Tôi chọn nghiên cứu năm 1961 vì tôi luôn băn khoăn về những lựa chọn của Kennedy ở Việt Nam vào mùa thu năm đó.
Ông ta đã bị thuyết phục tin vào cái gì vậy? Liệu ông ta có hiểu điều ông ta đang bắt đầu thực hiện không? Tôi đã đi tìm một lời: giải đáp cho những mâu thuẫn hiển nhiên giữa những gì tôi được nghe và được chứng kiến vào tháng 9-1961 và những gì mà Taylor và của ông ta, đã kết luận vào tháng mười, căn cứ vào những thông cáo báo chí và những lời tuyên bố chính thức: với giả thiết là những biện pháp mà Kennedy đã phê duyệt vào tháng mười một là thoả đáng. Những mâu thuẫn đó đã nhanh chóng biến mất khi tôi nắm được thực chất về con người của Taylor, những khuyến cáo mang tính cá nhân của ông ta đối với Tổng thống và những cơ sở pháp lý mà ông ta dựa vào. Những thông cáo báo chí ở thời điểm đó là sai lầm. Những lời tuyên bố chính thức đều là những lời dối trá.
Maxwell Taylor đã không khuyên Tổng thống rằng chương trình mà ông ta cuối cùng đã chấp nhận là thoả đáng, thậm chí trong thời gian ngắn, thậm chí để ngăn ngừa thất bại, mà chỉ là để giành chiến thắng. Taylor cũng tỏ ý chống lại việc gửi quân chiến đấu sang. Mà ngược lại (ông ta đã trình), trong tập hồ sơ tối mật "Những đánh giá chỉ dành cho Tổng thống" ("Eyes only for the president") Taylor không chỉ gợi ý đến việc đưa quân Mỹ vào miền Nam Việt Nam "một cách không chậm trễ"(80), mà còn nói ông ta đã đi đến một kết luận rằng đây là một hành động duy nhất đúng nếu chúng ta muốn đảo ngược lại xu hướng thất bại hiện tại… Trong thực tế, tôi không tin rằng kế hoạch của chúng ta để cứu miền Nam Việt Nam sẽ thành công nếu thiếu nó (quân Mỹ - ND).
Ông ta đã đề xuất gửi một lực lượng ban đầu gồm 6 đến 8 ngàn lính, nhưng với một sự thừa nhận rõ ràng rằng có thể sẽ có nhiều người hơn nữa được gửi sang: Mặc dù thanh thế của Mỹ đã được xây dựng ở Nam Việt Nam nhưng nó sẽ còn được tăng lên nếu gửi thêm quân. Nếu lực lượng ban đầu đó vẫn chưa đủ để đạt được kết quả cần thiết, thì sẽ khó để có thể chống lại được áp lực phải tăng viện. Nếu kết quả trông đợi cuối cùng là đóng cửa biên giới và quét sạch các cuộc nổi loạn ở bên trong miền Nam Việt Nam, thì sẽ không có giới hạn nào cho sự cam kết có thể thực hiện được của chúng ta (trừ phi chúng ta tấn công vào nguồn lực ở Hà Nội).
Ông ta cũng không đơn độc trong đề xuất về gửi lực lượng trên bộ của mình hay những suy luận khác: rằng đội quân này dĩ nhiên là sẽ đẩy lùi chiến thắng của Cộng sản, rằng gửi những lực lượng vừa phải ban đầu nhưng cuối cùng có thể dẫn đến sự tham chiến của một đội quân Mỹ đông đảo và có thể có chiến tranh với cả Trung Quốc, rằng nếu không có bất cứ đơn vị chiến đấu nào được gửi sang thì, tất cả những biện pháp đã đề xuất (mà Kennedy chấp nhận và công bô) sẽ không phù hợp để ngăn chặn sự thất bại. Như Bộ trưởng Quốc phòng McNamara viết trong một bản ghi nhớ báo cáo trình Tổng thống vài ngày sau đó, nói về chính ông ta, cấp phó của ông ta, Roswell Gilpatric, và Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân thì: "Thời cơ đang chống lại chúng ta, thực sự là rất bất lợi, để ngăn chặn (sự sụp đổ của Nam Việt Nam trước chủ nghĩa Cộng sản bằng bất kỳ biện pháp cấp bách nào của việc gửi quân Mỹ sang với số lượng lớn).
Chúng tôi chấp nhận những suy luận của tướng Taylor rằng những giải pháp khác nhau mà ông ta đề nghị là có thể thực hiện được nhưng tự thân nó sẽ vô dụng khi lấy nó để khôi phục lòng tin và đưa Diệm tới chiến thắng trong cuộc chiến của ông ta.
Theo như McNamara và Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân, 8.000 binh sĩ ban đầu sẽ không đủ để làm "cán cân nghiêng hoàn toàn về một phía"(81). Họ đề nghị - giống như Taylor và Rotstow đã làm - rằng nước Mỹ "tự mình cam kết mục tiêu rõ ràng là ngăn chặn miền Nam Việt Nam rơi vào tay chủ nghĩa Cộng sản"(82), và đi cùng với cam kết này là những đơn vị đầu tiên làm theo "một lời cảnh báo qua một số nguồn tới Hà Nội rằng việc tiếp tục ủng hộ Việt Cộng sẽ dẫn đến sự trả đũa ác liệt chống lại miền Bắc Việt Nam. Nếu chúng ta hành động theo cách này, thì cuối cùng có thể sẽ phải mở rộng cam kết quân sự của chúng ta để đương đầu với tình hình. Cuộc chiến có thể kéo dài và Hà Nội, Bắc Kinh có thể can thiệp công khai… Tôi tin rằng chúng ta có thể cho rằng lực lượng quân đội tối đa trên bộ cần cho vùng Đông Nam Á sẽ không vượt quá 6 Sư đoàn hoặc khoảng 205.000 người"(83).
Nhìn lại vấn đề, đó là một đánh giá không đúng mức - chúng ta đã từng đóng nhiều quân như thế ở miền Nam Việt Nam vào đầu năm 1966, mặc dù Trung Quốc đã không can thiệp và 2 năm sau chúng ta vẫn chưa giành chiến thắng được, khi chúng ta đã gửi gần như gấp 3 lần số quân như thế mà nó không phải là một con số nhỏ.
Cùng những kế sách giống nhau, cùng những cơ sở giống nhau, có sự hậu thuẫn của MC George Bundy - trợ lý đặc biệt của Tổng thống về An ninh quốc gia - và người anh của ông ta là William Bundy, sau đó đóng vai trò như trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng về các vấn đề an ninh quốc tế - người đã tham gia xử lý vấn đề về hội nghị Geneva và hậu quả của nó khi ông ta đang ở CIA. Đó là một sự nhất trí ý kiến của bất cứ một quan chức an ninh quốc gia cấp cao nào trừ Bộ trưởng Bộ Ngoại giao là Rusk.
Sự e dè của Rusk về việc gửi quân không phải vì chúng không cần thiết hay quyết định đó có thể bị trì hoãn một cách an toàn mà bởi vì ít nhất dưới chế độ Diệm, nó không có sự rõ ràng, thậm chí quân Mỹ sẽ tạo ra một tình hình mới làm khác đi. Trong một bức điện từ Nhật Bản, Rusk cảnh báo Kennedy: "Nếu Diệm không sẵn sàng tin vào các chỉ huy quân đội để giải quyết mọi việc và từng bước tập hợp những phần tử không Cộng sản vào những nỗ lực quan trọng của quốc gia thì thật khó có thể chứng kiến được quân Mỹ sẽ có ảnh hưởng quyết định như thế nào. Trong khi tham gia những kế hoạch khả thi có tầm quan trọng nhất ở Đông Nam Á, tôi ngán ngẩm chứng kiến những cam kết quan trọng nhằm làm tăng vị thế của Mỹ đang đi tới thất bại"(84).
Tuyên bố đầu tiên của Rusk, thực ra mà nói, đã chỉ rõ (một cách thực tế, nhìn lại vấn đề) cần thêm hai điều kiện cơ bản cho thành công. Rusk cũng chỉ cho thấy việc không có những thay đổi dưới chế độ Diệm (vốn được coi là không thích hợp và chưa chín muồi) làm cho Diệm giống như một "con ngựa thua cuộc" mặc dù Mỹ có làm gì đi chăng nữa; người cấp phó của Rusk, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao George Ball, thậm chí còn tranh luận về vấn đề này mạnh mẽ hơn.
Tóm lại, điều mà tôi nhận thấy qua việc đọc các tài liệu về năm 1961 cho dự án nghiên cứu của McNamara là không phải chỉ riêng một cá nhân cố vấn dân sự và quân sự nào của Kennedy đã nói với ông ta rằng kế hoạch tăng cường cố vấn và những đơn vị hỗ trợ mà ông đã tuyên bố vào giữa tháng mười một có lẽ là phù hợp để ngăn chặn chiều hướng tình hình đang xấu đi ở miền Nam Việt Nam chỉ trong một thời gian ngắn, hãy tự mình giành lấy thành công cuối cùng.
Tốt thôi, điều đó đã trả lời cho một vấn đề. Taylor và cấp dưới của ông ta khi còn ở Sài Gòn đã không nghe và cũng không nói với Tổng thống được tin gì khác với những gì tôi đã nghe một vài tuần trước đó về tình trạng phổ biến và những triển vọng ở Việt Nam. Những tuyên bố chính thức và những tin tức, câu chuyện về nhận xét, đề xuất của họ, và về quan điểm của họ rằng các cố vấn sẽ được chấp nhận, đơn giản là một sự sai lầm. Tại sao chính phủ lại nói dối về những vấn đề vốn không quá khó giải thích. Nếu Tổng thống, bác bỏ những lời khuyên gần như bất đồng của những cộng sự thân cận - là sẽ gửi cố vấn và các đơn vị hỗ trợ nhưng không nhiều hơn mức dự kiến - thì điều đó sẽ là vô ích khi nói sự thật về những lời nhận xét thực tế mà ông ta đã nghe được về sự vô hiệu quả của chương trình này hay những đề xuất khẩn cấp mà ông đã nhận được để gửi nhiều cố vấn và binh lính sang Việt Nam hơn.
