Cung thường làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương.
Nàng Chiêu Quân, húy danh là Vương Tường, còn gọi là Minh Phi, là một cung phi của vua Hán Nguyên Đế. Có quá nhiều cung nữ được tuyển, đến nỗi vua không sao thấy mặt hết. Có nhiều hồng nhan , từ khi tuyển vào cung cho đến lúc vua băng hà, chưa một lần được diện kiến long nhan. Để tiết kiệm thời gian vàng ngọc, vua truyền nội thần Mao Diên Thọ cho họa sĩ vẽ chân dung từng cung phi trưng bày tại nội điện, để cho vua chọn mỗi ngày.
Các cung phi muốn hình của mình đẹp mới mong được ơn mưa móc, phải đút lót cho các hoạ sĩ trổ tài phượng múa rồng bay. Nàng Chiêu Quân, nhan sắc hoa nhường nguyệt thẹn, lại có tài đàn ca giỏi, thi phú hay; nàng không thèm mua chuộc nên các họa sĩ gieo họa, đã không vẽ hình nàng. Vua nào hay biết đến nàng.
Ngày tháng Chiêu Quân chìm sâu trong cung cấm. Một hôm tiếng đàn lâm ly tỉ tê của nàng đến tai Lâm Hoàng Hậu; bà cho vời Chiêu Quân đến mới hay Hán Đế đã bỏ rơi một quốc sắc thiên hương. Hoàng hậu tâu lại với vua. Vua nổi giận, a thì ra bọn thợ vẽ quả là khi quân. Đám họa sĩ bị đem ra chém đầu; Mao Diên Thọ bị khiển trách nặng.
Tìm gặp Chiêu Quân, nhà vua giật mình, ôi đúng là một tiên nga, mắt sáng sao, mày xanh lá liễu, da tuyết mịn màng. Mấy ngàn cung nữ đã tuyển chọn nay lùi sau mộ t khoảng cách quá xa đối với nhan sắc, tài nghệ Chiêu Quân. Hán Đế phong cho Chiêu Quân làm Tây Phi; từ đó ngày đêm vua say đắm ở tây phòng.
Bấy giờ, Hung Nô là nước lân bang nhưng thường xuyên cứ đem quân quấy nhiễu biên cương. Thời đại Tần Thủy Hoàng đã cho xây vạn lý trường thành để ngăn giữ rợ Hung Nô, nhưng nay chúng vẫn vượt qua cướp' bóc. Biên ải Nhạn Môn Quan nhiều phen cấp báo về triều xin cứu viện.
Nội thần Mao Diên Thọ từ ngay bị vua quở trách, đâm ra oán hận Chiêu Quân. Y đánh cắp chân dung Chiêu Quân, lén đem nạp cho vua Hung Nô là Thiền Vụ Chỉ mới nhìn chân dung mà rúng động cả lòng, Thiền Vu liền cất quân sang đánh, buộc vua Hán phải gả nàng Chiêu Quân thì mới bãi binh. Giao tranh xảy ra ác liệt Hán Đế thất trận đành phải, hoặc nước mất nhà tan dưới sức xâm lược vũ bão Hung Nô hoặc phải đem nàng Tây Phi yêu dấu của mình cống Hồ. Phải có cuộc chia tay, quá não nùng. Chiê Quân gạt lệ:
- Một chút huy hoàng được quân vương sủng ái, còn hơn suốt đời bị lãng quên trong cung cấm. Thôi cũng đành, thần thiếp hy sinh vì việc nước. Nay xin vĩnh biệt bệ hạ để rồi sẽ chết trên đất rợ Hồ, thay cho cái chết muôn vạn quân binh ngoài biên ảị Tình duyên kiếp này vắn số, xin hẹn quân vương kiếp saụ Thần thiếp còn song thân, hiện chưa đền đáp được hiếu đạo nay xin gởi lại song đường, mong bệ hạ chu toàn sớm hôm.
Hán Đế đã bật khóc:
- Ái khanh đã nén tình riêng để cứu lấy muôn dân; lòng trẫm xót xa dường nào, nhưng cũng đành. Ta sẽ thay nàng chu toàn hiếu đạo với song đường.
Sau chén rượu ly bôi, Hán Đế cho gọi Lưu Văn Long - một quan văn trẻ, có tài vào cung, căn dặn:
- Nay việc đi Phiên quốc sẽ gặp nhiều gian khổ. Trẫm cho ngươì theo phò tá Tây cung. Nhà ngươi sẽ được cải thành họ Vương để làm người em của Tây hậụ Vương Long tuân lệnh, phò tá nàng Vương Tường Chiêu Quân lên đường.
Sách Hán Thư cũng đầm đìa nước mắt theo buổi biệt ly sầu thảm này.
Sau gần cả tháng trời vất vả đường trường mới đến được ải Nhạn Môn Quan, cửa khẩu Hán - Phiên. Đêm đó, nơi quan ải, Chiêu Quân đánh đàn tì bà ca khúc tạ từ dưới ánh trăng:
Ai ơi xin chứ sai lời
Sai lời thề nguyện
Duyên nợ ba sinh
Giấc mộng năm canh
Trách hẳn trời xanh
Sao khéo vô tình
Bâng khuâng nhớ thuở tơ đào
Ra vào dưới gối
Duyên cớ vì đâu dần đến cách xa
Ôi, đau đớn lòng ta
Tự cổ hồng nhan bạc mệnh
Mong sao sông núi an hòa.
Trong cơn sầu muộn sâu thẳm, nàng chỉ biết gởi gấm tâm sự trong tiếng đàn tì bà của mình; vì vậy tì bà của Chiêu Quân còn gọi là hồ cầm.
