp phần chặn làn sóng xâm lăng xuống Đông Nam Á của đế quốc Mông Cổ hung bạo nhất thời đó.
Nhưng khi giành được chính quyền, nhà Minh lại mở cuộc xâm lăng Đại Việt. Cuộc kháng chiến chống nhà Minh xâm lược kéo dài 20 năm, bắt đầu từ 1407 với sự thất bại của Hồ Quý Ly, do sai lầm về chiến lược dựa vào phòng ngự cố thủ các thành quách kiên cố, ỷ vào quân đông 100 vạn, súng pháo mạnh. Nhân dân ta không cam chịu ách đô hộ của ngoại bang, đã liên tiếp đứng dậy kháng chiến dưới thời hậu Trần 7 năm ròng, và cuối cùng nhân dân ta đã chiến thắng trong một cuộc chiến tranh giải phóng bền bỉ, kiên cường trong suốt 10 năm trường, dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi. Cuộc kháng chiến oanh liệt của nhân dân ta chống nhà Minh xâm lược đã làm nhụt ý đồ bành trướng của vua quan nhà Minh, và trên 300 năm đất nước ta không bị ngoại xâm từ phương Bắc.
Khi nhà Thanh giành được quyền cai trị Trung Quốc, lợi dụng lúc Đại Việt rối ren dưới thời vua Lê, chúa Trịnh, lúc Tây Sơn mới nắm được quyền lực trên một phần đất nước, vua Càn Long nhà Thanh lại phát động một cuộc chiến tranh xâm lược nước ta.
Năm 1788, 29 vạn quân Thanh, dưới sự thống lĩnh của Tôn Sĩ Nghị đã bị Quang Trung tiêu diệt trong một trận phản công mãnh liệt ngay tại Thăng Long, chỉ trong gần 10 ngày đêm, đất nước ta lại sạch bóng quân thù.
Bước vào lịch sử cận đại, từ thế kỷ XIX dân tộc ta lại bị thực dân Pháp xâm lược. Do sự sai lầm về chiến lược là chỉ dựa vào quân thành để phòng ngự bị động và đầu hàng giặc một cách hèn hạ của triều đình nhà Nguyễn, mà dân tộc ta đã bị rơi vào ách nô lệ gần trăm năm. Trong suốt thời gian dài này, nhân dân ta đã anh dũng nổi dậy kháng chiến khắp nơi, từ Nam đến Bắc. Các cuộc nổi dậy liên tiếp nổ ra dưới sự lãnh đạo, chỉ huy của Trương Công Định, Nguyễn Trung Trực, Tôn Thất Thuyết, Phan Đình Phùng, Đốc Ngũ, Nguyễn Quang Bích, Nguyễn Thiện Thuật, Đinh Công Tráng, Hoàng Hoa Thám, và các cuộc nổi dậy, khởi nghĩa ở Yên Bái, Nghệ An, Bắc Sơn, Nam Kỳ, bị dìm trong bể máu, cho tới tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945 thành công. Tiếp ngay sau đó, cuộc kháng chiến trường kỳ liên tục 30 năm chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, đã kết thúc với thắng lợi giải phóng hoàn toàn cả nước năm 1975.
Thắng lợi huy hoàng của nhân dân ta chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, kẻ thù mạnh nhất của thế giới tư bản đế quốc trong thời đại, đã đem lại độc lập và thống nhất cho Tổ quốc Việt Nam, góp phần vào việc chôn vùi chủ nghĩa thực dân cũ và làm thất bại bước đầu chủ nghĩa thực dân mới Mỹ, đã tô đậm nền nghệ thuật quân sự Việt Nam trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và giải phóng dân tộc.
Trên 10 năm qua, nhân dân ta mong muốn được sống hòa bình, xây dựng đất nước, nhưng kẻ thù không để ta yên. Các cuộc chiến tranh xâm chiếm biên giới từ phía Tây Nam, và phía Bắc lại nổ ra và nhân dân Việt Nam lại phải vừa xây dựng Tổ quốc vừa phải chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu chống xâm lược dưới mọi hình thức.
Những chiến công chói lọi trong các cuộc chiến tranh yêu nước đó, chứng tỏ sức mạnh vật chất và tinh thần, phẩm giá cao quý và truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam
Trong quá trình đấu tranh anh dũng chống ngoại xâm, dân tộc ta đã có quyết tâm lớn, có tinh thần yêu nước cao, và có nhiều sáng tạo kiệt xuất trong việc tổ chức lực lượng và nghệ thuật đánh giặc cứu nước.
Nghệ thuật đánh giặc cứu nước truyền thống được tích lũy trong mấy nghìn năm lịch sử chống ngoại xâm, mang tính đặc biệt của một dân tộc nhỏ, tiềm lực kinh tế, quân sự đều yếu so với đối phương, nhưng dân tộc đó có tinh thần yêu nước cao, có truyền thống toàn dân quả cảm chống xâm lược, chứ không phải chỉ có quân đội đánh theo kiểu chiến tranh thông thường.
Nghệ thuật đó có những đặc trưng cơ bản sau đây:
Phương thức tiến hành chiến tranh:
Phương thức tiến hành chiến tranh của hai loại hình (chiến tranh bảo vệ tổ quốc và chiến tranh giải phóng dân tộc) có cái chung của chiến tranh toàn dân, nhưng cũng có đặc điểm riêng. Trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ta có chính quyền nhà nước, có quân đội, và lực lượng vũ trang. Công cuộc bảo vệ Tổ quốc đã được triển khai trong toàn dân ngay từ thời bình, được tổ chức, chuẩn bị theo một thế trận đã được hoạch định, từ trước khi quân địch tiến công. Quân địch phải từ ngoài tiến vào chứ không có sẵn trong nước, nên dù có sức mạnh và chủ động tiến công, chúng cũng có nhiều khó khăn, như bảo đảm hậu cần, không thông thuộc địa hình, không quen chịu đựng khí hậu khắc nghiệt của đất nước ta.
Để chống lại quân thù mạnh hơn, nhân dân ta đã có nhiều phương thức tiến hành chiến tranh khác nhau, trong điều kiện lịch sử cụ thể khác nhau.
Về cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc chống quân nhà Tần ở thế kỷ thứ III trước công nguyên, lịch sử còn ghi:
“Người Âu Lạc đã rút vào rừng, tổ chức lực lượng kháng chiến, cử người giỏi làm tướng, phục kích ban đêm, đánh hàng chục năm ròng rã, diệt hàng chục vạn quân Tần”.
Sử ký Tư Mã Thiên chép: “Lúc bấy giờ, nhà Tần ở phía Bắc thì mắc họa với người Hồ, ở phía Nam thì mắc họa với người Việt. Đóng quân ở đất vô dụng, tiến không được, thoái cũng không xong. Trải hơn 10 năm, đàn ông phải mặc áo giáp, đàn bà phải chuyên chở, khổ không sống nổi, người ta thắt cổ tự tử trên cây dọc đường, người chết trông nhau, kịp khi Tần Thủy Hoàng mất (209 trước công nguyên) thì cả thiên hạ nổi lên chống”.
Như vậy phương thức cơ bản để đánh bại quân xâm lược là toàn dân chiến đấu, bất hợp tác với quân thù, rút vào rừng đánh du kích trong một cuộc kháng chiến trường kỳ 10 năm ròng. Cuối cùng khi quân Tần kiệt sức, khổ cực không sống nổi, và nhân lúc Tần Thủy Hoàng chết, thì ta tiến hành tổng khởi nghĩa và tiến công tiêu diệt quân thù, tướng Tần là Đồ Thư bị giết, quân Tần phải rút chạy về nước.
Sau khi đánh bại quân Tần, Âu Lạc nhanh chóng chuẩn bị để đề phòng xâm lược.
Sử chép rằng “Thục Phán dựng nước Âu Lạc, xưng là An Dương Vương, rời đô xuống Cổ Loa xây thành (207 - 208 trước công nguyên) với hàng vạn nhân công, 3 vòng quanh co 9 lớp, chân kè đá, mặt có ụ đất cao nhô ra làm vọng canh và pháo đài bắn cung tên. Ngoài có hào sâu và rộng thuyền bè đi được, có đầm Cả chứa được mấy trăm thuyền chiến. Thành có 4 cửa: Đông Nam; Tây Nam, Đông Bắc và Tây Bắc. Riêng ở 2 cửa Đông Bắc và Tây Bắc có hai tầng hào lũy, là hướng phòng ngự chủ yếu. Vận dụng địa hình lấy sông làm hào, gò cao làm lũy thành ở giữa vùng đầm vực, lầy úng, vừa là căn cứ bộ binh, vừa là căn cứ thủy binh quan trọng. Thuyền chiến có thể vận động suốt 3 vòng hào, phối hợp tác chiến với bộ binh, có thể từ Cổ Loa tỏa ra Hoàng Giang, theo sông Hồng, sông Thương ra biển. Vũ khí đã có nỏ Liên Châu với mũi tên đồng ba cạnh (năm 1959, phát hiện ở chân thành ngoài, phía Nam một kho hàng vạn chiếc, cùng với xiên đồng, qua đồng).
“Năm 207 trước công nguyên, Triệu Đà và quan lại nhà Tần, chiếm cả ba quận Nam Hải, Quế Lâm, Tượng, lập nước Nam Việt, xưng vương, đánh Âu Lạc nhiều lần không thắng phải rút về núi Vũ Minh cầu hòa”. Đó là kẻ xâm lược thứ hai bị An Dương Vương đánh bại, lần này không chỉ bằng cách rút vào rừng, dùng phục kích, tập kích, mà bằng cách phòng giữ Loa thành, đánh quân xâm lược cả bằng thủy binh và bộ binh.
Phải đến năm 179 trước công nguyên, tức là gần ba chục năm sau, Triệu Đà trá hàng, sai Trọng Thủy dò xét được các bí mật quân sự của An Dương Vương, dùng kế nội gián mới chiếm được Âu Lạc. Như vậy ta thấy, sau khi rời đô từ vùng rừng núi về đồng bằng, xây dựng một nước đã có nhiều nghề. Ngoài nghề nông, săn bắn, đã có các nghề khác như nuôi tằm, dệt lụa, đồ gốm, rèn sắt đồng, làm mộc, nung gạch ngói, xây thành, đóng thuyền, sản xuất nỏ Liên Châu có mũi tên đồng. Quân đã chia ra quân thủy và quân bộ. An Dương Vương đã chọn phương thức phòng ngự dựa vào thành kiên cố được xây dựng trên địa hình hiểm trở để chống ngoại xâm kết hợp với chiến tranh du kích đã có kinh nghiệm trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc lần vừa qua.
Phương thức này cũng đã thắng được quân của Triệu Đà nhiều lần tiến công xâm lược, An Dương Vương để mất nước do mắc mưu nội gián.
Từ khi Đại Việt dựng nước, nhiều lần quân phong kiến phương Bắc đã tiến hành xâm lược, nhiều cuộc chiến tranh đã giải quyết xong, chỉ trong một trận. Như cuộc kháng chiến của Ngô Quyền chống quân Nam Hán, với 2 vạn quân đã đánh bại 5 vạn quân bộ và 3 vạn quân thủy, kết thúc bằng trận thủy chiến mưu lược, giết tướng Hoàng Thao trên sông Bạch Đằng năm 938. Hoặc như cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ nhất, mà Lê Hoàn, với 5 vạn quân, đã đánh bại quân xâm lược gồm 10 vạn ở Bạch Đằng và Chi Lăng, giết tướng Hầu Nhân Bảo năm 981.