Tất cả điều này làm dấy lên một nỗi băn khoăn mới. Phải đối mặt với những đề xuất này và những sự chỉ trích, làm cách nào để Kennedy có thể thực hiện được điều đó, không nhiều hơn cũng không ít đi? Không một tài liệu nào mà tôi đọc được có thể trả lời được thách thức này; thay vào đó chúng được đặt ra một cách nghiêm trọng. Vào cùng thời điểm đó, chúng bác bỏ những diễn giải rối rắm của Schlesinger trước đây. Cái mà những tài liệu mật này chỉ ra là những lời giải thích của ông ta không phù hợp với quyết định vào năm 1961 của Kennedy cũng như của Johnson vào năm 1965 hay của Truman và Eisenhower trước đó.
Bất cứ điều gì mà mỗi Tổng thống thầm nghĩ đến thì ông ta có thể đạt được nếu quyết định tiến hành, nó có thể không chỉ đơn giản là sản phẩm của sự quan liêu hay sự lừa dối. Thực tế trong mỗi năm khủng hoảng đó - trái ngược với những năm mà lúc đó - có đầy đủ những nhà phân tích tình báo thực thụ và có cả những báo cáo về các cuộc hành quân cho Tổng thống rằng thật khó để có thể tưởng tượng là có nhiều lời nói thật hơn hay thậm chí là bi quan có thể thay đổi những sự lựa chọn của Tổng thống Liệu có thể. về sau này, rằng không có lời nói dối đối với Tổng thống nào đã ảnh hưởng đến quyết định của họ hay không?
Vì vậy vấn đề còn lại là giải thích làm thế nào và tại sao Tổng thống đi tới lựa chọn mà ông ta đưa ra. Nếu mỗi Tổng thống được báo cáo về kế hoạch leo thang rằng điều mà ông ta đang chọn lựa để thực hiện có thể không giải quyết được vấn đề, thì sau đó ông ta sẽ dựa vào cái gì? Tại sao ông ta không thực hiện nhiều hơn hay ít hơn? Hơn nữa, tại sao mỗi Tổng thống đều lừa dối công chúng và Quốc hội về cái mà ông ta đang làm ở Đông Dương và về những gì ông ta đã được báo cáo?
Quyết định cử các cố vấn mà không cử một đơn vị quân đội nào của Kennedy thực tế có thể coi như một bước đi nhỏ nếu so sánh với kế hoạch leo thang sau này của Johnson, nhưng vì tôi đã biết được nội tình từ các tài liệu đã đọc nên không một hành động nào như vậy hứa hẹn sẽ thành công. Nó cũng "không được quan tâm đúng lúc" hay thậm chí không được quan tâm - bởi bất cứ ai trong chính phủ như "là một bước tiến cần thiết cuối cùng".
Điều tương tự cũng xảy ra dưới thời Johnson. Thực tế là, với Kennedy, cũng như Johnson, chính Tổng thống là người đang lừa gạt công chúng, chứ không phải là những cấp dưới đang lừa gạt ông ta.
Kennedy đã lựa chọn việc tăng cường sự dính líu của Mỹ và đầu tư cho uy tín của người Mỹ ở Việt Nam và tái xác nhận những cam kết hoa mĩ của chúng ta - không nhiều như những gì cấp dưới của ông ta dề nghị, nhưng cũng ở một mức độ đáng kể - trong khi loại bỏ một yếu tố là lực lượng lục quân, điều mà tất cả nhân viên của ông ta miêu tả là rất cần thiết để giành thắng lợi.
Trong thực tế, cùng thời điểm đó ông ta đã loại bỏ một yếu tố khác nữa mà tất cả các cố vấn của ông ta, kể cả Rusk, cũng miêu tả như một sự sống còn là một bản cam kết đầy đủ để Cộng sản ở miền Nam Việt Nam. Tại sao lại như vậy?
Tôi nhanh chóng nhận được một sự bình xét quan trọng về sự ngược đời này của Kennedy, cũng giống như tôi đã nghĩ về nó, từ người anh của ông ta. Vào mùa thu năm 1967 tôi được mời tới đọc diễn văn tại một buổi họp mặt của các uỷ viên quản trị của các chi nhánh hãng truyền hình CBS trên cả nước. Tôi đã có một bài phát biểu dài cũng theo những chủ đề mà tôi đã đưa ra cho những nhóm cấp cao khác kể từ khi tôi trở về từ Việt Nam mùa hè năm đó: những điều không thể chối cãi về thực trạng không lối thoát ở Việt Nam, những trò lừa bịp và sự nuôi dưỡng ảo tưởng của chính phủ về sự "tiến bộ", và sự cần thiết về việc chấm dứt những dính líu của chúng ta. Vào thời điểm đó, điều đó là rõ ràng đối với tôi - cũng như hầu hết những viên chức đã phục vụ tại Việt Nam, mặc dù chưa phải là đã rõ ràng đối với toàn bộ công chúng - rằng những dự báo bi quan mà tôi đã nghe vào năm 1961 đã trở thành sự thật. Không chỉ những viên cố vấn và các đơn vị yểm trợ mà Kennedy đã gửi sang là hoàn toàn không thoả đáng, mà cả cam kết không giới hạn gửi quân đội mà ông ta đã bác bỏ và Johnson đã chấp thuận đã được chứng minh là không còn thành công nữa.
Boby Kennedy cũng lên tiếng. Dường như ông ta hết sức lo lắng về tình thế khó khăn của chúng ta mà tôi chưa được nghe từ bất cứ một quan chức nào tôi đã tiếp xúc vào mùa hè đó. Vào cuối bữa trưa, Frank Mankiewicz, thư ký báo chí của Kennedy, nói với tôi rằng Kennedy muốn nói chuyện thêm với tôi và gợi ý tôi trở về văn phòng Thượng nghị sỹ cùng ông. Trong xe Kennedy nói với tôi rằng ông ta rất thích những điều tôi nói, nó khẳng định điều ông ta nghĩ là đúng và ông ta muốn được nghe thêm.
Tôi mới chỉ gặp Bobby có một lần cách đây 3 năm, khi ông ta đang trong những ngày cuối cùng giữ chức Tổng chưởng lý lúc đó ông ta đã không gây cho tôi một ấn tượng nào, đặc biệt với tư cách là một ứng cử viên tiềm tàng cho chức vụ Bộ trưởng Ngoại giao, một chức vụ mà ông ta mong muốn sau này. Ông ta trông có vẻ rất trẻ, không tự tin lắm về bản thân mình, và có một trí nhớ tồi một cách đáng ngạc nhiên về các sự kiện quốc tế. Tôi đã phỏng vấn ông ta trong văn phòng tại Bộ Tư pháp về một nghiên cứu chính thức đã được phân loại ở mức độ mật cao mà tôi đã thực hiện về khủng hoảng về lên lửa Cuba tháng mười năm 1962. Ông ta nói một ý: "Có một điều gì đó cũng đang xảy ra trong cùng thời điểm này, rất quan trọng, nó thu hút sự chú ý của chúng ta… nó là cái gì?" ông ta nhìn lên trần, ngẫm nghĩ một lúc, sau đó nhìn thẳng vào tôi và hỏi: "Sự kiện Vienna diễn ra khi nào?"
Ông ta đã đề cập tới cuộc gặp thượng đỉnh ở Vienna với Khruschev gần một năm rưỡi trước cuộc khủng hoảng tên lửa.
Tôi nói: "Đó là vào tháng sáu năm 1961"
Ông ta nói: "Thế à!" và tiếp tục nhìn lên trần nhà nghĩ ngợi, sau đó thì dừng lại. Ông ta không có vẻ gì là xấu hổ. Tôi thầm nghĩ "Đây là một Bộ trưởng Ngoại giao ư?"
Nhưng giờ đây ông ta đã gây ấn tượng hơn nhiều, trưởng thành hơn, độc lập và tự tin vào bản thân hơn. Là chính mình trong Thượng nghị viện sau khi mất đi người anh (Kennedy bị ám sát tháng 11-1963 - ND) của mình và hiện người cha đang bị liệt, chắc hẳn ông có rất nhiều điều phải làm. Ông ta hỏi tôi về kinh nghiệm ở Việt Nam và điều gì đã dẫn tôi đi đến kết luận như tôi vừa mô tả. Tôi rất mừng vì có cơ hội nói với ông ta những gì tôi đã chứng kiến và những gì tôi nghĩ là nên làm, nhưng tôi cũng muốn hỏi ông ta về thời kỳ mà tôi phụ trách trong dự án nghiên cứu của McNamara, về việc Kennedy đưa ra quyết định năm 1961.
Tôi kể ngắn gọn với ông lý do tại sao lại chọn năm đó để nghiên cứu và giờ đây tôi lại càng băn khoăn hơn bao giờ hết bởi sự phối hợp của những quyết định mà Tổng thống đã đưa ra.
Trong khi bác bỏ việc gửi quân chiến đấu trên bộ và phải có một cam kết chính thức để giành thắng lợi, Kennedy đã bỏ ngoài tai những lời khuyên khẩn thiết của các cố vấn quân sự và quan chức dân sự cao cấp của ông. Với sự nhận thức về sau này, điều đó không được xem là ngu ngốc; đó chính là những lời khuyên tồi. Nhưng Tổng thống đã dự kiến một sự dính líu sâu của chúng ta trong khi phải đương đầu với một sự đồng thuận lớn trong đội ngũ những cố vấn của ông ta mà không có lấy một giải pháp nào khả dĩ nên ông đã bác bỏ, thực tế là không có sự chấp nhận (lời khuyên - ND) ngay lập tức, các cố gắng của chúng ta đang thất bại. Tôi đã nói với Bod là thật khó khăn để làm tiêu tan cảm giác của sự phối hợp các quyết định. Liệu ông có nhớ làm thế nào để thoát khỏi cảm giác đó không? Tôi cảm thấy không dễ dàng gì để diễn tả vấn đề bằng cách đó cho người anh của Tổng thống (tức Bod - ND), nhưng tôi biết nó có thể là cơ hội duy nhất của tôi để tìm ra câu trả lời, mà thái độ của ông ta đối với tôi đã động viên tôi nắm lấy cơ hội này.
