Tự Đức được xem là một ông vua thông minh, có tâm hồn thi sĩ. Ông đặt tên cho cái lăng của mình là Khiêm Lăng, ý ông muốn tỏ cho người đời thấy rằng ông rất khiêm tốn. Nhưng thật sự Ông rất kiêu, tự cao, tự đại. Có lần ngồi trước mặt các ông Hoàng giáp Thám hoa, nhà vua đã biểu lộ rằng:
- Trẩm bất ưng thí, nhược ứng thí, tất trúng Trạng nguyên! (Trẫm không đi thi, nhưng nếu đi thi tất Trẫm sẽ đỗ Trạng nguyên).
Tuy tự nhận thế nhưng ông cũng biết chắc không có một người nào giỏi hơn mình công nhận rằng Tự Đức đáng đỗ Trạng nguyên. Như thế thì ông có thi thố tài năng đến mấy cũng không thể làm cho quần thần khuất phục. Tự Đức bèn nảy ra một "sáng kiến" cùng các ông đại khoa như Giao, Hàm, Đạt... làm một bài luận rồi rọc phách gởi qua Trung Quốc, nhờ vua Thanh lập một ban giám khảo chấm giúp.
Ít lâu sau, vua Tàu gởi trả lại bài đã chấm. Tự Đức giở ra xem với ý nghĩ thế nào mình cũng đỗ đầu. Nhưng không ngờ đầu cũng không phải Tự Đức, thứ hai không, thứ ba, thứ tư, cũng không nốt. Chỉ còn một bài nữa là bài thứ năm sau cùng là của Tự Đức. Ông đã đậu bét. Trên đầu bài của ông có một lời phê:
- "Bài này tỏ ra tác giả là một người học rộng, khí phách không phải là một người thường, nhưng một người không có tài mấy!"
Ý nghĩ của những người có quyền cao chức trọng thường có một khoảng cách khá xa với thực tế như thế.
Truyện 11
Khuyên vua bỏ tính lười biếng
Nguồn: thuyhu
Thu gọn nội dung
Vua Tự Đức lúc còn nhỏ bị bệnh đậu mùa, mặt rổ nói ngọng. Tuy được bà Từ Dũ chăm sóc nuôi dưỡng tận tình, nhưng ông thường đau yếu, hay lẫn tránh những hoạt động mệt nhọc. Từ khi ông lên ngôi, những buổi thiết triều quan trọng thường bị bãi bỏ. Nhất là vào những ngày đông tháng giá. Công việc trị dân bị đình đốn phiến tấu không dâng lên được. Bọn quan lại cơ hội thì nhân đó tranh thủ thu vén cho mình, những người có một chút tình với dân với nước thì lo lắng cho xã taÜc không vui. Tình hình đó ai cũng thấy nhưng không ai dám khuyên can vua.