Phương thức cơ bản tiến hành chiến tranh lúc đó chủ yếu là dùng trận chiến tiến công quy mô chiến lược của quân triều đình, đánh bại quân xâm lược mạnh hơn trên cơ sở thiết lập thế trận mai phục ở những địa hình hiểm trở, ở Bạch Đằng Giang, Chi Lăng lịch sử mà Nguyễn Trãi trong bài thơ “Bạch Đằng hải khẩu” đã có câu:
“Quan hà bách nhị do thiên thiết
Hào kiệt công danh thử địa tầng”.
(Trời dựng nên sông núi hiểm trở, ở đó 2 vạn người có thể địch nổi 100 vạn người; trên đất này người hào kiệt đã từng lập nên công danh).
Đến cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc chống Tống lần thứ hai năm 1077, Lý Thường Kiệt đã đánh bại đạo quân xâm lược 30 vạn của Quách Quỳ bằng phương thức phòng ngự tích cực, tiến công phá căn cứ chuẩn bị tiến công của đối phương ngay trên đất địch, rồi thiết lập phòng tuyến trên sông Như Nguyệt, tạo thế buộc quân địch phương Bắc mạnh về kỵ binh lâm vào thế bị chặn phía trước, bị đánh phía sau, thiếu thốn lương thực do dân ta làm thanh dã và thuyền thương bị chặn, quân sĩ ốm đau vì thủy thổ không hợp. Địch tiến công vượt sông không nổi, bị suy yếu, tiến công không được rút không xong, bị ta phản công tiêu diệt. Trong thế trận chiến tranh nhân dân được phát huy sau lưng địch, chủ lực thiện chiến của triều đình đã tiến hành phòng ngự tích cực kết hợp chặt chẽ phòng ngự với tiến công và phản công, theo phương châm “kiên thủ chờ suy, hoàn kích”.
Nhà Lý có thế lực mạnh, đúng như Trần Hưng Đạo đã nhận xét, có tướng giỏi như Lý Thường Kiệt biết phát huy sức mạnh của quân triều đình và quân địa phương, chọn địa lợi, xây dựng phòng tuyến, kiềm chế được kỵ binh địch, phát huy được sức mạnh của bộ binh và thủy binh ta, nên đã chiến thắng.
Dưới thời nhà Trần, từ 1258 đến 1288, ba lần quân Mông - Nguyên mạnh nhất thời đại lúc đó, “có kỵ binh mạnh, rong ruổi nhanh như chớp, đánh thành phá ấp” (theo Trương Phổ, học giả thời Minh), xâm lược Đại Việt có lần quân lên tới 60 vạn đều đã bị quân dân Đại Việt tiêu diệt phải tháo chạy về nước.
Phương thức tiến hành chiến tranh trong hai cuộc chiến tranh năm 1258 và 1285, vua Trần và tiết chế quận công Trần Hưng Đạo lúc đầu đã thiết lập trận địa phòng ngự chặn địch trên địa bàn Trung Du ở Bình Lệ (1258) và Nội Bàng, Vạn Kiếp (1285), nhưng đều không chặn nổi quân Mông - Nguyên, phải thực hiện rút lui chiến lược, rời bỏ Thăng Long để bảo toàn lực lượng, tránh sức mạnh lúc khởi đầu của đối phương. Với phương thức mới, toàn dân làm thanh dã, các vương hầu cùng hương binh trên các địa phương kiên quyết chặn đánh quân giặc làm chúng mệt mỏi tiêu hao, phải dàn mỏng quân đối phó khắp nơi. Phương thức này xuất phát từ quan điểm mà Trần Hưng Đạo đã viết trong Binh thư yếu lược: “Địch đem quân đến, thế không thể ở lâu được thì ta cầm... Nó ở thế hiểm, ta ở thế yếu thì ta cầm. Cầm cho nó đã mệt, bấy giờ ta nổi dậy mà đánh, thì sức vẹn mà công nhiều... đó là điều bí của phép binh”1. Sau đó ta tổ chức thực hiện phản công chiến lược, đánh vào quân địch ở Thăng Long, buộc địch phải rút chạy mà tiêu diệt chúng trên đường thoái lui.
____________________________________
1. Binh thư yếu lược - Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1977, tr. 190.
Phương thức tiến hành chiến tranh sáng tạo của nhà Trần đã được thể hiện trong cuộc chiến tranh chống Mông - Nguyên lần thứ ba năm 1288, với những tư tưởng mà Trần Hưng Đạo nêu với vua Trần vào năm 1300 về kế sách giữ nước như sau:
- Vua tôi đồng lòng, anh em hòa mục, cả nước góp sức.
- Giặc cậy trường trận, ta cậy đoản binh, dĩ đoản chế trường.
- Tướng và binh một lòng như ruột thịt.
- Khoan thư sức dân, làm kế sâu gốc bền là thượng sách để giữ nước.
- Tránh thế giặc lúc buổi đầu còn mạnh, đánh địch khi tàn lụi lúc buổi chiều.
Lấy toàn dân chiến đấu, đoàn kết vua quan, lãnh đạo và quần chúng, quân dân, tướng binh như cha con một nhà làm quyết định chiến thắng.
Trên cơ sở tư tưởng toàn dân chiến đấu mà tổ chức các thứ quân, gồm quân triều đình, quân các vương hầu, trấn giữ các trại ấp và hương binh ở các thôn xã cho nên lực lượng vũ trang lên đến mấy chục vạn. Lực lượng vũ trang ta bố trí khắp nơi trên toàn quốc, giặc đi đến đâu cũng bị đánh. Ta hình thành thế bao vây toàn diện và từng điểm, quân địch càng vào sâu càng mắc kẹt, phải phân tán đối phó khắp nơi.
Địch muốn đánh lớn, tìm quân chủ lực để giáp chiến, tiêu diệt mà không được, lại luôn bị tiêu hao, đánh tỉa, đến lúc mệt mỏi hết lương, tinh thần rã rời bải hoải thì cũng là lúc chủ lực quân thiện chiến của triều đình Trần xuất hiện, đánh những đòn tiêu diệt lớn.
Trần Hưng Đạo đã giải quyết một cách tài tình mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ: giữ đất và tiêu diệt địch. Qua kinh nghiệm 2 lần kháng chiến, vì không muốn địch xâm phạm kinh thành, ta tổ chức phòng ngự chiến lược, nhưng đều không ngăn được địch, và trong lần kháng chiến thứ hai, ta buộc địch rút lui chiến lược, với biết bao tình huống hiểm nghèo. Lần kháng chiến thứ ba, với thế lực đã chuẩn bị sẵn, ta hoàn toàn chủ động, buộc địch phải dàn mỏng lực lượng, từ chủ động chuyển thành bị động, từ tiến công chuyển sang phòng ngự và rút lui, từ mạnh chuyển thành yếu. Đây chính là thời cơ để ta tiến hành phản công chiến lược tiêu diệt địch và giải phóng đất nước. Chỉ có “tránh cái thế hăng hái lúc ban mai” của địch, để địch vào sâu đất nước ta, kéo dài đường tiếp tế, bị quân ta triệt lương, lại gặp lúc dân ta làm thanh dã, lâm vào cảnh thiếu đói, địch mới nhanh chóng rơi vào thế “tàn lụi lúc buổi chiều”. Lợi dụng sở đoản, kiềm chế sở trường của địch là nguyên tắc của nghệ thuật quân sự phép dùng binh của Trần Quốc Tuấn.
Như Trần Quốc Tuấn đã nêu rõ: Lấy đoản binh thắng trường trận là việc thường của binh pháp; Đoản binh là chỉ bộ binh của ta, một đội quân với số lượng không nhiều nhưng tinh nhuệ, biên chế gọn nhẹ là cái mạnh của ta. Kỵ binh và quân đông, sức cơ động nhanh là cái mạnh của địch. Nhưng khi trường trận bị dàn mỏng ra, bị phân tán, đứt quãng, không được tiếp tế đầy đủ, không ứng cứu được nhau và lâm vào tử địa, sức không phát huy được thì trở thành yếu, dễ bị công kích và tan vỡ. Như trong trận Đông Bộ Đầu, chiến đấu diễn ra ban đêm, quân địch không kịp lên ngựa, bị những bộ binh nhẹ mang vũ khí ngắn của ta xông vào chém giết đã hỗn loạn và tan tác. Hoặc như trận thủy chiến trên sông Bạch Đằng, 1 đoàn thuyền lớn, nặng nề chậm chạp của địch đã bị những thuyền nhẹ của ta từ các nhánh sông lao ra đón đánh, đã không xoay trở kịp, chạy đâm vào cọc nhọn, bị đắm chìm và bị tiêu diệt.
Rõ ràng “dĩ đoản chế trường” là một sáng tạo độc đáo của ta dừng để chống lại một kẻ địch đông và trang bị mạnh hơn mình.
Nguyên nhân thất bại của nhà Hồ trong cuộc chiến tranh chống xâm lược của nhà Minh là do không tin vào dân, không được dân ủng hộ, chỉ dựa vào phòng ngự chiến lược thụ động, trên cơ sở cố thủ các quân thành vững chắc, có thành cao hào sâu, quân đông, pháo mạnh để mong đạt mục đích chiến lược là làm đối phương mòn mỏi không thắng nổi mà cầu hòa.
Phương thức chiến tranh toàn dân, phòng ngự tích cực, tiến công, phản công kiên quyết, chủ động, chọn địa điểm xây dựng thế trận có lợi để phát huy sở trường của ta, đánh vào sở đoản của địch, hạn chế sở trường của chúng, giành chiến thắng vẻ vang trong truyền thống đánh giặc giữ nước của tổ tiên ta đã không được phát huy, mà còn bị quên lãng.
Quang Trung tiêu diệt quân xâm lược Thanh chỉ trong một trận tiến công quyết chiến chiến lược thần tốc bảy ngày đêm ngay tại Thăng Long đã thể hiện sức mạnh hơn đối phương của một quân đội thiện chiến và tài thao lược hơn người của Nguyễn Huệ. Phương thức tiến công chiến lược thần tốc, bất ngờ, giải quyết chiến tranh chỉ trong một trận khi chống lại quân xâm lược của một nước lớn mạnh hơn, đã tỏ ra phù hợp vì trên chiến trường có sức mạnh tổng hợp của thế, thời. Dù lực ít hơn, nhưng tinh hơn và lại có tướng giỏi trí dũng song toàn thì vẫn giành chiến thắng. Quan điểm quân sự của Quang Trung “quân cốt tinh, không cốt đông” thể hiện tính chân lý của nghệ thuật lấy ít địch nhiều, lấy nhỏ thắng lớn là truyền thống của dân tộc Việt Nam.
Dưới thời nhà Nguyễn, tư tưởng sợ địch, đầu hàng và phòng ngự thụ động dựa vào quân thành đã đưa nhân dân Việt Nam đến chỗ mất nước trước một đế quốc phương Tây có phương tiện, vũ khí, kỹ thuật tốt hơn.