Ông ta nghĩ về những gì tôi đã đưa ra một lúc và sau đó nói:
"Chúng ta không muốn mất Việt Nam cũng như rút ra khỏi đó. Chúng ta muốn giành chiến thắng nếu chúng ta có thể làm được điều đó. Nhưng anh tôi lại kiên quyết sẽ không gửi các đơn vị chiến đấu trên bộ nào tới Việt Nam. Ông ta nói rằng, anh ông ta đã đoán chắc nếu chúng ta làm như thế thì chúng ta sẽ ở vào hoàn cảnh giống người Pháp. Người Việt Nam bên phía chúng ta sẽ phó mặc cuộc chiến cho Mỹ, và nó sẽ trở thành cuộc chiến của chúng ta chống lại chủ nghĩa dân tộc và quyền tự quyết, cuộc chiến của người da trắng chống lại người châu Á. Đó là cuộc chiến chúng ta không thể thắng, chẳng hơn gì người Pháp trước đây".
Tôi nài ép ông ta nói thêm. Vào cuối năm 1964 và đầu năm 1965 điều đó cũng xảy ra đối với những cố vấn như thể sự dính líu của lục quân Mỹ giờ đây đã trở thành thiết yếu để tránh khỏi sự thất bại chỉ trong một thời gian ngắn. Nhưng tại thời điểm đó thậm chí sẽ còn khó hơn để rút lui hay chấp nhận thua cuộc một cách sáng suốt hơn là năm 1961. Nếu Kennedy còn sống thì ông ta sẽ làm gì?
Bobby trả lời một cách thận trọng theo cách làm cho những lời nói của ông ta trở nên đáng tin hơn: "Không ai có thể nói chắc chắn về điều mà anh tôi có thể sẽ làm trong những hoàn cảnh cụ thể năm 1964 hay 1965. Tôi không thể nói như vậy, và ngay cả anh ấy cũng không thể nói như vậy vào năm 1961. Có thể mọi việc sẽ đi theo những gì chúng đang diễn ra. Nhưng tôi biết chắc cái mà anh ấy mong đợi. Tôi chỉ có thể nói rằng anh ấy hoàn toàn không có ý định cử các đơn vị trên bộ sang".
Tôi tiếp tục đề cập đến những vấn đề hóc búa. Liệu John F. Kennedy có thực sự sẵn sàng chấp nhận thất bại, để nhìn Sài Gòn rơi vào tay Cộng sản, thay vì không gửi quân sang?
Bobby lại một lần nữa trả lời tôi với một giọng điềm tĩnh:
"Chúng ta có lẽ đã làm tình hình rối tung lên. Chúng ta có lẽ đã dựng lên một chính phủ giờ đây muốn chúng ta rút đi hoặc họ muốn có sự thoả thuận với phía bên kia. Chúng ta sẽ phải nắm chắc lấy chính phủ này giống như ở Lào".
Tại Lào, Kennedy đã bác bỏ những đòi hỏi tăng viện binh và thay vào đó là đàm phán dẫn tới chính phủ liên hiệp, bao gồm cả những người Cộng sản. Hầu hết những cộng sự của Tổng thống và chính bản thân ông ta trong những cuộc thảo luận công khai, đã luôn loại trừ khả năng đối phó với Việt Nam cũng như đối với Lào.
Nhận xét của Bobby mà tôi được nghe lần đầu tiên và đây cũng là lần duy nhất tôi được biết rằng J.K. Kennedy ấp ủ khả năng áp dụng "giải pháp đối với người Lào" cho Nam Việt Nam. Không có một bằng chứng nào về việc Lyndon Johnson hay Richard Nixon đã từng định làm như vậy. Nhưng lời tuyên bố của Bobby là hoàn toàn sự thật.
Một điều rõ ràng với tôi vào năm 1967 là ông ta đang nói đến một con đường thực tế duy nhất có thể đưa đến việc kết thúc chiến tranh. Vì thế, làm cho người ta có ý nghĩ rằng một Tổng thống Mỹ, ít nhất đã không coi thường điều này.
Nhưng điều không rõ ràng với tôi là làm thế nào Kennedy có thể thấy trước được mọi chuyện vào năm 1961, hay từ đâu ông ta đã có một cam kết cá nhân mạnh mẽ như vậy, để vạch ra đường lối chống lại việc gửi lục quân Mỹ đến Việt Nam. Bobby đã không nói rằng người anh của ông ta đã quyết định rút khỏi Việt Nam; năm 1961 ông ta chỉ đơn giản nói với tôi J.K. Kennedy muốn thế và có ý định làm điều đó hơn là gửi quân đi nếu điều đó dẫn tới chỗ dường như chỉ có hai khả năng lựa chọn trước sự thất bại có thể nhìn thấy trước của quân đội. Tôi chưa nghe thấy có người Mỹ nào - trong số những người miễn cưỡng phải rời khỏi Việt Nam, vì lý do chiến tranh lạnh - đưa ra một quan điểm đáng giá như vậy trước 1964 (mặc dù một số người, đáng kể nhất là George Ball, không hề muốn cử tới đó, thậm chí chỉ các cố vấn quân sự). Rõ ràng là không một cố vấn thân cận nào của Kennedy đồng ý với quan điểm này. Tôi còn không nghĩ đến J.K. Kennedy như là một người có những quan điểm mang đậm phong cách riêng, huống hồ lại bị người ta kết lội như thế, về vấn đề Đông Dương. Tôi hỏi, với đôi chút sỗ sàng: "Điều gì khiến ông ta trở nên thông minh như vậy?"
"Chết tiệt!", ông ta đập tay xuống mặt bàn. Tôi giật mình nhảy dựng lên trong ghế bành. "Vì chúng ta đã và đang ở đó!", ông ta lại đập bàn lần nữa. Gương mặt ông ta co rúm lại vì tức giận và đau đớn: "Chúng ta đã ở đây từ năm 1951. Chúng ta đã chứng kiến những gì xảy đến với quân Pháp… Chúng ta đã chứng kiến… Anh trai tôi đã nhấn mạnh, nhấn mạnh rằng, đừng bao giờ để những chuyện đó xảy ra với chúng ta".
Tôi đã gặp Bobby Kennedy đôi lần trong vài tháng sau đó, có lúc chúng tôi có những cuộc thảo luận khá lâu, nhưng đây là lần duy nhất tôi chứng kiến một sự bùng nổ cảm xúc ở ông ta như thế. Nó gây một ấn tượng mạnh đối với tôi. Tôi đã và vẫn sẽ tin tưởng vào ông ta, rằng anh trai ông ta đã khẳng định sẽ không bao giờ gửi quân sang Đông Dương, và rằng ông ta đã sẵn sàng chấp nhận cái gọi là "giải pháp Lào" nếu như cần thiết để tránh phải đưa quân sang. Nếu đúng như thế thì, những lời buộc tội mang tính chủ quan và thái độ sẵn sàng đã chứng tỏ John F. Kennedy là một người có quan điểm khác biệt rất có ý nghĩa đối với sự đánh cược của chúng ta và tôn trọng chiến lược đã được vạch ra ở Việt Nam từ thời các Tổng thống Lyndon Johnson và Richard Nixon, mà không một ai trong số họ chia sẻ cái cảm giác bị ép buộc cũng như sự sẵn sàng thừa nhận thất bại trong một số trường hợp nào đó. Nhưng liệu Tổng thống Kennedy, nếu không bị ám sát, có những cư xử phù hợp trước sự lên án này trong việc phải đương đầu với các cuộc khủng hoảng trong năm 1965 hay không (như em trai ông ta đã thừa nhận) lại là một vấn đề khác, và chưa thể có câu trả lời.
Sau khi nghe Bobby nói chuyện, tôi băn khoăn tự hỏi rằng điều mà họ đã mắt thấy tai nghe ở Việt Nam đã tác động đến suy nghĩ của ông ta mạnh mẽ đến như vậy. (Và đến giờ phút này nó cũng tác động đến tôi như thê). Họ đã ở đó bao lâu? Phải mất hàng năm trời trước khi tôi biết được câu trả lời.
Một hôm, tôi đã tìm ra được câu trả lời. Theo Richard Reeves, Kennedy đã ra lệnh triệu hồi Taylor và Rostow ngay trước khi họ rời Việt Nam vào tháng 10- 1961.
Kennedy đã nói với Taylor về những kinh nghiệm của ông ta, sau chuyến thăm Việt Nam vào một ngày năm 1951 trong chuyến đi vòng quanh thế giới khi ông còn là một hạ nghị sỹ trẻ tuổi. Ông ta bắt đầu chuyến thăm ngày hôm đó ở Sài Gòn bằng việc tiếp xúc với vị tổng chỉ huy của 250.000 người thuộc đội quân viễn chinh Pháp đang chiến đấu với những chiến sĩ du kích Việt Minh.
Tướng Jean de Lattre de Tassigny đã cam đoan với ông ta rằng những binh sĩ của ông ta không thể thua những người bản xứ. Và ông ta đã kết thúc ngày làm việc của mình vào buổi tối ở trên tầng cao nhất của khách sạn Caravelle với một nhân viên lãnh sự quán người Mỹ tên Edmund Gullion. Bầu trời xung quanh thành phố sáng lên bởi những trận pháo cầm canh và những cuộc oanh tạc bằng súng cối đều đặn hàng đêm của Việt Minh.
"Anh học được điều gì khi ở đây?" Kennedy hỏi nhà ngoại giao.
"Trong vòng 20 năm nữa, nơi này sẽ không còn chỗ cho những nhà thực dân", Gullion trả lời.
"Chúng ta không thể làm gì được ở đây. Người Pháp đã thua. Nếu chúng ta tới đây và làm điều tương tự như thế, chúng ta cũng sẽ thua, cũng vì một lý do tương tự. Không có sự quyết tâm cũng như sự ủng hộ cho cuộc chiến kiểu này từ phía Paris. Họ đã mất đi chỗ dựa. Điều tương tự cũng sẽ xảy đến với chúng ta".
Hỏi đúng người, đúng việc, và bạn sẽ nhanh chóng có được câu trả lời rõ ràng.
