23. DÂN TỘC CHỨT
Tên gọi khác
Rục, Sách, A rem, Mày, Mã liềng, Tu vang, Pa leng, Xe lang, Tơ hung, Cha cú, Tắc cực, U mo, Xá lá vàng
Nhóm ngôn ngữ
Việt - Mường
Dân số
2.400 người.
Cư trú
Phần đông cư trú ở huyện Minh Hóa và Tuyên Hóa (Quảng Bình).
Đặc điểm kinh tế
Nguồn sống chính của nhóm Sách là làm ruộng, còn nhóm Rục và A rem là làm rẫy. Ngoài ra người Chứt còn hái lượm, săn bắn, đánh cá, chăn nuôi. Nghề mộc và đan lát là phổ biến. Đồ dùng bằng kim loại và vải vóc, y phục phải mua hoặc trao đổi. Người Chứt không trồng bông dệt vải.
Kiểm tra Nỏ trước khi lên rẫy
Tổ chức cộng đồng
Ngày nay người Chứt thường nhận mình là họ Cao, họ Đinh... Mỗi dòng họ đều có người tộc trưởng, có bàn thờ tổ tiên chung. Trong làng, tộc trưởng nào có uy tín lớn hơn thì được suy tôn làm trưởng làng.
Hôn nhân gia đình
Quan hệ vợ chồng của người Chứt bền vững, hiếm xảy ra bất hòa.
Tục lệ ma chay
Việc ma chay của người Chứt đơn giản, nhóm Sách có tiếp thu ảnh hưởng của người Kinh. Theo nếp chung, tang gia tổ chức cúng bái 2-3 ngày, rồi đưa người chết đi chôn. Mộ được đắp thành nấm đất, không có nhà mồ bên trên. Sau 3 ngày, tộc trưởng làm lễ gọi hồn cho người chết về ngụ tại bàn thờ tổ tiên ở nhà tộc trưởng, từ đó người thân không lai vãng chăm sóc mộ nữa.
Văn hóa
Kho tàng văn nghệ dân gian của người Chứt khá phong phú. Làn điệu dân ca Kà-tưm, Kà-lềnh được nhiều người ưa thích. Vốn truyện cổ dồi dào gồm nhiều đề tài khác nhau. Nhạc cụ có khèn bè, đàn ống lồ ô loại cho nam và loại cho nữ, sáo 6 lỗ...
Lễ cúng cơm
Nhà cửa
Hầu hết đã định canh định cư, nhưng các làng người Chứt thường tản mạn. Nhà cửa không bền vững.
Nguồn sống chính của nhóm Sách là làm ruộng, còn nhóm Rục và A-rem là làm rẫy. Ngoài ra người Chứt còn hái lượm, săn bắn, đánh cá, chăn nuôi. Nghề mộc và đan lát là phổ biến. Đồ dùng bằng kim loại và vải vóc, y phục phải mua hoặc trao đổi. Người Chứt không trồng bông và dệt vải.
Đánh cá dưới suối
Hầu hết người Chứt đã định canh định cư, nhưng các làng thường tản mạn. Nhà cửa không bền vững. Ngày nay người Chứt thường nhận mình là họ Cao, họ Đinh... Mỗi dòng họ đều có người tộc trưởng, có bàn thờ tổ tiên chung. Trong làng, tộc trưởng nào có uy tín lớn hơn thì được suy tôn làm trưởng làng. Người Chứt ăn cơm đồ cách thuỷ, thức ăn thông thường là rau rừng thái nhỏ nấu với ốc, cá suối. Trước kia, bọt cây báng và thịt khỉ là thức ăn quan trọng của nhóm Rục.
Quan hệ vợ chồng của người Chứt bền vững, hiếm xảy ra bất hoà. Việc ma chay đơn giản, nhóm Sách có tiếp thu ảnh hưởng của người Kinh. Theo nếp chung, tang gia tổ chức cúng bái 2-3 ngày, rồi đưa người chết đi chôn. Mồ được đắp thành nấm đất, không có nhà mồ bên trên. Sau 3 ngày, tộc trưởng làm lễ gọi hồn cho người chết về ngụ tại bàn thờ tổ tiên ở nhà tộc trưởng, từ đó người thân không lai vãng chăm sóc mộ nữa. Người Chứt thờ cúng tổ tiên. Đồng bào tin có ma rừng, ma suối, ma không trung. Thần nông bảo vệ mùa màng là vị thần cao nhất.