Rằng: Tôi bèo bọt chút thân,
Lạc đàn mang lấy nợ nần yến anh
Dám nhờ cốt nhục tử sinh
Còn nhiều kết cỏ ngậm vành về sau
"Kết thảo, hàm hoàn" là nói sự đền ơn đáp nghĩa.
Kết thảo - kết cỏ lấy điển tích từ thời Chiến quốc Xuân Thu. Vua Cảnh Nông nước Tấn sai Tuần Lâm Phủ làm đại tướng, Ngụy Khỏa là phó tướng đem quân đánh Lộ, là nước nhỏ. Nước Lộ khồng chống cựnổi, chúa là Anh Nhi bị bắt giải về nước Tấn. Ngụy Khỏa được lệnh ở lại trị vì nước Lộ Cảnh Nông không giết Anh Nhi, nhưng lại đối đãi tử tế, xây một lâu đài riêng cho Anh Hi ở.
Chúa nước Tần là Tần Hoàng Công hay tin Tấn đánh chiếm nước Lộ, bắt Anh Nhi về, cho ở riêng một lâu đài, còn cho Ngụy Khỏa ở lại giữ thành Lộ, đang thu phục nhân tâm, tính việc dài lâụ Hoàng Công lo ngại nếu Tấn thống trị được nước Lộ, dân tình Lô, quy phục nước Tấn thì uy thế nước Tấn sẽ vượt hẳn nước Tần. Hoàng Công vội sai đại tướng Đỗ Hồi đem binh cứu Lộ. Đỗ Hồi là một vị tướng có sức mạnh muôn người, chuyên dùng vũ khí là cái búa lớn năng 120 cân; nước Tần nhờ có Đỗ Hồi mà giữ an được bờ cõi, không nước nào dám dòm ngó cả.
Đỗ Hồi đem quân đến nước Lộ, chỉ một mình một ngưa xông lên phía trước như thế chẻ tre. Ngụy Khỏa không địch nổi phải đóng cửa thành cố thủ, chờ binh cứu viện. Tấn Cảnh Nông tiếp' được thư cầu cứu của Ngụy Khỏa, tức tốc sai tướng Ngụy Ý, là em của Ngụy Khỏa đem binh tiếp viện. Hai cánh quân hợp sức, trong thành đánh ra, viện binh đánh vào những cũng không đẩy lui được quân của Đỗ Hồị Hai anh em lại phải kéo quân vào thành cố thủ.
Đêm đó, Nguỵ Khỏa nằm mơ thấy một lão ông râu tóc bạc phơ đến nói nhỏ vào tai: "Thanh thảo pha, thanh thảo pha...". Ngụy Khỏa giật mình thức giấc, không hiểu giấc mơ là điềm gì, đến hỏi em. Ngụ Ý suy nghĩ hồi lâu chợt nhớ ra:
- Cách đây năm dặm, gần đất Phu Thi có một địa danh tên là Thanh thảo pha. Có lẽ thần linh mách bảo cho anh em chúng ta phải đánh quân Tần tại đó.
Hai anh em đồng ý. Nửa đêm hôm đó, Ngụy Ý lặng lẽ đem quân đến mai phục vùng Thanh Thảo pha. Sáng sớm, Ngụy Khỏa ào ạt kéo quân ra khỏi thành khiêu chiến, rồi bỏ chạy cho quân Đỗ Hồi đuổi theo đến chỗ phục binh. Mặc dù bị rơi vào ổ phục kích, vòng trong, vòng ngoai đều bị vây kín, nhưng Đỗ Hồi vẫn tả xung hữu đột rất dũng mãnh, giết địch vô số kể. Anh em Ngụy Khẩn kinh hãi, toan thu góp tàn quân chạy về thành, thì thấy Đỗ Hồi đang mãnh liệt vung búa, bỗng nhiên người ngựa đều té lăn xuống đất. Con ngựa hí vang, đứng dậy đi ít bước lại ngã xuống. Đỗ Hồi cũng gượng đứng thẳng nhưng rồi cũng lảo đảo quị gốị Quân lính của Ngụy Khỏa, Ngụy Ý hè nhau bắ t trói được dũng tướng của nước Tần. Sau đó Nguỵ Khỏa truyền chém đầu Đỗ Hồi , cho đem thủ cấp về dâng cho Tấn vương và đại tướng Tuần Lâm Vũ.
Đêm đó, Ngụy Khỏa lại nằm mợ thấy lão ông trở lại, nói:
- Lão ông chúc mừng tướng quân thắng trận.
Ngụy Khỏa vòng tay thưa:
- Có phải lão trượng đã giúp anh em ta thắng Đỗ Hồi ở trận Thanh thảo pha không?
- Quả đúng như vậỵ Lão đây đã kết cỏ ở Thanh thảo pha lại, quấn lấy vó ngựa, làm tướng Tần sa chân, người và ngựa không xoay trở được thì phải thúc thủ.
Ngụy Khỏa bái tạ lão ông:
- Mạc tướng này chưa được biết lão trượng, sao lại được giúp' đỡ hết lòng..
Nguỵ Khỏa chưa nói dứt, thi lão ông đã cắt lời:
- Lão phu này là người hàm ơn nặng với tương công. Việc kết cỏ vừa rồi, lão phu chỉ mong đền ơn đáp nghĩa phần nàọ Lão đây chính là cha của Tố Cơ, cảm ơn tướng quân ngày trước đã không chôn sống con gái lão, mà lại cho kết duyên vớ một người xứng đáng. Ơn ấy, dù nay đã ở suối vàng, lão cũng không quên.
