Phần 1
QUÊ HƯƠNG, GIA THẾ, CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA LÊ HOÀN BIÊN NIÊN SỰ KIỆN QUÂN SỰ CỦA LÊ HOÀN QUA GHI CHÉP CỦA CÁC TÀI LIỆU CHÍNH SỬ Nguồn: quansuvn.net
Thu gọn nội dung
Chỉnh sửa lần cuối bởi LSB-Sun: 13-01-2010 lúc 12:38.
Lý do: ...
Phần 1
QUÊ HƯƠNG, GIA THẾ, CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA LÊ HOÀN HÀ NAM QUÊ TÔI Nguồn: quansuvn.net
Thu gọn nội dung
GS. Trần Quốc vượng
Khoa Lịch sử. Trường Đại học KHXH&NV Hà Nội- Đại học Quốc gia.
Hà Nam không phải là nơi “chôn rau cắt rốn” của tôi - tôi sinh ra trên đất đầu núi Kinh Môn một tối mùa Đông buốt giá và rơi vào định mệnh “ngọn lửa đầu non”.
Hà Nam cũng không phải là nơi tôi “trở thành chính mình”, thành Trần Quốc Vượng. Quyền năng trên cao và dưới trần đã quy giản cái không gian văn hoá của tôi là vùng trời - đất Đại học Quốc gia Hà Nội, học ở đấy, rồi dạy ở đấy, đến nay đã gần 50 năm tròn.
Tô Hoài bảo: mỗi nhà văn, nhà nghiên cứu dều có một vùng đất làm ăn, lấy tư liệu, đi đi lại lại, để từ cái riêng suy ngẫm ra một cái gì chung của Đất nước. Với các bạn tôi, Từ Chi chẳng hạn, đó là xứ Mường, Đoàn Giỏi, Sơn Nam là “đất rừng phương Nam - U Minh thượng, hạ”...
Tôi là kẻ phiêu lãng, lãng du Bắc - Trung - Nam, viết tiểu ký, tạp lục nhăng nhít, và nói như Vương Hồng Sến, “hơn nửa đời hư”, song nghiệm ra vẫn còn chút gì luyến lưu, đọng lại ở Cổ Loa thời tam thập, ở Hội An thời “tri thiên mệnh” và đặc biệt ở Hà Nội, cái cối xay của con gà què quanh quẩn...
Hà Nam là một góc rất khác trong tâm thức tôi. Đấy là một phức Quê Cha - Đất Mẹ để hồi niệm, nhung nhớ “những ngày thơ ấu’, “những ngày kháng chiến 9 năm” tản cư đánh giặc và, khi mái tóc đã nhuốm màu sương khói mùa thu, khi Văn Cao “ngước mắt về phương Thăng Long thành cao đứng, khi chiều chiều, Dân gian quê tôi” “ra đứng cổng chùa” “trông lên Hà Nội” thì tôi, theo quy trình “đường trở về”, từ mảnh đất núi Nùng, sông Tô thi thoảng vời trông về Quê Mẹ Quê Cha mà không sao ngăn nổi “ruột đau chín chiều’? Biết làm sao được, với những va đập tâm linh, ảnh xạ và nội tâm hoá những va đập của cuộc đời, phần nhiều là vô thức.
Tôi viết mấy dòng này trong thâm tâm là để trả nghĩa Quê Hương. Có ai đã nói rằng: Bất hạnh thay cho những ai không có quê hương để mà yêu mà quý, để mà tưởng hồi và nhung nhớ? Đã hàng mấy chục năm, tôi tiếng rằng đã “tắt lửa lòng”, không sao tìm lại được, ngoài nhạc ngoài thơ, con “đường về làng tôi xa xôi lắm, cách con sông và mấy lá đò”, với “bóng cau bên thềm”, với “ vàng bướm bên áo”, với “qua lá cành, ánh trăng lên dịu dàng”, với cây gạo, cây đa bến cũ...
May thay, tôi, dù muộn đã hoá giải lòng mình, hoá giải nhiều khúc mắc, để tìm lại một thiên đường tưởng dường như đã mất dưới trần gian và còn kịp trở về với sông Châu - núi Đọi trước khi xa mãi, không phải để “ôn nghèo nhớ khổ” để “vùng lên” mà là để “ôn cố nhi tri tân” mà lắng dịu tâm hồn...
01 . Ông tôi, một nhà Nho cuối mùa, ham vui hơn là hám danh, khi về hưu, về già đã trồng nhãn Hưng Yên suốt dọc con đường từ làng Lê lên chùa Đọi rồi thỉnh thoảng chống gậy “thanh nhàn lên đỉnh núi cao, đá mừng mạc khách, động chàm chủ nhân, lâng lâng chẳng chút bụi trần, bâng khuâng núi Thiểm non Thần chi đây, am Tiên, cảnh Bụt xinh thay, đường mây thăm thẳm, thang mây bước vào”. ông bước vào, bạn rượu bạn trà cùng sơ cụ giữa giường mây để hoà điệu cùng tâm thức Việt Nam “Nho-phật-lão hòa đồng”, để hồi tưởng những sự kiện lịch sử xảy ra quanh núi, trên núi, vua Tiền Lê cày ruộng tịch điền, vua Hậu Lý dựng tháp, dựng bia mở hội chùa nô nức gần xa. . .
Ruộng Lê hoa cỏ ngạt ngào
Rêu in tháp Lý bia cao chưa mòn
Cụ Tam Nguyên Yên Đổ bậc đàn anh đồng quận với ông tôi còn để lại hai bài thư nôm Chơi núi Long Đọi, Nhớ cảnh chùa Đọi cùng hai bài thư chữ Hán Vọng Đọi Sơn, ức Long Đọi Sơn . . .
Đội Điệp là danh sơn: Điệp là núi Trâu Vàng kim Ngưu), Đọi là cả một đội Rồng (Long Đội). Với con người, có mặt quanh núi Đọi từ thời Đông Sơn, mộ quan tài hình thuyền trên dưới hai nghìn năm trước. Núi đã được thiêng hoá rồi với Tiền Lê - Lý - Hậu Lê, núi Đọi đã trở thành “Nam thiên đệ tam động “ (xem đại Nam nhất thống) cho ông tôi ứng xử với núi Đọi, vừa kính trọng, vừa thân mật. Ông giúp nhà chùa trồng cây quanh vườn chùa, quanh sườn núi. ông cho xây sẵn một sinh phần, khi mất con cháu chôn cất ông, đầu hướng về đỉnh núi, chân khua nhẹ nước sông Châu. Ông lấy tên hiệu là Châu Thần (Kẻ bầy tôi ở sông Châu).
Chống gậy đứng đầu non, ông trò chuyện cùng non - nước:
…Núi này kể mấy muôn Xuân?
Hoàng vương đế bá mấy lần lại qua?...
Sử đáp chắc chắn: Lại qua nơi này, có vua Lê Đại Hành quê Ninh Thái - Thanh Liêm, có vua Lý Nhân Tông sùng Phật, có vua Lê Thánh Tông sùng Nho, có cả mấy bá tước nhà Mạc vì dân vì nước mà dựng lại bia cổ, sửa lại chùa khiến cho sau đời Lý năm trăm năm một nơi thắng cảnh trong chốn tùng lâm lại được mới mẻ” (xem Văn bia chùa Đọi, mặt sau bia Lý). Ông tôi hỏi núi:
Hỏi: Sao núi vẫn chưa già?
Núi cười: cuộc thế vui mà mảng chơi!
Tôi rất thích cái thi tứ núi cười (chân Núi Đọi có 9 hàm rồng mở miệng). Núi Đọi cười, vì núi cũng như người, như ông cháu tôi, ham vui, mảng chơi cùng trần thế?
Dù ham vui, cũng có lúc tôi tỉnh, tìm sách đọc, hỏi bạn địa chất Trần Đình Nhân về Tuổi Núi. Anh trả lời: Vào nguyên đại Trung sinh, cuối kỷ Trias, cách ngày nay khoảng 200 triệu năm !
Núi hai trăm triệu tuổi vẫn là núi non!
Có tạo sơnở hai rìa sông Nhị mà giới địa học gọi là “đứt gẫy sông Hồng”, mà cũng có sụt lún ở phần giữa bán bình nguyên Trung sinh mà phần còn lại chính là những núi đồi sa phiến thạch hay đá hỗn hợp, như Đọi, Điệp, Kẻ Non và dải đồi núi đất Thanh Liêm, cho tới tận những núi An Lão, Chương Sơn mạn Bình Lục, ý Yên, Vụ Bản. . .
02. Giới địa - văn hoá học ngày nay - mà tôi là một thành viên chầu rìa bên lề mép - xếp Hà Nam quê tôi, quê hương cụ Tam nguyên Yên Đổ, cụ nghè Châu Cầu Bùi Dị, cụ Kép Trà, cụ Cử Kiến, cụ cử Văn Ấp, cụ tú Trần. . . vào Ô trũng tứ giác nước: sông Hồng (Đông) - sông Đáy (Tây), sông Châu (Bắc) - sông Vị Hoàng (Nam). . .
Đấy là một vùng châu thổ tích tụ trũng phù sa mới xen đồi sót, một cái trũng vừa tự nhiên vừa nhân vi, bao quanh bởi đê sông Châu, sông Hồng, sông Đáy, sông Nam Định. . . Đấy là vùng sinh thái đồng chiêm trũng điển hình ngày trước nơi con người đất Việt trời Nam, Sơn Nam “sống ngâm da, chết ngâm xương” xưa kia (ô 29 trong bản đồ cảnh quan châu thổ sông Hồng tỉ lệ 1:100.000), nơi có những đàn bà hay lam, hay làm, thắt lưng bó que, xắn váy quai cồng” theo chữ của cụ Hoàng và Nguyễn Khuyến, vùng cụ Kép Trà gọi là đồng cò trắng . . .
03. Ông tôi ở cuối mùa quân chủ - Nho thích hỏi Núi; tôi ở đầu mùa dân chủ - mác xít thích hỏi Người. Hỏi người và học - hỏi - hiểu - hành qua khảo cổ các sản phẩm văn hoá của con người.
03.1 . Con người và những sản phẩm văn hoá của nó thì đầu tiên đã tìm thấy dọc dài những hang động của hai bên dải núi đá vôi 99 ngọn chạy dài từ Tản Viên - Viên Nam trở xuống Gia Viễn, Ninh Bình, sườn Tây (Hoà bình) đậm đặc hơn, sườn Đông (Hà Tây - Hà Nam) rải rác hơn, song đều là một nền văn hóa thung lũng Hoà Bình - Bắc Sơn, tuổi vạn năm đầu thời cách mạng Đá Mới của những dân cư Đen - Vàng tiền Việt Mường. Nếu được phép, tôi sẽ khuyến nghị lãnh đạo Hà Nam ký hợp đồng mời các nhà khoa học về vài năm, xuôi thuyền dọc sông Đáy, thăm thú các hang động dọc dài Kim Bảng - Ba Sao - Bồng Lạng - Chi Nê cùng các thung mơ, vườn cà phê tại các đồn điền Le Breton, Borel, Đỗ Đình Thiện cũ . . . Tôi đoán chắc với 3 mùa điền dã trước một dự án tiền khả thi về xí nghiệp xi măng Bút Sơn như thế, Hà Nam sẽ có một sưu tập rất quý về thời đồ đá của cư dân sinh sống ở rìa tây nam châu thổ sông Châu - Đáy, Nhuệ - Hồng . . .
03.2. Vùng ven núi ven đồi sót Kim cảng, Thanh Liêm, Duy Tiên-bình Lục và cả trung tâm Nam Xang (Xương) - Lý Nhân đã trở thành một vùng văn hoá Đông Sơn miền trũng từ trước sau hai ngàn năm cách ngày nay. Ai cũng đã biết những phát hiện nổi tiếng về trống đồng Ngọc Lũ, núi Đọi, Yên Bắc, Bạch Thượng, Vũ Bị. . .
Trống Ngọc Lũ Hà Nam đã trở thành biểu tượng của Văn hiến Việt Nam đặt giữa tòa lâu đài Liên Hiệp quốc ở New York Hoa Kỳ. Trớ trêu thay, một phiên bản ít triệu đồng của nó cho đến nay không hề có mặt ở thị xã Hà Nam, ở núi Đọi cho con cháu Hà Nam thi thoảng đến xem và học hỏi cha ông.
Tiết kiệm ư? Tôi nghĩ, chỉ cần chống tham nhũng ở một địa phương nào đó một năm thôi, thu hồi lại tài sản xã hội chủ nghĩa bị lũ mọt dân làm thất thoát, theo tôi, cũng thừa sức làm nhà truyền thống miền chiêm trũng Sơn Nam ở thị xã, ở núi Đọi với một phức trống - thạp đồng đúc lại. Và những quan tài hình thuyền với đồ đồng, đồ sơn, cả một chiếc cày chìa vôi Thanh Sơn-Châu Sơn (đều thuộc Kim Bảng) đủ sức hấp dẫn hàng vạn ngàn du khách, nhà du khảo trong ngoài nước.
Có điều ngành Văn hoá-du lịch Hà Nam chưa biết “làm ăn” hay chưa được bật đèn xanh để phát triển đó thôi ? Ai đời, cho đến nay, Đọi Sơn hà vùng di tích phát hiện được nhiều sọ cổ chủ nhân văn minh Đông Sơn- Âu Lạc - Việt cổ nguyên vẹn nhất của cả nước, với quan tài gỗ hình thuyền được định niên đại C14 chính xác nhất (> 2000 năm BP +/- Ax) mà vẫn còn đang “xếp xó, ở rìa toà nhà mới của bảo tàng Lịch sử Quốc gia Hà Nội?
04. Tôi không phải là một dân kẻ quê Châu Giang - núi Đọi để nói vơ vào cho quê hương tôi, để cố tìm ra là quê tôi cũng có một ông Vua: Vua anh hùng Lê Hoàn thắng giặc xâm lược Tống. Từ đầu thập kỷ 1980, khi Thanh Hoá giương ngọn cờ Ba Nhất, người ta đổ xô vào xứ Thanh ca ngợi; xứ Thanh đã có Lệ Hải bà vương (Bà Triệu), có vua Lê, chúa Trịnh, chúa Nguyễn rồi vua Nguyễn nữa. . . mà người ta còn “nỡ lòng” đưa cả Tiền Lê Đại Hành hoàng đế cho lấy xứ Thanh làm quê hương? Ngay khi đó - khi có mỗi một tỉnh Hà - Nam - Ninh, tôi đã nói ở “Hội thảo khoa học về quê hương Lê Hoàn” (1982) rằng: “Nói xứ Thanh là quê ngoại Lê Hoàn hay là quê bố nuôi Lê Hoàn thì tạm nghe được. Còn quý vị nào nói xứ Thanh là quê hương Lê Hoàn thì xin hãy dè chừng…”
Tôi nói vậy, không vì nổi trội lên ở trong tôi khi đó một tình cảm địa phương chủ nghĩa (tuy, nói cho cùng, cái cảm thức địa phương rồi sa đà vào địa phương chủ nghĩa thì bao giờ cũng có thật, ngay cả ở thời Cộng hoà Dân chủ Việt Nam) mà là một cảm thức khác, tạm gọi là KHOA HỌC.
Mà khoa học thì cần trước hết sự khách quan.
Khách quan, là ở Ninh Thái - Bảo Thái Thanh Liêm có cả một khu mộ tổ Lê Hoàn, có đền thờ Tổ, có nhiều di tích hữu thể khác liên quan mật thiết đến nhà Tiền Lê (xem bài của Nguyễn Minh Tường và nhiều người khác trên tạp chí Sông Châu).
05. Tôi chỉ xin nhấn mạnh 01 điểm:
05.1. Trần bình Trọng - tức Bảo Nghĩa vương là người gốc họ Lê, ở quê nay là xã Liêm Cần, huyện Thanh Liêm, dòng dõi Lê Đại Hành, được vua Trần tin yêu, ban quốc tính và phong Bảo Nghĩa hầu, người “quyết tử” ở khúc sông Thiên Mạc (= 01 đoạn sông Châu chảy qua vùng Mạc Xá Châu Giang . . . ) với lời nói bất tử:
“Ta thà làm quỷ nước Nam chứ
không thèm làm vương xứ Bắc…”
05.2. Huống chi, Lê Đại Hành, còn về Đọi Sơn cày ruộng tịch điền!
05.3 . Ở Thanh Liêm, cái “trũng” này còn đọng biết bao huyền tích mà đa phần gắn bó với thân phận của nhà Tiền Lê. Đó là “văn hoá Liễu Đôi”, là bản trường ca “Hoàn vương sự tích” mà Bùi Văn Cường - Nguyễn Tế Nhị, cặp bài trùng tác giả Văn hoá Liễu Đôi vừa tìm thấy và vừa được giải thưởng lớn của Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam. Đó là phần văn hoá vô thể của không gian văn hoá Lê Đại Hành tại Hà Nam.
06. Nếu có ai hỏi tôi về một nét bản sắc khác của tiểu vùng văn hoá Hà Nam là gì, chắc chắn tôi sẽ dẫn ra Đền nàng Mỵ Ê ở Lý Nhân; cái nhân cách của người cung phi xứ Chăm pa đó đã được nâng cao lên thành nhân cách cao cả trong sạch của phụ nữ nói chung và được “thiêng hoá” khi dân gian Hà Nam lập đền thờ và cho đến nay vẫn phụng thờ.
Nhân cách plụ nữ lại được bi kịch hoá một lần nữa trong câu chuyện Vợ chàng Trương hàm ẩn một triết lý dân gian rất tuyệt vời “Là bóng hay là hình?”- người đàn bà Việt đã tự phân đôi mình thành cặp vợ chồng quấn quít nhau như hình với bóng, trong khi đó ở tầng dưới của câu chuyện là cái dại khờ ghen tuông vớ vẩn gây chết người của người đàn ông Việt Nam. Câu chuyện của Người thiếu phụ Nam Xang (La jeune dam de Nam Xang) từ lâu đã được thạc sĩ ngôn ngữ học Phạm Duy Khiêm kể lại bằng tiếng Pháp và được dịch lại bằng tiếng Anh, từ đó hội nhập vào dòng nhân văn của nền văn chương thế giới.
Câu chuyện này cũng đã được dựng thành phim ở Pháp. Mà đó rốt cùng là văn hoá dân gian vô thể, được hữu thể hoá bằng ngôi miếu Vợ chàng Trương hiện vẫn còn được giữ gìn và tôn tạo bên bờ sông Châu ở huyện Lý Nhân - không xa đền Mỵ Ê. Hai ngôi đền này xuất lộ bản sắc, tâm thức dân gian Sơn Nam Hà Nam tôll vinh Người ph!I nữ mà triết gia Gu-ê-the của nước Đức châu âu khái quát lên thành Nguồn vô tận nữ tinh (L’etemel féminin). Đấy cũng là nét phản ánh nguyên lý Nữ - nguyên lý Mẹ của nền Văn hoá việt Nam.
07. Tôi cũng còn muốn tâm sự nhiều điều nữa, khác cùng bạn đọc về tính cách và bản sắc văn hoá Hà Nam - Sơn Nam. Ví dụ về công nghệ truyền thống : Biệt tài thợ đấu xứ Nam đào mò dưới nước những khuôn đất vuông vắn lớn đặng vượt thổ, tôn nền, làm nhà cao ráo giữa vùng lầy trũng, kèm luôn theo đó là bản sắc AO và hệ sinh thái AO rất đặc sắc của người Việt châu thổ Sơn Nam. Không có AO Sơn Nam làm sao nảy sinh cả một nền văn hoá múa rối nước mang hoàn toàn bản sắc Việt Nam?
Lại một ví dụ khác mà tôi đã đem chất vấn nhà văn Chu Văn thời Hà - Nam - Ninh còn là một: Vì sao đất Nam Hạ - Nam Hà - Hà Nam - Nam Định lại nảy sinh những nhân cách văn học lớn:
- Cụ Tam nguyên Yên Đổ, Cụ Tam nguyên Vị Xuyên rồi - Tú Xương của thời cận đại và ngay sau đó là những Nam Cao, Nguyễn Bính cùng Vũ Tú Nam, Vũ Cao, Văn Cao. . . của một thùa chưa xa? Tôi đã và sẽ dùng lý thuyết Địa - văn hoá để cắt nghĩa những hiện tượng đặc sắc này.
Chỉnh sửa lần cuối bởi LSB-Sun: 13-01-2010 lúc 12:37.