Vào mùa thu năm 1967, tôi biết được rằng Westmoreland và Hội đồng Tham mưu trưởng liên quan đã đẩy mạnh việc mở rộng cuộc chiến, điều mà McNamara đã phản đối kịch liệt. Điều chúng tôi không thể biết được là Tổng thống đứng về phe nào.
Ông thỉnh cầu công chúng tin rằng chúng ta đang tiến bộ một cách đáng hài lòng ở Việt Nam, nhưng điều đó chẳng thuyết phục được tôi, kể từ khi McNamara đã từng làm một việc tương tự như vậy. Vào giữa tháng mười, tôi đọc được một tài liệu từ một nguồn đáng tin cậy của chính quyền, đó là từ viên thư ký báo chí của Johnson, Bill Moyers. Tuyệt nhiên không có ai khác ngoài Lady Bird biết rõ về những ý định của Lyndon Johnson hơn ông ta. Những ghi chép của tôi về cuộc gặp với ông ta ngày 17-10 ở Cambridge cho thấy ông ta nhận định "rằng Tổng thống có vẻ như không chỉ tiếp tục một cách thô bạo kế hoạch cho cuộc chiến hiện nay - về những mục tiêu và chiến lược trong tương lai - cho tới kỳ bầu cử, mà còn cả sau khi bầu cử, khi biết chắc rằng mình sẽ thắng (điều mà Moyers nghĩ là sẽ chắc chắn xảy ra), ông ta có vẻ muốn chuyện hướng leo thang chiến lược của chúng ta hơn là giảm thiểu các mục tiêu của Mỹ và sử dụng những chiến thuật ít tham vọng. Ví dụ, ông ta có thể thể hiện thái độ sau đó tạo áp lực, và tìm ra cách thúc ép bản thân một cách logic để xâm chiếm miền Bắc Việt Nam. Việc đó hầu như có thể chắc chắn thực hiện theo từng giai đoạn: tiến quân thăm dò qua khu phi quân sự (DMZ), xâm chiếm một cách có giới hạn qua những con đường xâm nhập ở phía bắc DMZ, cuối cùng là đổ bộ theo kiểu Inchon".
Ai đó đã hỏi một cách hoài nghi rằng liệu có thể hiểu được một chính trị gia cỡ như Lyndon Johnson lại có thể đi lệch hướng quá xa so với mong đợi của công chúng để phục vụ cho những mục tiêu chính trị trong nước của mình không. Moyers nói rằng điều đó tuỳ thuộc vào liệu Tổng thống có tiếp tục tin tưởng nữa hay không, như ông ta đã từng khát khao thực hiện trong một năm qua hoặc nhiều năm trước đây, rằng vị trí của ông ta trong lịch sử có thể sẽ được xác định rõ bằng sự kiên định đối với cuộc xung đột ở Việt Nam. Như Moyers đã nhìn nhận, Johnson có khuynh hướng mạnh mẽ là muốn được chứng kiến vai trò của ông ta và những vấn đề sẽ được giải quyết như trong nhiệm kỳ của Truman, và tin rằng trách nhiệm của mình là thực hiện những quyết định khó khăn vì lợi ích của đất nước, và bằng mọi giá phải giành được sự ủng hộ của công chúng trong một thời gian ngắn nếu điều đó là cần thiết. Lịch sử sau này sẽ phán xét là ông ta đúng hay sai.
Quan điểm cá nhân của Moyers là thậm chí có kéo dài thêm 1, 2 năm xung đột trong bối cảnh hiện nay - với những sự mơ hồ về mặt đạo đức và hậu quả của những cuộc tranh cãi và với sự không tiến bộ hiển nhiên của bất kỳ một mục tiêu nào của Mỹ - sẽ gây ra những tổn thất không thể bù đắp được đối với sư đoàn kết, tinh thần, thể chế, sự cân bằng chính trị nội bộ của quốc gia.
Việc mở rộng chiến tranh sẽ làm cho tình hình trở nên xấu hơn, và ông ta nhận thấy điều đó đang trở thành vấn đề quan trọng nhất của Mỹ, cũng như sự thay đổi quan điểm của Tổng thống, điều mà ông ta rất không muốn hoặc là ông ta sẽ bị thay thế. Tôi hỏi ông: "Những gì ông đã nói liệu có đúng với những gì ông nghĩ không?". Ông ta trả lời một cách nhã nhặn: "Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng tình hình sẽ có thể tiến triển trong khi tôi mong đợi sự thất bại của Lyndon Johnson, và điều đó khiến những trăn trở trong đầu tôi càng trở nên đau đớn. Bây giờ tôi chỉ có thể nói rằng: "Điều đó phụ thuộc vào đối thủ hiện giờ của ông ta là ai?"
Moyers xác nhận với tôi rằng có một thực tế trong cơn ác mộng lớn nhất của tôi. Kể từ khi chúng ta tạo được uy thế bằng những cố gắng quân sự vào mùa xuân năm 1965, tôi đã lo lắng rằng nếu có bế tắc ở đó (Việt Nam) thì nó sẽ đẩy bất kỳ tổng thống nào rơi vào tình thế phải phá bỏ nó để thoát ra, để theo đuổi chiến thắng mà Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân đang hối thúc ông ta. Giờ đây, cũng như trước kia, con đường đó dẫn đến miền Bắc Việt Nam, ngay gần biên giới của Trung Quốc, và chính xác là xa hơn nữa. Đó là hy vọng ngăn chặn sự bế tắc và kết cục này đã thôi thúc tôi cố gắng tìm hiểu, có lẽ từ tướng Lansdale hoặc John Vann, cái cách để đạt được thành công mà không cần phải mở rộng chiến tranh. Cố gắng đó là một sự thất bại. Nếu như có một cách như vậy, chính phủ Mỹ cũng sẽ không cố gắng lìm ra nó kịp thời và triển khai nó.
Tôi vẫn là một chiến binh của chiến tranh lạnh đang đi tìm những bài học từ kinh nghiệm cuộc chiến tranh Việt Nam của chúng ta để có thể giúp cho Mỹ đánh bại sự nổi dậy của Cộng sản ở bất cứ đâu trên thế giới, nơi có những hoàn cảnh khác biệt và cơ hội chiến thắng của chúng ta cũng lớn hơn. Nhưng tôi cũng đã nhận thấy sự khẩn cấp trong việc tránh một sự leo thang chiến tranh cao hơn, và lời nhận xét của Moyers đối với những hành động của Tổng thống có vẻ như thích hợp hơn so với những điều tôi nghĩ. Để ngăn chặn chuyện này, tôi còn không buồn nghĩ đến việc thay một Tổng thống mới, thời gian không đủ để làm việc đó. Điều cần thiết lúc này là cảnh báo cho người dân về khả năng leo thang chiến tranh, để tạo nên một lực lượng đối lập với nó, và làm cho chiến tranh kết thúc bằng cách nào đó trước khi hoàn cảnh buộc phải dẫn đến điều đó. Tôi cần hàng năm trời để làm điều đó, tôi đã bị chi phối bởi nhận thức "Cuộc chiến này chưa kết thúc, và có vẻ như nó sẽ mở rộng hơn bây giờ rất nhiều nếu như chính sách của Tổng thống không thay đổi".
Chú thích:
(76) "Tôi tin tưởng chắc chắn rằng" - Tờ Thời báo New York, 26-10-1961.
(77) "Các quan chức nói" - Sđd, 4-11-1961.
(78) "Đây là chính sách" - Schlesinger, 39.
(79) "Mỗi bước tiến sâu hơn của Mỹ" - Sđd, 47.
(80) "Không hề chậm trễ", "đã đi đến kết luận" - Tài liệu Lầu Năm Góc, Gravel xuất bản, tập 2, tr. 90-92.
(81) "làm cán cân nghiêng" - Sđd
(82) "tự mình cam kết" - Sđd, 109.
(83) "lời cảnh báo qua một số nguồn" - Sđd, 108.
(84) "Nếu Diệm không sẵn sàng" - Sđd, 105.
Vào ngày 21-11-1967, tướng Westmoreland trong một bài phát biểu quan trọng tại Câu lạc bộ báo chí quốc gia cho rằng chúng ta đang bước vào giai đoạn thực hiện những nỗ lực cuối cùng cho cuộc chiến. Tiêu đề của bài báo đăng trên tờ Bưu điện Washington là "Westmoreland - chiến tranh đang tới hồi kết thúc"(85). Mặc dù đó là một quan điểm sai lệch nhưng tôi cho rằng ông ta tin vào điều đó. Dĩ nhiên ông ta biết rằng đó chính là thông điệp mà Johnson thực sự muốn ông ta đưa ra. Đó cũng là một thông điệp lọt tai đối với nhiều người. Thật không may cho Westmoreland, chỉ hai tháng sau tính chân thực của thông điệp đó đã bị phủ định không phải bởi giới báo chí đầy nghi hoặc mà là bởi chính những hành động của phe Việt Cộng khi họ tiến hành một cuộc tổng tiến công vào ngày 29-1-1968, ngày đầu tiên của dịp lễ Tết cổ truyền - một ngày lễ lớn của Việt Nam.
Quy mô và sự phối hợp của cuộc Tổng tiến công vào dịp Tết, gần như là tổng hợp của các cuộc tấn công xảy ra đồng thời tại hầu hết các tỉnh ở miền Nam Việt Nam cũng như ở ngay tại Sài Gòn, sẽ mãi khiến mọi người kinh ngạc. Nhưng tác động ghê gớm của cuộc Tổng tiến công Mậu Thân lên nhận thức của công chúng và thái độ của Quốc hội chỉ có thể hiểu được nếu tính đến sáu tháng dư luận căng thẳng trước đó, mà thời điểm cao trào chỉ cách đó một vài tuần.