Nói xong, hình ảnh ông lão tan biến mất.
Tỉnh giấc, Ngụy Khỏa tìm đến em. Hai anh em hồi tưởng lại dĩ vãng...
Cha Ngụy Khỏa là Ngụy Lê, một tướng tài ba của nhà Tấn, có một hầu thiếp trẻ đẹp là Tố Cơ, nhan sắc mặn mà, nết na đoan chính, thật là một giai nhân quốc sắc. Tướng già, có được hầu thiếp trẻ đẹp, Ngụy Lê vô cùng thương yêu Tố Cợ Sinh thời, lúc còn cầm quân xông pha trận mạc đó đây, Ngụy Lê thường căn dặn con:
- Nếu chẳng may cha có bỏ thân nơi chiến trường, thì con nên tìm nơi tử tế mà gả Tố Cơ, đừng để nàng bơ vơ chếch bóng, làm sao cho nàng được hạnh phúc thì cha mới ngậm cười nơi chín suối.
Nhưng về sau, Ngụy Lê không da ngựa bọc thây ngoài trận địa, mà lại chết già tại gia. Lúc lâm chung, ông lại "trở chứng", dặn dò Ngụy Khỏa:
- Ta sắp ra đi rồị Đến hết đời, cha chỉ có Tố Cơ là người yêu quí nhất. Vậy khi cha chết đi, con hãy chôn nàng theo ta để chim liền cánh, cây liền cành.
Cha chết rồi, Ngụy Khỏa không làm theo lời trăn trốị Ngụy Ý hỏi:
- Sao anh không chôn dì Tố Cơ theo di mệnh của phụ thân?
Ngụy Khỏa đáp:
- Lúc thân phụ còn là một tướng dũng mãnh, đem quân đi chinh phạt đó đây, có dặn nếu có mệnh hệ nào, thìphải tìm nơi tử tế gả chồng cho dì Tố Cơ, để mong nàng an vui hạnh phúc. Lời dặn dò đó là một "chân mệnh". Nhưng bây giờ, trước khi mất, tâm thần mê sảng, ý chí không còn minh mẫn thì di mệnh của thân phụ trong lúc lâm chung là "loạn mệnh", chúng ta phận làm con cho tròn chữ hiếu thì không nên theo những lời đó.
Ba năm sau, khi đã mãn tang cha, Ngụy Khỏa làm chủ hôn, gả dì Tố Cơ cho một nho sĩ danh tiếng; cuộc đời nàng được an nhàn hạnh phúc.
Thân phụ của Tố Cơ, cho đến chết vẫn ghi lòng tạc dạ người cứu mạng con gái mình, nên đã hiển linh hiện hồn về, kết cỏ nơi trận địa Thanh thảo pha để đền ơn đáp nghĩa.
Kê Khang này khúc Quảng Lăng
Một rằng Hoa nhạc, hai rằng Qui vân
Kê Khang là một trong nhóm bảy người bạn chí thân người nước Ngụy: Kê Khang, Nguyễn Tịch, Lưu Linh, Nguyễn Đàm, Vương Mậu, Sơn Đào và Hương Tú.
Khi Tư Mã Viêm diệt nhà Ngụy, lập nên nhà Tấn, thì bảy người này không hợp tác với tân triều, bỏ thị thành vào rừng trúc ở, nên người đời gọi là "Trúc lâm thất hiền". Mỗi người đều có cá tính và nét độc đáo riêng của mình, nhưng nổi bật hơn cả là Kê Khang và Nguyễn Tịch.
Sử nhà Tấn viết rằng Kê Khang là một con người phong nhã, giỏi cầm kỳ thi họa; thường đêm ông ngủ ở đình Hoa dương. Một hôm có người khách tự xưng là người xưa, cảm phục tài hoa của Kê Khang, tặng cho chàng khúc Quảng Lăng, nhưng bắt thề là không được truyền lại cho ai. Sau khi Quảng Lăng chết, khúc nhạc ấy xem như mất. May mắn về sau có nàng Ngọc Nữ khi gảy khúc nhật cung, nguyệt cung, đã dẫn khúc Hoa nhạc và Qui vân đúng âm điệu của Khúc Quảng Lăng còn sót lại.
Tình riêng tưởng ít nhớ nhiều
Xăm xăm dè nẻo Lam Kiều lần sang.
Kim Trọng đã mang nặng sầu tương tư Thúy Kiều, thương nhớ dẫn lối cho chàng thư sinh xăm xăm dè nẻo Lam Kiều lần sang.
Lam Kiêù là cây cầu trên sông Lam, thuộc tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc. Chuyện xưa viết: đời nhà Đường, có chàng nho sĩ Bùi Hằng dáng người khôi ngô tuấn tú, tài cao học rộng, lại đủ tài cầm kỳ thi họạ Thành danh xong, một mình trên lưng ngựa trắng, chàng lên đường dong ruổi đó đây , áo xanh Tư Mã Giao Châu, túi thơ bầu rượu. Tiêu dao với danh lam thắng cảnh và cũng mong tìm được ý trung nhân, nhưng mãi chàng vẫn chưa gặp được người trong mộng.
Một hôm chàng đi về phía tây bắc thành Thiểm Tây, chợt thấy một thiếu phụ trạc tứ tuần, nhưng dung nhan vẫn còn lưu lại nét thanh xuân tuyệt sắc. Không đừng được, Bùi Hằng xuống ngựa, lân la tiến gần đến làm quen. Người đàn bà đẹp, như có ý đợi chờchàng từ trước; nàng tự giới thiệu tên là Vân Kiều và đã biết chàng nho sĩ đa tình từ lâu đang cố tâm tìm người xe duyên kết tóc. Nàng bước vào nhà, viết mấy câu thơ lên một mảnh giấy rồi sai người nhà đem ra cho Bùi Hằng:
Nhầ't ẩm quỳnh tương bách cảnh sanh
Huyền sương đáo tận kiến Vân Anh.
