THIẾU SỰ KẾ THỪA CỦA NGUYỄN ÁNH : ĐẠI NGHIỆP NHẤT THỐNG GIANG SAN CỦA NGUYỄN HUỆ DỄ GÌ BỀN VỮNG ?
Bằng những chiến thắng thần tốc “tạo nền” cho một chính sách ngoại giao mềm dẻo thời hậu chiến, thiên tài quân sự Nguyễn Huệ đã khéo khuất phục kẻ thù từ binh tướng đến vua quan.
Triều đình nhà Thanh chẳng đã trân trọng dành một sự đón tiếp “có một không hai” vị anh hùng áo vải cờ đào trời Nam dẫu “thừa hiểu” đấy là vua Quang Trung… giả (1790) ?
Nhưng về đối nội, chưa tròn ba thập niên do đâu vương triều Tây Sơn nhanh chóng sụp đổ ?
Trước hết do Nguyễn Nhạc quá đa nghi, tính cách “nổi loạn” buổi đầu của Nhạc chỉ trên tầm một viên “biện lại” ngang tàng hay “trại chủ Lương Sơn” hào hiệp, chứ chưa thể đạt đến tầm vóc của một bậc khai sáng.
Nhạc cũng không lường được tay phản thần đàng Ngoài là Chỉnh vốn cơ trí nên đã mặc Chỉnh sát cánh cùng Nguyễn Huệ trong lần ra Phú Xuân, mở màn cho một cuộc chinh Bắc thần kỳ của em mình sau đó.
Tham vọng của Nhạc dường như chỉ gói trọn trong một phần lãnh thổ, một không gian quyền lực thuộc đàng Trong mà thôi. Lữ thì tính khí hiền hòa, không tha thiết lắm trong việc mưu bá đồ vương và lại chết sớm (1787).
Duy chỉ mình Nguyễn Huệ thừa chí lớn và dám mạo hiểm dấn thân. Tuy nhiên, sai lầm nghiêm trọng dẫn đến sự sụp đổ nhanh chóng của nhà Tây Sơn cũng chưa hẳn mới bắt nguồn từ khi Nguyễn Huệ mất đi.
Chính sự tự thỏa mãn quá sớm với những gì vừa chiếm lĩnh được vốn đã vượt sức mình, Nhạc đã xé nhỏ từng phần lãnh thổ chưa thực sự ổn định để cát cứ. Sự vội vã phi chiến lược này đã gián tiếp làm phân rã nội bộ từ gia tộc đến binh tướng và nhân dân từng vùng, từng miền theo cách “chúa ai nấy thờ” của anh em Tây Sơn.
Tóm lại từ một hành động phản kháng có tính địa phương, biện Nhạc dấy lên một phong trào cứu khổ phò nguy hạn hẹp chỉ giữa hai tầng lớp : quan lại thống trị nhà chúa (Nguyễn) và quần chúng bị bóc lột.
Nguyễn Huệ sau đó mới là người trực tiếp biến sự tranh chấp quyền lợi giai cấp thành một lực lượng có chính nghĩa bao trùm “dẹp giặc trong, chống thù ngoài” kết dính toàn dân thành một khối, cứu nguy đất nước.
Sau trận đại thắng quân Xiêm, Nguyễn Huệ đã chớp thời cơ và triệt để phát huy sức mạnh, công khai tuyên chiến với toàn bộ hệ thống phong kiến đàng Trong lẫn đàng Ngoài: ranh giới sông Gianh mặc nhiên bị xóa bỏ.
Để rồi với cuộc tử chiến làm rạng danh non sông, tiêu diệt gọn 20 vạn quân Thanh năm 1789, Nguyễn Huệ nghiễm nhiên trở thành vị đệ nhất anh hùng của chính dân tộc mình.