Ngay sau khi tôi được gọi đến Washington để giúp lập một nhóm làm việc cao cấp nhằm đánh giá một cách toàn diện các lựa chọn chiến lược của phe Việt Cộng cho Clark Clifford, người sẽ thay thế McNamara làm Bộ trưởng Quốc phòng kể từ ngày 1 tháng ba (McNamara được Tổng thống Johnson "đề bạt" chức chủ tịch Ngân hàng thế giới, một kết quả hiển nhiên của bức thư bí mật McNamara gửi Johnson vào ngày 1-10-1967, khuyến cáo Tổng thống chấm dứt ném bom và tiến hành các cuộc thương lượng với Mặt trận dân tộc giải phóng và Hà Nội). Được gọi đến Washington tư cách là một chuyên gia tư vấn của Công ty Rand, một lần nữa tôi được tiếp cận với các biên bản và thông tin cấp cao lưu hành nội bộ Lầu Năm Góc.
Hiểu biết của tôi về các khuyến nghị chính sách của Hội đồng Tham mưu liên quân từ năm 1964, nhưng đặc biệt kể từ năm trước, đã khiến tôi tin rằng Wheeler và Westmoreland hẳn phải đẩy mạnh việc leo thang chiến tranh lên quy mô lớn. Mối lo ngại của tôi trở nên hiện hữu vào ngày 27-2-68 khi tôi thấy một bản báo cáo tối mật do tướng Wheeler, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu liên quân trình lên Tổng thống. Tướng Wheeler đề cập đến việc Westmoreland yêu cầu bổ sung thêm 206.000 quân, gần như giống hệt một yêu cầu mà Westmoreland đã từng nêu lên vào tháng tư năm trước. Báo cáo của Wheeler vẽ lên một bức tranh đen tối về cuộc chiến và xem biện pháp bổ sung quân như một hành động cần thiết nhằm ngăn chặn sự sụp đổ của Nam Việt Nam. Với đề nghị này của Wheeler và Westmoreland, dường như chúng ta đang đứng cận kề một vòng xoáy leo thang mới của chiến tranh, một vòng xoáy nguy hiểm nhất.
Mặc dù người ta lý giải yêu cầu của Westmoreland như hành động cứu vãn tình hình, tôi tin rằng việc tăng quân số, một quá trình đòi hỏi lệnh động viên quân dự bị, sẽ dẫn tới kết cục là chiến tranh sẽ lan rộng. Việc huy động quân dự bị và mức độ thương vong nghiêm trọng kéo dài của quân đội Mỹ sẽ khiến nhân dân và Quốc hội chia sẻ hơn nhu cầu chiến thắng bằng cách mở rộng quy mô chiến tranh của Hội đồng Tham mưu liên quân. Tôi nghi ngờ rằng lý do thực sự mà Westmoreland và Hội đồng Tham mưu muốn bổ sung quân sổ không phải để tránh thất bại mà là tiến hành việc mở rộng quy mô các chiến dịch, điều mà Westmoreland từ lâu đã cổ xuý, để bao gồm cả Campuchia, Lào và ít nhất là phía nam của Bắc Việt Nam. Ngay sau bài phát biểu tại Câu lạc bộ Báo chí Quốc gia vào tháng mười một năm 1967, Westmoreland đã có những lời tuyên bố với báo giới về đường tiếp viện qua Campuchia, những bằng chứng ủng hộ việc mở rộng chiến tranh. Hơn nữa, sau khi đối thủ bị suy yếu bởi cuộc Tổng tiến công Mậu Thân, cảc nguồn tin tại Lầu Năm Góc cho tôi biết rằng Westmoreland tin và hối thúc đây là cơ hội để tiến quân một cách quyết đoán vào Bắc Việt Nam. Tôi nghĩ sẽ có những thất bại đang chờ đợi phía trước trên con đường này.
Tôi không tin rằng quy mô của cuộc xâm lược Bắc Việt Nam sẽ chỉ giới hạn tại phía nam của nó. Thất bại trong việc chấm dứt chiến tranh sẽ dẫn tới sức ép về mặt quân sự nhằm tạo ra một cuộc đổ bộ kiểu Incheon vào khu vực gần Hải Phòng để chiếm Hà Nội và tiến hành chiến tranh trên toàn miền Bắc, nơi xuất phát "nguồn gốc của vấn đề". Nhưng lặp lại kiểu xâm chiếm của người Pháp không chỉ làm trầm trọng hơn vấn đề của chúng ta mà thậm chí còn làm tình hình tồi tệ hơn thế. Thông qua các cuộc thảo luận của tôi với các sĩ quan dưới quyền Westmoreland tại Việt Nam, tôi đã đi đến kết luận rằng ông ta còn mù mờ về sự khác nhau trong nền chính trị của miền Bắc và Nam Việt Nam.
Tại Nam Việt Nam, chúng ta không chiến đấu chống lại toàn bộ dân số. Ngay cả nếu chúng ta chống lại thì cũng chỉ với khoảng năm trăm nghìn lính Mỹ. Tại Bắc Việt Nam, chúng ta sẽ phải chiến đấu với từng người, đàn ông, phụ nữ và trẻ em. Trong tình huống đó, gần như chắc chắn rằng chúng ta phải đối mặt với sự khó khăn quân sự lớn gấp nhiều lần trước đây, khó khăn tới mức đẩy chúng ta vào thế phải bảo vệ binh lính, mà kết cục sẽ là việc sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật. Điều này gần như khó tránh khỏi nếu việc mở rộng chiến tranh tới biên giới với Trung Quốc, kéo lực lượng quân đội của Trung Quốc vào Bắc Việt Nam - một tình huống mà tôi muốn tránh bằng mọi giá. Tuy vậy, như nhận định của tôi, đó chính là hướng diễn biến của tình hình.
Trên thực tế, thách thức sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật của Mỹ có thể xuất hiện sớm hơn thời điểm trên rất nhiều, ngay tại Nam Việt Nam. Ngày 10-2-68, tờ Bưu điện Washington trích lời phát biểu của tướng Wheeler trước một vài thượng nghị sỹ rằng Hội đồng Tham mưu sẽ khuyến nghị sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật nếu thấy việc này là cần thiết để bảo vệ năm nghìn lính thuỷ đánh bộ đang bị mắc kẹt tại cứ điểm Khe Sanh, mặc dù ông ta không cho rằng lực lượng tại đây sẽ yêu cầu giúp đỡ Thượng nghị sỹ Fulbright, Uỷ ban đối ngoại Thượng viện, cùng với hai Thượng nghị sỹ Clark và Aiken, đã lên án khả năng sử dụng vũ khí hạt nhân - điều mà Thủ tướng Anh, Harold Wilson nhân chuyến thăm Washington đúng dịp diễn ra cuộc tranh luận này đã gọi là "hoàn toàn điên rồ" - sau khi Ngoại trưởng Rusk không thể loại bỏ khả năng này trong lúc trả lời chất vấn tại Thượng viện.
Tổng thống Johnson tuyên bố tại một buổi họp báo ngày 16-2-68 rằng theo hiểu biết của ông, Ngoại trưởng, Bộ trưởng Quốc phòng và Hội đồng Tham mưu "chưa hề đề cập đến" việc sử dụng vũ khí hạt nhân. Tôi biết điều này đã không phản ánh đúng sự thật. Mort Halperin làm việc cho Lầu Năm Góc từng nói với tôi rằng tại các buổi ăn trưa làm việc thứ ba hàng tuần, Ngoại trưởng, Bộ trưởng Quốc phòng, Tổng thống và tướng Wheeler thường thảo luận về chủ đề này. Tổng thống đã yêu cầu Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân phải đảm bảo tuyệt đối việc bảo vệ thành công Khe Sanh mà không cần viện tới vũ khí hạt nhân. Sau khi tham vấn tướng Westmoreland, tướng Wheeler đã không thể đưa ra sự bảo đảm đó dưới điều kiện thời tiết xấu, việc cứu viện hàng không thường gặp nhiều khó khăn.
Sau này Westmoreland viết trong hồi ký năm 1976 của ông ta rằng ông ta nhìn thấy nhiều mặt tích cực hơn của việc sử dụng vũ khí hạt nhân vào thời điểm đó tại khu vực xung quanh Khe Sanh, nơi "con số thương vong dân thường sẽ ở mức thấp nhất có thể"(86).
Nếu các quan chức của Washington tiếp tục muốn "gửi một thông điệp" tới Hà Nội thì dĩ nhiên việc sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật loại nhỏ sẽ là một cách thức để thực hiện điều đó(87)… việc sử dụng một số vũ khí hạt nhân chiến thuật loại nhỏ tại Việt Nam - hay thậm chí việc đe doạ sử dụng chúng - có thể nhanh chóng chấm dứt chiến tranh tại đây… Mặc dù tôi đã lập một nhóm nhỏ bí mật để nghiên cứu vấn đề này, Washington lo ngại việc này có thể đến tai giới truyền thông đến mức họ yêu cầu tôi phải ngừng ngay lại. Lúc đó và thậm chí cho đến bây giờ tôi cảm thấy việc bỏ qua khả năng này là một sai lầm.
Thực ra một tin đồn rò rỉ tới Uỷ ban đối ngoại Thượng viện ngày 5-2-68 về sự tồn tại của một nhóm nghiên cứu như vậy đã châm ngòi cho cuộc tranh luận trong suốt tháng hai và tháng ba tại Quốc hội và trong giới truyền thông về khả năng sử dụng vũ khí hạt nhân. Tôi không biết một cách đích xác mối quan tâm của tướng Westmoreland vào thời điểm đó; trong tình hình đó đơn giản tôi chỉ phỏng đoán mà không thể chứng minh được vấn đề Bản báo cáo của tướng Wheeler sau khi từ Việt Nam trở về vào ngày 27-2-68 cũng còn xa mới có thể minh chứng cho nhận định của tôi. Rõ ràng, khả năng quân đội Bắc Việt mở cuộc tấn công lớn vào Khe Sanh và khả năng ứng phó quyết đoán đối với tình huống đó đã chi phối tư duy của tướng Westmoreland.
Sau khi đọc bản báo cáo của Wheeler, tôi liên lạc với Frank Mankiewicz, phụ trách báo chí cho Robert Kennedy, người đã giúp tôi dàn xếp cuộc gặp hồi tháng mười trước đó giữa Robert và tôi.