Lý do: ...
Phần 1
QUÊ HƯƠNG, GIA THẾ, CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA LÊ HOÀN TÊN LÊ ĐẠI HÀNH ĐẶT CHO MỘT ĐƯỜNG PHỐ Ở HÀ NỘI, VÌ SAO? Nguồn: quansuvn.net
Thu gọn nội dung
PGS. Lê Văn Lan
Viện Sử học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam
Hà Nội ta có một đường phố (và một ngõ phố) mang tên Lê Đại Hành.
Theo cụ Nguyễn Vinh Phúc, phố Lê Đại Hành dài 450 mét, chạy trên phần đất của hai thôn Hậu Phong Vân và Long Hồ, thuộc tổng Tả Nghiêm, huyện Thọ Xương ngày xưa. Tới giữa thế kỷ XIX hai thôn này hợp lại thành thôn Vân Hồ, thuộc tổng Kim Liên (là tên mới đổi, cũng vào lúc này, của tổng Tả Nghiêm). Còn ngõ Lê Đại Hành thì nối đường phố này với phố Thái Phiên, xưa thuộc khu vực đàn Nam Giao đời Lê. Chứng cứ ngôi nhà bia có tấm bia “Nam Giao điện bi ký” (khắc năm 1679), trước năm 1926 (là năm người Pháp mở đường qua khu vực này, phá nhà bia, đem bia về đặt ở khu Bảo tàng Lịch sử bây giờ) thì bia và nhà bia vẫn ở chỗ đó.
Chúng tôi muốn trình bày đôi điều về tên gọi Lê Đại Hành được đặt cho con đường và ngõ phố vừa giới thiệu qua ở đây.
Vẫn theo cụ Nguyễn Vinh Phúc thì ở thời Pháp thuộc, chỗ này là “phố Hoàng Cao Khải”. Tên Lê Đại Hành được thay cho tên Hoàng Cao Khải, từ sau Cách mạng tháng Tám. Và nguyên uỷ của tên Lê Đại Hành, là (nguyên văn, sách Phố và đường Hà Nội, Nxb. Giao thông vận tải, N. 2004, tr. 336) như sau: “Đại Hành được coi là miếu hiệu của Lê Hoàn”.
Vì sao, trước hai chữ “miếu hiệu’ lại có ba chữ “được coi là”?
Mọi người đều biết: miếu hiệu - tên để thờ ở Thái miếu hoặc thuỵ hiệu - tên đẹp - của các bậc vua chúa ngày xưa, thường chỉ có (tức: ra đời, được đặt định) vào lúc kết thúc thời gian “quàn” (có thể nhanh chóng hoặc lâu dài, thậm chí dài đến cả năm trường) cái thân xác đã băng hà của các vị ấy ở toà điện thiêng nơi Cấm Thành. Chẳng hạn như vua Lê Thánh Tông, băng hà ngày 30 tháng Giêng năm Đinh Tỵ (1497) nhưng đến ngày 24 tháng Chạp năm ấy, mới có việc-như chép trong Đại Việt sử ký toàn thư “dâng tôn hiệu cho Đại Hành hoàng đế là: Sùng Thiên Quảng Vận Cao Minh Quang Chính Chí Đức Đại Công Thánh Vãn Thần Vũ Đạt Hiếu, Thuần Hoàng Đế, miếu hiệu là: Thánh Tông”, để rồi đến cuối xuân năm sau (Mậu Ngọ-1498) tháng Ba ngày 8, đưa quan tài về Lam Kinh, an táng vào ngày 28 tháng ấy !
Trong đoạn sử bút vừa được dẫn nguyên văn, có mấy chữ đáng chú ý, là: “dâng tôn hiệu cho Đại Hành hoàng đế”. Tức thị, lúc được “dâng tôn hiệu” (vào ngày 24 tháng Chạp, cuối năm Đinh Tỵ) thì lúc ấy (tức thị: từ ngày 30 tháng Giêng đầu năm chính thức băng hà, cho đến khi ấy) trong thời gian được quàn ở cung Bảo Quang, tên để gọi Lê Thánh Tông (không phải là Thánh Tông mà) là Đại Hành?
Sử thần nổi tiếng ở thế kỷ XIII là Lê Văn Hưu đã có lời giải thích rõ ràng về cái tên “Đại Hành” này: “Thiên tử và hoàng hậu, khi mới băng, chưa chôn vào sơn lăng, thì gọi là Đại Hành hoàng đế, Đại Hành hoàng hậu. Đến khi lăng tẩm đã yên, thì họp bầy tôi, bàn xem đức hạnh hay hay dở, để đặt thuỵ hiệu, không gọi là Đại Hành nữa”. Như vậy, rõ ra một quy luật nhân xưng, của và cho các đấng bậc trưởng thượng ngày xưa, rằng: Đại Hành chỉ là một cái tên dùng tạm, trong lúc các vị đã băng hà mà chưa được an táng, thế thôi.
Vậy thì, Lê Hoàn, mất năm 1005, đến nay đã là đúng được một nghìn (1.000) năm, cớ sao lại vẫn cứ phải mang cái tên tạm thời là Lê Đại Hành mãi thế Lại vẫn chính là Lê Văn Hưu ở thế kỷ XIII đã có lời giải thích như sau: “Lê Đại Hành thì (lại khác người mà) lấy Đại Hành làm thuỵ hiệu để truyền mãi đến nay là cớ làm sao?. Vì: Ngọa Triều là con bất tiếu, lại không có bề tôi Nho học, để giúp đỡ mà bàn về phép đặt thuỵ hiệu, cho nên thành ra là thế!”.
Như vậy, theo Lê Văn Hưu, có hai nguyên nhân khiến Lê Hoàn vẫn cứ mãi phải mang cái tên đặt tạm lúc mới mất. Về nguyên nhân “không có bề tôi Nho học giúp đỡ mà bàn về phép đặt thuỵ hiệu”: Khi nhấn mạnh điều này, vị Bảng nhãn khoa thi Nho học năm 1 247 Lê Văn Hưu, hẳn là muốn thiên về việc quảng bá cho đạo Nho, ở giữa một triều đại sùng Phật là nhà Trần đương thời, hơn là muốn chê trách sự thể không đủ trình độ tri thức ở thời Tiền Lê.
Bởi vì thực tế, chắc chắn sử quan họ Lê biết - điều mà Đại Việt sử ký toàn thư đã chép rõ-là Lê Hoàn từng có dưới bệ rồng những bậc đại sư, như Pháp Thuận, Ngô Chân Lưu, đặc biệt là thái sư Hồng Hiến - “người phương Bắc, thông hiểu kinh sử, thường theo các cuộc chinh phạt, làm quân sư, cùng là khuyên vua lên ngôi, mưu bàn việc nước, có công lớn, vua tin dùng như tâm phúc”. Thế thì, cái nguyên nhân “Ngọa Triều là con bất hiếu” có phần chính xác hơn. Vì đúng là kẻ kế vị chiếc ngai vàng hoàng đế nước Đại Cồ Việt của Lê Hoàn này, không xứng đáng, “không giống ông cha” tức : “bất hiếu”!
Tuy nhiên, nói cho đầy đủ, thì Ngọa Triều dù sao cũng chỉ là một đầu mối - chắc chắn là đầu mối chính - của tình thế rối ren cực kỳ, sau khi Lê Hoàn mất. Và chính cái đại cuộc rối ren nghiêm trọng ấy, mới đích thực là nguyên nhân và hoàn cảnh khiến cho cả triều đình Hoa Lư và các tôn vương kế vị (đầu là Trung Tông (Long Việt) sau là Ngọa Triều (Long Đĩnh) không còn lòng dạ nào mà nghĩ đến việc đặt cho Lê Hoàn một miếu hiệu (thuỵ hiệu) để dùng lâu dài nữa?
Lại xét cho sâu kỹ hơn chút nữa, thì thấy thêm rằng: nếu cái đại cuộc rối ren sau khi Lê Hoàn mất mà có đầu mối chính, quy về cho kẻ “bất tiếu’ Long Đĩnh (Ngọa Triều), thì chỗ và lúc sinh ra cái đầu mối ấy, có thể và dường như lại chính là... Lê Hoàn.
Bởi vì, hệ thống lại tất cả công việc và công tích mà Lê Hoàn đã để tâm và tiến hành trong 24 năm “ở ngôi”, ta thấy ông đã tính và làm rất tốt, thậm chí cực hay các việc: quân sự, ngoại giao, nội chính (tức dẹp loạn), kinh tế, đặc biệt là nông nghiệp (cày tịch điền), giao thông, thuỷ lợi (“kênh nhà Lê”), cả văn hoá nữa (khôi phục tục bơi chải)...
Nhưng về phương diện chăm lo cho thế hệ thứ hai trong gia đình (hoàng tộc, quý tộc) của mình nói chung, và nói riêng là việc giáo dục dạy dỗ chúng, thì hầu như không có động thái gì, ngoài việc ban phát quyền lợi cho chúng hưởng thụ (tức: cho đứa này được hưởng (“đóng ở) miền đất này, đứa kia được hưởng (“đóng ở”) miền đất kia).
Sử thần Lê Văn Hưu, hơn 200 năm sau Lê Hoàn, có nói đến - nguyên văn - một “lỗi ở Đại Hành là không sớm đặt thái tử”. Thật ra, chỉ là nói theo công thức một điều cụ thể trong tổng thể phương thức ứng xử với con cái của Lê Hoàn mà thôi.
Bởi thế, chính ở chỗ yếu này của Lê Hoàn, ta thấy sử thần tài danh họ Lê ở thế kỷ XIII đã tìm được một cách so sánh rất hay, giữa Lê Hoàn (Lê Đại Hành) và Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) để rút ra và nêu lên kinh nghiệm và bài học lịch sử rất có giá trị về việc cần rèn tạo sắp đặt chặt chẽ, chỉn chu lực lượng và đội ngũ kế vị, để chuyển giao việc triều chính, quốc gia đại sự, từ đời trước cho đời sau.
Xin đọc kỹ lại đoạn sử bút sau đây của Lê Văn Hưu ở thế kỷ XIII, được Ngô Sĩ Liên dẫn lại vào thế kỷ XV: “Có người hỏi: Lê Đại Hành với Lý Thái Tổ ai hơn? Thưa rằng: Kể về mặt trừ dẹp gian trong, đánh tan giặc ngoài, làm mạnh nước Việt ta, ra oai với người Tống thì Lý Thái Tổ không bằng Lê Đại Hành (là người) có công lao gian khổ hơn. Nhưng về tỏ rõ ân uy, lòng người suy tôn, hưởng nước lâu dài, để phúc cho con cháu thì Lê Đại Hành không bằng Lý Thái Tổ (là người) biết lo tính lâu dài hơn”.
Như vậy đó, Lý Công Uẩn “biết lo tính lâu dài hơn” trong việc “để phúc cho con cháu’. Vì là người đã được học hành, rèn tạo tri thức và trí tuệ rất kỹ (cho nên cũng dạy dỗ con cháu rất kỹ). Còn Lê Hoàn, cực kỳ vĩ đại, với căn cốt là một võ tướng bẩm sinh, một người bình dân trở thành thiên tử, mê mải thực hành và thực hiện vô cùng nhiều việc thực tế lớn lao, nhưng tri thức và trí tuệ thì lại để nhãng mất việc gia đình và con cái.
Do đó mà có lứa con “không giống ông cha” (bất tiếu), cũng do đó mà sự nghiệp cái thế thì xuất chúng, nhưng không khỏi bị thiệt thòi, ở hỗ, dù chỉ là một cái tên gọi Đại Hành thôi, mà cũng phải mang tạm, “được coi là miếu hiệu” mãi đến cả nghìn năm sau. Và ở ngay trên đất kinh kỳ - thủ đô ta. Khổ thế!
Phần 1
QUÊ HƯƠNG, GIA THẾ, CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA LÊ HOÀN VAI TRÒ CỦA THÁI HẬU DƯƠNG VÂN NGA ĐỐI VỚI ĐẤT NƯỚC ĐẠI CỒ VIỆT HỒI THẾ KỶ X Nguồn: quansuvn.net
Thu gọn nội dung
TS. Nguyễn Thị Phương Chi
Viện Sử học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam thời Cổ - Trung đại, Thái hậu Dương Vân Nga, người phụ nữ ở thế kỷ X và vai trò của bà đối với lịch sử dân tộc, đặc biệt là việc bà trao ngôi báu của nhà Đinh cho Lê Hoàn vào thời điểm đất nước Đại Cồ Việt đứng trước họa xâm lăng của nhà Tống đã được các sử gia phong kiến và các nhà nghiên cứu nhìn nhận, đánh giá. Nhưng các ý kiến lại khá khác nhau.
Sử gia Lê Văn Hưu không trực tiếp đưa ra những lời bình luận về Thái hậu nhưng đối với Lê Hoàn, ông đánh giá tài đức và công lao của Lê Hoàn còn hơn cả nhà Hán, nhà Đường: “Lê Đại Hành giết Đinh Điền, bắt Nguyễn Bắc, bắt Quân Biện, Phụng Huân dễ như lùa trẻ con, như sai nô lệ, chưa đầy vài năm mà cõi bờ yên ũnh, cái công đánh ấy tuy nhà Hán nhà Đường cũng không hơn được” (1).
Ngô Sĩ Liên với tư tưởng Nho giáo cũng không trực tiếp bàn luận về Thái hậu nhưng lại cho rằng việc lên ngôi của Lê Hoàn là do quan hệ bất chính với Thái hậu họ Dương: “Vua nhân gian dâm trong cung mà lấy được nước, dẹp giặc bên ngoài để yên dân, trong nước lặng yên, Bắc Nam vô sự” (2).
Sau đó vua Lê Đại Hành lập Hoàng Thái hậu Dương Vân Nga làm Đại thắng minh hoàng hậu thì sử thần Ngô S Liên còn nặng lời hơn: “Đạo vợ chồng là đầu của nhân luân, mối của vương hóa. Hạ kinh của Kinh Dịch nêu quẻ Hàm quẻ Hằng lên đầu là tỏ rằng lấy đàn bà tất phải chính đáng. Đại Hành thông dâm với vợ vua, rồi nghiễm nhiên lập hoàng hậu, thì không còn có lòng hổ thẹn gì nữa. Lấy lối ấy truyền lại đời sau, chính con mình lại bắt chước mà gian dâm quá độ đến nỗi mất nước, há chẳng phải do Đại Hành gây mối họa loạn ơ?” (3).
Nguyễn Văn Tố trong bài: Đinh Tiên Hoàng, theo quan điểm Nho giáo dưới ngòi bút của cụ, Lê Hoàn và Thái hậu họ Dương và mối quan hệ tình cảm của họ là do tư thông, còn Lê Hoàn thì cậy quyền cậy thế không biết kiêng sợ ai.
Tác giả viết: “Sử chép: . . . Nguyễn Bặc, Đinh Điền và Lê Hoàn đều là đại thần phụ chính, nhưng Lê Hoàn chuyên giữ binh quyền, ra vào trong cung, không ai ngăn cấm. Thái hậu (tức người đàn bà họ Dương, là mẹ Đinh Toàn) trông thấy đẹp lòng, rồi cùng tư thông. Thái hậu cho Lê Hoàn quyền làm việc vua như bên Tàu Chu Công giúp Thành vương, từ bấy giờ Lê Hoàn cậy thế được Thái hậu yêu không kiêng sợ ai tự xưng Phó vương” (4).
Về việc lên ngôi của Lê Hoàn, cụ Nguyễn Văn Tố sau khi dẫn lại đoạn tư liệu chép trong Đại Việt sử ký toàn thư về việc quân lính đồng lòng ủng hộ Lê Hoàn lên ngôi trước khi xuất quân đi đánh quân Tống, cụ không khỏi luyến tiếc: “Thế là ngôi báu của nhà Đinh trong giây lát đã hóa ra nhà Lê rồi” (5).
Tác giả Song Cối thoa Bằng) trong bài: Tôi bào chữa cho Dương Thái hậu là một trong những tiếng nói đầu tiên trong những năm bốn mươi của thế kỷ trước đánh giá được phần nào công lao của Dương Thái hậu đối với đất nước: “Dương hậu đối với nhà Đinh tuy có khuyết điểm, nhưng đối với quốc dân, bà là một người hoàn toàn vô tội nếu không kể là có công” (6).
__________________________________________________ ____________
(1) Đại việt sử ký toàn thư. Tập 1. Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1972. tr 167.
(2) Đại Việt sử ký toàn thư. Tập 1. Sđd. tr. 166.
(3) Đại việt sử ký toàn thư. Tập 1. Sđd. tr. 168.
(4) Ứng Hoè Nguyễn Văn Tố. Đinh Tiên Hoàng. trong Đại Nam dật sử (Sử ta so với sử tàu). Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Hà Nội. 1.997. tr. 230.
(5) Ứng Hoè Nguyễn Văn Tố. Đinh Tiên Hoàng. trong Đại Nam dật sử (Sử ta so với sử tàu). Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Hà Nội. 1.997. tr. 232.
(6) Song Cối. Tôi bào chữa cho Dương Thái hậu. Tạp trí Tri Tân. số 41 (7-4-1942), tr. 18-19.
Năm 1981, nhân kỷ niệm 1.000 năm chiến thắng quân Tống xâm lược (981 - 1 981 ) Tạp chí nghiên cứu Lịch sử, số 2 - 1981 đã đăng một số bài chủ yếu viết về chiến công oanh liệt và vị trí của Lê Hoàn trong cuộc kháng chiến chống Tống và trong lịch sử dân tộc. Trong đó cần phải kể đến bài: Lê Hoàn với tập thể anh hùng triều đình Hoa Lư của tác giả Nguyễn Danh Phiệt.
Tác giả đã lý giải mối quan hệ tình cảm giữa Lê Hoàn và Dương Thái hậu trong bối cảnh lịch sử của thế kỷ X là chưa bị ràng buộc hay chưa bị thống trị của đạo Nho: “xã hội Đại Cồ Việt còn là một xã hội mà “khoan, giản, an lạc” từ thời họ Khúc vẫn được coi là phương châm trị nước và những sinh hoạt thoải mái, phóng khoáng trong bối cảnh văn hóa cộng đồng làng xã người Việt thuần khiết vẫn chưa bị lớp mây mù văn hóa Tàu vây ám. dân dã mà còn chiếm lĩnh cả chốn cung đình.
Trong bối cảnh đó thì hiện tượng Dương Thái hậu - Lê Hoàn cũng là một chuyện bình thường, hợp lẽ... Đinh Bộ Lĩnh chết, Dương Thái hậu lấy Lê Hoàn là theo tập tục thông thường của xã hội. Lê Hoàn lên ngôi vua, đứng đầu cả nước là theo truyền thống “lựa chọn”, “suy tôn” thủ lĩnh phổ biến trong sinh hoạt cộng đồng .,, (1)
Nhiều năm sau, tác giả Nguyễn Danh Phiệt đã công bố kết quả nghiên cứu thư tịch kết hợp với truyền thuyết, huyền thoại và kết quả điền dã thực tế trong bài: Dương hậu - Dương Thái hậu lịch sử và huyền thoại trên Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử (số 4-1998). Tác giả đi đến kết luận: “...sự hiện diện đích thực của hai hoàng hậu họ Dương, cùng thuộc dòng dõi của Dương Đình Nghệ ở Ái Châu, tức Thanh Hóa ngày nay. Đó là Dương hậu (hoàng hậu của Ngô Quyền) con Dương Đình Nghệ và Dương hậu - Dương Thái hậu (hoàng hậu của Đinh Bộ Lĩnh) - Dương hậu (hoàng hậu của Lê Hoàn) là cháu Dương Đình Nghệ, con gái của Dương Tam Kha... Và, bà Dương hậu “cháu’ này được người đời quan tâm nhiều, hầu như sống mãi trong lòng người với nhiều truyền thuyết, giai thoại, hấp dẫn, nên thơ” (2).