Đinh Thị Hoa Mơ (Chứt) trong cuôc thi hoa hậu các dân tộc
Kho tàng văn nghệ dân gian của người Chứt khá phong phú. Làn điệu dân ca Kà-Tưm, Kà-lềnh được nhiều người ưa thích. Vốn truyện cổ dồi dào gồm nhiều đề tài khác nhau. Nhạc cụ có khèn bè, đàn ống lồ ô loại cho nam và loại cho nữ, sáo 6 lỗ..
Xin giới thiệu 1 câu chuyện kể về người Chứt
Kỳ bí người Chứt : Người Chứt chung thủy
Người Chứt sống chung thủy, chưa một người nào bỏ vợ, bỏ chồng và tuyệt nhiên không có chuyện ngoại tình.
Tình yêu và lòng thủy chung son sắt của người Chứt không biết có từ khi nào, gắn với sự tích gì nhưng già làng Hồ Kính nói rằng người Chứt sống thủy chung từ lúc còn ở trong hang đá. Quan hệ hôn nhân của họ là một vợ một chồng. Người nào vượt qua điều ấy được cho là kẻ phản bội, không chỉ đối với người yêu mà còn là sự phản bội lại bản làng. Bà Hồ Thị Nam, Bí thư Chi bộ bản Rào Tre, cho biết với người Chứt thì nữ mười ba tuổi, nam mười lăm tuổi trở lên có quyền tìm hiểu, yêu đương mà không bị ràng buộc điều gì khác. Đôi lứa tìm hiểu nhau một thời gian đến khi bà con dân bản chấp nhận thì họ trở thành vợ chồng.
Bó củi tình yêu
Trong câu chuyện tình yêu của người Chứt thì bó củi là một vật linh thiêng và hết sức quan trọng. Bó củi được coi như lời tỏ tình của người con trai với người con gái. Đôi khi nó cũng thay cho lời dạm hỏi của gia đình nhà trai với gia đình cô dâu. “Trước khi đi tìm hiểu một cô gái nào đó, người con trai đưa một bó củi đến nhà mẹ cô gái ấy. Bó củi thường được các chàng trai lặng lẽ đến đặt tại cửa nhà người con gái giữa đêm khuya thanh vắng. Người con trai cố giữ bí mật, không cho các chàng trai khác trong bản biết. Nếu gia đình bên gái nhất trí thì đun bó củi đó, nếu không nhất trí thì gia đình gái vứt bó củi ra khỏi nhà nhưng khi vứt tuyệt đối không để người con trai đó thấy” - bà Nam chia sẻ.
Theo phong tục, sau lễ cưới, vợ chồng ăn ở tại nhà gái năm ngày đêm. Sau đó, về nhà trai ăn ở ba ngày đêm. Khi hết hạn quy định, vợ chồng quỳ lạy cha mẹ chồng, được cha mẹ cho phép mới được quyền tự do đi lại. Những cặp vợ chồng khó khăn về vật chất được ở chung với gia đình chồng. Các cặp vợ chồng khi tách hộ thường tổ chức đắp nền bếp với sự tham gia đầy đủ của các thành viên trong gia đình. Họ quan niệm nếu không tham gia sẽ xảy ra ốm đau. Điều đặc biệt là khách lạ không được vào buồng ngủ của vợ chồng chủ nhà, kể cả bố mẹ vợ và bố mẹ chồng.
Ông Đinh Xuân Kiên, Chủ tịch UBND xã Hương Liên, cho biết quan hệ hôn nhân và gia đình của người Chứt hoàn toàn dựa vào cơ sở tình yêu và sự thủy chung, gắn bó. Hiện tại, các hình thức cưới hỏi được đơn giản hóa, hiện tượng thách cưới không còn.
Những mối tình xa xứ
Ở bản Rào Tre, hôn nhân nội tộc đang là phổ biến. Tuy nhiên, luật tục cấm kỵ việc người trong dòng họ kết hôn với nhau trong vòng ba đời về phía cha, hai đời về phía mẹ. Đến đời thứ bốn thì không phân biệt bên nội hay bên ngoại được quan hệ hôn nhân với nhau.