Khi tôi nói với Frank rằng tôi có thông tin quan trọng dành cho Thượng nghị sỹ, ông đã thu xếp cho tôi gặp Robert tại tư gia ở McLean, tiểu bang Virginia. Vào ngày 28-2-68, tôi đưa cho Robert bản báo cáo của Wheeler và ngay lập tức ông đã đọc nó trước sự hiện diện của tôi.
Đó là lần đầu tiên tôi có thể nhớ đã đưa một văn bản mật cho một người bên ngoài ngành hành pháp, đó là chưa kể đến tài liệu tối mật chỉ dành riêng cho Tổng thống. Mặc dù vậy, trong tình huống này, tôi chỉ nghĩ đến Robert Kennedy như một trường hợp cá biệt. Tôi không nghĩ tôi sẽ tiết lộ tài liệu này cho bất kỳ một thượng nghị sỹ nào khác vào thời điểm đó. Về cơ bản tôi xem Robert Kennedy như một nhân vật của ngành hành pháp.
Với tư cách là em trai của Tổng thống John F. Kennedy, xét trên một vài phương diện, Robert chính là một trợ lý của Tổng thống. Tất nhiên ông đã có thể tiếp cận những thông tin hành pháp tương tự.
Ngay sau ngày 28-2-68, Thượng nghị sỹ Fulbright và một vài thượng nghĩ sĩ khác đã liên tục phát biểu với báo giới xung quanh những tin đồn về yêu cầu bổ sung quân với số lượng lớn của Westmoreland. Không ai đề cập đến con số cụ thể. Các thượng nghĩ sĩ cho biết bất kỳ yêu cầu nào như vậy hay một thay đổi lớn trong chính sách không thể xảy ra mà không có sự tham vấn và sự cho phép của Quốc hội. Trong ba năm rưỡi lại nay Tổng thống đã tiến hành chiến tranh trên cơ sở Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ. Trên thực tế Thượng nghị sỹ Fulbright đã cảnh báo Tổng thống không được nghĩ đến việc mở rộng chiến tranh mà không có ý kiến của Quốc hội.
Bất chấp động thái này, như Hồ sơ Lầu Năm Góc tiết lộ và như hiểu biết của tôi vào lúc đó, tất cả những tín hiệu của Lầu Năm Góc đều cho biết nhiều khả năng Tổng thống sẽ chấp thuận đề nghị của Wheeler. Người ta hy vọng rằng Bộ trưởng Quốc phòng Clifford, cuối cùng, dưới sức ép từ Westmoreland, Wheeler và có lẽ là cả Tổng thống, sẽ khuyến nghị việc chấp thuận yêu cầu bổ sung thêm quân, kể cả việc huy động lực lượng tân binh.
Nhưng sau đó vào ngày chủ nhật, mồng 10-3-68, tờ Thời báo New York đã đăng tải một bài báo nêu chính xác yêu cầu tuyển thêm 206.000 quân. Một ai đó, không phải tôi, tôi phải nói một cách đáng tiếc như vậy, đã để rò rỉ con số trên, cùng với phần lớn nội dung bản báo cáo của Wheeler và cuộc tranh luận đang diễn ra trong thâm cung Lầu Năm Góc vào lúc đó. Bài báo của Neil Sheehan và Hedrick Smith là một quả bom tấn. Sau vài ngày bày tỏ sự lo ngại về những tin đồn đại bổ sung quân kiểu như vậy, Fulbright nói thẳng rằng theo quan điểm của ông Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ không hề có một giá trị gì hết. Lần đầu tiên ông đã bày tỏ niềm tin của mình rằng Quốc hội đã thông qua nghị quyết đó một cách ép buộc do những thông tin lừa dối và rằng ông cảm thấy việc bảo trợ cho nghị quyết đó là hành động hối tiếc nhất của ông kể từ khi ông tham gia vào hệ thống công quyền.
Không khí phản đối đã không ngăn được quyết định tăng quân của Tổng thống. Tuy nhiên, rõ ràng sau vụ rò rỉ thông tin ngày 10-3-68, Johnson không thể cho phép việc triển khai quân như vậy một cách công khai mà không gây nên sự chống đối quyết liệt. Trước đó, điều này chưa gây nên vấn đề gì cho ông ta bởi vì chưa bao giờ ông ta công khai tuyên bố kế hoạch leo thang chiến tranh. Chắc hẳn ông ta đã nhận định rằng trong trường hợp này, cũng giống như các trường hợp trước đây, ông ta có thể thành công trong việc leo thang chiến tranh từng bước một, một cách bí mật và người ta không thể biết mức độ của sự leo thang có thể đến đâu. Việc rò rỉ thông tin về yêu cầu bổ sung lượng quân 206.000 là dấu hiệu đầu tiên cho thấy ông ta không thể "ém" vấn đề này một lần nữa.
Thoạt tiên tôi rất ngạc nhiên vì cú sốc mà vụ rò rỉ thông tin đã gây ra cho các nghị sỹ và phản ứng của họ đã làm tôi bối rối.
Yêu cầu bổ sung quân số này gần giống như yêu cầu mà Westmoreland đã đưa ra vào tháng 5-1967 và với mức độ cũng gần tương tự như thế. Vậy điều gì đã khiến người ta giật mình đến như vậy? Ngay lập tức một ý nghĩ lướt qua đầu tôi rằng trên thực tế công chúng chưa bao giờ nghe nói đến một yêu cầu "người thực việc thực" như thế bao giờ cả. Tất cả những yêu cầu trước đây đều được giữ kín. Về mặt công khai, người ta luôn phủ nhận sự tồn tại của những yêu cầu như vậy và Tổng thống thường phải nói dối để che đậy. Tướng Westmoreland một cách không công khai đã khẳng định những lời nói dối đó. Ông ta chưa bao giờ tiết lộ rằng yêu cầu quân số của ông ta là lớn hơn mức mà Tổng thống công bố. Khi Johnson tuyên bố vào tháng Năm rằng Westmoreland chỉ yêu cầu mức dưới 40.000 quân, ông ta yên tâm rằng dư luận nói chung sẽ không phát hiện điều gì khuất tắt với vị tổng tư lệnh của họ.
Trong bối cảnh sự kiện Tết Mậu Thân, Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân hiển nhiên sẽ gây sức ép buộc Tổng thống tuyên bố tăng cường cam kết, một hành động tăng quân số mà chắc chắn sẽ đòi hỏi cả việc động viên lực lượng quân dự bị. Tuy nhiên nhìn chung Quốc hội cho rằng đó chỉ là một cơ hội chính trị vì ai cũng có thể giúp Johnson để đưa ra một tuyên bố như vậy Tuy nhiên, ông ta đã có một giải pháp thay thế khá tin cậy.
Một lần nữa ông ta có thể che giấu quy mô của yêu cầu tăng quân và mức độ đáp ứng của ông ta. Tất cả những kinh nghiệm trước đây đã mách bảo với tôi rằng đó chính là điều mà tôi nghĩ
Tổng thống sẽ thực hiện. Tôi muốn ngăn cản ông. Tôi lo sợ rằng mỗi khi Tổng thống gửi thêm quân và động viên lực lượng dự bị, công luận và Quốc hội sẽ yêu cầu một cuộc tấn công tổng lực chống lại miền Bắc, cho tới tận và thậm chí vượt sang cả biên giới với Trung Quốc, vừa để "bảo vệ lực lượng" và để biện minh cho hành động tăng quân bằng một chiến thắng. Đó là điều mà Hội đồng Tham mưu trông đợi. Tôi chắc rằng đó là lý do chính Hội đồng muốn tăng cường lực lượng kể từ năm 1965 và tôi nghĩ sự trông đợi đó là hợp lý. Liệu một trong các thành viên của Hội đồng có thực sự muốn chiến tranh với Trung Quốc và sử dụng vũ khí hạt nhân hay không thì cho đến nay tôi vẫn chưa có câu trả lời. Điều này thực sự là một mối nguy.
Tác động đáng ngạc nhiên của vụ tiết lộ thông tin trái phép về yêu cầu tăng cường quân số - vào lúc đó là một trong những bí mật cao nhất của chính quyền - đột nhiên đã làm tôi thức tỉnh về trách nhiệm của tôi với tư cách là một công dân. Cho đến giờ phút đó tôi vẫn chưa bao giờ nghĩ đến chuyện tiết lộ thông tin mật cho Quốc hội và càng ít nghĩ đến khả năng tiết lộ thông tin cho công luận thông qua báo giới. Tôi chỉ mới "nhúng chàm" một chút thôi với việc cung cấp thông tin tối mật về bản báo cáo của Wheeler cho Robert Kennedy, nhưng theo nhận thức của tôi đó không phải là một hành động tiết lộ. Tôi chỉ xem nó như việc cung cấp thông tin cho một người đã từng và có thể sẽ là một quan chức cấp cao trong ngành hành pháp.
Khi tôi tiếp tục theo dõi tác động của vụ rò rỉ thông tin này, tôi chợt thấy bầu trời như quang ra sau những dám mây tan. Tôi nhận ra một điều hệ trọng rằng: khả năng của Tổng thống trong việc cho chiến tranh leo thang, toàn bộ chiến lược của ông ta dành cho cuộc chiến đã phụ thuộc vào việc che giấu, nói dối thông tin và do đó tuỳ thuộc vào khả năng của ông ta trong việc ngăn chặn việc tiết lộ thông tin không được phép - hành động nói lên sự thật - của các quan chức. Điều này không hoàn toàn có nghĩa là ông ta đã không hề triển khai toàn bộ các kế hoạch chiến tranh một cách công khai hay ông ta không có khả năng thực hiện điều đó. Tuy nhiên thực tế là ông ta chưa bao giờ quyết định xem xét khả năng này, và giờ đây sau vụ Tết Mậu Thân người ta bắt đầu nghi ngờ ông ta sẽ cho sự thật một cơ hội.
Trong hoàn cảnh này, ý tưởng về yêu cầu tăng quân số trong nội bộ miền Nam Việt Nam, lựa chọn của tướng Westmoreland trong quá trình giải trình yêu cầu tăng quân, sẽ tỏ ra khó chấp nhận đối với công luận và Quốc hội đến mức Johnson lại phải sử dụng chiêu bài che đậy và nói dối nếu cấp dưới yêu cầu ông ta như vậy. Điều này đồng nghĩa với việc ông ta phải nhờ cậy vào đội ngũ cộng sự dưới quyền, những người có thông tin, giữ tất cả những bí mật và che đậy những lời nói dối của ông ta trước Quốc hội. Kinh nghiệm trong vòng ba năm qua cho phép ông ta sự tự tin để thực hiện chỉ có điều ấy.