Năm 2000, nữ tác giả Lee Son Hee (Hàn Quốc) trong bài: “Thái hậu Dương Vân Nga và vai trò của người phụ nữ Việt Nam hồi thế kỷ X” đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử đã đánh giá về bà theo cách nhìn hiện đại và vì vậy, Thái hậu Dương Vân Nga được tác giả lý giải đầy đủ và nổi bật ở bốn điểm:
Một là, Thái hậu Dương Vân Nga đã biết hy sinh quyền lợi hạn hẹp của gia đình gia tộc và bán thân để đặt lợi ích chung của quốc gia dân tộc, cộng đồng lên trên hết...;
Hai là, mặc dầu Dương Vân Nga là phụ nữ, nhưng bà đã có tầm nhìn chiến lược, chính xác và cũng rất nhân bản để nhận ra cái chân giá trị của Lê Hoàn...;
Ba là, Dương Vân Nga là người phụ nữ Việt Nam đầu tiên trong lịch sử chính thống đã nêu một tấm gương sáng về quyền tự quyết định vận mệnh của bản thân mình - quyền tự do yêu đương, tự do hôn nhân mà không bị lệ thuộc vào giáo lý phong kiến cũng như thói thường của dư luận...;
__________________________________________________ ____________________
(1) Nguyễn Danh Phiệt. Lê Hoàn với tập thể anh hùng triều đình Hoa Lư. Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử. số 2- 1981 , tr. 15.
(2) Nguyễn Danh Phiệt. Dương hậu - Dương Thái hậu. Lịch sử và huyền thoại Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử. số 4-1998, tr. 39-43.
Cuối cùng, ở Thái hậu Dương Vân Nga còn có một giá trị tổng thể, nằm trong sự đánh giá, định vị và lưu giữ của cộng đồng dân tộc Việt . . . Nhân dân đồng cảm và đồng tình với mối tình cao đẹp của Thái hậu...” (1).
Trên đây chúng tôi đã điểm qua những đánh giá, nhận định về Thái hậu Dương Vân Nga và mối quan hệ của bà với Lê Hoàn qua một số thư tịch và công trình nghiên cứu của các tác giả. Một điều dễ thấy là, hầu như các kết quả nghiên cứu chủ yếu tập trung lý giải mối quan hệ giữa Lê Hoàn và Dương Thái hậu, một vài công trình khẳng định được công lao của Dương Thái hậu đối với đất nước nhưng còn dè dặt như tác giả Song Cối.
Trong vài thập kỷ gần đây việc nghiên cứu về vai trò của Thái hậu Dương Vân Nga đối với đất nước càng được nhìn nhận và đánh giá cao như nghiên cứu của tác giả Nguyễn Danh Phiệt và Lee Seon Hee. Trong bài viết này, thêm một lần chúng tôi khẳng định vai trò to lớn của bà đối với đất nước Đại Cồ Việt đương thời. Và, chắc rằng có những điểm được kế thừa kết quả của các tác giả đi trước.
Theo tôi, để khách quan, thiết nghĩ cần phải đặt nhân vật trung tâm - Thái hậu Dương Vân Nga trong bối cạnh lịch sử lúc bấy giờ.
Chúng ta biết rằng, sau khi Đinh Tiên Hoàng băng hà, đất nước Đại Cồ Việt đứng trước những nguy biến, tình trạng đất nước như “ngàn cân treo sợi tóc”. Vua cha mất, Đinh Toàn, con thứ, mới 6 tuổi lên nối ngôi cha, Phó vương Lê Hoàn nhiếp chính, cũng vì thế mà nội bộ triều Đinh rối ren từ đây.
Định quốc công Nguyễn Bặc, Ngoại giáp Đinh Điền và Phạm Thạp nghi ngờ uy thế của Lê Hoàn sẽ ảnh hưởng đến ngôi báu của vị vua nhỏ tuổi liền tổ chức quân đội tấn công Lê Hoàn tại kinh đô Hoa Lư. Thái hậu Dương Vân Nga bàn với Lê Hoàn phương cách đưa đất nước thoát khỏi tình thế nội loạn này. Lê Hoàn nói: “Thần là Phó vương nhiếp chính dù sống chết họa biến thế nào, đều phải chịu trách nhiệm” (2).
Kết quả là, quân đội do Lê Hoàn chỉ huy thắng trận. Nguyễn Bặc và Đinh Điền đều bị chết, Phạm Thạp bị bắt giải về kinh đô. Tạm yên vấn đề triều chính thì ở phía nam đất nước, phò mã Ngô Nhật Khánh vì mối tư thù trước đây đã dẫn hơn nghìn chiến thuyền cùng quân Chiêm Thành tiến đánh Lê Hoàn. Mặc dù trên đường hành quân Ngô Nhật Khánh và chiến thuyền gặp gió bão khiến cho thuyền và người chìm đắm gần hết, nhưng sự kiện này cũng khiến triều đình Hoa Lư phải tìm cách ứng phó.
Ở phía bắc, lợi dụng tình hình nước Đại Cồ Việt có biến, nhà Tống đã nắm lấy cơ hội này thực hiện âm mưu xâm lược nước Đại Cồ Việt. Tri Ung châu Hầu Nhân Bảo dâng thư lên vua Tống nói rằng: “An Nam quận vương và con là Liễn đều bị giết, nước đã gần mất, có thể nhân lúc này đem quân địa phương đánh lấy được” (3), rồi nhà Tống tích cực điều binh khiển tướng chuẩn bị tấn công nước ta.
Về phía triều đình Đại Cồ Việt để tiến hành kháng chiến chống quân Tống xâm lược, Thái hậu Dương Vân Nga giao trách nhiệm cao nhất cho Lê Hoàn thống lĩnh quân đội chống giặc. Phạm Cự Lạng (em của Phạm Thạp), được Lê Hoàn cử làm Đại tướng quân, cùng với Lê Hoàn bàn kế hoạch xuất quân.
Cũng lúc này, xuất hiện tình huống như ghi chép trong Đại Việt sử ký toàn thư (viết tắt là Toàn thư): “Cự Lạng cùng với các tướng đều mặc nhung phục đi thẳng vào trong phủ bảo mọi người rằng: thưởng người có công, giết kẻ không theo mệnh lệnh là kỷ luật hành quân. Nay chúa thượng trẻ thơ. chúng ta dù hết sức liều chết chống kẻ địch bên ngoài. may lập được chút công thì ai biết cho. Chi bằng trước hãy tôn Thập đạo tướng quân làm thiên tử, rồi sau sẽ đem quân đi đánh thì hơn”.
__________________________________________________ ________________________________
(1) Lee Seon Hee. Thái hậu Dương Vân Nga và vai trò của người phụ nữ Việt Nam hồi thế kỷ X. Tạp chí Nghiêncứu Lịch sử. số 5-2000, tr. 50-54.
(2) Đại Việt sử ký toàn thư. Tập I. Nxb. Khoa học xã hội. Hà Nội. 1972, tr. l9.
(3) Đại Việt sử ký toàn thư . Tập 1. Sđd. tr. 160.
Quân sĩ nghe nói thế đều hô vạn tuế. Thái hậu thấy mọi ngươi đều vui lòng quy phục, sai lấy áo long cổn mặc cho Hoàn, mời Hoàn lên ngôi hoàng đế...” (1). Tư liệu này khiến tôi đặc biệt chú ý, rõ ràng rằng, lúc này vị thế và uy tín của Lê Hoàn là rất lớn trong quân đội. Sức mạnh của quân đội là đại diện cho sức mạnh của đất nước lúc bấy giờ. Nên trước lời đề nghị nghiêm trang của Phạm Cự Lượng thì toàn bộ quân sĩ đều hô “Vạn tuế’. Khi thấy mọi người đều đồng tâm nhát trí, Dương Thái hậu mới mời Lê Hoàn lên ngôi vua.
Vì vậy việc lên ngôi vua của Lê Hoàn là sự đồng tâm nhất trí từ trong triều đến ngoài quân đội. Và, như trên chúng tôi đã dẫn, tiếng nói của quân đội lúc này là tiếng nói của cả dân tộc trong lúc tình thế đất nước đứng trước họa xâm lược của nhà Tống. Dương Thái hậu cũng như toàn bộ quân đội đã không chỉ thấy được sự tài giỏi của Lê Hoàn để ủy thác vận mệnh của quốc gia cho ông mà sự thực uy tín của ông đã thu phục được nhân tâm.
Hai vấn đề này, tuy hai nhưng là một. Dương Thái hậu phải là một người thông minh, tài giỏi, một phụ nữ - người mẹ can đảm mới đi đến quyết định sáng suốt như vậy. Bà hiểu rằng con trai bà - vua Đinh Toàn mới 6 tuổi lên làm vua theo chế độ cha truyền con nối, chưa hề có công lao gì đối với đất nước. Một ông vua ở tuổi thiếu niên liệu có khả năng gánh vác trọng trách này hay không?
Nếu như trong hoàn cảnh đất nước bình yên, sự việc trên có thể cho rằng bà vì tình riêng. Nhưng như trên chúng tôi đã dẫn, bà thực hiện việc trao ngôi báu cho Lê Hoàn một cách đàng hoàng trước sự đồng tình của các tướng sĩ quân đội.
Vì vậy, Dương Vân Nga chính là người phụ nữ của chính trường, thông minh, mưu lược, vì đất nước vì nhân dân mà “hy sinh” ngôi báu của con trai mình cũng đồng nghĩa hy sinh” quyền lực chính trị của mình cho một người có đầy đủ uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước - Lê Hoàn.
Mặt khác, cũng cần phải thấy rằng, một người nắm toàn bộ quân đội trong tay, một thế lực, một sức mạnh có thể làm nghiêng ngả đất trời, nếu có âm mưu, Lê Hoàn có thể đoạt ngôi vua bất cứ lúc nào mà không cần dựa vào thế lực của Thái hậu.
Với sự lựa chọn của bà, Lê Hoàn đã lãnh đạo quân dân Đại Cồ Việt kháng chiến chống Tống thắng lợi, giữ vững nền độc lập dân tộc. Chiến công hiển hách này, đằng sau nó cần phải kể đến vai trò và công lao của bà. Tuy bà không trực tiếp cầm quân ra trận nhưng quyết định sáng suốt của bà đã động viên, cổ vũ kịp thời tinh thần chiến đấu chống quân xâm lược của tướng sĩ Đại Cồ Việt dưới sự chỉ huy tối cao của Lê Hoàn.
Nhân dân ta có truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, những người có công với nước với dân sau khi chết thường được nhân dân lập đền thờ. Hai Bà Trưng được thờ ở nhiều nơi. Trần Hưng Đạo được nhân dân từ đời này qua đời khác tôn là Đức thánh Trần và được tôn thờ ở rất nhiều địa phương trong toàn quốc. Thái hậu Dương Vân Nga cũng vậy, nhân dân tạc tượng, lập đền thờ bà ở Hoa Lư, Ninh Bình. Tượng của Bà ngự ở vị trí tôn nghiêm của ngôi đền, giữa hai ông vua, hai ông chồng - Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành. Không phải ngẫu nhiên mà Lê Đại Hành có 5 hoàng hậu nhưng chỉ có Thái hậu Dương Vân Nga là được nhân dân tôn thờ.
Theo quan niệm truyền thống thì người được tôn sùng và quan trọng thường ngự ở chính giữa. Bà đã ở vị trí như vậy - trong lòng dân suốt các triều đại Tiền Lê, Lý, Trần. Chỉ đến thời Lê sơ, thế kỷ XV, với giáo lý Nho giáo chi phối, tượng của bà không được thờ nữa.
Toàn thư chép: “Tục dân làm đền thờ, tô hai pho tượng Tiên Hoàng, Đại Hành và tượng Dương hậu cùng ngồi, đến buổi quốc sơ (đầu nhà Lê) hãy còn. Sau An phủ sứ là Lê Thúc Hiền mới bỏ” (2). Sau năm 1945 , bà lại được nhân dân tôn thờ như xưa. Điều này rất phù hợp với kết quả điền dã thực tế của tác giả Nguyễn Danh Phiệt mà chúng tôi đã dẫn ở trên. Thái hậu Dương Vân Nga là một trong những phụ nữ Việt Nam không chỉ vĩ đại ở thế kỷ X mà tên tuổi của bà xứng đáng được lưu danh trong sử sách.
__________________________________________________ __________________________
(1) Đại Việt sử ký toàn thư. Tập 1. Sđd. tr. 161- 162.
(2) Đại Việt sử ký toàn thư . Tập 1. Sđd. tr. 168. Lê Thúc Hiền giữ chức An phủ sứ lộ Trường Yên vào nam Bính Thìn (1436). xem Toàn thư. tập 1
Phần 1
QUÊ HƯƠNG, GIA THẾ, CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA LÊ HOÀN GÓP PHẦN TÌM HIỂU CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA ĐẠI TƯỚNG QUÂN PHẠM CỰ LẠNG Nguồn: quansuvn.net
Thu gọn nội dung
Đinh Thị Thùy Hiên
Khoa Lịch sử. Trường Đại học KHXH&NV, ĐH Quốc gia Hà Nội
Sự kiện lên ngôi của Lê Hoàn năm 980 được các thư tịch cổ Việt Nam chép rõ ràng, thống nhất với nhau, đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà sử học từ trước tới nay. Đóng vai trò quan trọng trong việc tôn phò Lê Hoàn lên ngôi, bên cạnh Thái hậu Dương Vân Nga là vị Đại tướng quân Phạm Cự Lạng. Tuy vậy, bấy lâu nay Đại tướng quân Phạm Cự Lạng chưa được quan tâm nghiên cứu đầy đủ. Trong quá trình khảo sát khu vực quận Đống Đa (nội thành Hà Nội) và các xã Nghĩa Thịnh, Nghĩa Thái... huyện Nghĩa Hưng (Nam Định), chúng tôi tập hợp được một số tư liệu liên quan đến cuộc đời và sự nghiệp của ông. Bài viết này chỉ là đôi nét khắc họa chân dung vị Đại tướng quân Phạm Cự Lạng và thông qua đó góp phần tìm hiểu anh hùng dân tộc Lê Hoàn nhân dịp kỷ niệm tròn 1.000 năm ngày mất của ông.
1. Từ những ghi chép trong thư tịch cổ Việt Nam
So với các nhân vật khác, những ghi chép về Phạm Cự Lạng (1) trong chính sử khá nhiều. Khi quân Tống xâm lược nước ta, Phạm Cự Lạng được Lê Hoàn đề cử và được Dương Thái hậu đích thân phong làm đại tướng quân, cầm quân ra trận. Trong hoàn cảnh triều chính đang rối loạn do Đinh Tiên Hoàng mới qua đời, vua còn nhỏ tuổi, quân Tống đang chuẩn bị đưa quân xâm lược, Phạm Cự Lạng nhận thấy rõ yêu cầu lịch sử đặt ra là phải có một vị vua tài năng đủ sức chèo lái, đưa đất nước vượt qua cơn hiểm nghèo. Vì vậy ông đã ph tá Lê Hoàn lên ngôi vua.
Sự kiện này được các bộ sử chép lại một cách khá thống nhất: “Bấy giờ, Lạng Châu nghe tin quân Tống sắp kéo sang, liền làm tờ tâu báo về. Thái hậu sai Lê Hoàn chọn dũng sĩ đi đánh giặc, lấy người ở Nam Sách Giang là Phạm Cự Lạng làm đại tướng quân. Khi triều đình đang bàn kế hoạch xuất quân, Cự Lạng cùng các tướng quân khác đều mặc áo trận đi thẳng vào nội phủ, nói với mọi người rằng. “Thưởng người có công, giết kẻ trái lệnh là phép sáng để thi hành việc quân. Nay chúa thượng còn trẻ thơ, chúng ta dẫu hết sức liều chết để chặn giặc ngoài, may có chút công lao, thì có ai biết cho? Chi bằng trước hãy tôn lập ông Thập đạo làm thiên tử, sau đó sẽ xuất quân thì hơn”. Quân sĩ nghe vậy đều hô “vạn tuế”.
Thái hậu thấy mọi người vui lòng quy phục bèn sai lấy áo long cổn khoác lên người Lê Hoàn. mời lên ngôi hoàng đế. Từ đó, Hoàn lên ngôi hoàng đế, đổi niên hiệu là Thiên Phúc năm đầu, giáng phong vua làm Vệ vương” (2).
Việc Lê Hoàn lên ngôi là tất yếu, phù hợp với hoàn cảnh lúc bấy giờ. phạm Cự Lạng với việc ủng hộ ông lên ngôi vua là một hành động thức thời lúc đó. Nếu như Lý Công Uẩn lên ngôi vua, mở đầu triều Lý trong lịch sử dân tộc là nhờ có sự sắp đặt, chuẩn bị của Đào Cam Mộc và sư Vạn Hạnh, thì ở góc độ nhất định có thể xem Phạm Cự Lạng là người đã góp phần tạo dựng lên triều Tiền Lê trong lịch sử (3).
Sát cánh bên Lê Hoàn trong kháng chiến chống Tống, và trong công cuộc xây dựng đất nước, năm 986 ông được phong chức Thái uý. Sử chép: năm 986 “Lấy Từ Mục làm Tổng quản tri quân dân sự, ban cho tước hầu, Phạm Cự Lạng làm Thái uý” (4).
_____________________________
(1) Phạm Cự Lạng/Lượng có sách chép là Phạm Cự Bị. Trong bài viết này: chúng lối sử dụng thống nhất lên gọi Phạm Cự Lạng.
(2). Đại Việt sử ký toàn thư. tập 1 . bản khắc năm Chính Hoà thứ 18 (1697), Ngô Đức Thọ dịch và chú thích, Hà Văn Tấn hiệu đính, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1998, trang 217. Cũng xem Ngô Thì Sĩ : Đại Việt sử ký tiền biên, Lê Văn Bảy, Nguyễn Thị Thảo, Dương Thị The, Phạm Thị Thoa dịch và chú thích, Lê Huy Chưởng hiệu đính, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1.997, trang 162. Việt sử lược. Trần Quốc Vượng phiên dịch và chú giải, Nxb Văn Sử Địa. 1960, trang 54-55; Quốc sử quán triều Nguyễn: Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Nxb Giáo dục, Hà Nội 1998, trang 247.
(3) Sử thần Nguyễn Nghiêm khi bàn đến sự kiện lên ngôi của Lê Hoàn, vạch tội cướp ngôi của ông đã ví Phạm Cự Lạng với Thạch Thủ Tín, công thần của nhà Tống người có công phò lập Tống Thái Tông: “Xét sự thế lúc bấy giờ thì Thập đạo tướng quân lại là một quan Điểm kiểm mà trong phủ lại là một thế trận Trần Kiều. Phạm Cự Lạng lại là một Thạch Thủ Tín. Tội cướp ngôi đã rõ, chẳng phải đợi người ta bàn tán rườm rà”. xem Ngô Thì: Đại sử ký tiền biên. Sđd. trang 162.
(4) Đại Việt sử ký toàn thư. Sđd. trang 224.
Việc này một mặt chứng tỏ rằng ông là một trụ cột của triều đình Tiền Lê, đóng một vai trò quan trọng trong sự nghiệp bảo vệ và phát triển đất nước những năm cuối thế kỷ X; mặt khác cho thấy những đóng góp to lớn của ông đã được nhà Tiền Lê ghi nhận.
Tuy nhiên, không phải ngẫu nhiên mà trong hoàn cảnh hiểm nghèo, trước nạn ngoại xâm đe doạ đất nước, Phạm Cự Lạng nổi lên với một vai trò quan trọng như vậy. Chúng tôi quan tâm đến cuộc đời hoạt động của ông trước sự kiện năm 980.
Về nguồn gốc của ông, các tài liệu Đại Việt sử ký toàn thư (Toàn thư), Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Cương mục), Việt điện u linh, Đại Việt sử ký tiền biên cho biết Phạm Cự Lạng thuộc gia đình “thế gia vọng tộc” ở huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Ông nội của ông tên là Chiêm, từng giữ chức Đồng giáp tướng quân dưới thời Ngô Quyền. Cha ông tên là Mạn, vốn là Tham chính đô đốc dưới thời Nam Tấn Vương. Phạm Thạp, người anh trai giữ chức Vệ uý đời vua Đinh Tiên Hoàng được ghi trong sử sách với việc đã cùng Đinh Điền. Nguyễn Bặc chống lại Lê Hoàn (1).
Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Vua nối ngôi khi mới 6 tuổi. Lê Hoàn nhiếp chính, làm công việc như Chu Công, tự xưng là Phó vương. Bọn Định quốc công Nguyễn Bặc, Ngoại giáp Đinh Điền, Phạm Thạp ngờ Hoàn sẽ làm điều bất lợi cho vua nhỏ, bèn cùng nhau dấy binh, chia hai đường thuỷ bộ, muốn tiến về kinh đô giết Hoàn nhưng không đánh nổi, bị giết... Điền, Bặc đã chết, quân Phạm Hạp mất hết khí thế, tan chạy về hương Cát Lợi ở Bắc Giang. Hoàn dẫn quân đuổi theo, bắt sống được Phạm Thạp đem về kinh sư” (2).