Như vậy ta có thể thấy chiến tranh bảo vệ Tổ quốc có lấy đặc điểm sau:
Một là: Địch thường mạnh hơn ta cả về tiềm lực chiến tranh và về lực lượng quân sự huy động vào chiến đấu trực tiếp trên chiến trường. Chúng tiến công từ ngoài vào đất nước ta bằng nhiều hướng, đường bộ, đường thủy, cả phía Bắc, có khi cả phía Nam. Mục đích của địch thường là, tiến công nhanh, giải quyết nhanh chiến tranh bằng các thủ đoạn chiến lược cổ truyền của quân xâm lược là tiêu diệt quân đội đối phương, đánh chiếm thủ đô, bắt thủ lĩnh (vua, lãnh đạo), tổ chức ngụy quân, ngụy quyền, thực hiện bình định, càn quét đánh phá các phong trào yêu nước, dập tắt các cuộc khởi nghĩa.
Hai là: Thời gian kết thúc chiến tranh thường ngắn, chỉ trong vài tháng đến một năm, ít khi kéo dài, như Lý chống Tống, khoảng 5 tháng; Trần chống Mông - Nguyên lâu nhất cũng chỉ 6 tháng; Hồ chống Minh, khoảng 2 tháng; Tây Sơn chống Thanh, hơn 1 tháng.
Ba là: Phương thức tiến hành chiến tranh truyền thống của Việt Nam nói chung thể hiện mấy điểm sau:
- Toàn dân tham gia chống xâm lược, làm thanh dã, không cho địch lấy người và của cải của ta; trực tiếp chiến đấu vũ trang bằng ba thứ quân, quân chủ lực (triều đình), quân địa phương (của các tộc trưởng, vương hầu, các lộ) và dân quân (hương binh), đánh chặn phía trước, đánh phá phía sau, đánh vào hậu cần, hậu phương của địch.
- Kết hợp chiến tranh chính quy của quân đội chủ lực với chiến tranh du kích của toàn dân, lấy dân quân (hương quân), quân địa phương làm nòng cốt, vừa có phân tuyến, vừa có xen kẽ cài răng lược, buộc địch phải phân tán lực lượng, đối phó khắp nơi, không thể tập trung đánh quân chủ lực của ta.
- Phương thức tác chiến thường là phòng ngự tích cực kết hợp phòng ngự theo kiểu phòng tuyến hoặc hệ thống quân thành, quan ải, đánh giữ các trục đường giao thông chiến lược và các thị trấn, thị xã, thành phố với tiến công phía sau lưng địch của bộ đội địa phương, quân các lộ, cả dân quân các làng xã và phản công, tiến công quyết định của quân chủ lực. Đánh diệt quân lương của địch là biện pháp chiến lược, kết hợp với thanh dã làm cho quân địch đông lại thêm khó khăn vì thiếu hậu cần tiếp tế, lương thực và đạn dược, nhiên liệu, phương tiện chiến tranh.
- Bảo toàn chủ lực, bảo vệ cơ quan lãnh đạo chiến tranh, tránh sức mạnh lúc khởi đầu của địch làm địch mệt mỏi, bị tiêu hao, phân tán, buộc phải chuyển từ chủ động tiến công sang bị động phòng ngự, rồi rút chạy. Trên cơ sở đó mà tiến hành phản công, tiến công tiêu diệt lực lượng chủ lực của địch.
- Kết hợp tiến công tiêu diệt địch trên đất nước mình với ngoại giao mềm dẻo để kết thúc chiến tranh.
- Trong điều kiện địch quá mạnh, ta không đủ sức phòng ngự ngăn chặn đối phương, có khi phải dùng chiến tranh du kích lâu dài như cuộc chiến tranh chống Tần thế kỷ thứ ba trước công nguyên, rồi tổng tiến công kết hợp khởi nghĩa (khi có thời cơ địch chiếm đóng bị suy yếu, nội bộ địch ở trong nước rối loạn) mà tiêu diệt.
- Nhưng cũng có khi chỉ bằng một trận tiến công chiến lược tại một khu vực được chuẩn bị kỹ, trên thế mạnh, có địa hình hiểm, có quân đội mạnh, mưu trí, bất ngờ, nhanh chóng tiêu diệt đại bộ phận quân địch ngay từ trận đầu mà ta đã giải quyết thắng lợi chiến tranh.
Như vậy phương châm tích cực phòng ngự, kết hợp phòng ngự với phản công tiến công trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc là một tư tưởng có tính quy luật trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc của một nước nhỏ đánh lại nước lớn xâm lược, của một quân đội ít hơn và kém hơn về tổ chức trang bị, kỹ thuật đánh lại một quân đội mạnh hơn.
- Chiến tranh giải phóng dân tộc diễn ra khi địch đã chiếm đóng nước ta. Đặc điểm của chiến tranh giải phóng dân tộc là kẻ địch đã ở trên đất nước ta, có đội quân cướp nước, lại có ngụy quân, ngụy quyền, địch đã làm chủ trên cả nước, còn nhân dân ta thì đang bị kìm kẹp, ta không có sẵn quân đội, không có sẵn lực lượng vũ trang.
Do các điều kiện khách quan như vậy, nên phương thức tiến hành chiến tranh giải phóng dân tộc nói chung vẫn dựa trên nền tảng của khởi nghĩa vũ trang nhân dân và chiến tranh nhân dân, nhưng có nhiều đặc điểm hoàn toàn khác với chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.
Trải qua các thời kỳ bị mất nước, dân tộc Việt Nam đều phải dùng phương thức truyền thống để giải phóng dân tộc như sau:
- Thực hiện khởi nghĩa vũ trang từng khu vực, tiến lên tổng khởi nghĩa cướp chính quyền và tiến hành chiến tranh giải phóng. Bà Trưng, Bà Triệụ, Lý Bí, Mai Thúc Loan, Phùng Hưng, Triệu Quang Phục, Lý Phật Tử, Khúc Thừa Dụ, Dương Đình Nghệ, Ngô Quyền, trong 1000 năm Bắc thuộc, cũng như Phạm Chấn, Trần Nguyệt Hồ, Phạm Tất Đạt, Trần Nguyên Khôi, Trần Ngỗi, Trần Quý Kháng, và Lê Lợi dưới thời thuộc Minh, và cả trong 100 năm Pháp thuộc cho tới chiến tranh giải phóng chống Pháp, Mỹ mấy chục năm qua, chúng ta đều thấy muốn giành được độc lập, nhân dân ta đều phải đi từ đấu tranh chính trị đến đấu tranh vũ trang, từ khởi nghĩa, tổng khởi nghĩa đến chiến tranh giải phóng trường kỳ của toàn dân với 2 lực lượng, (lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang) mới giành được độc lập cho dân tộc.
- Kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, đấu tranh ngoại giao và binh vận địch vận, kết hợp khởi nghĩa của quần chúng với chiến tranh cách mạng, nổi dậy và tiến công, tiến công và nổi dậy giành quyền làm chủ.
Mỗi mặt đấu tranh đều có vị trí chiến lược của nó, có tác dụng quyết định trong từng thời điểm, từng địa bàn khác nhau, nhưng nói chung đấu tranh quân sự, vũ trang bao giờ cũng giữ vị trí quyết định và nó quyết định việc trực tiếp tiêu diệt lực lượng quân sự và bộ máy chính quyền của đối phương, vừa đánh địch vừa địch vận, cả địch ở chiến trường trên nước ta, cả vào lòng dân và bộ máy chính quyền của đối phương ở nước địch.
- Thực hiện một cuộc chiến tranh xen kẽ cài răng lược, không chiến tuyến, đánh địch cả ở tiền tuyến và hậu phương địch, buộc địch phải phân tán lực lượng đối phó khắp nơi, không có chỗ nào là an toàn tuyệt đối đối với chúng, kể cả ở đô thị.
- Kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy, kết hợp ba thứ quân, kết hợp các cách đánh tiêu diệt sinh lực địch và phá hậu cần, kho tàng, phương tiện chiến tranh, phá giao thông vận chuyển, kết hợp tiêu diệt địch với giành quyền làm chủ, đánh phá bình định của đối phương.
Chiến tranh du kích trong chiến tranh giải phóng có vị trí hết sức quan trọng. Nó vừa là khởi đầu của đấu tranh vũ trang, nòng cốt của khởi nghĩa, vừa là hình thức bạo lực quyết định của quần chúng nhân dân đánh địch và bảo vệ quyền làm chủ của các thôn xã.
Chiến tranh du kích là biện pháp chủ yếu để đánh bại chiến lược đánh nhanh giải quyết nhanh của địch, đồng thời nó tạo điều kiện cho chủ lực phát huy sức mạnh, tập trung lực lượng đánh đòn quyết định, buộc địch phân tán đối phó, phối hợp với chủ lực giải quyết chiến tranh.
Chiến tranh chính quy của quân chủ lực trong chiến tranh giải phóng bao giờ cũng từ chiến tranh du kích mà phát triển lên, giữ vị trí quyết định giải quyết chiến tranh, đánh tiêu diệt lớn quân địch.
Không có cuộc chiến tranh giải phóng nào của Việt Nam giành được thắng lợi mà lại không tiêu diệt được đại quân của đối phương. Chủ lực quân trong chiến tranh giải phóng, khi không phân chiến tuyến, tác chiến với kẻ thù mạnh hơn, thường dùng cách đánh du kích như phục kích, tập kích, đánh bất ngờ của kẻ yếu đánh mạnh, như Nguyễn Trãi đã tổng kết:
“Yếu đánh mạnh hay đánh bất ngờ
Ít địch nhiều thường dùng mai phục”.
Đánh thành, chiếm đất thường ít gặp hơn là đánh tiêu diệt địch trong vận động. Tiến công là phương thức tác chiến chủ yếu, có vị trí chiến lược, còn phòng ngự chỉ giữ vai trò phối hợp và quan trọng trong thời kỳ cuối của cuộc chiến tranh giải phóng trường kỳ.
- Nếu đặc trưng của chiến tranh bảo vệ Tổ quốc thường là ngắn, thì đánh lâu dài để chuyển biến tương quan thế lực lại có tính quy luật của chiến tranh giải phóng. Kẻ địch thường tiến công, rồi lại thất bại, lại tăng cường lực lượng tiến công rồi thất bại, chịu thua trong khi lực lượng còn đông, có khi còn mạnh hơn cả lúc bắt đầu cuộc chiến tranh giải phóng. Do đó phương châm trường kỳ kháng chiến, đánh lâu dài đồng thời biết tạo thời cơ và nắm vững thời cơ, mở những trận tiến công chiến lược làm thay đổi cục diện chiến tranh, tiến lên thực hiện tổng tiến công và nổi dậy đè bẹp quân thù, giành thắng lợi cuối cùng, thường trong cuộc chiến tranh giải phóng nào cũng được vận dụng, như trong chiến tranh chống phong kiến Trung Quốc, cũng như chống Pháp, Mỹ.
- Trong thời đại ngày nay việc phát huy sức mạnh của đất nước và tranh thủ sức mạnh quốc tế trong chiến tranh giải phóng dân tộc là một phương châm hết sức quan trọng. Trong các cuộc chiến tranh giải phóng chống Pháp, Mỹ vừa qua ta đã vận dụng triệt để phương châm này. Điều này lại càng quan trọng hơn trong tình hình hiện nay và sau này.