Lẽ ra đã có nhiều sự trợ giúp hơn dành cho việc tăng cường quân số nếu ông ta hay Hội đồng Tham mưu liên quân công khai đề xuất ý kiến mà trước đây Westmoreland đã từng chủ trương: một chiến lược chiến tranh hoàn toàn mới cho phép quân đội có thể giành được chiến thắng. Nhưng ngay cả điều đó cũng sẽ dẫn tới những cuộc tranh cãi căng thẳng và cuối cùng sẽ đối mặt với khả năng bị bác bỏ. Hội đồng Tham mưu muốn đạt tới điều này dưới hình thức một quyết định đã rồi của Tổng thống sau khi có sự tăng quân mà một phần thông tin về quy mô thực tế của nó đã được che đậy như thường lệ. Mức độ ngạc nhiên của công luận và Quốc hội khi họ vừa biết đến quy mô của việc tăng quân lần đầu tiên đã khiến tôi tập trung vào tấm màn mỏng thông tin - tuy hầu như không thể xuyên thủng - ngăn cách ngành hành pháp và lập pháp. Tôi đã chứng kiến nhiều năm nay khả năng nói dối dễ dàng của Tổng thống về các chính sách của ông ta với nhận định chắc chắn rằng những lời nói dối đó sẽ không bị bóc trần. Nhận định đó đúng hay không tuỳ thuộc vào mức độ trung thành của hạ cấp đối với cấp trên, đối với nghề nghiệp của họ, đối với hiệu năng lời thề và cam kết giữ bí mật của họ, không kể đó là bí mật gì và tác động của việc giấu thông tin sẽ như thế nào.
Tất nhiên có những tình huống, chẳng hạn như đàm phán ngoại giao, một số nguồn và biện pháp thu thập thông tin tình báo nhất định hay các bí mật khác nhau về tác chiến với thời gian tính nhạy cảm đòi hỏi việc đảm bảo bí mật khắt khe. Nhưng điều mà tôi chợt nhận ra là có những thời điểm việc Tổng thống quá tự tin về khả năng giữ bí mật sẽ rất nguy hiểm. Sự tự tin đó sẽ khuyến khích ông ta bắt đầu tham gia bí mật vào một quá trình mà về sau ông ta không còn có khả năng kiểm soát, một sai lầm chết người mà lẽ ra có thể tránh được bằng những cuộc tranh luận công khai. Tháng 8-1964 là một khoảng thời gian, giống như tháng ba hay tháng bảy năm 1965, đã khiến tôi nhìn nhận vấn đề với con mắt hoàn toàn khác., Tôi chưa bao giờ nêu câu hỏi xung quanh nhận định của nhiều sinh viên về quyền lực của Tổng thống rằng bí mật đóng vai trò sống còn đối với các lựa chọn chính sách của Tổng thống.
Nhưng giờ đây tôi hiểu ra hệ thống thông tin bí mật và nói dối chỉ đem đến cho ông những lựa chọn mà ông sẽ thực hiện tốt hơn trong điều kiện không có hệ thống đó hay ít ra nó cũng gây nên định kiến nguy hiểm cho Tổng thống khi ông ta quyết định một vấn đề gì đó. Sở dĩ nguy hiểm là vì Tổng thống sẽ khó khăn hơn trong việc chống lại sức ép từ giới quân đội. Che giấn thông tin khỏi công luận sẽ chống lại sức ép ngược từ hướng đó. Che giấu thông tin cũng sẽ tạo điều kiện cho Hội đồng Tham mưu đạt được phần nào mục đích trong khi không gây rắc rối cho Tổng thống về mặt chính trị nội bộ. Do đó Tổng thống có thể sẽ cảm thấy sức ép phải thuận theo ít nhất một phần yêu cầu của Hội đồng Tham mưu. Trên thực tế ông ta lo ngại rằng nếu ông ta không đáp ứng yêu cầu của họ, họ sẽ tiết lộ yêu cầu đó cho phái diều hâu trong Quốc hội và gây phiền toái cho bản thân ông ta ở mặt trận trong nước. Đây là điều mà một Tổng thống thường vẫn lo ngại (đặc biệt là Johnson vì một lý do nào đó): bị buộc tội hèn nhát, nhu nhược hay thiếu quyết đoán trong việc thực thi điều mà quân đội cho rằng cần phải thực hiện. Do vậy Tổng thống thường có động cơ mạnh mẽ khi đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của Hội đồng Tham mưu, hy vọng rằng ông ta sẽ được "lại quả" nhiều hơn thế khi uý lạo được giới chức quân sự. Đó cũng chính là điều mà tôi chứng kiến Johnson làm vào tháng 7-1965.
Giờ đây tôi đang đối mặt với bóng ma của một tiến trình leo thang rất hiện hữu, rất cận kề dưới chiêu bài kêu gọi tăng quân số của Westmoreland. Tôi rất muốn loại ra khỏi danh sách các lựa chọn của Tổng thống một lựa chọn mà kinh nghiệm và thiên hướng trong quá khứ thường dẫn tới hành động của Tổng thống: tuân thủ một phần hay toàn bộ lời đề nghị, dưới vỏ bọc bí mật và dối trá. Tôi muốn ông ta thức tỉnh trước một thực tế mới, ông ta cần nhận thức rằng ông ta đã đánh mất khả năng giữ bí mật từ công luận Mỹ.
Tôi vẫn chưa biết ai là người tiết lộ con số 206.000. Có thể ai đó đã nhỡ miệng. Có thể đó là từ một chính khách có quan điểm diều hâu, người ủng hộ yêu cầu tăng cường lực lượng, hay từ một ai đó chống lại việc này. Dù trong trường hợp nào đi nữa, người anh hùng này, nhà ái quốc này hay có thể chỉ là một người bất cẩn cũng đã giúp tôi "khai sáng". Trước đây, tôi đã chấp nhận đạo đức nghề nghiệp theo cảm quan, nghĩ rằng tiết lộ thông tin luôn luôn là điều xấu, là sự phản bội, hay nhẹ nhất cũng là một điều không mấy lành mạnh. Tôi đã sai. Rõ ràng việc tiết lộ thông tin cũng có thể là một cử chỉ ái quốc, một hành vi mang tính xây dựng.
Tuy nhiên, mục đích tôi nghĩ vào lúc đó không chỉ là thông báo cho Quốc hội biết điều đã xảy ra. Suy nghĩ của tôi là bóc trần và đảo ngược quy trình nói dối của Tổng thống về chính sách chiến tranh. Mục tiêu cuối cùng của việc rò rỉ thông tin, theo như tôi hình dung, không phải là Quốc hội, mà là chính bản thân Tổng thống hoặc đội ngũ cố vấn, những người có thể đưa ra một kết luận hợp lý và trình lên để Tổng thống biết. Thông tin thích hợp dành cho Tổng thống nhất định là phải có một ai đó cao cấp trong chính quyền có khả năng tiếp cận tới thông tin mật sẵn sàng cho Quốc hội biết về những vấn đề hệ trọng. Đó có thể là một người trong Bộ Quốc phòng hay một cơ quan khác, một người vượt qua lằn ranh của giới tuyến và từ bỏ thái độ khư khư cố thủ về nghề nghiệp.
Suy nghĩ trong đầu của tôi vào lúc đó khá đơn giản: vào một ngày nào đó tiết lộ thông tin về một bí mật đặc biệt, một bí mật cho thấy mức độ tiếp cận thông tin ở cấp cao. Như vậy, nội dung thông tin tiết lộ sẽ kém quan trọng hơn so với bản thân hành động đó. Ý nghĩa đích thực của việc tiết lộ sẽ rõ rành rành đối với Tổng thống: bất kỳ khi nào ông ta đưa ra quyết định cung cấp hầu hết hay toàn bộ số quân mà Westmoreland yêu cầu, ngay lập tức toàn công luận sẽ biết đến việc này.
Giữa tháng ba, lần đầu tiên tôi tới toà soạn để trao các báo cáo và điện mật cho một nhà báo. Tôi chọn Neil Shechan, phóng viên đưa tin về Lầu Năm Góc cho tờ Thời báo New York.
Tôi trao cho anh ta những tài liệu mật và tối mật mà nhóm công tác giải quyết yêu cầu của Westmoreland đã có trong tay. Tôi biết điều này sẽ thu hẹp phạm vi tìm kiếm nguồn cung cấp thông tin rò rỉ và quá trình điều tra sẽ dễ dàng lần đến tôi. Nhưng tôi muốn Nhà Trắng suy luận được rằng cho dù ai là người cung cấp những thông tin này thì gần như chắc chắn người đó biết được quyết định của Tổng thống về yêu cầu tăng quân số.
Kết quả đầu tiên cho kế hoạch của tôi là một bài báo đăng trên tờ Thời báo New York do Shechan viết số ngày 19 tháng ba, số ở Washington thì đề ngày trước đó. Tiêu đề của bài báo là: "Nước Mỹ chưa đánh giá đúng mức sức mạnh của kẻ thù trước tổng tiến công. CIA cho biết lực lượng kẻ thù lớn hơn nhiều so với ước lượng của thông tin tình báo, con số chênh lệch là từ 50.000 đến 100.000".
Điều này gợi lại cuộc chiến giữa CIA và MACV sáu tháng trước đó về vấn đề MACV bị loại ra khỏi quy trình lên kế hoạch chiến tranh, trong đó có việc đánh giá sức mạnh của kẻ thù trên các phương diện tổ chức bộ máy chính trị và lực lượng không chính quy. Sau cuộc tổng tiến công Tết Mậu Thân một cuộc tấn công chủ yếu xảy ra tại các thành phố bởi chính những lực lượng mà Westmoreland đã loại ra khỏi danh mục thống kê sức mạnh của kẻ thù, CIA đã từ bỏ sự thoả hiệp hành chính với MACV. CIA đã cộng thêm khoảng vài trăm nghìn quân trong đánh giá tổng lực của đối thủ. Chính báo cáo của CIA đã gây nên sự mâu thuẫn ngay chính từ bên trong hệ thống với tuyên bố nguỵ tạo do Westmoreland đưa ra tại Câu lạc bộ báo chí quốc gia rằng sức mạnh của quân thù đã di xuống từ năm 1967.