Thấy tình hình kéo dài không ổn, trong đám quan lại bỗng có một người dám đứng ra làm việc đó. Người ấy là ông Phạm Phú Thứ người Quảng Nam, đỗ tiến sĩ giữ chức Thị Độc trong viện Tập Hiền. Phạm gửi cho Tự Đức một tờ sớ xin trích một đoạn như sau:
"Kẻ hạ thần có nghe: sự siêng năng là đức của thánh nhân nết tốt của quân tử. Xưa vua Thuấn nối ngôi vua Nghiêu, thiên hạ đã thái bình mà vẫn chăm lo làm việc, không chút rỗi rảnh. Vua Văn Vương cũng là bậc thánh, đức tốt, đủ làm phép tắc muôn nước, dậy mà còn chăm lo việc dân đến nỗi không rỗi ăn uống cho no. Hai vua ấy siêng năng là dường nào... Các liệt thánh (của ta) cũng không kém gì vua Thuấn vua Văn. Bởi vì sự trị an trong nước không tới thì lui, cho nên đấng nhân quân phải siêng lo luôn, rỗi đâu mà chơi nhởi. Nay đức Hoàng Thượng lên giữ Thánh nghiệp bốn biển theo về. Vậy mà kẻ hạ thần trộm thấy công việc chốn triều đình còn bề trễ, thần dân trong nước đang ngóng cổ trông ơn vua. Lúc này chính là lúc Hoàng Thượng chăm lo mới phải. Thế mà Ngài lên ngôi ba năm nay, nhân khi tiết hậu đổi thay, thường hay se mình, qua tiết thu đông càng thêm đau yếu. Các quan ngự y điều trị đã ra công chữa chạy, các đìng thần đang sớ thỉnh an, muốn nói mà không dám cạn lời. Nay nhờ phúc trời, Thánh thể đã mạnh khỏe. Ngài nên tự cường đừng nên trể nhác, bắt chước theo đế vương theo liệt thánh, còn e không thỏa lòng mong của thiên hạ. Vả chăng về tiết mùa đông, mưa nắng là sự thường. Thế mà chốn đại đình vắng thấy nghi chầu, nơi hậu uyển thường nghe tiếng trống, trể nải như vậy, tôi e trị hoá càng lùi. Chốn kinh diên không nơi giảng sách thì điều được điều mất không biết xét vào đâu, mà lời nói lành càng ngày càng vắng vẻ. Bầy tôi ít thấy vào ra mắt, thì phận vua tôi xa cách, mà tình kẻ dưới một ngày một sơ. Các quan phủ huyện các nơi, chực dẫn kiến mãi mà không được, ắt sự lợi sự hại trong dân sao thấu tai Vua, mà dân chánh ngày một kém đi. Phương chi việc trong nước không phải chỉ mấy điều đó mà thôi. Vậy kẻ hạ thần cúi xin Hoàng Thượng hãy nghĩ đến tiền nhân vì siêng năng mà làm nên thịnh trị, rồi Ngài nhớ lấy mà đừng quên, hãy gắng lấy mà đừng trể, nước nhà được yên ổn dài lâu cũng bởi đó mà ra. Kẻ hạ thần ngồi thấp nói cao, mình biết mình chắc có tội, ngữa nhờ lượng thánh xét cho!" - Phạm Phú Thứ.
Sớ ấy tâu lên vua Tự Đức đọc qua giận tái mặt. Nếu một người nào đó dám viết tờ sớ ấy chắc Tự Đức đã ra lệnh chém ngang lưng vì tôi phạm thượng. Nhưng với Phạm Phú Thứ thì Tự Đức không dám làm như thế. Lúc còn làm Thái Tử, nhiều lần Tự Đức đã đưa thơ nhờ Phạm duyệt và nhà vua đã biết tài của Phạm. Để cho khách quan, ông bảo đình thần hãy nghị tội Phạm. Bọn nịnh thần giá áo túi cơm đầu triều Tự Đức có dịp lập công lấy lòng vua đùng đùng kết tội ông, họ bảo ông là nói với vua mà dung nhiều lời quá đáng. Thế là Phạm bị tội đồ, phát phối vào làm lính ở trạm Thừa Nông (Nong bây giờ). Tưởng như thế là thoa? đáng rồi. Không ngờ cái tin đó đến tai bà Từ Dũ - mẹ vua Tự Đức. Bà Từ Dũ hỏi con:
"Ông Phạm dâng sớ hặc cái tính lười biếng của con thì ổng được lợi gì?"
Tự Đức đáp:
- "Ông không được lợi gì nhưng sao bề tôi lai nói với vua quá đáng như thế?"
- "Khi người ta thương thì người ta mới giận. Mà đã giận thì nói quá lời. Còn những người bẩm bẩm dạ dạ để được lòng vua chắc chi đã trung với vua?"
Tự Đức cúi đầu làm thinh, Bà Từ hỏi tiếp:
- "Ông Phạm vô Thừa Nông làm lính có buồn không?"
- Không những không buồn mà trái lại ông rất vui. Con nghe nói chiều chiều rảnh việc ông hay thả thuyền trên sông Thừa Nông ngâm thơ với biệt hiệu là Nông Giang!".