Do có cuộc cách mạng khoa học, kỹ thuật mới, mà các ngành thông tin, truyền thông, giao thông đã có bước phát triển thần kỳ, làm cho không gian của địa cầu hầu như thu hẹp lại, cùng với sự phát triển của tinh thần độc lập dân tộc chống đế quốc, chống kẻ thù chung của nhân loại, yếu tố quốc tế trong chiến tranh giải phóng đã khác hẳn so với thời kỳ chống phong kiến phương Bắc xưa.
Chương 03
Truyền thống và hiện đại TRUYỀN THỐNG QUÂN SỰ VIỆT NAM
Nguồn: quansuvn.net
Thu gọn nội dung
Nghệ thuật quân sự truyền thống.
Nghệ thuật quân sự truyền thống Việt Nam độc đáo ở chỗ, nó là nghệ thuật quân sự lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh, được thể hiện trên mấy mặt sau:
- Nghệ thuật quân sự toàn dân đánh giặc, nghệ thuật đấu tranh vũ trang của lực lượng vũ trang gồm ba thứ quân, quân chủ lực (với hiệp đồng quân binh chủng), quân địa phương và dân quân du kích (tự vệ) cùng nhân dân đứng lên đánh giặc bằng mọi phương tiện và hình thức, kết hợp chặt chẽ quân sự, chính trị, binh vận, kết hợp hoạt động tác chiến của bộ đội chủ lực với bộ đội địa phương, dân quân tự vệ và nhân dân, làm thanh dã, bất hợp tác với quân thù hoặc khởi nghĩa. Nghệ thuật quân sự này tạo ra một hình thức chiến tranh cài răng lược, xen kẽ triệt để giữa ta và địch, có phân tuyến mà cũng không phân tuyến với quân thù, buộc địch phải phân tán, đông mà hóa ít, mạnh mà hóa yếu. Nó làm cho quân đội chính quy của đối phương không thể phát huy cách đánh thông thường, tiến công, phòng ngự không theo chiến tuyến, mà theo diện địa phương, hậu phương tiền tuyến khó phân biệt, không có một nơi nào là an toàn tuyệt đối, khó phân biệt đối tượng dân và quân.
Hăng-ri Na-va, tổng tư lệnh quân đội Pháp ở Đông Dương viết trong cuốn Đông Dương hấp hối: “Ngay cả trong những vùng có chiến dịch quân sự thực sự cũng không phải là một cuộc chiến tranh kiểu kinh điển. Chúng tôi cố gắng ép họ phải chấp nhận hình thức chiến tranh đó, luôn luôn Việt - Minh từ chối việc đó”. Và Oét-mo-len, tư lệnh quân Mỹ ở miền Nam đã phải buồn bã kêu lên, sau khi bị cách chức: “Công chúng Mỹ cũng dễ bị lầm lẫn vì không thể theo dõi cuộc chiến tranh bằng những chiến tuyến đơn giản trên bản đồ như trong các cuộc chiến tranh khác”. Bất kể quân địch nào, dù là phong kiến phương Bắc trước kia hoặc đế quốc Pháp, Mỹ, khi xâm lược nước ta đều phải bị động trước nghệ thuật quân sự toàn dân đánh giặc của Việt Nam và không thể thi thố được cách đánh sở trường của chúng”.
Ngay một số cán bộ quân sự của ta, đã qua nhiều năm chiến đấu muốn nắm chắc nghệ thuật ngay trong các cấp, từ chiến lược đến chiến dịch, chiến thuật và vận dụng cho nhuần nhuyễn, cũng không phải đơn giản. Kinh nghiệm mấy ngàn năm lịch sử cho thấy, nắm chắc nghệ thuật quân sự này là bảo đảm chiến thắng bất kỳ kẻ địch nào, ngay cả những đội quân xâm lược mạnh nhất của từng thời như quân Mông - Nguyên ở thế kỷ XIII, hay quân Mỹ trong thế kỷ XX.
Nghệ thuật truyền thống này luôn luôn được quán triệt trong chiến tranh giải phóng, vì ta phải đi từ đấu tranh chính trị lên đấu tranh vũ trang, từ khởi nghĩa lên chiến tranh giải phóng, từ chiến tranh du kích lên chiến tranh chính quy, luôn kết hợp chiến tranh chính quy với khởi nghĩa và chiến tranh du kích. Các nhà lãnh đạo chiến tranh như Hai Bà Trưng, Lê Lợi, Hồ Chí Minh đều đi theo quá trình này. Nhưng trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc thì kinh nghiệm chiến tranh toàn dân của nhà Trần đã không được vận dụng dưới thời nhà Hồ và nhà Nguyễn. Tư tưởng quân sự của chiến tranh thông thường dựa vào quân đội chủ lực, lại chi phối nghệ thuật quân sự. Muốn có nghệ thuật quân sự toàn dân chiến đấu phải có chính nghĩa, phải có dân ủng hộ, quốc gia tinh lực, phải có quân đội có tinh thần yêu nước bảo vệ nhân dân, phải có quan điểm dựa vào dân như Trần Hưng Đạo đã nói: “Vua tôi đồng lòng, anh em hòa mục - cả nước chung sức”, “... khoan thư sức dân, làm kế sâu gốc bền là thượng sách để giữ nước”.
Trong Bình Ngô đại cáo có câu:
“Thế giặc mạnh, ta yếu mà ta địch nổi,
Quân địch nhiều, ta ít mà ta được luôn.
Cho hay, đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân mà thay cường bạo”
Bộ đội Việt Nam được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng, rèn luyện, luôn phát huy truyền thống “Trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc”.
Nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân thời Lê Lợi thể hiện ở việc vây thành, tỏa quân ra đánh ngụy quân ngụy quyền ở cơ sở, nghệ thuật sức dùng một nửa mà công gấp đôi vừa giành được dân, giải phóng vùng đất đai rộng lớn, vừa nhanh chóng xây dựng được lực lượng vũ trang. “Thế trận làng nước” là biểu hiện của tư tưởng quân sự này. Trong chiến tranh chống Pháp, việc tổ chức các đại đội độc lập đưa về các huyện để xây dựng cơ sở chính trị và dân quân du kích năm 1947, cũng như việc đưa hai đại đoàn vào địch hậu trong chiến dịch Hòa Bình năm 1951. Trong chiến tranh chống Mỹ giải phóng miền Nam, việc phân tán đơn vị chủ lực đi xây dựng cơ sở chính trị và phát động du kích chiến, thực hiện chủ trương tiêu diệt địch để giành quyền làm chủ, giành quyền làm chủ để tiêu diệt địch, đã chứng tỏ rằng Bộ tư lệnh tối cao của Việt Nam luôn nắm vững nghệ thuật quân sự toàn dân đánh giặc.
Đặc biệt, trong chiến tranh giải phóng miền Nam, Đảng ta đã vận dụng khéo léo tài tình nghệ thuật này, kết hợp các mặt đấu tranh một cách linh hoạt, tùy theo tình hình cụ thể. Khi thì lực lượng chính trị giữ vai trò chủ yếu, có lực lượng vũ trang làm chỗ dựa, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, tiến hành khởi nghĩa từng phần như trong phong trào “Đồng khởi”. Khi thì kết hợp chặt chẽ lực lượng vũ trang với lực lượng chính trị, đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị, khởi nghĩa vũ trang với chiến tranh cách mạng thích hợp với điều kiện cụ thể của từng thời kỳ như trong cuộc chiến đấu chống các chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, “chiến tranh cục bộ”, “chiến tranh Việt Nam hóa” của Mỹ trong quá trình kháng chiến chống Mỹ.
Trong quá trình chỉ đạo cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam, nghệ thuật này đã phát huy tác dụng hết sức to lớn. Luận điểm thiên tài của Ăng-ghen về phương thức tiến hành chiến tranh của một dân tộc nhỏ đã được thể hiện một cách sinh động và phong phú, muôn màu muôn vẻ.
Sự kết hợp hai hình thức đấu tranh này không chỉ thực hiện trong lĩnh vực chiến lược, mà cả trong lĩnh vực chiến dịch và chiến đấu trên chiến trường. Đảng ta đã từng chỉ rõ: nổi dậy và tiến công, tiến công và nổi dậy là quy luật chung, mà đỉnh cao phát triển của nó là tổng công kích, tổng khởi nghĩa. Những cuộc tiến công quân sự phải kết hợp với nổi dậy của quần chúng, những cuộc nổi dậy của quần chúng cũng phải kết hợp với tiến công quân sự thì mới phát huy được sức mạnh tổng hợp lớn để đánh thắng địch.
Khi cuộc chiến tranh cách mạng phát triển ngày càng quyết liệt quy mô ngày càng lớn, ta đã nắm vững quy luật chiến tranh là phải tiêu diệt và làm tan rã lực lượng quân sự của địch, bao gồm cả sinh lực và phương tiện chiến tranh, nhất là quân chủ lực, chỗ dựa chủ yếu của chính quyền phát xít tay sai của đế quốc Mỹ. Tiêu diệt để làm chủ, làm chủ để tiêu diệt, làm suy yếu, tiến tới đè bẹp lực lượng quân sự và bộ máy kìm kẹp của địch thì mới tạo được điều kiện thuận lợi cho quần chúng nổi dậy. Chỉ trên cơ sở tiêu hao, tiêu diệt ngày càng nhiều sinh lực lớn của địch, đánh bại các cuộc phản kích của chúng, thì ta mới giành được quyền làm chủ cho nhân dân trên phạm vi ngày càng rộng. Ngược lại, giành và giữ vững quyền làm chủ sẽ tạo ra thế và lực mới để tiến lên tiêu diệt lực lượng địch lớn hơn.
Trong quá trình tiến hành chiến tranh giải phóng ở miền Nam, nghệ thuật quân sự Việt Nam đã phát triển lên một trình độ cao, xuất hiện nhiều loại hình chiến dịch khác nhau, như những chiến dịch tiến công của các binh đoàn chủ lực trên chiến trường có lựa chọn nhằm tiêu diệt lực lượng quân sự địch; những chiến dịch tổng hợp trên mặt trận nông thôn, đồng bằng, kết hợp tiến công quân sự với khởi nghĩa vũ trang của cả lực lượng quân sự và lực lượng chính trị nhằm đánh bại kế hoạch “bình định”, đập tan hệ thống kìm kẹp của địch, giải phóng các vùng nông thôn và tiêu diệt lực lượng quân sự địch; những chiến dịch lớn đánh vào đô thị, hoặc những chiến dịch tổng hợp lớn trên mặt trận đô thị, đánh vào cơ quan đầu não của địch, kết hợp vây hãm, tiến công quân sự với khởi nghĩa vũ trang để giải phóng thành phố, thị xã.
Những trận chiến đấu nhằm tiêu diệt địch và giành quyền làm chủ được tiến hành bằng nổi dậy của quần chúng và tiến công quân sự, không phải là hiếm trong cuộc chiến tranh vừa qua.
Đặc biệt là sau khi Hiệp định Pa-ri về Việt Nam được ký kết, từ năm 1973 trở đi, không những ta đã đập tan các chiến dịch lấn chiếm, bình định của địch, giữ vững vùng giải phóng, mà còn chuyển sang những chiến dịch tiến công tổng hợp, phá vỡ từng mảng hệ thống kìm kẹp của địch ở các địa bàn xung yếu, uy hiếp mạnh các vùng ven thành phố và nhiều thị trấn, thị xã.