Lam Kiều bổn thị thần tiên chốt
Hà tất khi khu thưởng ngọc kinh
(Uống chén quỳnh tương bách cảnh sanh
Huyền sương giã thuốc thấy Vân Anh
Lam Kiều vốn chỗ thần tiên ở
Hà tất đi tìm đến ngọc kinh).
Theo bốn câu thơ dẫn lối chỉ đường của Vân Kiều, thì chàng phải tìm đến Lam Kiều, chốn thần tiên ở, sẽ gặp Vân Anh, đó duyên trăm năm của chàng. Nhưng Vân Kiều là ai nhỉ, có là giai nhân tuyệt sác như người thiếu phụ này không ?. Chàng cảm nhận Vân Kiều có ý giúp đỡ mình, nên bái biệt giai nhân. lên đường dò hỏi tìm đến Lam Kiều. Đi suốt ngày cho đến lúc bóng đêm đen chùm xuống. Buì Hằng phải dắt ngựa vào một quán trọ bên đường, xin nghỉ tạm . Chủ quán là một bà lão phương phi, trông có dáng tiên phong đạo cốt. Suôt đêm, chàng trăn trở không ngử được, hình bóng Vân Anh như nhẹ nhàng từVân Kiều bước ra, đứng ngồị Sáng sớm, Bùi Hằng từ giả chủ quán; vừa đi được dặm đường, khi ngoảnh lại thì quán lá đã biến đâu mất, mà chỉ là một rừng cây rậm rạp. Trước mặt, một con sông lớn, có chiếc cầu bắc ngang. Có phải Lam Kiều đây không?. Nao nao hồi hộp, chàng lần bước đến bên cầụ Gần đó có một quán nhỏ nằm lọt thõm giữa vườn dâu xanh ngắt. Chủ quán cũng là một bà lão tóc bạc phơ, tướng mạo uy phong. Chàng xuống ngựa, đi vào quán xin nước uống. Từ nương dâu xanh mướt, bước ra một nhan sắc tuyệt trần. Giai nhan hai tay bưng chén nước mờị Ôi thế gian này sao lại có người đẹp như vậy. Đã bao năm tìm kiếm, từnay ta đã có nàng. Bùi Hằng trình lá thư của Vân Kiều cho bà lão xem:
- Ta có hai người con gáị Vân Kiều đã thành gia thất; còn lại Vân Anh sớm hôm hầu hạ mẹ già. Nhưng nay, rõ ràng là duyên trời định cho đôi lứa, ta nào dám trái ý. Nhưng muốn cưới con tạ thì phải nạp sính lễ. Sính lễ không phải là vang bạc châu báu, mà là một vật quí. Đó là chiếc chày ngọc để giã thuốc huyền sương; chiếc chày ngọc đó phải khít với cái cối ngọc này.
Bà lão đưa cho Bùi Hằng xem cái cối ngọc. Cối ngọc làm bằng thứ ngọc quí, xanh biếc. Biết tìm đầu ra chày ngọc. Bùi Hằng đăm đăm nhìn Vân Anh, rồi như sợ sẽ tan mất người trong mộng, chàng đứng vụt dậy, quyết tâm đi tìm cho bằng được vật quí đem vềlàm sính lễ.
Ngày tháng qua quá ê chề, một mình một ngựa bôn ba khắp nơi chân trời góc biển, làm sao tìm được trong dân gian cái chày ngọc để giã thuốc huyền sương. Chút già nua cùng đã ẩn hiện trên dáng dấp phong tú của chàng thư sinh. Rồi một hôm, cũng có một quán bên đường cho chàng dừng chân lại nghỉ qua đêm. Chủ quán, lại là một bà lão, tay cầm chiếc chày bằng ngọc, hát nghêu ngao:
Chày sương ta có
Ai muốn cần dùng
Duyên thắm chỉ hồng
Cầu sương đợi khách.
Vừa trông thấy chày ngọc trên tay bà lão, Bùi Hằng quá mững rỡ, vội vàng khấu đầu thi lễ:
- Bao nhiêu năm gian khổ, tiểu nhân đã lặn lội cố tìm cho được chày ngọc giã thuốc huyền sương để làm sính lễ sánh duyên cùng giai nhân bên Lam Kiềụ Xin lão bà thương tình giúp cho tiểu nhân toại ước.
Bà lão cười hiền hậu :
- Đây là báu vật chỉ trao tặng cho người kiên nhẫn, thành tâm với duyên phận. Công tử xứng đáng nhận sính vật này để thành gia thất với Vân Anh.
Tờ mờ sáng hôm sau, Bùi Hằng tạ từ bà lão, hối hả lên đường tìm về lại Lam Kiềụ.Bao năm tháng qua đi, nhưng thời gian ở đây như dừng lạị Vân Anh, ôi nhan sắc yêu kiều đang ngồi xe tơ dệt lụa như ngóng trông đợi chàng trở về. Chày ngọc ướm thử vào cối ngọc, vừa khít. Lão bà vui vẻ cho đôi trẻ làm lễ tơ hồng.
Lam Kiều là điểm hẹn cho duyên lành và là nơi trao đổi sính lễ xe duyên cầm sắc cho tình đôi lứa.
Lúc tình đến độ, Kim Trọng ướm chuyện trăm năm. Thúy Kiều thỏ thẻ thưa:
Dẫu khi lá thắm chỉ hồng
Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha.