Việc anh của ông là Phạm Thạp cùng Đinh Điền, Nguyễn Bặc dấy binh đánh Lê Hoàn còn được chép trong các tác phẩm khác như Cương mục, Đại Việt sử ký tiền biên... (3) Riêng trong Dật sử, sự kiện này được chép khác đi: “Hoàn lúc mới nhiếp chính, bọn Nguyễn Bặc biết Hoàn tất sẽ cướp ngôi, bèn đưa con em đón Hoàn ở ngang đường, lấy đại nghĩa mà trách Hoàn, rồi định đưa thân liều chết, Hoàn nói rằng: “Các ông lầm rồi, ta há phải là kẻ làm phản?” Thế rồi an ủi nhau giải tán ra về, nhưng mỗi người đều có chí nhằm sơ hở để loại trừ nhau. Đến khi Hoàn đưa quân vào trong cung nhận nhường ngôi. Bọn Bắc không chịu khuất phục đều bỏ trốn. Hoàn cũng không hỏi đến.” (4).
Tuy nhiên, vì điều này chép khác xa so với chính sử, nên với những tài liệu hiện có, chúng tôi tin theo những ghi chép trong sách Toàn thư và Cương mục. Phạm Thạp bị quy vào tội phản loạn và bị giết chết, nhưng vào ngay năm sau đó, Lê Hoàn đã lựa chọn em của Phạm Hạp làm Đại tướng quân chống giặc ngoại xâm; Phạm Cự Lạng lại chính là người đứng ra, tôn lập Lê Hoàn lên ngôi vua. Sự kiện này theo chúng tôi là một cơ sở quan trọng để đánh giá nhân cách của những người anh hùng trong lúc vận nước lâm nguy.
_____________________
(1) Ngô Thì Sĩ: Đại Việt sử ký tiền biên, Sđd. trang 217
(2) Ngô Thì Sĩ: Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd. trang 215-216.
(3) Trong Cương mục, anh của Phạm Cự Lạng là Phạm Hạp bị bắt đưa về kinh sư và bị giết chết (trang 245). Cũng xem Ngô Thì Sĩ: Đại Việt sử ký tiền biên, Sđd. trang 159-160. Việt sử lược khi chép sự kiện Đinh Điền, Nguyễn Bắc chống lại Lê Hoàn không chép đến tên Phạm Hạp. Tác phẩm này cũng không chép đến sự kiện phong chức cho Phạm Cự Lạng. và lập đền thờ dưới triều Lý. Nguyên nhân có lẽ một phân bởi đây là tác phẩm viết khá sơ lược. người viết đã giản lược đi nhiều sự kiện. iệt điện 11 linh về cơ bản chép giống như Đại việt sử ký toàn thư nhưng thông tin phong phú hơn trên cơ sở tập hợp thêm các tài liệu khác trong đó có tư liệu truyền thuyết. huyền thoại. Vì thế. có một số thông tin nhầm lẫn về người anh của ông “anh là Phạm Dật giúp Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành rất có công lao, làm đến đô thống quân hiệu”.
(4) Dẫn theo Ngô Thì Sĩ : Đại Việt sử ký tiền biên. Sđd: trang 160
2. Đền thờ Phạm Cự Lạng qua khảo sát thư tịch cổ và khu vực Đống Đa (Hà Nội)
Tài liệu thư tịch cổ Việt Nam không cho biết năm sinh, năm mất của Phạm Cự Lạng. Các tài liệu này chỉ cho biết rằng 50 năm sau sự kiện năm 986, vào năm 1037 vua Lý Thái Tông đã cho lập đền thờ Phạm Cự Lạng ở kinh thành Thăng Long. Các sách Đại Việt sử ký toàn thư và Việt điện u linh đều có chép rõ ràng về sự kiện dựng đền thờ Hoằng Thánh đại vương:
“Trước đây vua thấy phủ đô hộ để nhiều án ngờ, quan Sỹ sư không xét đoán được. Muốn tỏ rõ sự linh thiêng sáng suốt để tiệt hết kẻ gian trá, bèn tắm gội đốt hương khấn thiên đế. Đêm ấy, vua chiêm bao thấy sứ giả mặc áo đỏ bưng sắc chỉ của thượng đế ban cho Phạm Cự Lạng làm chức Đô hộ phủ ngục tụng minh chủ. Vua hỏi sứ trời rằng: “Người ấy là ai? Hiện đang giữ chức gì của ta?”. Sứ giả nói: “Người ấy làm Thái uý triều Lê Đại Hành”, nói xong thì biến mất. Vua tỉnh dậy, gọi các quan vào hỏi việc ấy; phong cho [Cự Lạng] tước vương, sai hữu ty dựng đền ở phía tây cửa nam thành, tuế thời cúng tế Hoằng Thánh (sau đổi là Hồng Thánh)” (1).
Trong khi Toàn thư ghi rõ đền ở phía tây cửa nam thành, sách Đại Nam nhất thống chí lại chép vị trí đền ở phía tây kinh thành: “Đền Phạm Thái uý: ở thôn Ngự Sử, huyện Thọ Xương. Thần họ Phạm tên Cự Lạng, người huyện Chí Linh phủ Nam Sách tỉnh Hải Dương, làm Thái uý dưới triều Lê Đại Hành, đến đời Thông Thụy nhà Lý, vì phủ Đô hộ có nhiều hình ngục đáng ngờ, quan sĩ sư không sao kết án được, nhà vua muốn lập đền thờ ở trong nhà ngục, mong thần hiển hiện anh linh để trừng trị bọn gian ác, bèn trai giới cầu thượng đế. Đến đêm nhà vua thấy sứ giả mặc áo đỏ báo mộng rằng: “Thượng đế sắc phong Phạm Cự Lạng làm chủ ngục trông phủ Đô hộ nước An Nam”.
Lúc tỉnh dậy, liền sai lập đền thờ ở phía tây kinh thành, phong là “chủ ngục chi thần” (2). Ngôi đền đó - đền Hồng Thánh/Hoằng Thánh, đền Phạm Cự Lạng, hay đình Lương Sử - hiện nay nằm trong ngõ Lương Sử A, quận Đống Đa, Hà Nội, tức phía tây nam thành Thăng Long xưa như ghi chép của Đại Việt sử ký toàn thư. Những người dân quanh đó cũng cho biết đình có chôn một tấm bia đá to, nội dung có đề cập đến vị trí của đình so với cửa Nam. (3)
Trong việt điện u linh còn có đoạn chép đến việc vua Lý Thái Tông (1028-1053) cho soạn bia đá, trong đó có ghi lại sự nghiệp của Phạm Cự Lạng: “Một hôm, vua mộng thấy vương đội mũ miện, mặc áo bào, cầm hốt, đeo ngai lạy tạ ở trước điện. Vua thức dậy cho là linh dị liền sai văn thần soạn văn đá để ghi sự nghiệp của vương.” (4)
Không biết tấm bia đá ở đền có liên quan gì đến bia đá mà Việt điện u linh đề cập đến hay không? Tại khu vực Lương Sử, địa danh Ngự Sử vẫn còn. ông Trung, trưởng ban quản lý di tích đình Lương Sử cho biết, Ngự Sử có nghĩa là nơi nhà vua đến xem việc xử án. Các ông Đỗ Văn Đương (70 tuổi), và ông Huỳnh Bá Dậu (72 tuổi) cho biết đình Lương Sử vốn có vị trí như thế từ rất lâu rồi. Tuy ngôi đền đã nhiều lần tu sửa, thậm chí xây mới lại hoàn toàn, nhưng vị trí và hướng của đình (hướng bắc) vẫn được giữ nguyên. Một số phế tích vật liệu xây dựng như gạch vồ thời Lê được ban quản lý giữ lại, cho phép khẳng định đình Lương Sử có thể có từ thời Lê. (5)
____________________________
(1) Đại Việt sử ký toàn thư. Sđd. trang 259. Cũng xem Việt điện u linh. Sđd. trang 72-73.
(2) Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam nhất thống chí, tập 3. Phạm Trọng Điềm dịch. Đào Duy Anh hiệu đính. Nxb Khoa học xã hội. Hà Nội 1971, trang 200.
(3) Tống Văn Lợi. Hà Duy Biển: Báo cáo kết quả điều tra khu vực phía nam thành Thăng Long - Hà Nội. trong Những nghiền cứu mới về Thăng Long Hà Nội. Đề tài KHĐL cấp Nhà nước. LSVN. Hà Nội 2004. trang 9- 10. Tài liệu lưu tại Viện Việt Nam học và Khoa học Phát triển. ĐHQGHN.
(4) Lý Tế Xuyên: Việt điện u linh. Sđd, trang 72-73.
(5) Tống Văn Lợi. Hà Duy Biển: Tài liệu đã dẫn. trang 9-10.
Khi chép về sự kiện lập đền thờ, Việt điện u linh và những lời bàn của sử thần Ngô Thì Sĩ trong Đại Việt sử ký tiền biên gợi mở nhiều chi tiết liên quan đến cuộc đời Phạm Cự Lạng. Việt điện u linh có chép: “Cự Lạng thật là một người tốt, con nhà gia thế, ông là Phạm Chiêm làm châu mục đất An Vũ giúp Ngô Tiên chủ, có công khai quốc được phong Đồng giáp tướng quân. Cha là Phạm Mạn giúp vua Nam Tấn, làm tham chính đô hộ, anh là Phạm Dật giúp Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành rất có công lao, làm đến đô thống quân hiệu. Đến Cự Lạng trước giúp Đinh, sau giúp Lê sang đánh Chiêm Thành, có công to sau được phong Thái uý. Nhà ấy ba đời đều có tiếng khen”.
Tác phẩm này được hình thành trên cơ sở tham khảo chính sử và truyền thuyết nên thông tin phong phú hơn. Cũng bởi vậy mà có nhiều chi tiết khác biệt, thậm chí sai lạc, chẳng hạn việc anh trai ông phò tá Lê Hoàn. Tuy nhiên tài liệu này có hai chi tiết đáng lưu ý liên quan đến Phạm Cự Lạng, đó là việc ông từng phò tá Đinh Tiên Hoàng và có công lao trong công cuộc tấn công Chiêm Thành.
Ngô Sỹ Liên bàn luận về nhân vật Phạm Cự Lạng khi nhắc đến việc vua Lý Thái Tông cho lập đền thờ ông ở kinh thành như sau: “trong lòng không lo nghĩ gì mà tự nhiên thấy mộng, mới là chính mộng. Thái Tông suy nghĩ về việc xử kiện sao cho công bằng, nhờ vào thần linh, nên trong lúc hoảng hốt bèn nhìn thấy.
Như thế trong Chu Lễ gọi là vì nghi mà có mộng chứ không phải là chính mộng đấy. Xét ra thần thì phải là chính mộng. Thần thì phải thông minh chính trực chỉ một lòng, còn Cự Lạng lại hai lòng trong khi triều đình thay đổi vua. Nếu ở nơi âm ty mà bị Đinh Điền, Nguyễn Bặc tố cáo, thì tự mình không thể trả lời nổi cho mình, còn xét việc án nghi ngờ của nhân dân được sao?
Thái Tông quả là bậc đại nhân trung chính, thì người không trung chính, không thể xử kiện được, mà lại muốn nhờ vào thần để ngăn lấp dường gian trá, há chẳng phải là vu vơ lắm sao? Thờ chúa ngục, đầu tiên chỉ có một đền thờ ở nhà ngục phủ Đô hộ thôi, thế mà dần dần đến nay, các ty ở đâu cũng thờ phụng như thế, mà việc kiện tụng vẫn rối bời, người ngay kẻ gian lẫn lộn, chủ ngục chưa hề giết được một kẻ gian tham xảo trá nào và cũng chưa xử được một vụ oan uổng nào.
Ôi! Sách của thượng đế và vị sứ áo đỏ, có chăng? Người đó đúng là Cự Lạng hay không phải Cự Lạng? Mộng của Thái Tông không đáng tin, người đời sau vẫn tin mà thờ cúng, thật là mê hoặc lắm đấy.” (1).
Ở đây ông nhấn mạnh đến “sự ăn ở hai lòng” của Phạm Cự Lạng đối với triều Đinh. Ngoài lập trường của nhà Nho, liệu ông có còn dựa trên những tài liệu nói lên vai trò của Phạm Cự Lạng dưới triều Đinh để viết lên những dòng đó không?
Điều mà chúng ta biết chắc chắn rằng, sự kiện lập đền thờ còn rất gần với thời đại mà Phạm Cự Lạng đã sống; những thông tin về ông hẳn phong phú, chi tiết và chính xác hơn nhiều so với những ghi chép sau này. Việc lập đền thờ, ngoài cái vỏ huyền bí của việc thần ứng mộng, là sự đánh giá cao tài năng và nhân cách mà triều Lý dành cho Phạm Cự Lạng. Việc nhà vua đích thân xây dựng ngôi đền thờ Phạm Cự Lạng ở vào vị trí xung yếu, trấn cửa Nam thành - mà ngày nay được các nhà khoa học coi như một chỉ định để tìm lại dấu vết kinh thành Thăng Long cách đây một nghìn năm - gợi nhiều điều cần lý giải.
Điểm đầu tiên cần lưu ý là việc Phạm Cự Lạng được chọn làm vị thần trông coi việc xét xử phản ánh ông là người phải rất mực thanh liêm, sáng suốt. ảnh hưởng của Phạm Cự Lạng đối với thời ông sống hẳn vô cùng to lớn, ít nhất là đến thời điểm xây dựng đền thờ. Mặt khác vị trí trấn trị phía nam thành - một vị trí trọng yếu của ngôi đền thờ ông phải chăng còn mạng dấu vết mối liên hệ mật thiết của ông với vùng đất kinh thành và phía tây nam kinh thành Thăng Long?
Từ những ghi chép trong thư tịch cổ và dấu tích của ông ở khu vực quận Đống Đa, Hà Nội như trên, Phạm Cự Lạng nổi bật lên với vai trò của một vị công thần triều Tiền Lê và có đời sống lâu bền trong tâm tưởng của người dân Thăng Long - Hà Nội trong suốt chiều dài lịch sử. Cũng chính những tư liệu này gợi mở nhiều vấn đề cần giải đáp về con người ông đặc biệt là hành trạng của ông trong thời nhà Đinh. Điều này được hé mở bởi các thần tích? truyền thuyết và hệ thống các di tích thờ ở các địa phương.
_______________________
(1) Ngô Thì Sỹ: Đại Việt sử ký tiền biên, Sđd. trang 218.
3.Đến các nguồn tài liệu ở khu vực Nghĩa Hưng (Nam Định)
Chúng tôi nhận thấy có mật độ các di tích thờ Phạm Cự Lạng dày đặc ở khu vực phía bắc huyện Nghĩa Hưng ngày nay. Qua khảo sát thực tế, hiện còn đình/đền Hưng Nghĩa, Hưng Lộc, Hải Lạng (xã Nghĩa Thịnh); đền Nhân Hậu, Bình A xã Nghĩa Thái (1).
Bản thần tích Hưng Lộc thôn thần từ sự tích soạn năm 1751 được lưu giữ tại thôn Hưng Lộc, xã Nghĩa Thịnh, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định cho biết lai lịch của vị thần như sau: Phạm Cự Lạng sinh ngày 20 tháng 11 năm 944. Cha ông tên là Phạm Mạn, mẹ là Trần Thị Hồng quê ở Khúc Giang, Nam Sách. ông nội là Phạm Chiêm, làm châu mục Vũ An thời Ngô Vương Quyền, cha làm tham chính đô hộ thời Nam Tấn vương Ngô Xương Văn. Anh ruột ông là Phạm Hạp, làm quan Đô thống thời Tiền Lê.
Ông là người có tư chất thông minh, lại chăm chỉ học tập từ nhỏ, nên võ nghệ văn chương đều thấu hiểu tường tận. Trong thời kỳ mười hai sứ quân, ông cùng anh sớm chiêu mộ nhân tài, chuẩn bị lương thực chờ ngày giúp nước. Sau đó, ông đã cùng anh đem quân phò tá Đinh Bộ Lĩnh. Ông được trọng dụng, cử giữ chức Phòng ngự sứ liên phong tướng quân, trấn giữ vùng biển Đại Ác.
Khi Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi hoàng đế, ông được phong Tâm phúc tướng quân, coi việc thị vệ bảo vệ kinh thành Hoa Lư. Vào thời điểm vua Đinh Tiên Hoàng mới băng, vua còn nhỏ tuổi, giặc ngoại xâm lại đe dọa bờ cõi phía bắc, ông được Thái hậu phong làm đại tướng quân chuẩn bị chống giặc. ông đã phò tá Lê Hoàn lên ngôi vua. Lê Hoàn lên ngôi, phong ông làm Thái uý tham tán nhung vụ.
Năm 982, ông cùng nhà vua chinh phạt Chiêm Thành giành thắng lợi rực rỡ. Năm 983, ông được giao chỉ huy trấn trị vùng Đồng Cổ (Thanh Hoá), chỉ huy việc khai sông đắp đường và bị bệnh mất tại đây vào năm 984. Có thể thấy ngay rằng thời gian và ý nguyện của nhân dân đã bao phủ lên trên cốt lõi lịch sử trong bản thần tích trên. Trong khi sao chép từ chính sử, nhiều sự kiện trong bản thần tích đã bị chép sai lệch. Ta gặp lại chi tiết về Phạm Hạp tương tự như trong biệt điện u linh. Trật tự các sự kiện bị xáo trộn. Việc ông được phong chức Thái uý diễn ra ngay từ năm 980.
Năm mất của ông được ghi là năm 984, trong khi các tài liệu chính sử đều ghi chép thống nhất năm 986 ông vẫn còn sống và được ban chức Thái uý (2). Thông tin về năm sinh, năm mất như vậy chỉ để tham khảo trong quá trình nghiên cứu.
Mặc dù vậy, sự vắng bóng sự kiện chép tới Phạm Cự Lạng sau năm 986 có thể đặt giả thiết rằng ông đã mất cách đó không lâu. Tất nhiên để khẳng định được một cách chính xác, đòi hỏi cần phải có thêm tư liệu.
Tuy vậy, nhiều chi tiết trong bản thần tích này đòi hỏi sự quan tâm đặc biệt của nhà nghiên cứu. Ở đây, ta gặp lại thông tin Phạm Cự Lạng từng theo Đinh Bộ Lĩnh từ những buổi đầu dựng nghiệp trên vùng đất phía bắc Nghĩa Hưng này, được giữ một trọng trách dưới triều Đinh và sát cánh bên Lê Hoàn trong cuộc chinh phạt Chiêm Thành như trong Việt điện u linh có nhắc đến.
Mặc dù hơn 1.000 năm đã trôi qua, dấu tích của vị danh tướng từng phò tá hai đời vua Đinh - Lê còn đậm nét ở vùng đất này. Trong tất cả các đạo sắc phong của các triều đại phong kiến và trong tâm tưởng người dân nơi đây, ông là Lâm Giang thủ tướng. Để giải thích tên gọi mỹ tự này, người dân địa phương giải thích theo nhiều cách khác nhau.
_______________________
(1) Theo ông Thượng Văn Vinh, 77 tuổi và ông Bùi Văn Thuế. 75 tuổi đều là người làng Hải Lạng Thượng (Nghĩa Thịnh). khu vực này có 6 nơi thờ ông. Tuy nhiên ông chỉ nhớ được 5 nơi kể trên. Vợ chồng ông từ đền Nhân Hậu (Nghĩa Thái). Ông Vũ Đình Am, 74 tuổi và bà Nguyễn Thị Cống, 73 buổi. người xóm Nhân Hậu cho biết, ngày trước có 7 ấp thờ ông là Hưng Nghĩa. Hưng Lộc. Hải Lạng (Nghĩa Thịnh). Hà Dương Thượng. Nhân Hậu. Bình A (Nghĩa Thái) và Hạ Kỳ (Nghĩa Châu). Ông Phan Thanh Quang. 57 buổi người thôn Bình A (Nghĩa Thái) - ông từ đền Bình A - cũng cho biết Ông được thờ ở 7 nơi trong khu vực là Bình Dương. Bình A. Nhân Hậu (Nghĩa Thái). Tam Toà (Nghĩa Trung). Hưng Lộc, Hưng Nghĩa. Hải Lạng (Nghĩa Thịnh). Tài liệu khảo sát thực địa ngày 13-14 tháng 4 năm 2005.