Ta đã kiên quyết đẩy mạnh các cuộc tiến công và nổi dậy, mở rộng diện tiêu diệt và tiêu hao lực lượng quân sự địch trên nhiều căn cứ, chi khu, phân chi khu quân sự, kết hợp với việc xóa bỏ hệ thống kìm kẹp của địch ở ấp, xã, giành dân và giành quyền làm chủ.
Ta đã dồn địch vào thế bị bao vây, căng kéo, buộc địch phải phân tán lực lượng để đối phó khắp nơi, không còn khả năng cơ động trên các địa bàn hành quân trọng điểm và không có đủ lực lượng tăng viện, ứng cứu cho các chiến trường khác. Lực lượng bảo an, dân vệ liên tục bị tiêu hao và tan rã, không đủ sức đương đầu với lực lượng vũ trang cách mạng và lực lượng chính trị của quần chúng. Hàng loạt đồn bốt, hệ thống chiếm đóng và bình định của địch bị phá vỡ.
Trong các trận chiến đấu và chiến dịch, ta đã đánh địch bằng ba mũi giáp công: quân sự, chính trị, binh vận. Tiến công binh vận kết hợp với tiến công quân sự và tiến công chính trị cũng là một mũi tiến công chiến lược rất sắc bén, có hiệu lực cao, với nhiều hình thức phong phú, linh hoạt diễn ra cả ở nông thôn và thành thị.
Đặc biệt, ở đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng ven biển miền trung, ở nhiều thành phố, thị xã khác, những thắng lợi rực rỡ của ba mũi giáp công, những cuộc nổi dậy bùng nổ dây chuyền đã phát huy sức mạnh rất lớn. Kết hợp với các mũi tiến công quân sự, hàng vạn quần chúng đã bao vây, gọi hàng, đánh chiếm các quận lỵ, trụ sở ngụy quyền, giành quyền làm chủ. Lực lượng vũ trang của ta đã mở những cuộc tiến công vào các mục tiêu quân sự then chốt, làm đòn bẩy thúc đẩy, hỗ trợ đắc lực cho phong trào nổi dậy của quần chúng.
Các đội du kích, dân quân, tự vệ vũ trang phát triển rộng khắp đã cùng đồng bào tích cực bao vây, tiến công tiêu diệt địch trong các đồn bốt, diệt ác, trừ gian, làm chỗ dựa cho quần chúng nổi dậy phá ách kìm kẹp của địch. Bộ đội địa phương và dân quân, du kích, tự vệ còn là lực lượng nòng cốt để xây dựng chính quyền địa phương, xây dựng lực lượng và các đoàn thể cách mạng.
Các chiến dịch và các trận chiến đấu hiệp đồng binh chủng quy mô lớn đã tạo thành những quả đấm rất mạnh, có sức đột kích lớn, sức cơ động cao, sức chiến đấu liên tục, có khả năng đánh tiêu diệt lớn.
Với lối đánh hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, bộ đội chủ lực của ta đã thực hiện đánh tiêu diệt lớn, phá vỡ hệ thống phòng ngự chiến lược của địch, giải phóng các địa bàn quan trọng, tiêu diệt và làm tan rã từng bộ phận quan trọng của địch, tạo điều kiện cho lực lượng vũ trang địa phương và lực lượng chính trị nổi dậy giành quyền làm chủ.
Vào thời kỳ cuối của cuộc chiến tranh, chúng ta đã nắm vững quy luật của phong trào cách mạng của quần chúng, phát triển phong trào đấu tranh chính trị thành cao trào, khi có điều kiện đã kịp thời nắm vững thời cơ, phối hợp với tổng công kích mà thực hiện nổi dậy đều khắp, đánh đổ chính quyền của địch ở nhiều vùng nông thôn rộng lớn và ở cả đô thị, đặc biệt là ở đồng bằng sông Cửu Long.
Nghệ thuật quân sự toàn dân đánh giặc tạo ra một tương quan thế lực khác hẳn giữa ta và địch so với nghệ thuật quân sự thông thường.
Do đó, trong khi đánh giá tình hình, so sánh tương quan địch, ta, kẻ địch xâm lược không bao giờ so sánh đúng tương quan thực tế, luôn luôn bị nghệ thuật quân sự cổ điển của chiến tranh giữa hai quân đội chi phối. Chỉ khi kết thúc chiến tranh, trong hồi ký của họ, họ mới cảm thấy có lúc 90% lực lượng của họ đã bị căng ra để giữ hậu phương, chống du kích và nhân dân, để thực hiện bình định hậu phương. Và ngay cả trong cán bộ của ta, cũng có hiện tượng không nắm vững nghệ thuật quân sự độc đáo này. Hiện nay trong công tác tham mưu, trong điều lệnh chiến đấu, sách giáo khoa của ta, vấn đề phán đoán tình hình so sánh lực lượng cũng chưa được thể hiện một cách đầy đủ. Đây còn là một vấn đề khoa học chưa được giải đáp trong hoạt động cụ thể của người chỉ huy quân sự của chúng ta.
Nghệ thuật quân sự “thế thắng lực”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh giải thích mối quan hệ giữa thế và lực như sau:
“Quả cân chỉ có một ki lô gam ở vào thế lợi thì lực nó tăng lên nhiều, có sức mạnh làm tổng được một vật nặng hàng trăm ki lô gam. Đó là thế thắng lực. Ta đánh Mỹ lấy ít thằng nhiều được là nhờ cái thế của ta rất lợi. Thế ta thắng đã rõ ràng, thế địch thua đã rõ ràng”1. Như vậy là Hồ Chủ tịch nói, lấy ít thắng nhiều được là nhờ cái thế có lợi. Nguyễn Trãi viết: “Người dùng binh giỏi là ở chỗ biết rõ thời thế mà thôi. Được thời, có thế thì mất biến thành còn, nhỏ hóa ra lớn, mất thời không thế thì mạnh hóa ra yếu, yên lại thành nguy, sự thay đổi ấy chỉ trong khoảng trở bàn tay mà thôi”. Và Hồ Chủ tịch lại còn viết trong “Nhật ký trong tù”
“Phải nhìn cho rộng suy cho kỹ,
Kiên quyết không ngừng thế tiến công.
Lạc nước hai xe, đành bỏ phí,
Được thời, một tốt cũng thành công”
Nghệ thuật quân sự của Việt Nam lấy ít địch nhiều, nhỏ thắng lớn hoàn toàn đối lập với nghệ thuật quân sự truyền thống của các quân đội mạnh của các nước đông người, tiềm lực lớn, quân đông và trang bị kỹ thuật tốt hơn đối phương. Cho nên, những nhà quân sự lỗi lạc của Trung Quốc như Tôn Tử, Mao Trạch Đông lại nêu những nguyên tắc khác hẳn. Tôn Tử viết: “Phép dùng binh là: có binh lực gấp mười lần thì bao vây, gấp năm lần thì tiến công, gấp đôi thì bắt địch phân tán, bằng ngang thì cũng có thể đánh được, nhưng nếu như binh lực ít hơn thì rút lui, yếu hơn thì tránh. Cho nên lấy binh lực nhỏ mà đánh liều thì sẽ trở thành tù binh của kẻ địch”.
Theo Mao Trạch Đông, khi đánh địch thì phải tập trung lực lượng gấp ba lần trở lên, có khi đến chín, mười lần hơn địch. Nguyên tắc chỉ đạo tác chiến chỉ có thể chính xác, đem lại hiệu quả, nếu nó xuất phát từ quy luật khách quan mà quy luật của chiến tranh là mạnh được yếu thua. Lực lượng là một yếu tố quan trọng để có sức chiến đấu thắng địch, lực lượng đông hơn thì dễ thắng, đó là lẽ thường tình, cho nên ta mới có tục ngữ “Ba đánh một chẳng chột cũng què”. Nhưng trong chiến tranh đánh giặc giữ nước của ta nói chung, lực lượng đối phương thường đông hơn ta mà chúng lại chịu thất bại. Trong chiến đấu, nếu không biết sử dụng lực lượng khéo léo thì có khi có lực lượng đông hơn mà không giành được chiến thắng.
Khi lực lượng ít hơn mà muốn thắng kẻ thù đông hơn thì nghệ thuật quân sự lại càng phải cao hơn. Đó chính là yêu cầu có tính nguyên tắc của nghệ thuật truyền thống quân sự Việt Nam. Đó là nghệ thuật lấy thế ta để phá thế địch, để với một lực lượng ít hơn, tạo ra một sức mạnh chiến đấu lớn hơn địch, giành chiến thắng. Thế - có thế chiến tranh, có thế chiến đấu.
_______________________________________
1. Hồ Chủ tịch nói chuyện với cán bộ cấp cao trong quân đội, tháng 5 năm 1969.
Đứng về chiến tranh, qua quá trình lịch sử, ta thấy thế chiến tranh đã đem lại chiến thắng cho dân tộc là:
Chiến tranh nhân dân tạo ra một thế chiến tranh xen kẽ, cài răng lược triệt để, nên quân đội địch vào đất nước ta bị chia cắt, bao vây, bị tiến công từ mọi phía ở khắp mọi nơi, đâu cũng là chiến trường, không có chiến tuyến, không có hậu phương an toàn. Địch buộc phải phân tán chiếm đóng, bị động đối phó, muốn đem lực lượng mạnh, với thế sở trường, dùng bom đạn, phương tiện khí giới tốt hơn đánh tiêu diệt đối phương, giải quyết chiến tranh nhanh mà không thực hiện được. Thế trận chiến lược này tạo nên sức mạnh chiến tranh to lớn, đã đánh bại quân xâm lược mạnh nhất đương thời, như trong chiến tranh nhà Trần chống Mông - Nguyên và chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ xâm lược trong thời đại Hồ Chí Minh. Đây là thể hiện thế chiến lược của ba thứ quân, của toàn dân chiến đấu, của thế trận làng nước. Đó là thế trận của nghệ thuật sử dụng lực lượng toàn dân và phương thức tiến hành chiến tranh nhân dân, nghệ thuật sử dụng không gian của chiến tranh.
Trần Quốc Tuấn đánh giá quân Nguyên xâm lược lần thứ hai năm 1285, như sau:
“Nguyên Binh thế nhuệ đang hăng,
Kíp đánh thắng, chẳng bằng kiên thủ chờ suy”.
Trương Phổ cũng nhận định về cuộc chiến tranh của quân Nguyên xâm lược Đại Việt như sau: “Quân Thoát Hoan tuy có ngựa mạnh rong ruổi nhanh như chớp, đánh thành, phá ấp, nhưng giữa đường phải quay giáo tháo lui, quân lính bị tan tác trong chốn của quân kia... Trần Nhật Huyên giấu mình nơi biển khơi, giấu quân chốn ải hiểm, tránh cái thế hăng hái lúc ban mai, đánh khi tàn lụi, buổi chiều”.