Lá thắm, theo điển tích là thư từ qua lại của đôi lứa trong ngày con thơ . Nước Sở có thành Tây Độ Quan trấn thủ là Kiều Công Di có aí nữ là Kiều Nga, một giai nhân tuyệt sắc. Bấy giờ, tình hình trộm cướp như rươị dân tình không được an cư lạc nghiệp. Nội thành dành cho người quyền quí; ngoại thành cho thứ dân. Cửa thành luôn được canh phòng nghiêm ngặt, thường dân ra vào bị xét hỏi rất ngặt.
Giai nhân Kiều Loan đã thầm yêu trộm nhớ chàng nho sinh mạc rệp Kim Ngọc. Nhà chàng ở ngoại thành, nghèo rớt mồng tơi. Cậu học trò không dễ gì qua được cổng thành, nói chi đến chuyện lọt được nha môn để gặp gỡ người yêu. Bên này bên kia thành quách mà tưởng như núi non nghìn trùng. Không gặp nhau được, mỗi người chỉ biết nhìn giòng sông thở vắn than dài. Sông kia, mỗi ngày hai lần triều lên xuống, con nước từ ngoại thành đi vào rồi lại chảy rạ Theo triều lên xuống, đôi gái trai đã viết thơ trên lá, thả xuống sông, nhờ giòng nước mà trao đổi tâm tình cho thỏa nhớ thương. Giòng sông đã trở thành giòng lá thắm.
Những câu nói trong dân gian như lá thắm, tơ hồng vươn vấn hoặc nguyệt lão xe tơ đều lấy trong điển tích ông tơ bà nguyệt. Theo Thần tiên tuyện , thời Nguyên Hòa nhà Đường rất thái bình, có quan đại thần Chung Thôi rất giàu sang, thuộc vào hàng danh gia vọng tộc. Quý tử của Chung Thôi la Chung Hạo thông minh đĩnh ngộ; mới 12 tuổi đa ~ văn hay chữ tốt, quan lại trong triều ai cũng khen ; các vị có con gái đều mong muốn kết sui gia với Chung Thôi.
Ngoài thời gian vui thú cùng cầm kỳ thi họa, Chung Hạo cũng thường theo cha đi săn bắn. Một hôm đi săn, mải đuổi theo con thỏ, Chung Hạo lạc vaò rừng sâu, quanh co cả ngày không tìm được lối rạ Đêm xuống lạnh giữa rừng hoang, Hạo bắt đầu thấy sợ Dưới ánh trăng bỗng nghe tiếng suối róc rách. Chàng lần đến tìm nước uống. Bên bờ suối, trong hang đá, một bà lão đang ngồi xe chỉ, màu chỉ đỏ thắm. Chung Hạo khẽ bước lại gần, kính cẩn thưa:
- Tiểu nhân đi săn, bị lạc đường. Xin hỏi nơi đây là đâu, sao lão bà lại ngồi một mình xe chỉ đỏ
- Đây là động tiên. ta đang ngồi xe duyên cho những đôi tình yêu nhau dưới trần gian. Chỉ này là dây tơ hồng. Ta xe nhiều hay ít thì trai gái cũng theo đó mà thương yêu nhau nhiều hay ít. Ta muốn đôi trai gái nào nên vợchồng thì ắt chúng sẽ kết duyên, không xa lìa nhau được.
- Vậy thưa lão bà có thể cho tiểu nhân biết sau này sẽ được sánh duyên cùng ai ?.
Lão bà đưa mắt nhìn vào bên trong động. Ở đó có một ông lão đang cúi gầm trên một cuốn sách dày cộm.
- Kià là ông tợ Công tử muốn biết thì hỏi ông ấỵ
Ông lão hỏi tên tuổi Chung Hạo rồi lật từng trang sách ra tra cứu:
- Sau này công tử sẽ được xe duyên với Tố Lan, con gái một mụ ăn mày ở chợ Đông, gần kinh thành.
Laõ ông chưa dứt lời, Chung Hạo đã đùng đùng nổi giận. Đường đường là một quí tử của quan đại thần, tài nghệ, văn hay chữ tốt khó ai bì kịp mà sau này lại kết duyên cùng vơi con gái mụ ăn mày. Tức tối, chàng quay bước đi, không một lời chàọ Ông tơ vẫn chúi đầu trong sổ bộ, bà nguyệt vẫn bình thản xe xe chỉ hồng.
Chung Hạo chaỵ thụt mạng suốt đêm trong rừng sâụ May mắn, sáng sớm mai, gặp được quân lính triều đình đang tỏa đi tìm kiếm. Trở về dinh, sau ngày đó, chàng công tử đâm ra biến ăn lười nóị Lời tiên tri của ông tơ như cứ lởn vởn rít ra trong đầu. Đến một hôm, không không dìm được sự thôi thúc, Chung Hạo cùng một gia đồng tìm xuống chợ Đông. Vừa đến đầu chợ, đã gặp ngay một đứa bé gái chừng 9 tuổi mặt mày lem luốc, áo quần rách bươm, dắt theo một bà ăn xin mù lòa. Tên gia đồng dọ hỏi thì biết được tên của con bé là Tố Lan. Chung Hạo thất kinh, ù té chạy về dinh, tâm thần hoảng loạn. Không được, không thể nào, ta lại chịu khuất phục số mệnh, để làm chồng một con bé ăn mày bẩn thỉu như vậy được. Làm thế nào đâỵ Suy nghĩ cạn nước, chỉ còn cách làdiệt trừcái mầm định mệnh khắc nghiệt đó đi..