- "Thế thì người trượng phu không phải vui ở chức tước được người trên trọng hay khinh mà cốt ở việc làm chân chính!".
Tự Đức sụp lạy mẹ.
Sau đó Phạm Phú Thứ được triệu về Kinh khai phục chức Hàn lâm viện điển tích, biệt phái đến sở tu thư. Về sau, Phạm Phú Thứ trở thành một đại thần nổi tiếng thời Tự Đức.
Vì tình thế năm 1863 vua Tự Đức phải phê chuẩn Hòa ước 1862 nhường đứt ba tỉnh Biên Hòa, Định Tường và Vĩnh Long cho Pháp, nhưng ông vẫn tìm cách chuộc lại. Tháng 6-1863 Tự Đức cử một phái đoàn đem lễ vật sang Pháp và Y-Pha-Nho để điều đình xin chuộc lại ba tỉnh đã mất. Phái đoàn gồm có cụ Phan Thanh Giản làm chánh sứ, cụ Ngụy Khắc Đản, cụ Phạm Phú Thứ làm phó sứ, và một đoàn tùy tùng trong đó có viên đội trưởng Lương Doãn.
Phái đoàn rời Huế bằng tàu Écho, vào Sài Gòn chuyển qua tàu Européen để sang Pháp. Bọn Pháp ở Sài Gòn cử một sĩ quan người Pháp đi theo dẫn đường.
Khi tàu sắp vào Kênh Suez viên quan Pháp cho sứ đoàn biết:
- Theo thủ tục quốc tế, khi tàu của một vị sứ thần ngoại quốc đến một hải cảng nào, thì hải cảng ấy phải bắn 19 phát súng lệnh để chào mừng, và tàu phải thượng quốc kỳ của mình lên để đáp lễ. Vậy xin đại sứ thượng quốc kỳ của nước Đại Nam lên cột tàu để đáp lễ cùng chính phủ Ai Cập khi họ bắn súng chào.
Nước ta lúc ấy chưa có quốc kỳ. Lá cờ đuôi nheo thêu rồng là kỳ hiệu của nhà vua phái đoàn không được phép dùng. Cụ Phan bèn họp phái đoàn thảo luận. Phái đoàn hết sức bối rối, có ai ngờ trong việc ngoại giao lại có cái lệ chào cờ dị dạng như thế! Cờ đâu mà treo bây giờ. Ai nấy đều lấy làm nan giải. Trong khi các cụ lớn nổi tiếng mưu lược của triều đình Tự Đức đang bứt tóc bứt tai thì may có anh đội trưởng Lương Doãn lên tiếng:
- Bẩm ba cụ lớn, nước ta không có quốc kỳ, mà việc này thì cấp bách, không thể không giải quyết ngay được. Con thấy chiếc khăn gói của cụ chánh bằng lụa kiều cầu còn mới tinh, màu đỏ tươi đẹp quá ! Con xin đề nghị ba cụ tạm dùng cái khăn gói làm cờ treo đã. Sau về nước sẽ tâu lên Hoàng đế ngự tường.
Vì không còn cách nào khác, ba vị sứ thần đành chấp thuận lời đề nghị. Nhưng khi đưa "lá cờ" cho viên quan Pháp treo thì y bảo:
- Lá cờ này không thể dùng được bởi lẽ nó giống lá quốc kỳ của Ai Cập, sợ chính phủ Ai Cập hiểu lầm. Vì thế phái đoàn lại phải thảo luận nữa. Cụ Phạm Phú Thứ nói:
- Thì ta thêu quách bốn chữ vàng "Đại Nam Khâm Sứ" ở giữa cái khăn thì hết lầm lẫn với lá quốc kỳ Ai Cập chớ có khó khăn gì?