Đối thủ thực sự của Nguyễn Huệ trên chiến trường chưa hẳn là… Nguyễn Ánh. Chỉ hiềm dưới trướng Nguyễn Huệ, quan quân ít kẻ xuất thân là khoa bảng cũng như hội đủ năng lực kinh bang tế thế. Do bị thôi thúc bởi sự căm thù ngoại xâm cùng lũ tham quan triều Nguyễn nên đã đứng lên. Nghĩa khí và can trường có thừa, song chưa kịp kinh qua một quá trình tổ chức và điều kiện huấn luyện đủ để trở thành một lực lượng chiến đấu chuyên nghiệp.
Quân Tây Sơn (gốc Kinh lẫn Thượng…) có thể sử dụng nhanh trong mỗi chiến dịch chứ khó duy trì bền.
Bên trong triều đình Tây Sơn lại thiếu vắng những “quan văn chính thống” nổi trội, ngoài một Nguyễn Thiếp quân sư. Riêng Ngô thời Nhiệm vốn là cựu binh của xứ Ngoài, được ủy thác có giới hạn về sứ mệnh tham mưu và đối ngoại chứ chưa thực sự được “toàn quyền” gách vác trọng trách của triều đình, giữa lúc quanh Ngô thời Nhiệm là một rừng hảo hán phương Nam.
Cánh võ biền gồm vô số những tay hào kiệt nặng mang tinh thần nghĩa hiệp hơn là ý thức sâu sắc về quan điểm chính trị về lâu về dài. Thái độ khoan dung của Trần Quang Diệu đối với tướng sĩ của Võ Tánh (nhà Nguyễn) là một điển hình:
Mùa hạ 1800, quân Tây Sơn hãm thành Bình Định, tướng giữ thành là Võ Tánh liệu bề không chống nổi bèn lên đài cao tự châm lửa đốt. Trước khi chết, Tánh gởi thư cho tướng Tây Sơn “…trong thành lương hết không thể giữ được nữa, tướng quân thua trận đáng chết là ta nhưng quân lính vô tội, chớ nên giết hại…”… Diệu vào thành trông thấy thương chảy nước mắt lấy lễ thu chôn, tướng sĩ của Tánh không bị Diệu giết một ai và được tự do ra về…
Lẽ ra Nguyễn Ánh phải biết, quan quân của Nguyễn Ánh phải nhớ mà nương tay sau này khi đánh bại Tây Sơn .
Xưa Ngũ Viên vì thù cha mà quất roi vào thây Sở Bình Vương hay Dự Nhượng (Tần) trả hận cho chủ cũ không thành mà cố xin Tương Tử chiếc áo ông ta đang mặc để đâm cho thỏa mãn ước nguyện... Đấy là cách hành xử của kẻ bầy tôi kém thế vốn đã bị đời chê trách.
Nay qua sự xúc phạm hài cốt và hành hình dã man thân nhân cùng tướng tá của Nguyễn Huệ, Nguyễn Ánh càng để lộ nỗi ức chế triền miên về sự bất lực của mình trước bóng dáng lớn lao của một đối thủ trong quá trình đối mặt.
Nguyễn Ánh tự đánh mất ít nhiều tác phong của một bậc đế vương, lội ngược tinh thần đạo lý “nghĩa tử nghĩa tận” của người Á đông. Chẳng những tự gây thương tổn mình, Nguyễn Ánh còn làm thương tổn bao thế hệ con tim vốn luôn ngưỡng vọng vị anh hùng áo vải đất Tây Sơn.
Nguyễn Ánh còn gián tiếp tự chọn cho mình vị thế đối nghịch với toàn dân qua việc cầu viện ngọai bang (Xiêm, Pháp).
Tuy nhiên muốn hay không vẫn phải thừa nhận Nguyễn Aùnh cũng là một bậc anh tài. Ngoài sự kiên gan và tinh thần dám chịu mọi khổ nhục, Nguyễn Ánh còn khéo tận dụng và triển khai từng thành quả của chính đối thủ (Nguyễn Huệ) để tóm thu thiên hạ về tay mình cùng ổn định đất nước.