Như vậy, ta thấy rõ, trong chiến tranh đánh kẻ địch mạnh không phải cứ đem quân đánh chọi ngay từ buổi đầu địch tới, lúc chúng khí thế đang hăng, lực lượng hùng hậu, mà phải tạo ra thế trận đánh kìm địch, tiêu hao, làm cho chúng mệt, lâm vào thế khó khăn, đánh không được, ở không xong, mà đánh lúc chúng mệt, phải rút lui. Chính đó là nghệ thuật sử dựng thời gian để tạo thế, chuyển tương quan lực lượng mà lực ít thắng được quân đông hơn. Đó cũng chính là tư tưởng chỉ đạo của Đảng ta trong đánh Pháp, khi tương quan thế lực ban đầu địch hơn ta, thì phải phát động chiến tranh toàn dân, trường kỳ kháng chiến để thay đổi tương quan thế lực thì mới có thể thắng được. Lấy trường kỳ thắng tốc quyết, lấy du kích chiến kết hợp với chính quy chiến và khởi nghĩa của nhân dân để thắng một quân đội mạnh hơn và có tổ chức hơn. Đó là nghệ thuật sử dụng thời gian trong chiến tranh, nghệ thuật tạo thế, trường kỳ kháng chiến đi tới thắng lợi. Điều này hoàn toàn trái ngược với binh pháp của Tôn Tử và nghệ thuật của quân xâm lược. Tôn Tử đã viết “trong cuộc binh chỉ nghe nói đến tốc quyết vụng về không nghe nói lâu dài khôn khéo. Chiến tranh kéo dài mà có lợi cho quốc gia là việc không có thế”1.
Luôn luôn chú ý đến thế để quyết định việc lấy yếu thắng mạnh, nên Trần Hưng Đạo, trong Binh thư yếu lược mới nêu bí quyết của phép binh: “Địch đem quân đến, thế không thể ở lâu được thì ta cầm. Thế bách kíp muốn thắng ngay thì ta cầm. Nó ở thế hiểm, ta ở thế yếu thì ta cầm. Thiên thời sắp hại, địa nạn sắp hãm, nhuệ khí sắp nhụt thì ta cầm, làm cho nó đã mệt, bấy giờ ta mới nổi dậy mà đánh thì sức vẹn mà công nhiều... Đó là điều bí của binh pháp”.
Đúng về tác chiến mà xét, ta lại có thế chiến đấu.
Nguyễn Trãi đã từng viết: “Ít địch nhiều thì thường mai phục, yếu đánh mạnh hay đánh bất ngờ”.
Trong trận Trà Long, Lê Lợi chủ trương “Giặc đông ta ít, lấy ít đánh đông, chỉ ở nơi đất hiểm mới lập được công”.
Trong kháng chiến chống Pháp, Mỹ, chiến thuật thường dùng của lực lượng vũ trang ta, kể cả chủ lực và dân quân du kích, là phục kích và tập kích, đánh nhanh giải quyết nhanh trong thế địch bị bất ngờ, trở tay không kịp, đông, mạnh mà phải chịu thua. Cách đánh bất ngờ “nở hoa từ trong lòng địch” của bộ đội đặc công là điển hình của cách lợi dụng sơ hở, quân đông mà không phòng bị, không kịp triển khai đối phó khi bị tiến công. Những trận chiến thắng lịch sử ở Chi Lăng, Bạch Đằng, đều do phía ta biết lợi dụng địa thế hiểm, có lợi cho mai phục. Khi địch trong thế thua chạy, tan vỡ, thì ta một đánh được mười. Các trận đánh khi địch rút lui của Trần Hưng Đạo ở Vạn Kiếp hay các trận đánh tiêu diệt hai binh đoàn Lơ-pa-giơ và Sác-tông ở Khôn Luông, Cốc Xá, cao điểm 477, khi chúng tháo chạy trong chiến dịch Biên Giới năm 1950, cũng như trận đánh của quân ta sau chiến thắng Buôn Ma Thuộc, lúc địch rút khỏi Tây Nguyên đều hiệu quả cao như vậy. Khi thế trận của địch đã bị vỡ, ta đã ở thế thừa thắng mà truy đuổi thì đó là thế chẻ tre. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, địch đã ở vào thế bị cô lập, cố thủ trong một thung lũng, bị ta bao vây, tiến công từ bốn phía. Địch ở thế thủ, bị động đối phó trong một thế chiến lược mà chúng buộc phải phân tán trên các chiến trường, không còn quân tăng viện cho Điện Biên Phủ, còn ta thì tập trung được lực lượng. Sau nhiều ngày bị tiến công liên tục, bị bao vây, lâm vào cảnh thiếu thốn, khổ sở, tinh thần chiến đấu càng ngày càng sa sút, cuối cùng phải đầu hàng, dù quân còn đông (trên một vạn). Trong khi đó quân ta càng đánh khí thế càng cao.
____________________________________
1. Binh pháp Tôn Tử, thiên 2, điều 7.
Trong cuốn “Nghệ thuật chiến dịch Việt Nam” đã được Hội đồng khoa học quân sự của Bộ Quốc phòng thông qua năm 1976, có viết về cách đánh chiến dịch của ta là: “sử dụng lực lượng, vận dụng mưu trí sáng tạo phương thức tiến hành chiến dịch, hình thành thế chiến dịch có lợi, nhằm phá thế địch, tiêu diệt địch”1.
Như vậy là trong chiến tranh và chiến đấu, địch có lực, có phương thức tiến hành chiến tranh, phương pháp hình thức chiến thuật, có thế chiến tranh, và thế chiến đấu, ta cũng có lực lượng (thường ít hơn), muốn chiến thắng đối phương ta phải có phương thức tác chiến, có thế trận lợi hại để phá thế, diệt địch.
Cách đánh lập thế, phá thế để diệt địch của ta bao gồm 5 nội dung:
1. Chọn hướng, khu vực, mục tiêu, đối tượng tác chiến.
2. Vận dụng phương thức tác chiến.
3. Tổ chức và bố trí lực lượng.
4. Chuyển hóa thế trận chiến dịch.
5. Tạo và nắm bắt thời cơ có lợi.
Mọi nội dung đều phải quán triệt yêu cầu lập thế và phá thế. Trong chọn hướng, mục tiêu, đối tượng chủ yếu, phải nhằm đánh trúng vào nơi có thể tạo ra phản ứng dây chuyền làm rung chuyển toàn bộ thế trận địch, tiến đến đòn quyết định nhất đánh bại hoàn toàn chúng. Nơi đó, trong nghệ thuật lập thế, phá thế khác với nghệ thuật quân sự chọn hướng chủ yếu của các quân đội đông, lấy nhiều hiếp ít là ở chỗ không đánh vào chỗ mạnh có đề phòng cẩn mật của địch, hướng chủ yếu của chúng mà là phải đánh vào nơi yếu nhưng hiểm yếu. Có khi phải chọn vào nơi hiểm yếu nhưng ở đó chúng mạnh hoặc tương đối mạnh nhưng khi đã đánh là địch phải rung chuyển thế trận, đảo lộn thế bố trí, làm cho địch rối loạn, hoang mang, tạo ra một phản ứng dây chuyền tiến đến đòn quyết định nhất, trong các trận, các chiến dịch lớn như trong chiến dịch Biên Giới năm 1950, ta đánh vào Đông Khê buộc địch phải rút Cao Bằng mà rơi vào thế trận đã bầy sẵn của ta ở Khâu Luông, tạo ra trận tiêu diệt lớn hai binh đoàn Lơ-pa-giơ và Sác-tông ở Khâu Luông, Cốc Xá, cao điểm 477.
Trong cuộc tiến công chiến lược mùa xuân 1975, bộ máy chiến tranh của địch được bố trí trên toàn bộ chiến trường miền Nam rộng lớn, làm thế nào chọn hướng và mục tiêu để đánh đòn chủ yếu quyết định tiêu diệt, làm tan rã địch trên quy mô lớn, phá vỡ thế bố trí chiến lược, tạo ra một phản ứng dây chuyền làm rung chuyển thế chiến lược, dẫn đến đòn quyết định nhất. Trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, ta đã chọn thủ đô ngụy là Sài Gòn - Gia Định làm phương hướng và mục tiêu chủ yếu quyết định số phận của ngụy quân và ngụy quyền. Nhưng với lực lượng có hạn, phải dùng 3 đòn liên tiếp có tác động dây chuyền thì việc chọn hướng và mục tiêu cho đòn mở đầu cuộc tổng tiến công có tác dụng thôi động là hết sức quan trọng, chứ không thể đánh mở đầu ngay vào Sài Gòn mà thắng được chiến tranh. Bộ Chính trị đã chọn Tây Nguyên là nơi địch yếu hơn cả, nhưng lại hiểm yếu, có tác dụng chia cắt chiến lược, cô lập quân khu I và khi cần có thể tập trung lực lượng nhanh vào hướng chủ yếu. Thắng lợi ở Tây Nguyên vừa có ý nghĩa tiêu diệt một lực lượng quân sự có ý nghĩa chiến lược, vừa có ý nghĩa phá thế phòng ngự hoàn chỉnh về chiến lược của địch và có khả năng thực tế tạo ra một thế mới để khuếch trương thắng lợi, chuyển thắng lợi cục bộ thành thắng lợi toàn bộ. Như vậy là bắt đầu vào nơi yếu nhưng hiểm yếu, kết thúc vào nơi quyết định nhất của phòng ngự chiến lược của địch là thủ đô của ngụy quyền.
Muốn phá vỡ thế địch, lấy ít thắng nhiều, phải có phương thức tác chiến đúng. Không thể đem phương thức của quân mạnh đánh quân mạnh mà làm được. Do đó, mới có chiến thuật phục kích, tập kích, đánh bất ngờ, mới có cách lập thế diệt quân lương, kết hợp với dân làm thanh dã, địch càng đông thiếu lương thực, nhiên liệu, càng nguy; dùng quân các lương hầu, hương binh đánh quân Mông - Nguyên làm chúng hao mòn, buộc địch rút chạy sa vào thế trận mai phục ở Bạch Đằng Giang. Cũng vì vậy mới có phương thức tác chiến chiến dịch đánh điểm diệt viện, điệu hổ ly sơn, điều địch, buộc chúng rơi vào cạm bẫy không lối thoát, không thể chỉ có một bài bản cứng nhắc trong trận mà phải mưu trí lừa địch, điều địch tránh chỗ địch mạnh, đánh vào chỗ yếu của nó, tìm chiến thuật, phương thức tác chiến chiến dịch phù hợp như Quang Trung dùng thế trận 5 mũi tiến quân, vừa đánh chính diện, vừa đánh thọc sâu vào đầu não, vừa bao vây vu hồi trong trận đánh quân Thanh năm 1789. Phương thức tác chiến dùng để phá thế địch bao giờ cũng phải có nhiều trận, đồng thời liên tục bảo đảm làm vỡ thế địch, tạo ra thời cơ buộc địch sa vào thế bất lợi, thế tan vỡ tháo chạy, tiến tới trận quyết định cuối cùng.
Giá trị của từng đòn, quy hoạch thứ tự và tập trung nỗ lực của từng đòn là hạt nhân trong quyết tâm để tạo ra sự phát triển bùng nổ dây chuyền mà trong nghệ thuật quân sự thường được gọi là sự tiếp nối của phá vỡ với khuếch trương chiến quả của nghệ thuật yếu đánh mạnh, ít địch nhiều.