Ai nấy đều khen là thần diệu. Thế là khởi công ngay. Trong đoàn lính hộ vệ có nhiều tay thợ thêu lành, nên công việc không mấy chốc thì hoàn tất. Thế là khi tàu cặp bến, 19 phát súng lệnh bắn chào thì chiếc khăn gói có thêu bốn chữ "Đại Nam Khâm Sứ" thượng trên đỉnh cột tàu Européen phấp phới vẫy chào đáp lễ.
Truyện 13
Lai lịch nấm mồ chung của Thái Phiên và Trần Cao Vân
Nguồn: thuyhu
Thu gọn nội dung
Hai nhà yêu nước Thái Phiên và Trần Cao Vân cùng với vua Duy Tân làm cuộc khởi nghĩa chống Pháp nhưng không thành. Vua Duy Tân bị đày sang đảo Réunion, hai nhà yêu nước Trần Thái cùng hai đồng chí Tôn Thất Đề và Nguyễn Khắc siêu bị lên đoạn đầu đài tại Cống Chém gần An Hòa ngày 16 tháng tư năm Bính Thìn (1916). Hiện nay hai cụ nằm chung trong một nấm mồ gần chùa Châu Lâm và trước mặt chùa Từ Hiếu. Vì sao hai nhà yêu nước lại nằm chung một nấm mồ và lại chôn gần chùa, xin độc giả theo dõi lời tự thuật của bà Trương Thị Dương - Quang Phục được hai cụ Trần - Thái tin cẩn cho làm liên lạc với vua Duy Tân như sau:
- "Ngày 5/5 Ất Sửu tôi và người cháu gọi bằng dì là Đặng Khánh Di vừa đi đến cầu Văn Căn, bỗng một chiếc guốc bị gãy đôi, tôi nghi hoặc có điều gì không hay chăng.
Đến chùa Đại Trung gặp Ông trị sự chùa Nguyễn Hữu Cảnh, Ông giục tôi đi không do dự.
Ba giờ sáng ngày hôm sau (6/5) chúng tôi đi thẳng đến chỗ di hài hai cụ. Người giữ nấm mồ ấy là Thủ Tỵ, y có người con bị bệnh phung, làm chòi ở khít mộ để giữ. Người lạ tới nó bắt.
Tới nơi tôi cho thằng Phung ba đồng. Trả cho Thủ Tỵ sáu đồng và thuê năm người nữa với Thủ Tỵ hai mươi bốn đồng. Tôi nói mộ của ông chú tôi xin dời.
Hốt cốt lên, tôi lấy giấy tinh gói lại và bỏ vào hai thúng đầy. Để đó cho Thủ Tỵ lo, tôi đi trước qua cửa Chánh Tây ngồi đợi. Vì thế khi hốt cốt xong, bọn làm thuê thấy vắng tôi thắc mắc hỏi. Thủ Tỵ nói tôi thiếu tiền, phải qua trước mượn tiền, anh em gánh qua bên ấy sẽ trả đủ. Bọn họ sinh nghi dùng dằn mãi không chịu gánh. Nhưng vì thiếu tiền nên cuối cùng cũng phải gánh.
Nhận hài cốt ở cửa Chánh Tây, tôi trả tiền đủ rồi thuê hai chiếc xe kéo: một chiếc chở cốt, một chiếc chở Ông Cảnh và thằng Di. Xe đi thẳng lên tháp hoà thượng Kiết Ma gần chùa Chân Lâm. Tôi đặt cốt lên bàn, thắp hương ngồi giữ. Đến sáng ngày tôi thuê trùm Ngữ mua hai tiểu sành cùng giấy tờ, rượu, rửa sạch cốt bỏ vào tiểu.
Trãi qua chín năm mà hai di cốt vẫn còn nguyên vẹn: Cốt cụ Thái vàng rực, bỏ vào tiểu sành còn dư, phải lấy bớt giấy lót ra mới được. Còn cốt cụ Trần kém hơn. Lúc lâm chung cụ Thái mặc áo lương, máu dính sát vào cốt, gỡ ra nghe rạt rạt. Cụ Trần bận áo vải dù, cũng dính sát vào cốt. Tôi thuê người đào huyệt và đắp nấm mất bốn đồng.