(2) Nguyên văn “dĩ Từ Mục vi tổng quán tri quân dân sự, tứ hầu tước. Phạm Cự Lạng vi Thái uý”. Xem Đại việt sử ký toàn thư tập 4. Sđd. trang 99
Có người cho rằng gọi ông là Lâm Giang thủ tướng vì ông vừa trấn trị vùng cửa sông biển Đại Ác vừa cai quản vùng kinh đô thuộc miền rừng núi Hoa Lư. Có người giải thích tên gọi Lâm Giang thủ tướng là ý nói tới việc hoá thân của ông vào cây gỗ, trôi theo dòng nước từ núi Đồng Cổ đến bến Bạch Vân thuộc Hưng Nghĩa (Nghĩa Thịnh) mà sau đó các làng ở đây vớt lên thờ. Tên gọi đó còn gắn với truyền thuyết về việc ông được giao khai phá gỗ ở khu rừng Lâm Giang.
Theo cách giải thích này, khi được phong làm Thái uý, Phạm Cự Lạng hay bỏ về thái ấp tại Nghĩa Thịnh ngày nay. Ông thường vắng mặt trong các buổi thiết triều nên bị vua Lê (Lê Hoàn) giận, bắt chặt gỗ ở khu rừng Lâm Giang, nơi mà từ trước đến nay không có ai khai phá được Phạm Cự Lạng không chỉ hoàn thành được nhiệm vụ, mà còn được sơn thần biếu một cây gậy rút đường, cho phép ông có thể đi về giữa Hoa Lư và Đại ác một cách nhanh chóng. Từ đó nhân dân gọi ông là Lâm Giang thủ tướng (1). Các cách giải thích dù khác nhau nhưng đều thể hiện sự gắn bó mật thiết của vị thần này với khu vực này.
Sự hiện diện của Phạm Cự Lạng trên vùng đất này đậm nét với các di tích thờ còn lưu giữ được nhiều câu đối nhắc lại thân thế, ca ngợi công lao của ông đối với triều Lê, đối với lịch sử dân tộc. Hiện nay, tại đình thờ Phạm Cự Lạng thôn Hưng Lộc còn tượng Phạm Cự Lạng bằng đồng rất lớn. Ở toà chính cung còn biển gỗ ghi “Lâm Giang thủ tướng”(vị tướng trấn giữ nơi sông rừng) ghi dấu sự nghiệp gắn liền với vùng cửa sông nước của ông. Thần vị tại đình cũng ghi nhận công lao to lớn của ông (Lê triều công thần hồng huân vĩ tích Phạm đại vương thần vị). Cùng ý nghĩa ca ngợi công lao của danh tướng họ Phạm là đôi câu đối:
Khuông Lê vĩ tích tồn sơn hải,
Bình Tống, anh thanh quán cổ kim (2)
(Công lớn phò giúp nhà Tiền Lê, còn tồn tại với nước non, Tiếng vang oai hùng đánh giặc Tống, còn vọng mài từ xưa đến nay)
Dấu vết của một quân doanh ở khu vực Nghĩa Thịnh vẫn còn được lưu truyền trong nhân dân. Các cánh đồng Táo Đông, Táo Tây là nơi đặt bếp nấu ăn từ xa xưa. Khu Vườn Hoang là nơi xưa kia nhân dân ít dám lui tới. Theo vệt sông chảy, người ta tìm thấy một số di vật của thuyền lớn bị đắm từ lâu đời cùng với nhiều mảnh sành cổ (3).
Tại đền thờ ông ở Bình A (Nghĩa Thái) có vế đối:
Tiền Lê khai quốc nguyên huân công cao vạn cổ
(Công đầu mở nước Tiền Lê vời vợi muôn đời)
Nhắc tới sự kiện lập đền thờ ông tại kinh thành Thăng Long thời Lý, đền Nhân Hậu có vế đối:
Thông thụy hồng y trưng đế mệnh
(sứ giả áo đỏ mang mệnh đế đỉnh xuống cho vua Thông Thụy)
Cũng tại đình Nhân Hậu, có vế đối nhắc tới việc lập đền thờ:
Tiền Lê khai quốc nguyên huân tướng
Hậu Lý gia phong thượng đẳng thần
(Nhà Tiền Lê mở nước là vị tướng có công đầu, Nhà Lý được gia phong thượng đẳng thần)
Đình Hưng Lộc, hiện nay được coi là nơi thờ chính vốn được lập từ rất sớm. Nghệ thuật điêu khắc ở đình mang đặc trưng của thế kỷ 17- 18 , nhưng theo như câu đối còn giữ lại được đình có từ giữa thế kỷ XV đến nay:
Thái ấp khói phong, Lý Thiên Thành nhi thuỷ
Linh từ phát tích, Lê Đại Bảo dĩ lai
(Đất ruộng tế lễ được ban cấp, mở đầu từ niên hiệu Thiên Thành thời Lý Đền thiêng nên dấu tích, kể từ niên hiệu Đại Bảo thời Lê đến nay )
____________________
(1) Tài liệu do vợ chồng ông Vũ Đình Am, 74 tuổi và bà Nguyễn Thị Cống. 73 tuổi. người xóm Nhân Hậu cung cấp (ngày 13-14.4.2005).
(2) Câu đối này được bắt gặp ở hầu hết các di tích thờ ông tại khu vực này.
(3) Ban Quản lý Di tích và Danh thắng Nam Định: Hồ sơ di tích đền chìa Hải Lạng (Hải Lạng, Nghĩa Thịnh. Nghĩa Hưng. Nam Định), Nam Định 2002. Tài liệu lưu tại Phòng Văn hoá Nghĩa Hưng, Nam Định.
Theo các cụ già người địa phương, nơi thờ chính, sớm nhất trước kia là đình Hưng Nghĩa (Nghĩa Thịnh). Đình nằm cách đình Hưng Lộc chừng 500m, khá nhỏ. Ngoài bức đại tự có đề Hiển thần uy, một số câu đối nhắc tới cuộc đời hoạt động của ông, tại đền còn giữ được 15 đạo sắc phong cho Lâm Giang thủ tướng Phạm Cự Lạng, đạo sớm nhất vào năm 1670 (1).
Điều đáng quý hơn là việc Phạm Cự Lạng về vùng đất này, giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn sứ quân, thống nhất đất nước; cũng như việc ông hết lòng giúp triều Đinh xây dựng đất nước cũng được phản ánh khá rõ nét. Vào các ngày kỷ niệm vị thần này, nhân dân địa phương thường đọc bài văn tế có nội dung sau:
“Kính trông:
Đại vương là thánh là thần, rất thiêng rất đẹp. Giỏi giang văn võ gồm hai, giúp rập Đinh, Lê hai chúa. Ngôi Thái uý oanh liệt triều xưa ở nơi quân ngũ. Việc Nam đài mệnh vang thượng đế tiếng để muôn năm.
Hiển thánh ở núi Đồng [Cổ] hổ báo đều khiếp vía. Giáng thần từ cây ngọc tăm kình vắng bóng chốn nhân gian. Muôn năm đền miếu toả hương thưm, các bậc đế vương ban sắc tặng.
Thần hiển ứng mưu lược khôn lường, giúp dân nước yên vui mãi mãi.
Vì bốn dân dày lộc tiền gạo thành kho.
Giúp một cõi rất yên của người thịnh đạt.
Nép mình trông đợi, thượng hưởng.” (2)
Không thấy trong tâm thức dân gian có việc lên án ông tôn phò Lê Hoàn lên ngôi vua, ngược lại luôn thấy sự ca ngợi công lao của ông đối với cả hai triều đại, đặc biệt là với dân trong vùng dưới thời nhà Đinh.
Tại đền Hải Lạng (Nghĩa Thịnh), còn có đôi câu đối, vừa nhắc lại tích lập đền thờ ông, vừa ca ngợi công đức của ông đối với dân sáu thôn nơi đây dưới hai triều Đinh - Lê:
Nhân dạ phong lôi lập mộc hiển thần(3) thiên cổ hách
Lưỡng triều bảo quốc an ninh xã tắc lục thôn đồng
(Qua một đêm mưa gió, cây dựng đứng, vị thần vẻ vang nghìn năm hiển hách.
Trải hai triều giữ nước, dân no ấm, non sông yên ổn, sáu thôn chung lòng).
Bản Ngọc phả Đương Chu đại vương (Hướng Nghĩa, Minh Thuận, Vụ Bản) cũng phản ánh bóng dáng của anh em Phạm Cự Lạng ở đây, khi cho biết Phạm Hạp, Đỗ Thích được Đinh Bộ Lĩnh phái đi đánh Nguyễn Gia Loan ở Vĩnh Mộ. Về mặt địa lý, các tài liệu cho biết khu vực này nằm trên đường bờ biển thế kỷ X. Vùng đất này chính là cửa biển Đại Ác thời nhà Đinh - Tiền Lê, sau được vua nhà Lý đổi thành Đại An. Dấu tích biển còn đậm nét ở vùng đất này. Câu đối ở đền thờ thôn Hải Lạng có ghi lại việc khai khẩn lập làng từ đời Tiền Lê:
Quy trúc bốc trạch Tiền Lê đại
Thương các chiêm ân hậu Nguyễn triều
________________________________
(1) Bảo tàng Nam Hà: Tư liệu khảo sát đình Hưng Lộc, xã Nghĩa Thịnn, huyện Nghĩa Hưng tỉnh Nam Hà (nay là Nam Định). 1993. Lưu tại phòng Văn hoá Nghĩa Hưng. Nam Định.
(2) Bảo tàng Nam Hà: Tư liệu khảo sát đình Hưng Lộc, xã Nghĩa Tnịnh, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Hà. Tài liệu đã dẫn.
(3) Theo Hưng Lộc hưng thần từ sự tích và các truyền thuyết địa phương, Phạm Cự Lạng mất năm 984 tại Đồng Cổ (Thanh Hoá). Vào niên hiệu Đại Bảo (triều Lê), ở vùng Đồng Cổ mưa to nước lớn. Khi ấy tại khu bến Bạch Vân có ông già cất vó bị một cây gỗ lớn chắn lối; ông kéo cây gỗ ra xa, song cây gô lại trôi về chỗ cũ. Qua một đêm mưa to gió lớn, người trong làng đều trông thấy cây gỗ dựng đứng lên. Hiện tượng ấy ứng với việc Phạm Cự Lạng về báo mộng cho dân. Nhân dân các xã ra rước về. lập đền thờ. Nhân dân làng Hưng Nghĩa, gần khu bến Bạch lấy miệng giả làm tiếng trống, tiếng kèn mà kéo được cây gỗ, sau dùng làm tượng Lâm Giang thủ tướng. Các làng khác chỉ xin được cái bạnh gỗ nên chỉ làm được một phần của ngai. Vì vậy mà các làng Hưng Lộc. Hải Lạng, Nhân Hậu. Bình A... đều coi đền thờ Hưng Nghĩa là đền thờ chính, là xã đàn anh.
(Từ thời Tiền Lê chọn đất dựng nhà,
Đến thời Nguyễn ơn phong gác phượng)
Ngay cái tên Hải Lạng là cách đọc chệch từ Hải Lãng (sóng biển). Dù gọi là Hải Lạng, song tên chữ Hán của làng vẫn được viết là Hải Lãng.
Các trò diễn trong ngày hội, như trò bắt vịt, đi cầu tre, đấu vật (1) đã tái hiện lại quá khứ lập làng ở vùng cửa biển khi xưa trên một vùng sông nước mênh mông, đồng thời ôn lại tinh thần thượng võ nhắc tới chiến công của Phạm Cự Lạng. Người dân khu vực Nghĩa Thịnh, Nghĩa Thái khi được hỏi về lịch sử của mình đều tự hào nói rằng, xưa kia vùng đất này là cửa biển Đại ác. Đây tương truyền là một cửa biển hiểm ác, được phản ánh qua câu nói của dân gian: “Vượt Đại Nha, qua Thần Phù".
Thần Phù được mô tả là một cửa biển hung dữ:
“Lênh đênh qua biển Thần Phù;
Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm”.
Như vậy ta phần nào có thể hình dung mức độ hiểm trở của Đại Nha. Theo truyền thuyết được sưu tầm trong Đại An luyện chí thời Nguyễn thì ở cửa biển này có ba con sóng rất hung dữ, thuyền bè qua lại thường gặp nạn, khó có thuyền nào vượt qua được. Đối với những thuyền không đủ khả năng vượt qua thì đều bị đắm, xác trôi dạt, loài quạ, cú vọ qua lại tìm mồi, chúng kêu gọi nhau ở đây. Truyền thuyết này phần nào đã giải thích được sự tồn tại của tên gọi Đại Ác.
Đây là cửa ngõ của Hoa Lư, cách không xa kinh đô thời Đinh - Tiền Lê. Theo truyền thuyết. nhờ có cây gậy rút đất mà sơn thần biếu, Phạm Cự Lạng có thể chập tối từ Hoa Lư về nơi ấp phong xã Nghĩa Thịnh ngày nay ngủ qua đêm, sáng sớm lại có mặt ở Hoa Lư.
Đại Ác là một cửa biển có vị thế quan trọng về mặt quân sự chính trị trong lịch sử dân tộc. Ngay từ thế kỷ VI, vùng cửa biển này chứng kiến giờ phút cuối cùng của Triệu Việt Vương. Trong cuộc kháng chiến chống quân Nam Hán (nửa đầu thế kỷ X), lực lượng tinh binh chủ lực giữ vai trò quyết định đánh tan đạo quân xâm lược ở cửa biển Bạch Đằng là do Ngô Xương Ngập chỉ huy từ phía cửa biển Đại Nha kéo tới.
Đây cũng là cửa biển mà Ngô Nhật Khánh dẫn đường cho quân Chiêm Thành tấn công Đại Cồ Việt (năm 979) (1). Ngay cả khi Hoa Lư không còn giữ vai trò kinh đô nữa, thì đây vẫn là đường thuỷ truyền thống của Chiêm Thành và Trung Quốc, như nhận xét của các thương nhân phương Tây thế kỷ 17, 1 8 (2).
Việc Phạm Cự Lạng theo về dưới cờ của vị thủ lĩnh Đinh Bộ Lĩnh và hoạt động ở khu vực này càng được khẳng định khi mà vùng đất ven biển nơi hạ lưu của các con sông Đáy, sông Hồng - khu vực đất cổ thuộc Ninh Bình, Nam Định và Thái Bình ngày nay - là nơi diễn ra sôi nổi các hoạt động chính trị, quân sự trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước dưới thời Đinh - Tiền Lê .
Trong bối cảnh lịch sử đó, dấu tích hoạt động dầy đặc của Phạm Cự Lạng ở khu vực Nghĩa Thịnh, Nghĩa Thái. . . kết hợp với những ghi chép nguồn thư tịch cổ đủ cơ sở để khẳng định Phạm Cự Lạng đã nổi lên là một vị tướng tài từ những năm loạn mười hai sứ quân.
____________________
(1) Bảo tàng Nam Hà: Tư liệu khảo sát đình Hưng Lộc, xã Nghĩa Thịnh, hnyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Hà, Tài liệu đã dẫn.
(1) Đại Việt sử ký toàn thư. Sđd. trang 216.
(2) Winiam Dampier. Một chuyến du hành sang Bắc Kỳ vào năm 1688, Tài liệu dịch lưu tại phòng Tư liệu Khoa sử, Trường ĐHKHXH&NV, trang 8-9.
Trong thời kỳ Đinh Bộ Lĩnh còn đang chuẩn bị lực lượng, xây dựng căn cứ rộng lớn ở vùng duyên hải ven cửa sông Đại ác và sông Giao Thuỷ, ông sớm cùng anh là Phạm Hạp theo về, tự nguyện đứng dưới cờ của vị thủ lĩnh tài ba Đinh Bộ Lĩnh. Ông được cử trấn thủ vùng biển cửa sông Đáy - vùng hiểm yếu, cửa ngõ phía nam kinh thành Thăng Long.
Khi Đinh Bộ Lĩnh từ căn cứ rộng lớn của mình (kéo dài từ vùng rừng núi Hoa Lư sang vùng đồng bằng ven biển thuộc Nam Định và Thái Bình ngày nay), tấn công ra các vùng khác hoàn thành sự nghiệp dựng nước, chắc chắn ông đã cùng với anh tham gia tích cực và góp phần quan trọng trong thắng lợi đó (1).
Như vậy, Phạm Cự Lạng, cùng với anh của ông là những bậc công thần của triều Đinh. Ông đã góp phần không nhỏ trong việc tạo dựng nghiệp lớn nhà Đinh nói riêng và trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước thời kỳ này nói chung. Công lao ấy đã được vị vua triều Đinh nhìn nhận. Chính vì lẽ đó, trước nguy cơ xâm lấn của phong kiến phương Bắc, ông được Thập đạo tướng quân Lê Hoàn tiến cử làm Đại tướng quân.
Chắp nối các sự kiện về Phạm Cự Lạng ta càng thấy ông là người thức thời, chí công vô tư. Là công thần triều Đinh, nhưng ông không bày tỏ lòng trung như anh trai, mà thức thời nhìn nhận thấy được khả năng của vị Thập đạo tướng quân Lê Hoàn và lại hết lòng giúp rập tôn vinh ông lên ngôi vua, sát cánh bên ông trong cuộc kháng Tống, bình Chiêm. Đáng quý hơn nữa, ông không vì tình nhà mà biết đặt lợi ích của quốc gia lên trên hết. Nhân cách của ông đã được tôn vinh khi nhà Lý chọn ông làm vị thần trông coi việc xét xử - biểu tượng của sự công minh chính trực.
Qua cuộc đời và sự nghiệp của Phạm Cự Lạng, chúng ta cũng có thể hiểu thêm về vị vua khai sáng nhà Tiền Lê. Trừng phạt anh trai vì tội phản loạn, nhưng Lê Hoàn không ngần ngại ngay lúc đó sử dụng người em như là một trợ thủ đắc lực. Cách dùng người công minh, sáng suốt, phân biệt công tư ấy đã là một nhân tố quan trọng tạo nên những kỳ công “trừ dẹp gian trong, đánh tan giặc ngoài, làm mạnh nước Việt ta, ra oai với người Tống” (2), đưa ông lên vị trí của một vị anh hùng dân tộc.
Phần 1
QUÊ HƯƠNG, GIA THẾ, CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA LÊ HOÀN LÊ HOÀN QUA LỜI BÌNH CỦA CÁC SỬ GIA PHONG KIẾN VIỆT NAM Nguồn: quansuvn.net
Thu gọn nội dung
Phạm Đức Anh
Khoa Lịch sử, Trường Đại học KHXH&NV, Đại học Quốc gia Hà Nội
1. Từ những lời bình trong chính sử
Khi đọc những bộ chính sử của các triều đại phong kiến Việt Nam, có một thực tế mà các nhà nghiên cứu lịch sử ngày nay đều thấy rõ, đó là ngoài tính khách quan, chân thực của những thông tin ghi chép trong chính sử là điều không thể phủ nhận, thì bên cạnh đó do những yếu tố khách quan và chủ quan chi phối nhà sử học, mà ẩn giấu trong những ghi chép ấy là những thái độ, tình cảm, những nhìn nhận mang tính chủ quan của người viết sử đối với từng nhân vật, sự kiện lịch sử.
Mặt khác, những sự kiện, nhân vật lịch sử này lại được nhìn nhận một cách chủ quan hơn nữa qua những lời bình xét, đánh giá của các sử gia.
Đã từ lâu, các nhà lý luận sử học khẳng định rằng, những ghi chép trong chính sử vốn dĩ ít nhiều đã mang tính chủ quan của người viết sử, và những ghi chép này lại thiếu tính khách quan hơn nữa khi được nhìn nhận thông qua lăng kính bình giá của các sử gia.
Vì vậy, muốn xác định được tính chân xác của thông tin phản ánh, đòi hỏi người nghiên cứu phải nhận thức rõ về hệ thống các giá trị chủ quan của người bình sử.