Xét về một khía cạnh khác, sao có thể trách được trong một tình thế thắng bại chưa thực sự nghiêng về ai. Ngoài tâm trạng bất an, Nguyễn Ánh còn bị chi phối bởi nhiều áp lực vô hình từ tập đoàn quan tướng phong kiến quanh mình. Biện pháp bất nhẫn Nguyễn Ánh áp dụng với kẻ thù ắt nhằm vuốt ve và “mua đứt” sự dốc lòng của thuộc hạ vốn phải ăn sương nằm đất bao năm theo khuông phò? Ai cấm họ không ngầm đòi hỏi Nguyễn Ánh, bằng mọi giá phải bảo toàn cùng xác lập vai trò khanh tướng vốn đã cận kề đối với họ? Ai trong số họ không nuôi giấc mộng một ngày trở về cố hương, dọn mình đón đợi ơn mưa móc của Nguyễn Ánh ?
Nhưng dư âm của những trận chiến vũ bão ngày trước của quân tướng Tây Sơn luôn ám ảnh, Nguyễn Ánh dễ gì thuyết phục và trấn an được họ nếu nhẹ tay với bầy tôi trung dũng còn đó của Nguyễn Huệ ?
Vả lại sự thắng thế của Nguyễn Aùnh phần nào còn dựa vào âm hưởng của quá trình mở cõi bởi các tiên chúa nhà Nguyễn, khát vọng thanh bình muôn thuở của nhân dân sau hằng trăm năm binh biến… Trong cảnh huống ấy, không chỉ Nguyễn Huệ hay Nguyễn Ánh mà bất cứ nhân vật nào dám nhận lãnh vai trò “thế thiên hành đạo” tất nhiên nhận được sự cổ vũ của nhân dân.
Đâu phải chợt dưng thiên hạ nghiêng về Nguyễn Ánh nếu Nguyễn Huệ không sớm bị tước đoạt tuổi trời ? Thiếu bóng minh chủ (Nguyễn Huệ) quân Tây Sơn như rắn mất đầu đánh mất thế chủ động, bao phen sau này bị dồn vào tình thế gần như trở nên cường đạo và mất dần chính nghĩa.
Nguyễn Huệ, vị chiến tướng lừng lững nằm xuống giữa lúc áo bào còn “vắt ngang lưng ngựa” và thắng lợi cuối cùng thuộc về Nguyễn Ánh sau khi không có Nguyễn Huệ, tất cả cũng đã … cát bụi trở về !
Vẫn biết không thể lấy sự thắng bại để luận anh hùng, nhưng nếu tự thân thiếu ý chí hay không thừa hưởng cái chất anh hùng cha truyền con nối, Nguyễn Ánh làm sao hiện thực hóa được khát vọng “trị quốc, bình thiên hạ” của mình ?
Thời thế xưa nay hiếm dung cùng lúc lắm hào kiệt “trời sinh Du, sao còn sinh Lượng ?”Riêng với Nguyễn Huệ và Nguyễn Ánh thì chưa hẳn. Mỗi người mỗi danh phận, mỗi khí phách và trọn vẹn cuộc đời đã hoàn thành “một nửa sứ mạng lịch sử vinh danh lẫn đau đớn” của mình, sau những gì nhận được hoặc mất đi tưởng như nghịch lý.
Bao nhiêu biến cố xoay vần ý chừng cũng thuận theo vận nước, một sự định phận tại… thiên thư. Vâng, biết đâu sự trùng phùng giữa “Nguyễn Huệ và Nguyễn Ánh” đấy chẳng là điều may mắn thay vì bất hạnh của dân tộc : đất nước đã sinh Huệ, lẽ nào thiếu Ánh !
Đâu đó bên kia đời, hẳn cả hai – Thái tổ Võ hoàng đế Nguyễn Huệ và Thế tổ Cao hoàng đế Nguyễn Ánh khó lòng khước từ một sự tri ơn dẫu toàn tâm hay chừng mực, dẫu công khai hay thầm lặng của hậu thế ?