Với rắp tâm sẵn, một buổi sáng Chung Hao một mình tìm xuống chợ Đông. Anh ta đứng nấp sau một thân cây lớn. Cô bé dắt mẹ đi qua. Chàng ta cầm hòn đá, liệng ngay vào đầu con bé rồì ù chạỵ Sau đó, dò hỏi tin tức thì được biết con bé bị thương tích quá nặng, e không sống được; và rồi bà lão mù cũng không còn thấy ăn xin giữa chợ Đông nữa.
Bảy năm saụ Chung Hạo đã nên danh phận. Nghe tin thiên hạ bàn tán ở huyện Trúc Giang có con gái quan Thái úy nổi danh là một giai nhân sắc nước hương trời, tên là Thảo Nương. Vương Tôn công tử gần xa, ngày đêm đến cầu thân, nhưng chưa ai được kén chọn. Chung Hạo tìm đến, thuê một phòng trọ trước phủ đường. Mới một lần tình cờ nhìn thấy Thảo Nương, Chung Hạo chao động cả lòng. Chàng vội quay trở về nhà, xin phụ thân Chung Thân tính đường mai mốị Hai gia đình là môn đăng hộ đối, nên việc kết hôn sớm viên thành . Đôi uyên ương nên vợ chồng yêu nhau mặn nồng.
Một hôm, Chung Hạo âu yếm gội đầu cho Thảo Nương. Thấy vợ mình có mộ t cái thẹo lớn đàng sau gáy, chàng hỏi:
- Vì sao có cái thẹo này ?
- Nguyên, thiếp là con một bà ăn mày mù ở chợ Đông. Lúc nhỏ, một hôm đang dắt mẹ đi ăn xin, không hiểu sao lại có một kẻ xấu cầm đá ném vào đầu. thiếp, thương tích nặng, tưởng đã lìa đời. May nhờbà con tận tình cứu chữa. Và sau đó, may mắn được quan Thái úy có lòng từ tâm, lại hiếm muộn , nên đem hai mẹ con thiếp' về nuôi dưỡng. Thiếp' được nghĩa phụ dạy dỗ, cho ăn học. Mẹ thiếp qua đời. Thiếp được giúp việc bút nghiên cho nghĩa phụ nơi công đường. Đã rất nhiều đám đến dạm hỏi, nhưng đều bị từ chối. Lạ thay, bên nhà chàng vưa ngỏ , thì dưỡng phụ bằng lòng ngay. Chúng ta đẹp duyên ngày nay chắc là có duyên nợ
- Không, Thảo Nương nàng ơị Nếu là định mệnh thì nàng phải là...
- Tố Lan. Tố Lan là tên của thiếp lúc còn bé. Sau khi được đưa về dinh, nghĩa phụ đã xin ý mẹ, đổi tên này.
Thiên Hạo đã tin hẳn duyên giai ngẫu là do thiên định. Chàng say đắm ngắm nhìn cái duyên số Tố Lan của mình và khẽ ngâm:
Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ
Vô duyên đối diện bất tương phùng
(Có duyên ngàn dặm xa vẫn gặp
Không duyên tận mặt vẫn cách lòng)
Khi về hỏi liễu Chương đài
Cành xuân đã bẻ cho người chuyền tay
Đời vua Đương Huyền Tông có chàng tú tài Hàn Hủ, nổi tiếng là danh sĩ, lên kinh đô Trường An chuẩn bị thi tiến Sĩ. Chàng ta thuê phòng trọ ở phố Chương đài, phía Tây kinh thành.
Cạnh bên nhà trọ Hàn Hủ là nhà Liễu thị, một ca kỹ tài sắc đã làm đắm say lắm tao nhân mặc khách, nhưng không ai dám ngỏ tình, vì giai nhân đã có vị tướng quân họ Lý bảo bọc. Mỗi lần tướng Lý đến thăm Liễu thị, đều có mời Hàn Hủ sang chơị Hai người đối ẩm trong giọng ca tiếng đàn nàng Liễụ Phần Liêũ thi, những lúc ở nhà một mình, lại thường nhìn qua kẽ vách dòm sang nhà Hàn. Liễu thị thấy Hàn Hủ tuy nghèo khó, nhưng lại rất phóng khoáng, hiếu khách. Nhìn trộm lâu ngày, thấy thương, rồi thầm yêu chàng tú tàị Hôm đó, Lý tướng quân đến, Liễu thị đánh bạo, thưa:
- Hàn Tú tài là người có hoàn cảnh khó khăn nhưng lại rất hào sảng. Tương quân đã kết thân với chàng ta, thì thiếp nghĩ cũng nên tìm cách giúp đỡ.
Tướng Lý gật gù, cười độ lượng, truyền Liễu thị bày tiệc, rồi mời Hàn Hủ sang nói chuyện:
- Hàn Tú tài là bậc danh sĩ ; Liễu thị là kỹ nữ tài sắc. Danh sĩ mà sánh duyên cùng tài sắc chẳng phải là xứng đôi lắm sao?. Ta đứng chủ hôn cho đôi lứa.
Cả hai người được gá duyên đều ngây người trước thái độ bao dung của tướng quân. Qua hồi xúc động, đôi lang nương lạy tạ ơn vị tướng quân " fair play " nàỵ Sau đó, Lý tướng quân từ biệt , hai người sống chung với nhau như vợ chồng, tình yêu tha thiết.
Tú tài Hàn Hủ tuy là người lỗi lạc, nhưng thi tiến sĩ lại không đỗ. Vợ chồng không lấy thế làm điều khổ tâm, vẫn thương yêu nhau trong cuộc sống hàn vị Bốn năm sau, có quan Tiết độ sứ Thanh Châu là Hầu Di Dật, từ lâu ngưỡng mộ tài năng của Hàn Hủ, đã tâu với vua xin chàng về làm tòng sự Hàn Hủ phải về Thanh Châu nhận chức, hẹn với Liễu thị khi cuộc sống ổn định, sẽ trở về lại kinh đô rước nàng.