Lê Hoàn là một nhân vật lớn của thế kỷ X - thời đại trước của tất cả các bộ sử và các sử gia Việt Nam hiện được biết đến. Vậy, Lê Hoàn dưới con mắt của các sử gia thời hậu thế đã được nhìn nhận, đánh giá như thế nào, những ý kiến khen chê xung quanh những việc làm, quyết định của ông ra sao?... Bài viết này nhằm tập hợp những lời bình trong chính sử, qua đó khắc hoạ chân dung Lê Hoàn dưới con mắt của các sử gia phong kiến Việt Nam.
Qua thống kê những bộ chính sử: Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Việt sử ký tiền biên, Lịch triều hiến chương loại chí, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, và Việt sử cương mục tiệt yếu chúng tôi đã tập hợp được những lời bình chú trực tiếp, xuất hiện dưới các đề mục: “Lê Văn Hưu nói/bàn”, Sử thần Ngô S Liên nói/bàn”, “Sử thần Ngô Thì Sĩ bàn”, “Lời cẩn án”, “Xét, “Thiện Đình xét”. . . . . . và những đoạn ghi chép là những đánh giá, bình luận của các sử gia về Lê Hoàn.
Tập hợp của chúng tôi, bao gồm cả những lời bình trực tiếp của các sử thần trong các tác phẩm của chính họ (phần lớn), và cả những lời bình trong những bộ sử cũ đã mất, nhưng được dẫn lại từ sách của các tác giả về sau (trường hợp những lời bình của Lê Văn Hưu, Nguyễn Nghiễm).
Có những lời bình của các tác giả đời trước, đã không dưới một lần được dẫn lại trong các sách của các tác giả đời sau. Do vậy, sau khi đối chiếu, so sánh xét thấy đây chỉ là sự sao chép, dẫn lại thì xin lấy lời bình của chính tác giả viết trong sách của mình hoặc là từ sách gần với thời đại của tác giả nhất.
Theo đó, chúng tôi đã tập hợp được những lời bình của sử gia Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên từ Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê); lời bình của Nguyễn Nghiễm, Ngô Thì Sĩ từ Đại Việt sử ký tiền biên (của Ngô Thì Sĩ ); lời bình của Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chưong loại chí phan Huy Chú); lời bình của các sử thần triều Nguyễn trong Klâm dịn/1 việt sử thông giám cl(ơng mục và lời bình của Đặng Xuân Bảng trong chính tác phẩm của ông - Việt sử cương mục tiết yếu (Xem phụ lục).
2. Một vài nhận xét
2.1. Qua tập hợp, chúng tôi đã thu thập được 22 lời bình sử của 7 sử gia và cơ quan chép sử phong kiến, bình luận về 11 sự kiện khác nhau xung quanh nhân vật Lê Hoàn trong khoảng thời gian 26 năm cuối đời của ông, kể từ khi ông giữ chức Thập đạo tướng quân (năm 979) đến khi ông qua đời, năm 1005 (Xem bảng 1).
7 sử gia và cơ quan chép sử trong tập hợp thuộc các triều đại: Trần (Lê Văn Hưu), Lê (Ngô Sĩ Liên, Nguyên Nghiễm, Ngô Thì Sỹ), và Nguyễn (Phan Huy Chú, Quốc sử quán và Đặng Xuân Bảng). Họ đều là những người sống sau thời đại của Lê Hoàn, gần thì cũng cách hơn 200 năm, xa cũng ngót 1000 năm. Những sự kiện liên quan đến nhân vật Lê Hoàn, được các sử thần bình luận sắp xếp theo trật tự thời gian như sau:
1- Lê Hoàn làm Thập đạo tướng quân (2 lời bình);
2- Lê Hoàn làm Phó vương nhiếp chính (1 lời bình);
3- Lê Hoàn được Phạm Cự Lạng và triều thần suy tôn lên ngôi (1 lời bình);
4- Lê Hoàn sau khi lên ngôi truy phong cho cha mẹ (3 lời bình);
5- Lê Hoàn lên ngôi thay nhà Đinh (4 lời bình);
6- Lê Hoàn lập Dương Vân Nga làm hoàng hậu (2 lời bình);
7- Lê Hoàn giết Quản giáp Dương Tiến Lộc và nhân dân hai châu Hoan, Ái (1 lời bình);
8- Lê Hoàn xem hội đèn ở điện Càn Nguyên ( 1 lời bình);
9- Lê Hoàn phong đế, phong vương cho các con (3 lời bình);
10- Đinh Toàn tử trận khi tham gia chinh phạt cùng Lê Hoàn (1 lời bình);
11 - Lê Hoàn sau khi mất ( 3 lời bình).
Như vậy, trong hầu hết các bộ chính sử phong kiến Việt Nam, khi chép đến giai đoạn thế kỷ X và đề cập đến nhân vật Lê Hoàn, các sử gia không thể không dừng lại bình luận về ông. ít thì cũng 1 -2 lời, nhiều thì dành 5-6 lời bình. Tất cả những sự kiện bình luận về Lê Hoàn như trên cho ta thấy, chúng đều là những việc làm, hành động, những quyết định của nhân vật này xoay quanh những mối cương thường: Quân-thần, vua-tôi, chồng-vợ; nhân-nghĩa-lễ-trí-tín theo hệ thống bình xét của những chuẩn mực đạo đức, thang giá trị Nho gia.
Trong đó, những sự kiện được các sử gia tập trung bình luận nhiều nhất là xung quanh việc Lê Hoàn lên ngôi hoàng đế, “cướp ngôi” nhà Đinh (4 lời bình); việc Lê Hoàn sau khi lên ngôi truy phong cho cha mẹ, và phong đất cho các con trấn giữ những vùng hiểm yếu (đều 3 lời bình).
2.2. Một điều dễ nhận thấy là khi các sử gia bình về Lê Hoàn, họ chê nhiều hơn là khen ông, 9 lời khen và 22 lời chê (xem bảng 2). Những lời chê Lê Hoàn tựu trung lại vẫn không nằm ngoài những khuôn phép của đạo Nho, rằng ông đã rắp tâm tiếm đoạt khi làm Phó vương nhiếp chính; phản lòng trung mà cướp ngôi” nhà Đinh; đối với cha mẹ thì bất kính, bất hiếu; đối với đạo vợ chồng thì bất chính; đối với các con thì bất công; đối với đạo trị nước thì bất tín, bất minh..., tất cả đều trái lẽ cương thường, trái đạo nhân luân.
Mặc dù các sử gia phong kiến hết sức hà khắc, nặng nề trong lời định tội, thế nhưng khi nói về công lao và sự nghiệp của ông, họ lại không tiếc lời khen ngợi. Ngô Sĩ Liên tấm tắc ngợi ca rằng, ông đã “trừ nội gian mà lấy được nước, đuổi giặc ngoài để được yên dân, trong nước yên bình, Bắc Nam vô sự ‘; “Vua đánh đâu được đấy chém vua Chiêm Thành để rửa cái nhục phiên di bắt giữ sứ thần, đánh lui quân Triệu Tống để bẻ cái mưu tất thắng của vua tôi bọn họ, có thể gọi là bậc anh hùng nhất đời vậy” (1).
Sử thần Phan Huy Chú không những khen ông đã phá quân Tống, bình nước Chiêm”, khiến “chốn Hoa hạ và man di đều sợ hãi”, “Trung Quốc sắc phong mấy lần. Tiếng tăm lừng lẫy”, mà đối với đạo trị nước, còn “để ý việc thường dùng của dân, dốc lòng về quốc chính, trọng nông nghiệp, cẩn thận về biên phòng, quy định pháp lệnh tuyển dân làm lính, đổi đặt châu phủ, chia đặt các phiên trấn” (2) . . . Thành thử, ngay trong mắt các nhà sử học mang nặng tư tưởng phong kiến bảo thủ, hẹp hòi thì Lê Hoàn vẫn hiển hiện phẩm chất và nhân cách của một người anh hùng dân tộc vĩ đại, sống mãi với lớp lớp cháu con.
2.3. Có những sự kiện không thấy được các tác giả thời trước bình luận, song trong những tác phẩm của các sử gia thời sau sự kiện ấy lại được đem ra đánh giá, bình phẩm coi như một sự bổ sung, làm sáng rõ hơn về nhân vật, sự kiện đó. ấy là những sự kiện chỉ thấy xuất hiện một lần trong tập hợp thống kê. Chẳng hạn như lời bình về sự kiện Phạm Cự Lạng đã “bội nghĩa hám lợi”, phản lòng trung mà đứng đầu triều thần suy tôn Lê Hoàn lên ngôi hoàng đế chỉ duy nhất thấy trong sách của Nguyễn Nghiễm, mà khi chép đến sự kiện này không thấy Lê Văn Hưu và Ngô Sĩ Liên có lời bình luận nào.
Ví dụ khác
______________
(1) Đại việt sử ký toàn thư. Tập I Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 1993. tr. 221 và 231.
(2) Phan Huy Chú: Lịch triều hiên chương loại chí, Tập I Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 1992. tr.192
Ví dụ khác cũng chỉ thấy duy nhất vị sử thần triều Lê Trung hưng này bình là việc Lê Hoàn khi làm vua đã xa hoa, lãng phí trong việc xây cất cung điện, dù đã “quá tuổi tri thiên mệnh” mà vẫn giữ “tính trẻ con”, “lửa ham muốn bùng lên” khi mà xương tuỷ dân đã kiệt” (1).
Hay như sự kiện năm 1001, trong khi các bộ sử thời Lê và đầu thời Nguyễn đều chỉ chép là vào năm ấy, Lê Đại Hành đi đánh giặc Cử Long (nay thuộc huyện Cẩm Thuỷ, tỉnh Thanh Hoá). Trong đội quân Nam chinh ấy có Vệ vương Đinh Toàn. Khi quân đội nhà Lê truy đuổi giặc đến Cùng Giang đã bị chúng vây hãm hai bên bờ sông, Đinh Toàn trúng tên chết tại trận. Lê Hoàn kêu trời ba tiếng rồi thúc quân đánh, giặc tan vỡ (2). Ngoài ra không thấy bình luận gì thêm.
Thế nhưng, đến bộ Khâm định Vệ sử thông giám cương mục, các sử thần triều Nguyễn đã dành thêm những lời sau đây để bình luận về sự kiện này: “Lê Hoàn lợi dụng cơ hội, đã cướp lấy nước người ta, lại không khéo đối đãi chúa cũ, đẩy vào chỗ chết, thế nào mà Toàn chẳng đến tử vong? Còn việc cất tiếng kêu trời, gieo mình xuống đất, chỉ là một ngón giả trá. Thật khó che đậy được công luận nghìn thư” (3).
2.4. Đối với những sự kiện được bình luận nhiều lần, có hai trường hợp sau xảy ra:
Trường hợp thứ nhất, là tuy các sử gia thời sau dẫn lại lời bình của các sử gia thời trước trong sách của mình, song đó không phải là những lời dẫn nguyên văn, mà thường đã được thêm bớt, chỉnh sửa, và đặc biệt là đã được gia cố thêm bàng những động/tính từ phiếm chỉ mạnh: “trái thường quá lắm”, “điên đảo sai lầm quá lắm”, “không thể coi được”, “chẳng ra gì,, xấu như cầm thú mọi rợ”, “chép vào sử sách để cho nghìn thu chê cười”...
Trường hợp thứ hai, là cùng một sự kiện nhưng nhiều khi các sử gia lại đánh giá khác nhau, thậm chí trái ngược nhau, biện bác ý kiến của nhau. Chẳng hạn như khi cùng đánh giá về sự kiện Lê Hoàn lên ngôi hoàng đế thay cho nhà Đinh, Lê Văn Hưu cho rằng đó là do Lê Hoàn đã đánh dẹp nội loạn bên trong (giết Đinh Điền, bắt Nguyễn Bặc) và đánh đuổi giặc ngoại xâm, dẹp yên bờ cõi (thắng tướng giặc là Quân Biện, Phụng Huân) mà có được. Đó là những vũ công oanh liệt mà “dẫu là nhà Hán, nhà Đường cũng không hơn được” (4).
Thế nhưng, Ngô Sĩ Liên lại đánh giá khác. ông cho ràng Lê Đại Hành đã không giữ đạo tam cương, ngay khi còn giữ chức nhiếp chính đã ráp tâm làm điều bất lợi với vị ấu chúa Đinh Toàn. Do đó mà Đinh Điền, Nguyễn Bặc vì lòng trung đã không thể “nhẫn tâm điềm nhiên mà nhìn”, lui về dấy quân chống lại Lê Hoàn, mưu giữ xã tắc họ Đinh.
Ngô Sĩ Liên khẳng định “đó là bầy tôi trung nghĩa” và vì việc không thành mà họ phải hy sinh, khiến vị sử thần triều Lê khen ngợi đó chính là “bề tôi tử tiết”. Ông không đồng ý với người tiền nhiệm của mình khi đã đánh đồng Đinh Điền, Nguyễn Bặc với hàng loạn tặc, và theo ông điều đó “khiến cho nhân luân không được sáng tỏ với đời sau, gây mầm mống tiếm đoạt”, “quét sạch cương thường” cho nên “không thể không biện bác” (5).
Lời bình của Ngô Thì Sĩ lại nhận định: “Nhà vua nhân trong triều xảy ra tai nạn mà lấy đước nước, đánh đuổi giặc ngoại xâm mà vỗ yên nhân dân, trong nước yên ổn, Bắc Nam được vô sự”. Song, ông cũng nghiêm khắc phê phán Lê Hoàn đối với “đạo tam cương không được đúng đắn, quan hệ vợ chồng, cha con, vua tôi đều chẳng ra gì”, “cho nên con cháu lục đục với nhau đến nỗi mất nước” (6).
______________
(1) Ngô Thì Sĩ : Đại việt sử ký tiền biên. Nxb Khoa học xã hội. Hà Nội, 1997. tr. 173.
(2) Đại Việt sử ký toàn thư. Sđd. tr.230. Ngô Thì : Đại Việt sử ký tiền biên. Sđd. tr. 177.
(3) Quốc sử quán triều Nguyễn: Khâm định Việt sử thông giám cương mục. Tập 1. Nxb Giáo dục. Hà Nội. 1998. tr. 267.
(4) Đại Việt sử ký toàn thư. Sđd. tr.230. Ngô Thì Sĩ : Đại Việt sử ký tiền biên. Sđd. tr. 221 .
(5) Ngô Thì Sĩ : Đại Việt sử ký tiền biên. Sđd, tr. 166.
(6) Quốc sử quán triều Nguyễn: Khâm định việt sử thông giám cương mục
Đến các sử thần triều Nguyễn, vẫn sự kiện ấy song không thấy họ bình luận gì nữa, chỉ thấy họ nghi ngờ về việc nhà Lê, nhà Lý khi lên ngôi có những huyền tích giống với nhà Tống bên Trung Quốc và cho rằng “hay là người làm sử thấy thế, gò ép gán gẩm vào với nhau để cho thần dị câu chuyện” (1).
Tương tự như vậy, khi cùng bình luận về sự kiện Lê Hoàn phong đất, phong vương cho các hoàng tử (trong số ấy có người con nuôi là Phù Đái vương), Ngô Sĩ Liên luận rằng nhà vua nhận và phong đất cho con nuôi, chẳng qua là vì vua ưu Ái riêng mà thôi. Thế nhưng Ngô Thì Sĩ lại đánh giá rằng vua Lê làm việc ấy là “nhằm tránh cái nạn của nhà Đinh, phong tước vương và đất cho 13 người con, để nơi lớn nhỏ ràng buộc lẫn nhau, lúc nguy cấp thì cứu nhau, chống kẻ khinh rẻ mà giữ được sự bền lâu, không để cho thừa cơ nhòm ngó, như mình đối với nhà Đinh”.
Song, dù đã lo nghĩ chu đáo, dù đã chuẩn bị kỹ càng nhưng Lê Đại Hành cũng không lường hết được chữ “ngờ” khi chính những người con trai của ông lại “tranh nhau lên ngôi”, “đấu đá lẫn nhau’ khiến cho vương quyền rơi vào tay họ Lý. Lỗi ấy theo Ngô Thì Sĩ là do Lê Đại Hành đã “làm mười điều ác không có một điều thiện” và không thể đổ cho ai được” (2).
Khi bình xét sự kiện này, Đặng Xuân Bảng lại cho rằng nhà Lê sở dĩ rút bài học từ chính mình đối với họ Đinh nên không đặt chức quan Thập đạo tướng quân, mà sai các con làm vương ở các châu theo lối phân phong của người xưa. Nhưng từ khi Trung Tông lên ngôi, các anh em trong vương thất đã tranh giành, đem quân đánh lộn lẫn nhau. Nhà vua tin kẻ hầu cận hơn tin người thân trong nhà, và cái hoạ nhà Lý thay nhà Lê đã xảy ra” như một điều tất yếu (3).
2.5. Điều cuối cùng nhận thấy qua lời bình của các sử gia, là giữa họ, hệ thống các giá trị, chuẩn mực đạo đức, luân lý được sử dụng khi bình xét, bên cạnh những yếu tố đồng nhất, xuyên suốt bởi sự bao trùm, chi phối của lề lối Nho gia, thì những sử gia ấy, ở những thời đoạn khác nhau, chịu những tác động của bối cảnh lịch sử khác nhau lại có những khác biệt nhất định khi nhìn nhận, đánh giá về lịch sử. Điều đó được thể hiện cụ thể, dễ nhận thấy trong cách hành văn, trong việc sử dụng các thuật ngữ, khái niệm Nho-Hán, trong việc biện dẫn các điển tích, điển cố, các sách kinh điển của nhà Nho trong từng lời, từng câu bình sử.
Không hiểu hai lời bình của Lê Văn Hưu về Lê Hoàn được dẫn lại trong tác phẩm của Ngô Sĩ Liên có đúng là của chính tác giả hay không, hay nếu đúng thì mức độ chính xác về mặt văn bản học như thế nào? Đọc cuốn chính sử có niên đại gần nhất với thời của Lê Văn Hưu là Việt sử lược thì chỉ thấy tác giả bộ sử này ngoài những mô tả đơn thuần các sự kiện lịch sử, không thấy có bất kỳ sự bình phẩm, đánh giá nào.
Dẫu sao hãy cứ tin rằng đó là những lời bình của chính Lê Văn Hưu, cho dù như trên đã nói, nó có thể đã được thêm thắt, nhấn mạnh bởi những sử gia hậu sinh. Điều đó không phải không có căn cứ, khi ta đem so sánh chúng với những lời bình của các sử gia thời sau.
Trong 2 lời bình về 2 sự kiện của Lê Văn Hưu, chúng tôi chỉ thấy tác giả sử dụng 1 thuật ngữ Nho - Hán (đức,); 1 lần biện dẫn điển tích về chiến công của nhà Hán, nhà Đường và 1 lần so sánh nhà Lê với nhà Lý xem đức của họ nào dày hơn. Mật độ xuất hiện các thông tin này có một tỷ lệ khác biệt hẳn trong những lời bình của các sử gia thời Lê. Trong số 13 lời bình về 10 sự kiện khác nhau, các tác giả triều Lê đã sử dụng đến 21 từ/cụm từ là các khái niệm Nho giáo. Những thuật ngữ quen thuộc của đạo Nho: “Trung - tín - nhân nghĩa”, “quân - thần”, “đạo vợ - chồng”, “nhân luân”, “cương thường”... xuất hiện một cách thường xuyên, đậm đặc trong các lời bình sử của họ.
_____________________
(1) Quốc sử quán triều Nguyễn: Khâm định việt sử thông giám cương mục Sđd. tr.248.
(2) Ngô Thì Sĩ : Đại Việt sử ký tiền biên. Sđd. tr. 175.(3) Đặng Xuân Bảng: Việt sử cương mục tiết yếu. Khoa học xã hội: Hà Nội. 2000. tr.73.
Cũng trong số các lời bình này, những điển tích Trung Quốc, những sách kinh điển của nhà Nho đã được biện dẫn trong hầu hết các lời bình. Đặc biệt, khi xét riêng những lời bình sử của Ngô Sĩ Liên còn cho thấy mật độ xuất hiện các thông tin trên với một tỷ lệ lớn hơn nữa: 11 thuật ngữ Nho giáo và 3 điển tích, sách kinh điển nhà Nho trên tổng số 5 sự kiện ông bình luận. Đây cũng là một minh chứng hiển nhiên, một thực tế dễ hiểu đối với một sử thần sống và viết sử vào thời kỳ mà Nho giáo Việt Nam được coi là phát triển đến độ cực thịnh của nó.