Tưởng bí mật như rứa là yên. Không ngờ chừng mười một ngày sau được tin lính Phủ Thừa Thiên lên gác chờ bắt những người yêu nước. Tin này Ông Cảnh báo cho tôi. Tôi thừa đêm khuya thuê bốn người hết một đồng sau đem chôn nơi khác, nhưng để đánh lạc hướng chỉ chôn chung một mộ. Nơi đã dời đi, tôi vẫn cho đắp lại bằng nấm tử tế, rào dậu kỹ càng, làm như không có ai động chạm đến. Thế là nơi ấy có hai cái nấm mồ mà không có cốt người ! Đến năm 1956, tôi mới dựng bia, trong khắc hai hàng chữ Hán "Trần Cao Qúy Công, Thái Duy Qúy Công - Cái bia ấy có thừa một chữ "Duy" vì họ cụ Thái không có chữ lót" Đến nay nấm mộ ấy vẫn còn.
Sau ngày ba tỉnh miên Đông, rồi ba tỉnh miên Tây vào tay giặc Pháp, bà Từ Dũ rất đau đớn, ngày đêm khóc lóc không nguôi. Bà khóc vì một phần đất nước bị mất, một phần vì quê hương Gò Công của bà đã đổi chủ. Vì thế mà suốt ba năm vua Tự Đức không có một tiếng cười. Thương con bà Từ Dũ ra lệnh hễ ai làm cho vua cười được một tiếng bà sẽ hậu thưởng xứng đáng. Nhưng ai cũng biết vua Tự Đức là một người rất nghiêm, nghiêm đến mức tàn nhẩn, nên chẳng ai dám đùa với thần chết. Cuối cùng có đội Vung - một kép hát có tài hát hay, hề giỏi của đội Thanh Bình xin vào chọc vua cười. Hôm ấy đội Vung được các thái giám đưa qua Đại Cung môn rồi vào điện Càn Thành. Mới bước vào đội Vung thấy vua Tự Đức đang đi thơ thẩn trước điện, miệng ngậm điếu thuốc lá. Đội Vung liền giở hầu bao lấy thuốc ra vấn vấn. Vấn xong đội Vung sấn đến trước mặt vua Tự Đức và nói:
- "Cho tớ mời một hơi!"
Xưa nay chưa bao giờ có một người dám bạo gan đến trước mặt nhà vua làm một cữ chỉ binh dân như thế, cho nên nghe đội Vung xin mồi thuốc, vua Tự Đức phì cười,
- "Mi táo gan hè!"
Đội Vung sụp lạy:
- "Dạ, vì Linh Bà bảo con vào làm hề cho Hoàng Thượng cười!"
Vua Tự Đức nhận ra mặt đội Vung liền bảo:
- "May đội Thanh Bình chỉ có một Vung, chớ có hai Vung thì mi rụng đầu rồi!"
Đội Vung được vua phán như thế vội vàng lui ra, hỏi đương xin đến cung Thọ Minh (nơi bà Từ Dũ ở) để lãnh thưởng.