Nhưng rồi công việc tất bật, sau ba năm Hàn Hủ không về kinh được, gởi cho nàng lá thư với nỗi phập phồng nàng kỹ nữ đã ôm cầm sang thuyền khác:
"Chương đài Liễu, Chương đài Liễu
Tích nhật thanh thanh kim tại phủ
Túng sử trường điều tự cửu thùy
Dã ưng phan chiết ta nhân thủ ".
(Liễu Chương đài, Liễu Chương đài
Còn chăng thuở trước dáng xanh tươi
Thướt tha vẫn giống như năm nọ
Vin bẻ đành tay kẻ khác rồi!
Đọc thơ, Liễu thị hiểu là chồng âu lo mình phụ bạc. Nàng đáp thư:
"Dương liễu chi, phương chi tiết,
Khá hận niên niên tặng ly biệt.
Nhất diệp tùy phong hốt báo thu
Túng sử quân lai khởi kham chiết ".
(Nhành dương liễu, trạc xuân xanh
Đeo nặng bao năm nỗi biệt tình
Chiếc lá gió đưa, thu đà tới
Chàng về chưa chắc được vin cành.
Sau đó, Liễu thị xuống tóc vào nương cửa Phật, tránh lũ bướm ong quấy nhiễu.
Thương cho nàng. đã vào chùa mặc áo nâu sồng mà vẫn không yên câu kinh tiếng mõ. Phiên tướng Sa Tra Lợi đang tại chức Xạ Kỵ tướng quân của vua Đường Huyền Tông, xông vào thiền môn, bắt Liễu thị về làm thiếp.
Thời gian cũng qua đị.
Mươì hai năm sau, Tiết độ sứ Hầu Di Dật về kinh công cán, Hàn Hủ tháp tùng. Về đến Tràng An, Hàn Hủ thăm dò tin tức mới biết vợ mình đã sa vào tay kẻ khác. Thế cô, phận nhỏ đành im tiếng. Một hôm, đang tảng bộ trên phố thì gặp một cổ xe ngựa thong thả đi quạ Trên xe chợt có giọng đàn bà vọng ra:
- Có phải Hàn viên ngoại ở Thanh Châu đó không ?.
Nghe giọng nói, Hàn Hủ rúng động, ấp úng chưa kịp trả lời, thì người trên xe tiếp:
- Ngày mai, thiếp cũng sẽ qua đường này. Xin chàng hãy đến đây cho thiếp trông thấy lần cuối.
Hôm sau, y hẹn, Hàn Hủ đứng chờ đợi tình. Chiếc xe đến, từ trên đó ném xuống chiêc khăn hồng bọc ngoài một hộp sáp thơm. Giọng đàn bà thổn thức:
- Cảm ơn chàng, em đã trông thấy tình lần cuốị Vĩnh biệt phu quân.
Xe vụt chạy nhanh mất hút. Đêm đó, Hàn Hủ phải dự tiệc với hàng quan chức ở kinh thành nơi một tửu lầu sang trọng. Trong tiệc, mọi ngươì đều cười nói vui vẻ chỉ có mình Hàn Hủ mặt ủ mày ệ Có người gạn hỏi nguyên nhân; Hàn Hủ phải đem chuyện mình kể trong bàn tiệc. Hàn vừa dứt lời, viên tướng trẻ Hứa Tuấn ném mạnh chén rượu xuống đất, đánh "xoảng", cất giọng oang oang:
- Giữa kinh thành này mà cũng có quan triều đình làm loạn vậy sao ? Tiểu nhân này, tu y tài hèn sức mọn nhưng cũng xin được ra tay, đưa phu nhân về cho Hàn viên ngoạị Xin Hàn viên ngoại hãy viết ít chữ để làm tin với phu nhân.
Hàn Hủ chép lại bài thơ Liễu thị đã gởi cho mình mười lăm năm trước khi vào qui y cửa Phật. Hứa Tuấn nhận thư, phóng ngựa đến tư dinh của Sa Tra Lợị Tướng Phiên này đang vắng nhà. Hưá Tuấn lớn tiếng với đám gia nhân:
- Tướng quân bị ngã ngưạ, thương tích nặng, e khó qua khỏị Ngài bảo ta về rước phu nhân cho ngài gặp mặt.
Hứa Tuấn phóng ngựa chạy thẳng vào dinh. May mắn, Liễu thị đang sắp sửa nhờ ba thước lụa kết liễu đời mình., thì nhận được bài thơ tình của mình đã viết cho tình lang. Hứa Tuấn đỡ bà lên mình ngựa, phóng như bay trở về tửu lầụ Có ai đang hồi hợp chờ đợi, lồng ngực thình thịch liên hồị Rồi, hai trái tim cùng chung nhịp đập.
Tình cờ chẳng hẹn mà nên
Mạt cưa mướp đắng đôi bên một phường
Chung lưng mở một ngôi hàng
Quanh năm buôn phấn bán hương đã lề
Hàn sĩ Thúc Thôi được hưởng gia tài cha mẹ để lại. Học hành chẳng ra gì, lại biếng nhác, nên thi mãi vẫn trượt. Chán nản bút nghiên, chàng ta bán hết gia tài, ăn tiêu rồi cũng hết, không có gì để sống. Bà con lối xóm không nỡ để một nho sinh chết đói nên tìm cách mai mối cho nàng Lưu Di, một thiếu phụ trẻ góa chồng, đảm đang.