Sang đến những lời bình của các sử gia thời Nguyễn, những thuật ngữ, điển cố Nho giáo xuất hiện ít thường xuyên hơn, với một tỷ lệ nhỏ hơn. Nhưng, thay vào đó những lời bình lại tập trung nhiều hơn vào việc so sánh, đặt nhà Lê trong mối quan hệ với triều đại trước đó (nhà Đinh) và sau đó (nhà Lý): Nhà Lê lập 5 hoàng hậu là do nhà Đinh khơi ra; vua Lê xưng đế nhưng chỉ phong cho cha là vương, từ ông trở lên không phong, mà lại phong mẹ làm Hoàng Thái hậu là do nhà Lê làm gương xấu cho nhà Lý học theo; hay việc nhà Lê rút kinh nghiệm từ nhà Đinh không lập quan Thập đạo tướng quân, mà phong đất cho các con. Cộng lại, có 5 lần so sánh/7 lời bình. . . Tất cả thêm một lần nữa khẳng định quan điểm viết sử của các sử gia phong kiến là sử để làm gương, răn dạy cho đời sau.
Từ những gì thấy được qua đọc lời bình của các sử gia phong kiến Việt Nam về Lê Hoàn, điều sẽ khiến không ít người trong chúng ta băn khoăn, suy nghĩ tự hỏi rằng liệu Lê Hoàn có như những gì mà người xưa đã nhìn nhận, đánh giá về ông? Có điều phải nói ngay rằng, lấy chuẩn mực Nho giáo để đánh giá về một con người như Lê Hoàn thì chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiên lệch, khiên cưỡng nhất là những quan niệm phong kiến về đạo đức và lối sống). Hiểu cách đánh giá của người xưa để các nhà viết sử hôm nay có thể rút kinh nghiệm, tìm ra cách đánh giá chính xác và thống nhất về con người và sự nghiệp của Lê Hoàn là điều vô cùng cần thiết.
* Ghi chú:
1 : Lê Hoàn làm Thập đạo tướng quân (năm 979)
2: Lê Hoàn làm Phó vương nhiếp chính (năm 979)
3 : Lê Hoàn được Phạm Cự Lạng và triều thần suy tôn lên ngôi (năm 980)
4: Lê Hoàn sau khi lên ngôi truy phong cho cha mẹ
5: Lê Hoàn lên ngôi thay nhà Đinh (năm 981)
6. Lê Hoàn lập Dương Vân Nga làm hoàng hậu (năm 982)
7: Lê Hoàn giết Quản giáp Dương Tiến Lộc và nhân dân hai châu Hoan. Ái (năm 989)
8: Lê Hoàn xem hội đèn ở điện Càn Nguyên (năm 992)
9: Lê Hoàn phong vương. phong đất cho các con (năm 995)
10: Đinh Toàn lử trận khi đi chinh phạt cùng Lê Hoàn (năm 1001)
11: Lê Hoàn sau khi mất (năm 1005).
Bảng 1: Những tác giả và những sự kiện bình luận về Lê Hoàn
* Xem ghi chú ở trên
Bảng 2: Những thông tin phản ánh trong các lời bình sử về Lê Hoàn Và Phụ lục: Tập hợp những lời bình về Lê Hoàn trong chính sử
* Ghi chú:
- Những lời bình của Lê văn Hưu, Ngô Sĩ Liên dẫn trong Đại Việt sử ký toàn thư.
- Những lời bình của Nguyễn Nghiễm, Ngô Thì Sĩ dẫn trung Đại Việt sử ký tiền biên.
- Lời bình của Phan Huy Chú dẫn trong Lịch triều hiến chương loại chí.
- Lời bình của Quốc sử quán triều Nguyễn dẫn trong khâm định Việt sử thông giám cương mục.
- Lời bình của Đặng Xuân Bảng dẫn trong Việt sử cương mục tiết yếu.
Chỉnh sửa lần cuối bởi LSB-Sun: 13-01-2010 lúc 13:15.
Lý do: ...
Phần 1
QUÊ HƯƠNG, GIA THẾ, CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA LÊ HOÀN CẦN THẬN TRỌNG TRONG SỬ DỤNG TƯ LIỆU KHI VIẾT SỬ Nguồn: quansuvn.net
Thu gọn nội dung
GS. Đinh Xuân Lâm
Nhà giáo Nhân dân. Phó Chủ tịch Hội Sử học Việt Nam
Tạp chí Xưa và Nay số 233, tháng 4-2005 có bài “Vai trò Định quốc công Nguyễn Bặc trong lịch sử” của tác giả Đinh Phong.
Nội dung bài viết khẳng định vai trò tích cực của Nguyễn Bặc trong lịch sử dân tộc, đã có cống hiến to lớn vào sự nghiệp tạo dựng vương triều Đinh; đồng thời đã phản bác một số ý kiến xuyên tạc lịch sử, gán cho Nguyễn Bặc tội tư thông với giặc ngoại xâm vì muốn chống lại Lê Hoàn. Chính việc bóp méo lịch sử, bôi nhọ nhân vật lịch sử Nguyễn Bặc đã gây bất bình không chỉ trong dòng họ công thần Nguyễn Bặc mà còn cho cả mọi người yêu mến lịch sử dân tộc, tôn trọng sự thật lịch sử.
Ở đây có một vấn đề lịch sử cần làm sáng tỏ, cần có thái độ rạch ròi trong nhận định, đánh giá. Đứng trên quan điểm sử học chân chính. rõ ràng phải đánh giá công lao to lớn của Lê Hoàn trong chống ngoại xâm nhưng không thể vì muốn đề cao Lê Hoàn mà vu cáo Nguyễn Bặc là phản nghịch, tư thông với giặc.
Nguyễn Bặc chống Lê Hoàn là chống lại việc ông ta tư thông với Dương hậu để cướp ngôi nhà Đinh, theo quan điểm chính thống của Nho giáo đó là tội lớn. Khi hành động như vậy Nguyễn Bặc - với những người cùng chí hướng- không ngoài mục đích loại trừ kẻ phản nghịch để mưu giữ xã tắc cho nhà Đinh. Họ đã hành động với tư cách là người trung thần một lòng vì nghiệp lớn của triều đại.
Cũng có thể cho rằng vào lúc đó trước nguy cơ ngoại xâm có thể xảy ra, hành động đúng đắn nhất là phải thắt chặt đoàn kết nội bộ, lập trung lực lượng bên trong để chống giặc giữ nước. Nhưng Nguyễn Bặc khởi sự không phải là khi giặc đã tới mà là khi Lê Hoàn đang còn “rắp tâm làm điều bất lợi”(Ngô Sĩ Liên - Đại việt sử ký toàn thư), rõ ràng là với ý định tranh thủ hành động trước, rồi chấn chỉnh ổn định tình hình bên trong để kịp thời đối phó với giặc khi chúng kéo tới. Việc làm như vậy là đúng đắn, theo chính nghĩa, tiếc rằng đã không thành công.
Có nhiều nguyên nhân của sự không thành công đó. Nhưng có nguyên nhân quan trọng là sự tiếp tay của Thái hậu họ Dương và của Phạm Cự Lượng chỉ huy quân đội bấy giờ. Đối với Thái hậu họ Dương thì rõ ràng động cơ chính là tình yêu với Lê Hoàn, không thể nói là sáng suốt yêu nước, còn Phạm Cự Lượng thì đứng về phía Lê Hoàn là với tính cách một chỉ huy quân sự thi hành mệnh lệnh cấp trên, có thể nói rằng đây là một cuộc đảo chính cung đình. Lúc này Nguyễn Bặc đã bị sát hại, còn ai có thể đứng ra đảm đương sự nghiệp giữ nước hơn Lê Hoàn.
Và Lê Hoàn đã hoàn thành nhiệm vụ giữ nước một cách oanh liệt, với việc làm đó ông xứng đáng với lòng kính mộ của dân tộc. Thế nhưng không vì vậy mà phủ định, thậm chí vu cáo Nguyễn Bặc về tội tư thông với giặc. Chính vì sự thật lịch sử rành rành như vậy mà sử sách xưa đều vạch rõ tội Lê Hoàn là cướp ngôi” (Phan Huy Chú - Lịch triều hiến chương loại chí), khẳng định việc Nguyễn Bặc “khởi binh không phải làm loạn, mà một lòng phò tá nhà Đinh, và giết Lê Hoàn không được mà phải chết, ấy là chết đúng chỗ” (Ngô Sĩ Liên - Đại Việt sử ký toàn thư).
Qua việc đánh giá nhân vật lịch sử Định quốc công Nguyễn Bặc, người viết sử có thể rút ra một kinh nghiệm:
Muốn đánh giá đúng nhân cách và hành động của một nhân vật lịch sử, cần đặt nhân vật đó vào đúng bối cảnh thời đại người đó sống, bám sát các đặc điểm về yêu cầu của lịch sử lúc đó; phải trung thực và khách quan, không thể vì cảm tính mà xuyên tạc, bóp méo lịch sử.
Cũng nhân đây, cũng xin nói thêm là muốn đạt được mục đích đúng đắn đó, cần có nhiều điều kiện, và sử dụng các nguồn tư liệu đó một cách đúng đắn, khoa học là tối cần thiết. Đối với bài viết: (Vai trò Định quốc công Nguyễn Bặc trong lịch sử” của Đinh Phong, bên cạnh các ưu điểm về cách nhìn nhận, đánh giá nhân vật lịch sử, cũng có những hạn chế nhất định trong việc khai thác tài liệu, đành rằng không ngoài động cơ củng cố thêm vững chắc ý kiến và lập luận của mình. Như khi nhắc đến đôi câu đối :
Cồ Việt quốc đương Tống Khai Bảo
Hoa Lư đô thị Hán Tràng An
mà bảo là của Nguyễn Bặc cho đắp ở thành ngoài Hoa Lư, sự thật thì tác giả đối câu đối chính là Vũ Phạm Khải người làng Phượng Trì, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, làm quan triều Nguyễn đã cung tiến vào đền vua Đinh.
Cũng như muốn tôn vinh Nguyễn Bặc, tác giả Đinh Phong đã liệt kê tên nhiều danh nhân, danh tướng ông cho đều là di duệ của Nguyễn Bặc, mà không có một sự chứng minh nào. Trước đây, trong dịp kỷ niệm Nguyễn Trãi, một số danh nhân của dòng họ Nguyễn Bặc đã được nhắc tới, trong số đó có Nguyễn Thuyên (tác giả bài Văn tế cá sấu), Nguyễn Kim mở đầu vương triều Nguyễn và nhiều vị khác nữa, kể cả nhà cách mạng Nguyễn Văn Cừ sau này.
Trong bài viết của Đinh Phong giờ đây lại nêu cả Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Đình Chiều. . . không rõ có đúng không, mà tuyệt nhiên không có một sự chứng minh cần thiết nào?
Một vài ý kiến nhân đọc bài viết của tác giả Đinh Phong, một bài viết gây hứng thú cho tôi khi đọc. Nhưng cũng nhân đây xin nêu một vài suy nghĩ của bản thân về cách viết sử và khai thác sử liệu phục vụ cho việc viết sử.
Phần 1
QUÊ HƯƠNG, GIA THẾ, CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA LÊ HOÀN HỆ THỐNG DI TÍCH THỜ LÊ HOÀN Ở VIỆT NAM Nguồn: quansuvn.net
Thu gọn nội dung
Ngô Vũ Hải Hằng
Viện Sử học
Qua cuốn ‘Thư mục thần tích thần sắc” được lưu trữ tại Thư viện Viện thông tin khoa học xã hội, bổ sung bằng các nguồn sử liệu: Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Việt sử cương mục tiết yếu, Đại Việt sử ký tiền biên, Đồng Khánh dơ địa chí, Đại Nam nhất thống chí và các sách Di sản Hán Nôm thư mục đề yếu bổ di, Bảng tra thần tích theo địa danh làng xã, Văn khắc Hán Nôm Việt Nam... chúng tôi lập nên một danh mục các di tích thờ Lê Đại Hành hoàng đế qua thần tích và thần sắc thu thập được và còn lưu trữ.
Các di tích thờ Lê Hoàn, được thống kê dựa theo địa danh những năm kê khai thần tích, thần sắc của Trường Viễn Đông bác cổ (khoảng những năm 1937-1938), vẫn được giữ nguyên địa danh về mặt hành chính thời điểm ấy và có chú thích địa danh hành chính hiện nay.
Bảng thống kê di tích
1. Qua thống kê cho thấy, có tất cả 36 nơi thờ Lê Đại Hành, trong đó có 12 nơi thờ riêng, 24 nơi phối thờ với các thần khác (có 5 nơi phối thờ với bà vợ cả của Lê Hoàn là Đô Hồ phu nhân; 2 nơi phối thờ với Bảo Quang Hoàng thái hậu - tức Thái hậu Dương Vân Nga).
Ninh Bình là tỉnh có nhiều di tích thờ ê Hoàn nhất ( 11 nơi). Thái Bình là nơi thứ hai có nhiều di tích thờ Lê Hoàn ( 10 nơi). Tiếp theo là: Nam Định, Hà Đông (4 nơi), Hà Nam (3 nơi), Sơn Tây (2) Thanh Hoá, Hưng Yên (1)... (1).
2. Trong cuốn Cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ nhâts, PGS.TS. Trần Bá Chí đã vạch ra các tuyến đường bộ quan hệ đến Hoa Lư, mà tuyến đường bộ hướng Nam – Bắc là một tuyến quan trọng trên đường hành quân của quân Tống cũng như phòng thủ của quân dân ta lúc bấy giờ. “Đường này từ xã Đại Hoàng rẽ về đông Bắc, qua Tri Hối, Cầu Đài (xã Gia Tập), vòng sang phía đông núi Miếu, rồi hướng tới khoảng đò Đoan Vĩ ngày nay.
Phía bên kia đò đã là đất tổng Mai Cầu, thuộc huyện Thanh Liêm, phủ Lý Nhân. Từ đò Đoan Vĩ, xưa có đường bộ qua huyện Thanh Liêm, huyện Nam Xang, vượt sông Kinh (nay gọi sông Châu), đến đất Kim Bảng thì rẽ làm đôi: mộl ngả từ huyện Kim Bảng tắt qua xã Bất Đoạt đi vào Đỗ Động Giang, rồi hướng lên phía Sơn Tây để vượt Nhị Hà, sang vùng Vĩnh Tường, Bạch Hạc...” (2).
Nhìn tổng thể hệ thống di tích thờ Lê Hoàn, nếu lấy Hoa Lư (trước là Trường Yên) làm tiêu điểm quy chiếu khởi đầu cho tuyến đường bộ trên, thì các di tích, đền thờ Lê Hoàn cũng nằm trong hệ quy chiếu ấy.
3. Các di tích thờ Lê Hoàn ở Ninh Bình chủ yếu tập trung xung quanh khu vực kinh đô Hoa Lư, là nơi xây dựng sự nghiệp của Lê Hoàn. Sau khi ông qua đời, bên cạnh việc điều đình táng ở lăng mộ, nhân dân các xã ở đây đã lập đền thờ. Đền vua Lê ở xã Trường Yên được xây dựng ngay trên nền cung điện trước đây của vua. Đền có quy mô không lớn, gồm 3 toà: Bái đường, Thiên hương (thờ Phạm Cự Lạng) và chính cung thờ Lê Hoàn (ở giữa), bên phải là Lê Ngoạ Triều (con trai vua Lê). bên trái là hoàng hậu Dương Vân Nga.
Tại đền còn 2 tấm bia đáng chú ý là (3) :
Tiền triều Lê Đại Hành Hoàng đế miếu, do Nguyễn Lễ, hiệu là Thuần Khanh, Tiến sĩ khoa Mậu Thìn ( 1568), Tả thị lang bộ Lễ, Đông các đại học sĩ, tước Nghĩa Khê hầu soạn. Tạo năm Hoằng Định thứ 7 (1606) nhà Lê, bia 2 mặt, chạm Lưỡng long chầu nguyệt, xung quanh rồng uốn lượn, hoa cúc, hoa sen. Toàn văn chữ Hán, có 30 dòng, khoảng 1000 chữ.
Bia lược ghi về công trạng to lớn của vua Lê Đại Hành như có phương lược đế vương, lập chế độ, khuyến nông tang, được các triều đại lập miếu thờ, tuế thời cúng tế và được cấp 8 mẫu 8 sào ruộng để dùng vào việc đèn hương. Đến nay, gặp thời thánh trì, đền thờ ngài được Đô nguyên soái Tổng quốc chính thượng phụ Bình An vương (Trịnh Tùng) gia phong mỹ hiệu, cấp thêm cho đền 5 mẫu 2 sào ruộng, lại cho dân bản xã được miễn sưu sai tạp dịch để lo việc thờ cúng. Phần cuối là bài minh có 64 câu. Mặt hai bia ghi những người công đức, góp tiền của vào đền, trong đó có nhiều vị chức sắc.
Bia trùng tu tạo tác, do Nghĩa Khê hầu Dương Thúc, Tiến sĩ khoa Mậu Thìn, Thượng thư bộ Hình soạn. Tạo năm Hoằng Định thứ 12 (1611) nhà Lê. Bia 4 mặt, chạm rồng, mặt trời, viền quanh và đáy hình rồng. Toàn văn chữ Hán, gồm 56 dòng, khoảng 500 chữ. Bia ghi việc chúa Thượng phụ Bình An vương (Trịnh Tùng) nghĩ rằng nơi đây là nơi phát tích ra các vị đại thánh, bèn ban lệnh chỉ cho tu tạo lại điện vũ để thờ phụng, mong kéo dài “mạnh nước”. Quan đề đốc Hiệu lực Tứ vệ quân vụ sự Lễ quận công Bùi Thì Trung và một số quan chức khác bắt đầu hưng công từ năm Tân Hợi (1611), sửa 3 pho tượng (Đại Hành hoàng đế, Bảo Quang hoàng thái hậu và vua Lê Ngoạ Triều ) thờ ở điện này. Đến tháng 6 năm Nhâm Tý (1612) thì xong, có bài minh ca ngợi việc này.
_______________________
(1) Tham khảo thêm các tham luận của:
- Mai Khánh: Góp thêm tư liệu nghiên cứu về Lê Hoàn.
- Vũ Đường Luân: Góp phần tìm hiểu thêm về khu vực Đại La thời Tiền Lê (Qua khảo sát một số di tích ờ Hà Nội).
(2) PGS.Ts. Trần Bá Chí. Cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ nhất. Nxb Quân đội nhân dân. 2003. tr.117.
(3) Theo Văn khắc Hán Nôm Việt Nam. Nxb KHXH. HN, 1993, tr.672-674.
Lăng mộ Lê Đại Hành hoàng đế đặt tại núi Hoàn Ỷ hay còn gọi là núi Phẩm Sơn (1). Đại Nam nhất thống chí chép là đặt ở phía bắc chân núi Quai Điếu, thuộc địa phận xã Trường Yên Hạ, phía tây huyện Gia Viễn. Năm Minh Mệnh thứ 20 (1839), sửa đắp và dựng bia. Còn miếu Lê Đại Hành ở dưới núi Đại Vân. Năm Minh Mệnh thứ 4 (1823) liệt thờ vào miếu Lịch đại đế vương, còn miếu sở tại thì cấp sắc cho dân địa phương phụng thờ, năm thứ 18 (1837) cấp cho 500 quan tiền để tu bổ (2).
Bản kê khai của xã Yên Hạ, tổng Trường Yên (nay là xã Trường Yên, huyện Hoa Lư) cho biết, xã thờ Lê Đại Hành làm thần Thành hoàng làng, thờ ở đình, nghè, miếu v.v..., thờ ngài bằng tượng. Nơi ấy trước đây là kinh đô của ngài. Người kê khai còn thông tin thêm: có các làng Yên Thành, Yên Trạch và Trung Trữ thờ ngài, song các làng không có giao hiếu gì với nhau.
Bản kê của làng Yên Thành (xã) còn cho biết thông tin về xã Yên Thượng và Yên Trung cũng thờ Lê Hoàn. Làng Dĩ Ninh, vốn trước đây chưa có đền thờ, đến năm Minh Mệnh thứ 5 (1824) thì xin nhang từ đền vua Lê (xã Trường Yên) về thờ vọng ngài.