Truyện 15
Một lời nói đúng lúc làm sụp đỗ cả một đám quyền thần
Nguồn: thuyhu
Thu gọn nội dung
Năm 1792 vua Quang Trung mất, nhường ngôi báu lại cho con là Quang Toản. Lúc ấy Quang Toản còn quá trẻ, mọi quyền bính của triều đình Tây Sơn đều lọt vào tay Thái Sư Bùi Đắc Tuyên - câu ruột Quang Toản, Bùi không làm việc tại kinh thành Phú Xuân mà lại đem bộ hạ trú đóng tại chùa Thiền Lâm (ở chân đồi Quảng Tế ngày nay). Bá quan văn võ kể cả vua Quang Toản muốn trình tâu gì với quan Thái Sư Bùi thì phải thân hành lên chùa vào ban đêm (ban ngày quan thái sư bận đánh bạc và ngủ). Bùi Đắc Tuyên là người ít học, bất tài, thiếu thực tế mà lại có tính tàn bạo nên đã xúi giục Quang Toản giết hại các công thần - những người đã giúp vua Quang Trung làm nên sự nghiệp lớn. Trần Văn Kỷ (người làng Vân Cù huyện Phong Điền) là một tín thần của vau Quang Trung cũng không thoát khỏi sự kỳ thị của quan thái sư. Dưới triều đại Quang Trung, Trần Văn Kỷ luôn giữ chức trung thử lệnh - một nội thần luôn ở bên cạnh Quang Trung. Thế mà từ sau ngày Quang Trung mất Trần Văn Kỷ bị lột hết chức tước và đày ra làm lính ở trạm Hoàng Giang. Đẩy được kỷ đi rồi, Bùi Đắc Tuyên tiếp tục đẩy Đai Tư Đồ Võ Văn Dũng ra coi binh mã bốn trấn ở miền Bắc.
Trên đường ra Thăng Long Nhận chức, Võ Văn Dũng ghé lại trạm Hoàng Giang ngủ qua đêm với Trần Văn Kỷ. Đêm đó hai vị trung thần của Tây Sơn không chợp mắt được họ đã sa lệ khi nhắc đến công nghiệp vĩ đại của vua Quang Trung đang bị đe dọa sụp đổ. Khi đọc được ý nghĩ buông xuôi theo thời cuộc của bạn,Trần Văn Kỷ đã nói với Võ Văn Dũng: "Quan thái sư Bùi Đắc Tuyên chức vị đã cao tột bực, trong tay nắm quyền làm oai làm phúc, lại đẩy ông ra ngoài, nếu có sự chẳng lợi cho nhà nước, các ông phỏng còn giữ được đầu chăng? Bây giờ chẳng sớm liệu đi sau này ăn năn sao kịp?".
Trần Văn Kỷ là một nội thần được vua Quang Trung rất tín cẩn. Suốt đời làm trung thư lệnh cho Quang Trung, tất cả những lời tâu gửi của Kỷ đều sáng suốt, đúng đắn. Vì thế không những vua Quang Trung tin và trọng Kỷ mà tất cả những trung thần của triều Quang Trung cũng đều yêu kính Kỷ. Vì thế mà sau khi được Kỷ thức tỉnh, Dũng thấy ngay con đường sống của mình. Sáng hôm sau, Dũng không ra Thăng Long nữa, mà bất thần thúc quân bản bộ thần tốc quay ngược về Phú Xuân. Đến nơi Dũng hợp mưu với thái bảo Hoá làm cuộc "đão chánh" bắt toàn bộ phe cánh của Bùi Đắc Tuyên, tống ngục. Để tận diệt tay chân thân tín của Bùi Đắc Tuyên, phe "đảo chính" đã cử người vào Qui Nhơn bắt luôn Đắc Trụ Là con Bùi Đắc Tuyên đem về Phú Xuân thanh toán nốt.
Vua Quang Toản không thể ngăn chặn nổi, đành ôm mặt khóc mà thôi.
Một lời nói đúng lúc làm sụp đổ cả một đám quyền thần.
Nguyễn Thượng Hiền, người làng Liên Bạt (Hà Đông) sinh năm 1867, năm 17 tuổi (1884) đỗ Cử nhân. Năm sau (1885) ông đi thi Hội đã trúng cách, chưa kịp truyền loa thì xảy ra biến cố Kinh Đô thất thủ, ông phải bỏ về. Mãi đến năm Thành Thái 5 (1892) mở lại khoa thi ông vào thi Hội (chỉ vào kỳ Đình đôi) và ông đỗ Hoàng giáp.