Chúng ta thấy bài học này đã thể hiện, không những chỉ ở trận quyết chiến chiến lược kết thúc chiến tranh mà còn cả trong chiến lược giải phóng miền Nam suốt quá trình từ 1959 - 1960 đến khi kết thúc. Đồng chí Lê Duẩn đã viết trong thư gửi thành ủy Sài Gòn - Gia Định ngày 1-7-1967: “Trong quá trình chiến tranh cứu nước ở miền Nam, nếu ở giai đoạn đầu, đấu tranh chính trị và quân sự ở nông thôn đã có tác dụng quyết định giành thắng lợi từng bước và làm thay đổi lực lượng so sánh ngày càng có lợi cho cách mạng, thì ở giai đoạn cuối những đòn tiến công mãnh liệt về quân sự và chính trị ở thành phố đánh vào một trong những chỗ dựa cơ bản của địch, cũng là những đòn quyết định đánh bại hoàn toàn chính sách xâm lược của đế quốc Mỹ...”.
_________________________________
1. Nghệ thuật chiến dịch Việt Nam, Viện khoa học quân sự xuất bản năm 1976, trang 65.
Khác với nghệ thuật quân sự của các nước có sức mạnh quân sự thường đánh vào chỗ mạnh bằng một đòn chết tươi, bài học nghệ thuật quân sự trong chiến tranh giải phóng, trong lấy ít địch nhiều, lấy yếu đánh mạnh này đã được Nguyễn Trãi, nhà lý luận thiên tài của dân tộc khái quát trong mấy câu thơ:
“Một tiếng trống, ngạc kình đứt đoạn
Hai tiếng trống, chim muông sợ tan
Tổ kiến hổng, làm tan đê vỡ.
Trận gió rung, rụng trút lá khô...”.
Nghệ thuật này đã được phát huy trong chiến tranh chống Pháp với đỉnh cao là chiến cục Đông Xuân 1953 - 1954 bằng năm đòn liên tiếp, buộc địch phân tán và đòn quyết định kết thúc chiến tranh chống Pháp ở Điện Biên Phủ. Trong chiến tranh giải phóng miền Nam, nghệ thuật này đã được phát triển lên đỉnh cao và còn có giá trị về sau này đối với chúng ta trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.
Thế trận được thể hiện trên cơ sở ta tổ chức và bố trí triển khai lực lượng cả quân sự, chính trị, cả 3 thứ quân vào một thế chiến lược hiểm và cơ động. Nòng cốt của thế trận này là thế trận của khối chủ lực trên các hướng gồm các quân đoàn, sư đoàn của các quân khu và của Bộ Tổng tư lệnh trong chiến cuộc Xuân 1975, ta bố trí 3 khối chủ lực lớn ở Tây Nguyên, Huế - Quảng Nam, miền Đông Nam Bộ, có khả năng giáng những đòn tiêu diệt lớn về chiến dịch trên từng khu vực và khi cần có thể tập trung nhanh chóng tạo nên thế áp đảo trên hướng quyết định.
Ngoài lực lượng chủ lực, ta đã biết tập trung các lực lượng vũ trang địa phương và lực lượng chính trị vào các thành phố, thị xã, quận lỵ, chi khu để sẵn sàng phối hợp với chủ lực khi có thời cơ.
Việc tổ chức bố trí lực lượng này đã tạo ra các khả năng.
Một là, vừa đánh được địch trên diện rộng, lại vừa tập trung được lực lượng đánh địch mạnh trên hướng chủ yếu, đánh được địch cả trên ba vùng chiến lược, rừng núi, đồng bằng, đô thị và khi cần, nhanh chóng tập trung vào đô thị, trung tâm quân sự, chính trị, kinh tế của từng vùng, cũng như toàn miền Nam, buộc địch phân tán lực lượng, kể cả khối chủ lực cơ động chiến lược, không sao tập trung nổi.
Hai là, thế trận có thể chia cắt chiến lược ở Tây Nguyên và miền Trung, bao vây, cô lập cụm quân phía Bắc, không cho địch rút lui co cụm chiến lược, không cho địch ứng cứu lẫn nhau.
Ba là, có thể cơ động lực lượng, tập trung nhanh chóng chớp thời cơ chiến lược mới xuất hiện vào hướng chủ yếu là Sài Gòn - Gia Định.
Bốn là, có thể cho phép ta bằng đòn tiến công mạnh vào nơi hiểm yếu của địch là Tây Nguyên, tạo nên một phản ứng mạnh làm cho địch rối loạn và suy sụp nhanh chóng, có tính chất dây chuyền ở từng khu vực cũng như trên quy mô toàn bộ chiến trường. Thế trận này vừa bảo đảm đánh địch trong phương án thời cơ, bảo đảm giành thắng lợi của cuộc tổng tiến công theo quy luật nhảy vọt của giai đoạn kết thúc chiến tranh.
Thế trận thể hiện nghệ thuật sử dụng lực lượng trong mối tương quan với kẻ địch cụ thể cả về lực và thế. Thế trận không phải chỉ là biết tập trung lực lượng vào địa điểm và thời cơ có lợi để đánh đòn tiêu diệt mà còn là biết phân tán địch cao độ, điều khiển được địch theo ý muốn của ta trong quá trình diễn biến tác chiến.
Thế trận vận động chuyển hóa trên toàn chiến trường chiến lược chứ không tĩnh tại ở một khu vực, một điểm. Nó bao gồm cả tập trung lực lượng ta, phân tán lực lượng địch, tạo nên sự phát triển dây chuyền từ phá vỡ đối phương đến khuếch trương thắng lợi và tiêu diệt địch khi thời cơ đến cho nên không nên hiểu thế trận chỉ là triển khai bố trí lực lượng lúc mở màn chiến dịch mà phải có nội dung chuyển hóa thế trận. Đây là một nội dung hoàn toàn khác với nội dung trong quyết tâm chiến dịch của các nước.
Vấn đế tạo thời cơ và nắm thời cơ: trong nghệ thuật đấu tranh cách mạng cũng như nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh, Đảng ta rất coi trọng nhân tố thời cơ, coi thời cơ là lực lượng hết sức quan trọng.
Thời cơ do nhiều nhân tố phát triển đến chín muồi tạo thành, gồm cả nhân tố chủ quan và khách quan, cả về địch và ta, tác động lẫn nhau. Những nhân tố đó đều có quá trình phát triển tiệm tiến, ta có thể nhận thức được xu thế phát triển của nó. Muốn tạo và vận dụng thời cơ, phải nắm vững các nhân tố, nắm được quy luật, xu hướng phát triển của nó và phải có nỗ lực chủ quan để tác động, thúc đẩy chúng phát triển chín muồi, hạn chế những nhân tố không có lợi và nỗ lực chuẩn bị những điều kiện chủ quan để tận dụng thời cơ. Các chiến dịch biên giới 1950, Điện Biên Phủ 1954, cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968, đặc biệt là tổng công kích và nổi dậy Xuân 1975 đều là những diễn biến thành công về sáng tạo và tận dụng thời cơ chiến lược một cách có ý thức và có hệ thống của ta trong cách đánh lập thế, phá thế tiêu diệt địch.
Thời cơ của trận quyết chiến chiến lược Xuân 1975 tạo ra bước nhảy vọt của chiến tranh đã được xác định trong quyết tâm của Bộ Chính trị tháng 1-1975, trên cơ sở phân tích các yếu tố địch, ta được xác định sau chiến thắng Buôn Ma Thuộc và Tây Nguyên. Trong Nghị quyết Bộ Chính trị ngày 18 và 25 tháng 3-1975, đã xác định thời cơ chiến lược mới trên cơ sở các yếu tố sau:
- Một là tinh thần quân ngụy đã có bước sa sút mới, đòn Tây Nguyên làm rung động cả đồng bằng và đô thị.
- Hai là ta đã phá vỡ thế chiến lược phòng ngự của địch xây dựng từ 20 năm nay, buộc địch phải điều chỉnh, bố trí chiến lược.
- Ba là chỉ đạo của quân ngụy bắt đầu rối loạn và mất hiệu lực, có triệu chứng bước đầu của sự tan rã và suy sụp lớn.
- Bốn là khả năng can thiệp của Mỹ một lần nữa tỏ ra rất hạn chế.
- Năm là ta còn sung sức, khí thế ngày càng cao, lực lượng và khả năng chiến đấu tăng thêm, đã tạo ra một thế chiến lược mới rất cơ động và có lợi.
Trình độ chiến đấu của chủ lực đã có bước phát triển mới, có khả năng đánh hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, giải quyết nhanh gọn một thị xã lớn và đánh tiêu diệt gọn từng đơn vị cấp sư đoàn của địch.
Như vậy, rõ ràng đến 24-3-1975 tổng số quân địch tuy còn lớn (trên 60 vạn), trong đó có 30 vạn quân chủ lực, gồm 10 sư đoàn và 8 trung đoàn, nhưng thế đã hoàn toàn khác.
Thời cơ chiến lược được tạo ra do hành động tích cực của ta mà thể hiện chủ yếu là đòn tiêu diệt lớn ở Tây Nguyên và nó cũng còn do địch phạm sai lầm nghiêm trọng về chiến lược và vội vã rút bỏ Tây Nguyên một cách thiếu tổ chức.
Thời cơ xuất hiện trong một thời gian nhất định, kịp thời nắm thời cơ chiến lược là một vấn đề quyết định của thắng lợi. Lúc này, thời gian là lực lượng, mọi hành động phải theo đúng phương châm “kịp thời nhất, nhanh chóng nhất, táo bạo nhất, bất ngờ nhất, chắc thắng”. Chiến dịch Huế - Đà Nẵng và cả chiến dịch Hồ Chí Minh đều là sản phẩm nghệ thuật chỉ đạo tài tình về lập thế trận, tạo thời cơ mới liên tiếp trong quy luật nhảy vọt của giai đoạn kết thúc chiến tranh. Nằm thời cơ thể hiện ở chỗ nắm vững địch, đặc biệt là thế chiến lược của chúng, có dự kiến đối với sự phát triển tuần tự và nhảy vọt của chiến tranh, chiến dịch, có chuẩn bị mọi mặt cả lực lượng, vật chất, sẵn sàng ứng phó với tình thế, đồng thời nắm vững lực lượng dự bị chiến lược kịp thời cơ động lực lượng để khuếch trương chiến quả. Chỉ trong vài ngày, 40 vạn quân địch đã bị tiêu diệt. Điều đó không thể có được nếu không có thời cơ và không có sự chỉ đạo kiên quyết tài giỏi và nghệ thuật tổ chức chỉ huy, tập trung lực lượng, hiệp đồng tác chiến của chiến dịch chiến lược nhiều quân đoàn và phát động được các lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang địa phương phối hợp hành động.
Thời cơ tới, phải có sức mạnh của quần chúng, sự nhất trí từ trên xuống dưới và hành động nhanh chóng, kịp thời của các cấp chỉ huy binh đoàn đến phân đội và lãnh đạo chính trị các cấp xuống quần chúng nhân dân trong lực lượng chính trị.
Nghệ thuật tạo thời cơ, nắm thời cơ, có liên quan mật thiết đến nghệ thuật tạo lực lượng, sử dụng lực lượng và nằm trong nghệ thuật lập thế trận. Thời cơ thường được xuất hiện do thế trận của trận trước tạo ra cho trận tiếp nối và thế trận được hoàn thành trong quá trình vận động của thế trận lúc cuối cùng.