Do người Chứt có số lượng dân cư ít nên đến tuổi trưởng thành, để lấy được vợ, người Chứt phải lặn lội băng rừng qua bên bản Chuối, bản Kè của tỉnh Quảng Bình. Già làng Hồ Kính kể: “Có thằng đi mấy năm mới dẫn được vợ về nhà. Hiện bản mình có gần mười cặp vợ chồng như thế. Họ sống thủy chung và ai cũng hãnh diện về những mối tình xa xứ của mình”.
Đôi vợ chồng Hồ A Bình, Hồ Thị Bung là một ví dụ. Cưới nhau hơn 20 năm, sinh được ba mặt con nhưng vợ chồng vẫn chăm sóc nhau như ngày mới yêu. Hàng xóm kể họ chưa bao nghe vợ chồng họ to tiếng hoặc cãi vã với nhau.
“Năm nay mình 18 tuổi rồi, sắp tới mình cũng sang bản Chuối tìm vợ thôi” - Hồ Sang, một thanh niên bản Rào Tre, hồ hởi nói.
Hồ Nam cũng đến với người bạn đời mình bằng tấm lòng thủy chung và tình yêu trong sáng. “Trong một lần đi rẫy, lạc vào bản Kè, mình gặp cô ấy. Do đường sá xa xôi nên mình phải ở lại bên bản ấy mấy ngày. Trong bụng thích cô ấy nhưng mình không dám tỏ tình. Rồi một buổi tối, mình quyết định đem bó củi đến đặt ở cửa nhà. May mắn bó củi được nhà cô ấy đun nên mình đã lấy được vợ” - Hồ Nam kể.
“Dù không có con nhưng mình yêu vợ trọn đời”
Trọn nghĩa vợ chồng
Niềm tự hào lớn nhất của người Chứt theo già làng Hồ Kính là quan hệ hôn nhân một vợ một chồng. Họ coi trọng tình yêu, sự chung thủy trọn đời. Tình yêu đến với một người là điểm thăng hoa trong cuộc đời. Đó là sự ban ơn của đất trời cho con người nên phải nắm giữ. “Ở cái bản này, từ xưa đến nay không có cặp vợ chồng nào bỏ nhau. Nếu trong gia đình có chuyện gì mà vợ chồng cãi vã thì sẽ được bà con lối xóm hòa giải ngay. Còn ngoại tình thì tuyệt nhiên không có” - già làng Hồ Kính tự hào nói.
Chúng tôi đến thăm nhà Hồ Việt khi trời chập choạng tối. Căn nhà khang trang nhưng lạnh lẽo. Khi vợ Hồ Việt trên gường bệnh nhổm người dậy đón khách thì cũng vừa lúc anh từ rừng trở về, mang trên tay xâu cá tươi. Hồ Việt nghẹn ngào kể: “Mình lấy vợ đã gần 20 năm rồi nhưng không có em bé. Cứ mỗi mùa rẫy đi qua, mình lại hy vọng có được đứa con nhưng trời chả cho. Vợ mình mắc chứng vô sinh. Kể từ ngày biết chuyện này, cô ấy buồn đau nên thường đổ bệnh”.
Hồ Việt và vợ cũng nên duyên từ “mối tình xa xứ” ở tận Quảng Bình. “Vợ mình ốm mấy ngày rồi. Mấy hôm nay, ngày nào mình cũng xuống suối kiếm con cá tươi nấu cháo bồi dưỡng. Dù khó khăn đến mấy nhưng mình cũng cố gắng không để cô ấy buồn. Còn chuyện lấy vợ khác thì mình không bao giờ chịu đâu. Mình thề sống trọn đời với vợ rồi” - Hồ Việt nói trong tiếng khóc.
Người Chứt chỉ lấy vợ hay chồng khác khi một trong hai người chết nhưng trường hợp này rất hiếm. Hồ Pốp cũng được xem là một người đàn ông sống trọn nghĩa tình. Vợ chết đã gần 10 năm nay nhưng ông vẫn một mình nuôi ba con nhỏ ăn học. Hỏi vì sao không lấy vợ hai thì Hồ Pốp ngoảnh mặt cười: “Nghĩa vợ chồng làm sao bỏ được”.