Ông nổi tiếng tài hoa, nếu không xảy ra biến cố năm 1885 thì có lẽ ông đã đỗ Hoàng giáp từ ấy (khoảng 18 tuổi). Đỗ xong ông lưu lại Huế chờ làm Toản tụ quốc sử quán các gia đình vọng tộc có con gái đang tuổi lấy chồng hết sức trọng vọng ông. Người ta tìm mọi cách để mời ông đến nhà yến tiệc mãn ngày thâu đêm. Ông cảm thấy bị quấy rầy quá thể. Từ chối không được mà nhận lời cũng quá phiền. Ông bèn nghĩ ra một cái kế: đi ăn ông ăn rất xấu, ăn xong giả đò đút thức ăn vào áo, vào xắc để cho người ta khinh đừng ai thèm mời nữa. Nhưng kế ấy cũng không thành công nhưng ông chỉ nhận lấy con gái Tôn Thất Thuyết.
Giữa lúc ấy thì ông anh của ông mất sớm, gia đình đã nhắm ở Thanh Hóa (nơi gia đình ông sinh sống) cho ông một bà vợ. Không thể từ chối với người ông đã hứa (con gái Tôn Thất Thuyết - người đã theo vua Hàm Nghi và đã xuất dương cầu viện cứu nước) và lại càng không được từ chối với người mà gia đình đã chọn lựa cho ông. Cuối cùng ông đã phải quyết định một ngày cưới luôn hai bà: một bà chánh thất và một bà á thất.
Vua Minh Mạng đang ngự tại điện Cản Thành, nghe Võ Xuân Cẩn vừa đi phát chuẩn ở Nghệ An về muốn xin vào chầu, ông liền ra điện Văn Minh để tiếp.
Minh Mạng hỏi:
- Dân tình Nghệ An thế nào?
- Tâu nhờ ơn nước, nay dân khỏi đói.
Minh Mạng hỏi với giọng gay gắt:
- Nghe người ta nói: có bọn ăn cướp đã thành án, mà lại đào, thừa dịp phát chẩn này, cũng chen vào với lương dân, đứa lãnh gạo, đứa lãnh tiền, thầy biết mà giả lơ, không cho bắt; việc ấy thật hư như thế nào?
Võ Xuân Cẩn đứng lên sẳn sàng chịu tội, miệng tâu ngay thật:
- Chúng tôi thiển nghĩ, triều đình ta có đủ oai lực để bắt bọn hung đồ; bằng khi phát chuẩn nay mà làm luôn cả việc cầm phòng thì nhân tâm có thể ngờ lầm rằng: Triều đình đã hết kế. Chúng tôi sợ việc hay hoá dở, mất lòng tín nhiệm của dân.
Minh Mạng là một ông vua luôn luôn cho rằng mình là "chính đại quang minh" nên khi nghe lời tâu ngay thật của bề tôi ông rất cảm kích. Giọng ông trở nên tình cảm, bảo Võ Xuân Cẩn:
"Nhà ngươi nghĩ phải lắm. Đối với ai bao giờ cũng phải thị tin. Huống chi với dân, cũng như cha mẹ đối với con, há nở thừa khi cơ cầu để thi hành pháp luật hay sao!".
Khi quan thượng từ về, Minh Mạng trở lại điện Càn Thành, ông nói với Miên Thẩm:
- "Võ Xuân Cẩn khá lắm. Ít người biết thương dân và lo cho dân như thế".
Truyện 18
Một ông hoàng giáp làm bạn với "một cậu ấm tàng tàng"
Nguồn: thuyhu
Thu gọn nội dung
Ngày xưa việc kén chọn nhân tài đều qua các kỳ khảo hạch, các cuộc thi Hương, thi Hội và thi Đình. Thi Đình là lần thi cuối cùng tổ chức ngay trước sân vua, nhà vua ra đề và chính tay vua chấm. Những người được vào thi Đình là những người "ưu tú" nhất trong thiên hạ, sau khi thi đỗ, họ sẽ ra gánh vác việc nước.