4. Thái bình giữ vị trí quan trọng, là nơi diễn ra trận đánh chiến lược trong cuộc kháng chiến chống Tống xâm lược lần thứ nhất của Lê Đại Hành - trận Lục Đầu Giang - phá tan âm mưu của Hầu Nhân Bảo muốn lập công chiếm Hoa Lư khi viện binh Tống chưa đến, giải nguy cho Hoa Lư và đất nước. Điều này có thể giải thích cho việc nhân dân quanh khu vực diễn ra trận Lục Giang thờ cúng Lê Hoàn, đặc biệt là hai tổng Xích Bích và Ỷ Đôn.
Ở danh sách này mới thống kê được 10 địa danh thờ Lê Hoàn. Trong cuốn Cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ nhất, PGS.TS. Trần Bá Chí cho biết thêm thông tin: “Ngoài hai tổng Ỷ Đôn và Xích Bích, toàn huyện Thần Khê có tới 10 đền thờ Lê Đại Hành” (3), tuy nhiên Phó giáo sư không cung cấp tên địa danh thờ.
Làng An Thọ thờ Lê Đại Hành làm thần thành hoàng, thờ ngài ở đình và miếu công. Bản kê khai thần tích, lần sắc của làng An Thọ cho biết, ngoài làng An Thọ, còn có các làng Đông Thịnh, Vinh Tiến, Phú Thọ cũng thờ Lê Đại Hành. Cả 4 làng này nguyên trước đều thuộc 1 xã (có lẽ là xã Tạ Xá?). Ngày mùng 4 tháng Giêng hàng năm, 4 làng đều cùng rước đến đình chung của 4 làng tế lễ đến hết ngày mùng 9 tháng Giêng. Tế lễ xong, làng nào lại rước về làng ấy.
Bản kê thần tích, thần sắc của làng Y Đôn Kênh cho biết, ngoài làng Y Đốn Kênh, còn có làng Mỹ Thịnh, làng Ninh Thôn, làng Ngoại Thôn cùng tổng thờ cúng Lê Hoàn.
5. Thanh Hoá, theo truyền thuyết, là nơi sinh trưởng của Lê Hoàn.
Đại Nam nhất thống chí: “Miếu Lê Đại Hành hoàng đế ở xã Trung Lập, huyện Thuỵ Nguyên, chỗ này là nền nhà cũ của tiên tổ nhà vua; có thuyết nói chỗ này là nhà cũ của Lê Đại Hành, sau nhân đấy lập miếu, nay vẫn còn bia đá” (4). Bia đá gồm 2 cái, một cái dựng năm 1602 do Phùng Khắc Khoan soạn; một cái dựng năm 1626 do Nguyễn Thực soạn.
______________________
(1) Việt sử cương mục tiết yếu chép: “Mùa xuân. tháng 3 , vua mất (thọ 65 tuổi), táng ở sơn lăng Hoa Lư (ở núi Hoàn Ỷ. huyện Gia Viễn). Khâm định Việt sử thông giám cương mục chép: “lăng Đại Hành ở núi Phẩm Sơn. thuộc xã Trường Yên Hạ” (tập 1. tr.243).
(2) Đại Nam nhất thống chí, tập III, Nxb KHXH. HN, 1971. tr.256, 257.
(3) Trần Bá Chí. Cuộc kháng chiến chống Tống Lần thứ nhất. Nxb Quân đội nhân dân. 2003: tr.195.
(4) Đại Nam nhất thống chí. tập II. Nxb KHXH. HN. 1970. tr.251.
Tại đền Lê Hoàn ở Trung Lập, huyện Thọ Xuân hằng năm vẫn tổ chức lễ hội vào ngày mùng 7 đến hết ngày mùng 9 tháng 3 (âm lịch). Ngày mùng 7 rước kiệu thân mẫu và bố nuôi của vua về đền thờ Lê Hoàn. Mùng 8 tháng 3 là ngày chính kỵ, làm đại tế.
6. Hà Nam, theo thần tích, là nơi sinh trưởng của Lê Hoàn, có lăng, mộ. Tại đây, Lê Đại Hành còn được thờ sống (1). Thần tích Lê Hoàn tại lăng vua Lê, làng Ứng Liêm, tổng Kỷ Cầu giải thích có vẻ “hợp tình, hợp lý” tất cả những vấn đề khúc mắc về quê quán, xuất thân của Lê Hoàn (2).
Thần tích cho biết: Ngài sinh ra ở xã Trường Yên, động Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình. ông nội là Lê Lộc và bà nội là Cao Thị Phương; cha là Lê Hiền, mẹ là Đặng Thị Khiết. Nhà nghèo nên đã về xã Ninh Thái, huyện Thanh Liêm, phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam làm nghề chài lưới, đơm đó bắt cá. Ngày mùng 10 tháng Giêng năm Nhâm Tuất (941) sinh ra ngài. Năm lên 7 tuổi, ngài mồ côi cả cha lẫn mẹ, phải làm con nuôi quan án châu Ái (Thanh Hoá). Sau đi theo Đinh Tiên Hoàng bình được loạn 12 sứ quân . . .
Thần tích về Lê Hoàn ở đền và miếu làng Ninh Thái cho biết, khi ở đây, Lê Hoàn làm nghề dạy học. Sau đó phù Đinh Bộ Lĩnh, lập nhiều chiến công. Khi vua Đinh Tiên Hoàng mất, phù vua Đinh Toàn, diệt bọn Đỗ Thích, sau đó lên ngôi vua ở Trường Yên (tức Hoa Lư). Lê Hoàn tậu ruộng cho dân cày cấy, rồi lại cho dân tiền, cho dân thôn trông coi đèn hương quét dọn sinh từ ngài. Lê Hoàn còn làm đình thờ ở bên lăng của mình. Đền sinh từ này từ năm 1938 đã được Chính phủ công nhận là nơi bảo tồn danh lam cổ tích. Lúc sinh thời, Lê Hoàn vẫn được dân thôn thờ sôílg bằng long đình và bài vị.
7. Khảo sát các thần tích, thẩn sắc tại Hải Dương, Hải Phòng (3) - nơi diễn ra trận Bạch Đằng năm 981 cho thấy, không có nơi nào thờ Lê Hoàn. Tuy nhiên, các tướng của ông được thờ ở rất nhiều nơi và trong thần tích, thần sắc của họ có mô tả lại những chiến công của Lê Hoàn tại khu vực này.
8. Cuối cùng, với sự hạn hẹp về thời gian và chưa có điều kiện thực tế điền dã, danh mục di tích thờ Lê Hoàn này chưa phải đã thật đầy đủ, chúng tôi sẽ cố gắng bổ khuyết trong thời gian tới.
______________________
(1) Tham khảo: Thần tích - thần sắc Hà Nam, Viện Thông tin Khoa học xã hội. H.2005.
Tham khảo thêm tham luận của:
- Mai Khánh, Góp thêm tư liệu nghiên cứu về Lê Hoàn.
- TS. Phan Phương Thảo. Tống Văn Lợi: Vùng đất Lê - Cần trong sự nghiệp quân sự của Lê Hoàn.
(2) Đại Việt sử lược (Trần Quốc Vượng dịch). q.1, 18b. chép Lê Hoàn người Trường Châu (nay thuộc Hoa Lư. Ninh Bình). Đại Việt sử ký toàn thư chép Lê Hoàn người Ái Châu (tức Thanh Hóa). Đại Việt sử ký tiền biên phần chính văn chép Lê Hoàn người Ái Châu. phần cước chú lại ghi Lê Hoàn người Bảo Thái. huyện Thanh Liêm.
(3) Tham khảo thêm tham luận của:
- PGS.TS. Nguyễn Quang Ngọc: Lê Hoàn và chiến thắng Bạch Đằng năm 981.
- PGS.TS. Nguyễn Minh Tường: Đại bản doanh của vua Lê Đại Hành trong trận Bạch Đằng năm 981.
- Ngô Đăng Lợi: Những dấu tích về anh hùng dân lộc Lê Hoàn ở Hải Phòng.
Chỉnh sửa lần cuối bởi LSB-Sun: 13-01-2010 lúc 13:24.
Lý do: 1
Phần 1
QUÊ HƯƠNG, GIA THẾ, CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA LÊ HOÀN BIÊN NIÊN SỰ KIỆN VỀ LÊ HOÀN Nguồn: quansuvn.net
Thu gọn nội dung
Nguyễn Hoài Phương
Khoa Lịch sử. Trường Đại học KHXH&NV. ĐH Quốc gia Hà Nội
1. Trong lịch sử phong kiến Việt Nam, nhà Tiền Lê là triều đại thứ ba của thời kỳ quốc gia phong kiến độc lập tự chủ.
Nếu như nhà Ngô, nhà nước phong kiến đầu tiên của nước ta, tồn tại được 26 năm (939-965), trải qua 2 đời vua, bị gián đoạn do Dương Tam Kha cướp ngôi; nhà Đinh, nhà nước phong kiến thứ hai, chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn ngủi là 12 năm (968-980), cũng truyền được qua 2 đời vua. Nhà Tiền Lê tồn tại lâu hơn một chút (29 năm, từ 980 đến 1009), truyền được qua 3 đời vua.
Người khai mở sự nghiệp của nhà Tiền Lê là vua Lê Hoàn, người có nhiều công lao đóng góp cho sự nghiệp xây dựng mở mang đất nước trong thời kỳ này cũng là ông, và người mà được các sử gia phong kiến bàn đến trong giai đoạn này nhiều nhất (có lẽ) cũng là ông.
Tuy vậy, những ghi chép về nhà Tiền Lê nói chung và về Lê Hoàn nói riêng cũng thật không nhiều. Do vậy, để xây dựng biên niên sự kiện về Lê Hoàn, chúng tôi triệt để khai thác thông tin từ các nguồn tư liệu, trong đó đặc biệt quan tâm đến nguồn tài liệu chính sử.
Nguồn sử liệu cho biên niên này bao gồm:
- Đại Việt sử ký toàn thư, tập 1
- Khâm định Việt sử thông giám cương mục, tập 1
- Lịch triều hiến chương loại chí
- An Nam chí lược (Lê Tắc)
Đây hầu hết là các bộ chính sử của người Việt, được biên chép rất tỉ mỉ, công phu và được sử dụng như nguồn tài liệu khảo cứu chính về lịch sử phong kiến Việt Nam, nên những thông tin khai thác được từ nguồn tư liệu này có một độ tin cậy nhất định.
Tuy vậy, riêng với sách An Nam chí lược của Lê Tắc biên chép tóm lược, những thông tin không được chi tiết, tỉ mỉ song cũng có giá trị bổ sung, kiểm tra cho các nguồn thông tin từ chính sử. Do đó, bên cạnh phương pháp thống kê, phân loại các sự kiện thì chúng tôi cũng cố gắng sử dụng phương pháp so sánh, đối chiếu để tìm ra điểm tương đồng và dị biệt giữa các sự kiện; trên cơ sở đó chắt lọc lấy yếu tố cất lõi nhất của sự kiện, đặt trong một hệ thống để phân tích và đưa ra những nhận xét ban đầu.
2. Biên niên sự kiện về Lê Hoàn
3. Những nhận xét ban đầu:
Lê Hoàn bắt đầu được ghi tên vào chính sử từ sự kiện năm 971, Đinh Tiên Hoàng quy định cấp bậc văn võ, lấy Lê Hoàn làm Thập đạo tướng quân (1). Sử sách không chép nhiều về ông trong giai đoạn đầu tiên này, mà chỉ vắn tắt rằng từ khi còn là một viên tướng trong quân đội nhà Đinh, Lê Hoàn đã lập nhiều công lao khi Đinh Tiên Hoàng tiến hành công cuộc bình định 12 sứ quân.
Chính nhờ những công lao này mà ông đã được thăng đến chức Thập đạo tướng quân, người đứng đầu, điều hành quân đội của cả nước. Mặc dù sử sách không ghi chép cụ thể song chắc chắn trong giai đoạn này, Lê Hoàn dần từng bước tập trung quyền lực và trở thành một trong những vị quan đầu triều của nhà Đinh.
Năm 979, Đinh Bộ Lĩnh và con trai là Đinh Liễn bị Đỗ Thích giết chết. Vệ vương Đinh Toàn mới 6 tuổi lên ngôi vua. Lê Hoàn nhiếp chính, làm công việc như Chu Công, tự xưng là Phó vương... (2). Việc Lê Hoàn làm nhiếp chính cũng được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau. Trước hết, bản thân Lê Hoàn đã tự chứng tỏ, khẳng định mình là người có năng lực.
Trong thời kỳ là Thập đạo tướng quân, Lê Hoàn cũng đã dần từng bước thâu tóm quyền lực vào trong tay. Khi đất nước rơi vào tình trạng “không vua” và sau đó là “vua nhỏ”, vai trò của ông nổi lên đặc biệt quan trọng.
Tuy nhiên, theo ghi chép trong sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục thì việc Lê Hoàn nhiếp chính không hoàn toàn do vai trò vị thế của Lê Hoàn đối với quốc gia Đại Cồ Việt mà còn do mối quan hệ riêng tư với Thái hậu Dương Vân Nga. Theo đó thì, nhà vua nối ngôi, mới lên sáu buổi. Bọn Nguyễn Bặc đều là đại thần phụ chính, còn Lê Hoàn trong tay giữ cả binh quyền, tự do ra vào nơi cung cấm. Thái hậu phải lòng Hoàn, rồi cùng nhau tư thông, cho Hoàn quyền tạm làm công việc thay vua như Chu Công khi trước. Lê Hoàn cậy có Thái hậu cưng yêu, không kiêng sợ chi cả (3).
Lợi dụng tình hình quốc gia Đại Cồ Việt có nhiều biến đổi, chưa ổn định, vua Tống đưa quân sang xâm lược nước ta. Trước tình thế đó, quân tướng nhất loạt tôn xưng Lê Hoàn lên làm hoàng đế. Nhìn nhận về sự kiện này cũng có nhiều quan điểm khác nhau. Về mặt tâm linh, từ năm 974 (trước khi Lê Hoàn lên ngôi 6 năm), trong dân gian đã có câu sấm rằng: “Đỗ Thích thí Đinh Đinh, Lê gia xuất thánh minh, cạnh đầu đa hoành nhi, Đạo lộ tuyệt nhân hành. Thập nhị xưng đại vương, thập ác vô nhất thiện, thập bát tử đăng tiến, kế đô nhị thập thiên” (4).
Tuy nhiên, cắt nghĩa câu sấm chú, người ta nhận thấy đây là một “câu sấm” do người đời sau sáng tác ra để minh giải cho việc lên ngôi của Lê Hoàn cũng như của Lý Công Uẩn trong giai đoạn sau. Bên cạnh đó, nhiều sử gia phong kiến cho rằng việc lên ngôi của Lê Hoàn hoàn toàn do yêu cầu cấp bách của tình thế lúc bấy giờ (nhằm thu hút toàn dân trong cuộc kháng chiến chống Tống) và việc làm của Dương Thái hậu là hoàn toàn thuận với lẽ trời.
Tuy nhiên, không ít sử gia phong kiến lên án mạnh mẽ việc Thái hậu “nhường” quyền cho Lê Hoàn và cho rằng đó hoàn toàn là do “tư tình” của hai người. Đặc biệt sau đó, Lê Hoàn công khai lập Dương Thái hậu làm Đại Thắng Minh hoàng hậu càng như một minh chứng “kết án” cho mối quan hệ riêng tư của hai nhân vật này. Ngoài ra, trong sách An Nam chí lược lại chép rằng: Lê Hoàn chuyên quyền, hiếp dời Truyền (tức là Vệ vương Đinh Toàn - TG) ở một gian riêng, bắt giam cả họ và thay thế quản lãnh binh quyền (5).
Như vậy, ở đây, Lê Hoàn lên ngôi chẳng phải do được thần linh phù trợ, cũng chẳng vì uy tín của ông trong triều đình, lại cũng không thấy nhắc gì đến Dương Thái hậu . . . mà hoàn toàn là “âm mưu, kế hoạch” riêng của ông. Dù vậy, sử sách vẫn ghi nhận vào năm 980 Lê Hoàn lên ngôi, lập ra thời kỳ nhà Tiền Lê trong lịch sử.
_____________________________
(1) Đại Việt sử ký toàn thư, T1 . tr. 212.
(2) Đại Việt sử ký toàn thư, T1 . tr. 214.215
(3) Khâm định Việt sử thông giám cương mục: T1: tr. 244.
(4) Đại Việt sử ký toàn thư T1. tr. 214.
(5) An Nam chí lược. tr. 228.
Trong 25 năm làm vua, Lê Hoàn tập trung vào việc xây dựng và củng cố đất nước, đặc biệt trong lĩnh vực quân sự. Thống kê các sự kiện trong cuộc đời của ông thì có đến 40% các sự kiện liên quan đến vấn đề quân sự. Bản thân Lê Hoàn trước khi lên ngôi cũng đã là một người chỉ huy trong quân đội, đã lừng lập nhiều chiến công hiển hách.
Trong các hoạt động về quân sự của mình, bên cạnh việc xây dựng và củng cố quốc phòng (như tuyển lính, định luật lệnh. . . ) thì Lê Hoàn cũng phải dẹp trừ những cuộc nổi dậy từ bên trong và những cuộc xâm lăng từ bên ngoài. Trong đó, ngay từ ban đầu, ông đã phải dẹp cuộc dấy binh của các đại thần là Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Phạm Hạp.
Ngay sau khi lên ngôi, Lê Đại Hành đã lãnh đạo toàn dân đánh thắng cuộc xâm lược của quan quân nhà Tống ở sông Bạch Đằng và sông Chi Lăng, giữ yên bờ cõi của quốc gia Đại Cồ Việt. Sau việc hai sứ thần người Việt bị bắt giữ, ông đã thân chinh xông pha trận mạc, đánh thắng quân của Chiêm Thành, một lần nữa nâng cao vị thế của quốc gia với các nước lân bang. ông cũng thân chinh đi dẹp yên các cuộc nổi dậy của các châu quận như Đỗ Động Giang, Hà Động. . . giữ được thế yên bình, ổn định trong đất nước.
Trong lĩnh vực ngoại giao, nhà Tiền Lê rất quan tâm đến hoạt động bang giao với nhà Tống. Thái độ của ông trong quan hệ ngoại giao với nhà Tống thường là khôn khéo, mềm dẻo. Sau khi đẩy lui được cuộc xâm lăng của quân Tống, vua Lê Hoàn đã chủ động sai sứ sang thông hiếu với nhà Tống Các lễ vật dâng cống là những đồ báu, như khí mãnh bằng vàng, bằng bạc, sừng tê, ngà voi để tỏ rõ thái độ hiếu hoà của quốc gia Đại Cồ Việt.
Các số liệu cũng cho thấy mối quan hệ bang giao khá mật thiết giữa nhà Tiền Lê với nhà Tống (khoảng 2 năm lại thăm viếng, phong danh hiệu một lần). Nếu như các triều đại trước (Ngô, Đinh), hoạt động bang giao với đế chế phương Bắc chỉ mang tính chất đặt cơ sở, nền tảng thì đến giai đoạn này, mối quan hệ ấy đã phát triển hơn lên một bậc.
Một phần không nhỏ trong các hoạt động, chính sách của Lê Hoàn dành cho việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống Nhà nước (như lập hoàng hậu, phong tước cho hoàng thái tử, hoàng tử, đổi mười đạo trong nước ra làm lộ, phủ, châu. . . ), quan târn phát triển kinh tế (đào mới và vét kênh, đúc tiền. . . ).
Tuy những thay đổi về diện mạo vật chất cũng như văn hoá, xã hội chưa thực nổi bật, vĩ đại song những đóng góp của Lê Hoàn thực là không nhỏ. Trong bối cảnh xã hội lúc bấy giờ, Lê Hoàn vẫn xứng đáng là một vị vua sáng, người đã giữ vững được nền độc lập tự chủ của quốc gia cũng như đã ổn định và phát triển đất nước trong hơn hai thập kỷ.
Nhìn nhận về Lê Hoàn nói riêng cũng như về nhà Tiền Lê nói chung đến nay vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau. Tuy vậy, nếu gạt bỏ những chi tiết về các mối quan hệ mang tính chất riêng tư, hướng một cái nhìn công tâm vào lịch sử thì những đóng góp của vị vua khai nghiệp nhà Tiền Lê trên các lĩnh vực quân sự, kinh tế, xã hội cũng như vị thế của nhà Tiền Lê trong lịch sử dân tộc là không thể phủ nhận.
Chỉnh sửa lần cuối bởi LSB-Sun: 13-01-2010 lúc 13:28.
Lý do: 2