Sống chung được thời gian ngắn, Thúc Thôi lại quen thói lười biếng, cả ngày chỉ nghêu ngao, không chịu làm lụng, ăn bám vợ đến hết cả vốn liếng của Lưu Di đã dành dụm được. Lưu Di cắn răng chịu đựng, nhưng đến lúc cùng cực quá, nàng phải thưa với chồng:
- Lang quân cam chịu cảnh nghèo đói này mãi sao?
- Ta chỉ sống với văn chuơng chữ nghĩa, từ nhỏ đến lớn chỉ biết đọc sách ngâm thợ Nay ta phải biết làm chi cho ra tiền đây?
Lưu Di e dè:
- Văn chương chữ nghĩa không bằng ai thì thôi cũng phải kiếm việc khác làm ăn sinh sống chứ.
Thúc Thôi cười khẩy:
- Hiền thê ơi, đừng quá âu lo. Hôm nay ta là hàn sĩ, ngày mai đỗ đạt, thì tha hồ phú quí vinh hoa. Thôi được, trong lúc đợi bảng vàng đề tên, ta sẽ nghĩ ra một cách gì đó, không cần phải làm lụng cực nhọc, ma vẫn hái ra tiền.
Rồi mấy ngày sau, người ta thấy Thúc Thôi lẩn quẩn đây đó, lúc ra chợ, lúc vào xóm, như một học giả suy tư. Cuối cùng, chàng ta đem về một thúng mạt cưa, khoe vợ:
- Món hàng này không vốn mà bán được tiền. Mạt cưa này thợ cưa vất đi, ta lấy về đem ra chợ bán, giả làm cám heọ Sẽ có khối người bị lừa.
Lưu Di ngăn cản:
- Sao lại làm việc gian dối như vậy, thật là bất nhân.
Thúc Thôi dạy khôn:
- Miễn sao được tiền thì thôi! Đời mà! khôn sống, dại chết.
Không kể lời khuyên can của vợ, sáng sớm hôm sau, Thúc Thôi bưng thúng mạt cưa ra chợ, rao bán cám. Nhưng cho đến chiều tối vẫn chưa có ai bị lừa. Hôm sau, Thúc Thôi lại bưng thúng cám dỗm ra chợ lần nữa. Đến chạng vạng, thì may thay, có một nàng đội thúng mướp trái xanh mởn đi ngang qua. Cô nàng mời:
- Tôi đang muốn bán thúng mướp tươi này để lấy tiền mua cám heo. Chúng ta thỏa thuận hàng đổi hàng nhé.
Thúc Thôi mưng rỡ, ỌK ngay, phen này trúng mánh, nhẫm tính thúng mướp cũng bán được bộn tiền. Chàng ta hí hửng bưng thúng mươp về khoe vợ Lưu Di bật cười:
- Trời đất! Đây là loại mướp đắng, loại trái mọc hoang trên núi, không ăn được. Ừ mà thôi , như vậy cũng hay, cùng là một phường lừa phỉnh nhau, mướp đắng đổi ấy mạ t cưa, không ai thua ai!
Khen tài nhả ngọc phun châu
Nàng Ban, Ả Tạ cũng đâu thế này.
Ban Chiêu tự là Huê Cơ là người đàn bà hay chữ đời Đông Hán. Năm mười lăm tuổi Ban Chiêu đã biết làm thơ và làu thông Tứ Thư, Ngũ kinh. Lấy chồng là Tào Thế Thức, một danh nho của Đông Hán. Sống chung được mười năm thì Tào Thế Thức qua đời vì bệnh; Ban Chiêu thủ tiết thờ chồng.
Đời vua Hoà Đế, Ban Chiêu được triệu vào cung để dạy học cho các hoàng tử và các phi tần. Lúc bấy giờ cha của bà là Ban Bưu đang tại chức Đông các đại học sĩ, chịu trách nhiệm soạn thảo bộ Hán Thư. Công việc đang còn dang dở thì ông qua đời. Anh của ban Chiêu là Ban Cố được nhà vua chỉ định tiếp tục công trình của cha. Nhưng chẳng bao lâu, Ban Cố cũng qua đời vì bạo bệnh, trong khi bộ Hán thư vẫn chưa xong. Ban Chiêu tâu với vua cho bà được tiếp nối công trình. Vua Hòa đế chấp thuận và bà được sung vào Đông các tàng thư tiếp tục soạn bộ Hán thư cho đến hoàn tất.
Trong thời gian ở Đông các tàng thư, Ban Chiêu đã trước tác tập Nữ Giới, gồm bảy thiên. Từ đó lẫy lững tài danh Ban Chiêu.
Dâng thư đã thẹn nàng Oanh
Lại thua ả Lý bán mình hay sao ?
Đời nhà Hán có Thuần Vu Ý làm quan đất tề ; nhà không có con trai, chỉ sinh được 5 con gái, Đề Oanh là gái út.
Thuần Vu Ý mắc tội lớn phải thọ hình. Khi bắt giải tử tội về kinh , Đề Oanh đi theo cha. Đến kinh thành, nàng dâng thư lên Hán Văn Đế tâu rằng, nếu cha chết đi, cũng không mảy may đền được chút tội; nay thân gái này khẩn thiết xin vua được cho vào cung làm cung nhân thô (người làm sạch sẽ cho vua sau mỗi lần vua đi vệ sinh), để chuộc tội một phần nào cho cha. Hán Văn Đế đọc thư của nàng Oanh, cảm động vì lòng hiếu hạnh của nàng nên tha tội cho Thuần Vu Ý.