Lực - thế - thời là ba yếu tố có liên quan hữu cơ với nhau tạo ra chiến thắng, đặc biệt là đối với các cuộc chiến tranh, chiến dịch, chiến đấu mà lực lượng ta ít hơn đối phương thì thời, thế lại có tác dụng quyết định đến sự phát huy lực nhỏ thành sức mạnh lớn hơn địch để chiến thắng đối phương.
Tóm lại: Trong tác chiến, chiến tranh nhỏ có thể thắng lớn, ít có thể địch nhiều thì phải có thế lợi hơn địch. Muốn có thế lợi phải có thời thế, thiên thời, địa lợi, nhân hoà, quân đội phải có khí thế cao hơn, có kỹ chiến thuật, nghệ thuật giỏi hơn, quân ít mà tinh hơn, có kỷ luật nghiêm minh, tinh thần chiến đấu cao, chỉ huy giỏi, có mưu trí, linh hoạt, có tài cầm quân, phát huy được lực lượng có trong tay tức là phải có chất lượng cao, lại phải có cách đánh đúng, lợi dụng được mặt yếu của địch, hạn chế được cái mạnh của chúng, biết giữ bí mật, tận dụng địa thế có lợi, bố trí lực lượng thế trận hiểm theo một mưu kế đưa địch vào thế giả, thế bị động, bị điều khiển, đi từ thất bại này đến thất bại khác, từ mạnh chuyển sang thế yếu, lực kém, vỡ thế, rối loạn, tạo ra thời cơ quyết định để thừa thắng phát huy.
Thế là gì?
Có nhiều tài liệu nói về thế. Trong sách “bài giảng về đường lối quân sự của Đảng” của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, có giải thích thế là hoàn cảnh điều kiện trong đó, hai bên tiến hành chiến tranh, là hình thái bố trí, triển khai và hoạt động của lực lượng hai bên trên chiến trường, là sự vận động tổng hợp của tất cả các yếu tố nói trên trong chiến tranh.
Tôn Tử viết trong chương V về thế của binh như sau: “Thế chỉ có hai là: Chính và Kỳ - nước chảy mạnh thì đá cũng trôi, đó là vì đúng thế... thế thì như cung đã dương... được thế tốt thì đánh với địch, như xoay gỗ, vần đá... Cho nên người thiện chiến tạo ra cái thế, cũng như lăn hòn đá tròn từ trên núi cao ngàn trượng (800 trượng) xuống. Đó tức là thế vậy”. Trong “Binh thư yếu lược” có giải thích về thế như sau “Cá lớn lội ở chỗ nước nông, bắt sống được chẳng cần chài lưới. Thú mạnh vào đồng nội, bắt tay được chẳng cần bầy hầm... Nhân họ (địch) sợ hãi, là để lấy một đánh mười... Thế mà nên có năm điều: 1. Thừa thế, 2. Khí thế, 3. Giả thế, 4. Tùy thế, 5. Địa thế.
Thế mà thua có ba điều: 1. Tỏa thế, 2. Chí thế, 3. Khinh thế với giải thích như sau:
Phàm khi mới đánh vỡ được quân địch lớn, tướng sĩ hăng đánh, uy danh lừng lẫy, địch nghe đều khiếp sợ, quay cái thế đó mà đánh người, đó gọi là thừa thế. Tướng có uy đức, bộ ngũ chỉnh tề, quân có đủ sức, tiếng tăm đều biết, mạnh như sấm sét đó gọi là khí thế. Quân lính ít ỏi, trông chờ rộn dịp, trương làm nghi binh, khiến địch sợ hãi, đó gọi là Giả thế. Nhân địch mệt, trễ nải mà đánh úp đó gọi là Tùy thế. Tiện cho can qua, lợi cho bộ kỵ, tổ chức trước sau, đó gọi là Địa thế. Người dùng binh mà nhận được năm thế ấy, chưa có ai là không thể theo kẻ trốn, đuổi kẻ thua mà dựng nên công to.
Thua nhiều trận, quan và quân sợ đánh giặc, đó gọi là Tỏa thể. Tướng không có uy đức, mưu kế, thưởng phát không đồng lòng, quan và quân phần nhiều tan rã, đó gọi là Chí thế; quan và quân ồn ào, không theo lệnh cấm, bộ ngũ không nghiêm, đó gọi là Khinh thế. Phàm dùng binh có ba điều ấy, chưa thấy có ai không tan quân, chết tướng bao giờ. Phàm được quân địch tỏa thế, thì có thể từ ngoài đánh được, địch bị chí thế thì có thể từ trong mà đánh, địch bị khinh thế thì có thể xông đánh, đó là tùy ba thế hại mà đánh vậy”.
Trong ngôn ngữ Việt Nam có nhiều từ nói về thế như: Tình thế, thời thế, xu thế, địa thế, ưu thế (thế lợi), thế chiến tranh, thế trận, thừa thế, khí thế. Trong các văn kiện tư liệu quân sự xưa nay, có nhiều nội dung nói về thế, như thế thắng, thế trên đầu thù, thế chẻ tre, thế trong miệng cọp, thế chiến tranh nhân dân, thế trận ba thứ quân, thế chủ động, thế bị động, thế bị bất ngờ, thế bí, thế đi lên, thế đi xuống.
Có người gọi thế là lực lượng với nghĩa như thời cơ là lực lượng, cơ động là lực lượng, cũng như trong kinh tế, người ta gọi thời gian là vàng bạc.
Tức là có thế lợi thì cũng như là lực lượng, được tăng thêm chứ không thể hiểu thế là lực lượng. Mà hiểu thế là cách đánh cũng không hoàn toàn chính xác.
Như vậy nghệ thuật “lấy thế thắng lực” là nhằm lập được thế ta, phá được thế địch, phải buộc địch đánh theo cách đánh của ta, bị điều khiển theo ý muốn của ta, mà ta lại tập trung được đánh đòn chủ yếu vào nơi hiểm yếu, trong lúc chúng phải phân tán. Các mặt mạnh của địch thì bị kìm chân, các mặt yếu bị ta khoét sâu, sở đoản của ta thì được khắc phục, sở trường lại được phát huy.
Thế trận vận động, chuyển hóa trên toàn chiến trường cbứ không tĩnh tại. Nó tạo ra sự phát triển dây chuyền từ phá vỡ địch đến khuếch trương thắng lợi và tiêu diệt địch, thời cơ địch ở thế thất bại rõ ràng, nguy cơ bị tiêu diệt bầy ra trước mắt, trong thế hoang mang rối loạn cao độ, không có cơ cứu vãn, nếu bị bồi ngay một đòn giáng quyết định cuối cùng.
Tóm lại:
Trong chiến tranh, đấu tranh vũ trang là hình thức đấu tranh đặc trưng, mà lực lượng vũ trang bao giờ cũng đóng vai trò quyết định, quân đội nhất là bộ đội chủ lực luôn giữ vai trò chủ yếu trong việc tiêu diệt lực lượng đối phương.
Do đặc điểm cơ bản của chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và giải phóng dân tộc của Việt Nam là luôn luôn phải chống kẻ thù xâm lược mạnh hơn, phải lấy ít địch nhiều lấy nhỏ đánh lớn cho nên dân tộc Việt Nam đã tạo ra một nghệ thuật quân sự riêng của mình qua mấy nghìn năm đấu tranh chống ngoại xâm.
Lịch sử Việt Nam chứng minh khi nào phát huy được nghệ thuật đánh giặc giữ nước truyền thống thì thắng.
Nghệ thuật đó được tập trung vào hai đặc trưng:
Một là, Nghệ thuật của toàn dân đánh giặc của chiến tranh nhân dân, lấy lực lượng vũ trang có chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân tự vệ làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc để chống lại những đội quân đông hơn, được trang bị tốt hơn của những nước có tiềm lực mạnh hơn. Phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng vũ trang và lực lượng chính trị, đấu tranh toàn diện trên các mặt quân sự, chính trị, ngoại giao, kinh tế, văn hóa tư tưởng, binh địch vận, kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy, và khởi nghĩa của quần chúng nhân dân là quy luật phát huy sức mạnh tổng hợp, là nguyên tắc.
Hai là, do lực lượng thường thua kém địch về số lượng và trang bị, nên nghệ thuật lấy thế mạnh để với lực nhỏ hơn thắng lực lớn hơn, là truyền thống quân sự của Việt Nam mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát là “lấy thế thắng lực”. Đặc trưng chủ yếu của nghệ thuật này:
- Tinh thần yêu nước của toàn dân, khí thế cao của lực lượng vũ trang bao gồm cả tinh thần chiến đấu, trình độ kỹ chiến thuật, tài nghệ chỉ huy theo quan điểm quý hồ tinh bất quý hồ đa, lấy chất lượng cao thắng số lượng đông.
- Phát huy cái mạnh và cách đánh sở trường của ta không cho địch phát huy cái mạnh, cái sở trường của chúng, lấy cái mạnh của ta đánh thẳng vào chỗ yếu của địch mà Trần Hưng Đạo đã khái quát ngắn gọn “địch cậy trường trận, ta cậy đoản binh - dĩ đoản chế trường là lẽ thường của binh pháp”.
- Nghệ thuật đánh địch một cách chủ động tích cực mưu trí linh hoạt, sáng tạo, bí mật bất ngờ, luôn nghi binh lừa địch, điều địch vào thế bị bất ngờ, thế bất lợi, thế bí, buộc địch đánh theo cách đánh của ta.
- Tư tưởng tiến công là tư tưởng chỉ đạo trong mọi hình thức tác chiến, tiêu diệt địch là mục tiêu trong tác chiến để đạt mục đích.
- Tập kích, phục kích là hình thức chiến thuật phổ biến theo quan điểm:
“Yếu đánh mạnh hay đánh bất ngờ,
Ít địch nhiều thường dùng mai phục”.
Truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc Việt Nam do quá trình lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm, thường là kẻ địch mạnh hơn nên có những nét đặc sắc riêng của nó. Ngoài những điểm riêng, nghệ thuật quân sự của ta vẫn phải theo những nguyên tắc chung phù hợp với quy luật của chiến tranh và đấu tranh vũ trang mà mọi lực lượng vũ trang trong hành động tác chiến phải tuân theo.
Phải phát huy được nghệ thuật quân sự độc đáo này trong tác chiến với kẻ thù mạnh, hiện đại, có vũ khí chính xác, uy lực lớn và có sức cơ động cao, có đủ phương tiện hiện đại để phát hiện đối phương và có sức mạnh về chiến tranh điện tử hơn hẳn là một yêu cầu hết sức cấp thiết đối với quân đội Việt Nam.
Đúng như Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã viết trong cuốn sách về bài giảng “đường lối quân sự của Đảng”.
“Điểm nổi bật trong chỉ đạo chiến tranh của ta là phải biết phát huy cái mạnh và cách đánh sở trường của ta, không cho địch phát huy cái mạnh và cách đánh sở trường của chúng, lấy cái mạnh của ta đánh thẳng vào chỗ yếu của địch, liên tiếp phá tan âm mưu chiến lược của chúng”1.
_________________________________
1. Võ Nguyên Giáp, bài giảng về “đường lối quân sự của Đảng”, Viện khoa học quân sự, 1977, trang 404.