Năm 1892 dưới triều Thành Thái, vì nhà vua còn nhỏ tuổi nên các quan Phụ chánh thay mặt vua ra đề thi Đình. Biết ý vua muốn làm một cái gì để cứu nước, muốn biết về tình hình thế giới và tìm được người có hiểu biết về cái mới để giúp nước nên đã ra cái đề:"Thiên hạ thế nhi dĩ hỷ", sau đó hỏi tiếp việc thế giới: nước mạnh lấn nước yếu, các nước phải giao lân với nhau như thế nào.
Trước tình hình thế giới đang tranh chấp nhau đi tìm thị trường buôn bán và hoàn cảnh nước Việt Nam bị Pháp đô hộ, ra đề như thế là đúng. Nhưng tiếc thay sĩ tử lúc đó nặng về từ chương, mù tịt việc thời sự và thế giới, trừ Võ Phạm Hàm và Nguyễn Thượng Hiền có đọc Dinh Hoàn Chí Lược viết được đôi trang, còn ngoài ra thấy đều ngậm bút, cố gắng hí hoáy viết dăm ba câu để nộp cho đủ quyển mà thôi. Trong đám sĩ tử ngậm bút ấy có một người tức giận với cái đề thi Đình, vì nó mà anh không đạt được mộng công danh. Y liền nghĩ đến việc trả thù. Một thì ăn cả hai ngả về không, Y bèn ra khỏi sân vua và chạy thẳng qua toà Khâm sứ Huế bên bờ nam sông Hương. Anh nhờ một người bạn báo với Khâm sứ:
- "Năm nay đề thi Đình có nói động đến thời thế!".
Bọn Khâm sứ đã saÜn mối nghi ngờ ông vua trẻ Thành Thái, nghe thế chúng liền cho người qua hỏi ngay. Các quan Phụ Chánh thấy thế hoảng sợ phải thay một cái đề khác. Nhưng đến như thế mà bọn thực dân Pháp vẫn chưa bằng lòng. Chúng buộc nhà vua phải giáng hoặc cách chức các quan Phụ Chánh đã dự ra cái đề thời thế không hợp thời ấy thì chúng mới yên tâm. Khắp đất Thần Kinh xôn xao về việc này. Nguyễn Lộ Trạch con một vị quan to, hiểu biết rộng nhưng không thích việc cử nghiệp nghe nói đến cái đề có liên quan đến thời thế ấy ông đã làm bài "Thiên Hạ Đại Thế Luận" để nói lên sự hiểu biết của mình trườc thời thế. Ông đưa bài này cho Nguyễn Thượng Hiền vừa đỗ Hoàng giáp xem. Nguyễn Thượng Hiền đọc xong và cho rằng trong đám đỗ đại khoa vừa rồi không có người nào làm được một góc bài ấy. đọc xong, Nguyễn Thượng Hiền nâng bút viết ngay một bài đề hậu để tỏ lòng khâm phục con người đã bị người đời lúc ấy cho là một "cậu ấm tàng tàng". Thượng Hiền còn tặng cho Lộ Trạch một câu đối:
"Ngã đường huề mỹ tửu, đăng cao sơn, tứ cố màng nhiên, hồi thủ đông minh, khang nhật xuất;
- Quân kim bàng thang giang, kiết mao ốc, sổ bôi túy hậu, nhứt thân lương lộ, bạn hoa miên".
Dịch nghĩa:
"...Ta thường mang rượu tốt lên núi cao, bốn phía mênh mông, một góc vừng đông trời ló mặt;
...Người nay dựa bờ sông, kết nhà lá vài chung say quỵt, đầy mình sương lạnh ngủ cùng hoa".
Từ đó hai người thân nhau. Một ông Hoàng giáp làm bạn với "Một cậu ấm tàng tàng". Đến khi Lộ Trạch mất (1898) toàn bộ sách vở, tài liệu của ông được Nguyễn Thượng Hiền cất giữ cẩn thận. Nguyễn đã trao những bí thư này cho Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng mượb đọc... Các ông này mở mắt ra với năm châu một phần nhờ tư tưởng của Nguyễn Lộ Trạch.