Bài báo của Sheehan là vô cùng chi tiết và có thể làm một độc giả bình thường bị rối. Nhưng câu kết thì hết sức mạch lạc: Westmoreland hoặc đã chủ ý hướng dẫn sai dư luận hoặc đã xảo quyệt một cách nguy hiểm với các tuyên bố công khai của ông ta trước cuộc tổng tiến công. Tôi muốn chuyển tới những độc giả trong Nhà Trắng một thông điệp rằng các phóng viên của tờ Thời báo viết bài báo đó đã lấy nguồn trực tiếp từ những tài liệu dành cho cấp cao trong nội bộ chính quyền.
Thông điệp đó đã tới đích. Vào ngày bài báo được đăng tải, Bộ trưởng Quốc phòng Clifford nhận một công văn tối mật từ Richard Steadman, phó trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng (phần in nghiêng do tác giả tự thêm vào):
Con số về sức mạnh của kẻ thù đăng trên tờ Thời báo New York vào sáng nay hoàn toàn trùng khớp với con số trên hai cột cuối cùng của bảng biểu kèm theo với ký hiệu Tối mật, Nofom (không để người ngoại quốc xem). Con số của CIA được trích từ một biên bản ngày 1 tháng ba chuẩn bị một phần cho công tác đánh giá tình hình tại Việt Nam. Tài liệu này (kèm theo) được ký hiệu Mật. Cột cuối cùng được thêm vào để chứng minh tính chính xác của số liệu mà Sheehan trích từ tài liệu của cơ quan Đánh giá tình báo quốc gia (NIE). Tài liệu này mang ký hiệu Tối mật. Đâu đó trong chính phủ chắc chắn phải có một sự vi phạm quy chế an ninh với mức độ đặc biệt nghiêm trọng, và tôi tin rằng cần phải điều tra, truy tố vụ này nếu thấy thích hợp.
Ngày tiếp theo, 20-3-68, một bài báo nữa được đăng, dựa trên cùng những thông tin mà tôi đã trao cho Sheehan với hàng đề tác giả là Charles Mohr và hàng đề nơi viết là Sài Gòn.
Bài báo này có tác dụng khắc sâu thêm ấn tượng về tình trạng rò rỉ thông tin ở khắp mọi nơi. Bài báo này đề cập đến những con số mới và đánh giá mới.
Sau đó, vào ngày thứ năm, 21-3, Shechan tiếp tục công bố một bài báo khác, còn số ở Washington thì đề ngày là 20-3. Bài báo bắt đầu như sau:
Trong một báo cáo cuối năm trình 29 ngày trước cuộc Tổng tiến công của phe Cộng sản vào các thành phố và thị xã lớn ở miền Nam, tướng William C. Westmoreland dự đoán rằng những thắng lợi của quân đội đồng minh của năm trước sẽ nhân lên nhiều lần vào năm 1968. Tư lệnh quân đội tại miền Nam Việt Nam đã gửi báo cáo này về Washington vào ngày 1 tháng giêng.
Tờ Thời báo New York đã có được những đoạn trích của báo cáo này từ một tài liệu mật. Những đoạn trích này cho thấy quân đội Mỹ không chỉ không dự báo được cuộc tổng tiến công mà còn không hình dung được khả năng thất bại với quy mô đến như vậy do các cuộc tấn công của kẻ thù gây nên vào ngày Tết, ngày lễ năm mới âm lịch.
Nội dung chính của báo cáo Westmoreland mà Sheehan đã trích trực tiếp (từ bản viết tay mà tôi đã đưa cho anh ta) gồm việc "huỷ diệt và trung lập hoá" các căn cứ địch tại Nam Việt Nam nhất định sẽ "buộc chúng phải trông cậy nhiều hơn vào các thánh địa tại Campuchia, Lào và Bắc phần khu vực phi quân sự DMZ". Nhưng bài báo tiếp tục như sau: "Tuy nhiên kể từ thời điểm đó, các chuyên gia tình báo Mỹ đã kết luận rằng các cuộc tấn công xuất phát từ các căn cứ ngay tại Nam Việt Nam vào các thành phố và thị xã lớn đang ngày càng tăng lên". Shechan viết tiếp dự báo của Westmoreland "rõ ràng đã phản ánh niềm tin mà ông ta đã bày tỏ trong chuyện trở về Mỹ vào tháng mười một rằng sức ép quân đội đồng minh đã khiến kẻ thù phải bỏ chạy khỏi các khu vực tập trung dân cư lớn và hoá giải khả năng của kẻ thù trong việc tổ chức các cuộc tấn công lớn xuất phát từ căn cứ ngay tại Nam Việt Nam. Ông ta khẳng định rằng kẻ thù chỉ có thể tổ chức các cuộc tấn công ở khu vực biên giới từ những căn cứ dọc theo biên giới Campuchia, Lào và Bắc Việt Nam".
Lời khẳng định trên của Westmoreland đối với Tổng thống (và trước đó với Câu lạc bộ báo chí) mang hàm ý vượt lên cả thành công của ông ta tại Nam Việt Nam. Ông ta đang làm nổi bật hơn tầm quan trọng của việc bổ sung quân nhằm tạo điều kiện cho các lực lượng vượt qua những.biên giới đó để tiến vào đất Campuchia, Lào và Bắc Việt Nam. Bức thông điệp chính mà ông ta muốn đưa ra là chúng ta đã đuổi đánh quân địch ra tận biên giới và chúng ta cần truy đuổi chúng ngay cả bên ngoài biên giới. Đó chính xác là những gì mà Westmoreland đã bí mật khuyến nghị vào thời điểm đó. Tất nhiên vào lúc này, ngày càng có nhiều dấu hiệu cho thấy đối thủ đã tổ chức các chiến dịch như vậy nhằm lôi kéo các lực lượng của Westmoreland ra khỏi các khu vực đông dân cư sinh sống để họ có thể tiếp cận mục tiêu dễ dàng hơn.
Những đoạn trích từ bản báo cáo cuối năm có tính chất bảo đảm của Westmoreland đối với Tổng thống đã được đăng trên tờ Thời báo số buổi sáng ngày 21-3. Tối hôm đó tướng Wheeler được Nhà Trắng thông báo bất ngờ rằng Westmoreland sẽ rời khỏi Việt Nam để đảm nhiệm vị trí Tham mưu trưởng lục quân. Johnson đưa ra tuyên bố về việc này vào ngày hôm sau, ngày 22-3. Ngày 23-3, Wheeler bay đến gặp Westmoreland và nói với ông ta rằng sẽ không có lệnh động viên và không có thay đổi trong chiến lược mở rộng chiến tranh.
Ngày 25-3, Tổng thống Johnson phát biểu tại một cuộc gặp mặt tại Nhà Trắng của các cựu quan chức, những "nhà thông thái": Tình hình tài chính của chúng ta đang trở nên tồi tệ (88)… Ba tuần qua đã chứng kiến một tâm lý hoảng loạn mà nguyên nhân là bản báo cáo của Ted Kennedy về nạn tham nhũng và tình trạng chẳng tốt đẹp gì của Quân đội Việt Nam cộng hoà cũng như chính phủ của nó và giờ đây là yêu cầu 206.000 quân và một lệnh tổng động viên lên tới 400.000 của Westmoreland. Chi phí cho lệnh tổng động viên này là 15 tỷ đô la, làm thiệt hại tới giá trị của đồng đô la và vàng. Vụ rò rỉ thông tin với tờ Thời báo New York đã làm thương tổn chúng ta. Đất nước đang nao núng. Tôi sẽ phải chịu tỷ lệ ý kiến không tán thành áp đảo trong các cuộc thăm dò dư luận và bỏ phiếu. Tôi sẽ trôi theo dòng nước rút. Tôi sẽ bị cuốn phăng đi mà không có đồng minh hay quân đội hỗ trợ… Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu họ phế bỏ Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ. Thượng nghị sỹ Russell muốn chúng ta tham chiến và giành lấy Hải Phòng. Thượng nghị sỹ Eugene McCarthy và Kennedy và cánh tả đều có đặc tình trong các bộ. Tờ Thời báo và tờ Bưu điện đang chống lại chúng ta. Hầu hết báo chí đều chống lại chúng ta. Chúng ta sẽ hoàn thành công việc này như thế nào? Trong năm bầu cử chúng ta cần nhiều tiền hơn, nhiều thuế hơn, nhiều quân số hơn, đồng thời phải giảm chi tiêu. Bởi vậy, tôi vẫn không thể nói với cử tri điều họ mong đợi. Chúng ta không giành được sự ủng hộ cho cuộc chiến. Tất cả những điều này là đều do lời đề nghị 206.000 quân, vụ rò rỉ thông tin, Teddy Kennedy và Bobby Kennedy gây ra. Lẽ ra tôi đã phải trao cho Westmoreland 206.000 quân nếu ông ta nói ông ta cần họ và nếu chúng ta có thể có được số quân đó.
Thứ ba, ngày 2-4-1968, tôi ăn trưa ở Princeton cùng với các đại biểu tham dự Hội thảo "Nước Mỹ trong một thế giới cách mạng". Điều kỳ lạ là cuộc hội thảo này do trường Woodrow Wilson, Đại học Princeton và Uỷ ban Hành lễ Những người bạn Mỹ (AFSC) tài trợ. Hầu hết những người ngồi cùng bàn với tôi đều nhận tài trợ từ AFSC, chỉ cần nhìn vào bề ngoài của họ và những câu chuyện họ kể thì biết. Họ là những nhà hoạt động đầu tiên mà tôi từng gặp kể từ phong trào chống vũ khí hạt nhân trong những năm 50 và phong trào quyền dân sự và phản đối chiến tranh trong những năm 60. Nhiều người trong số họ đã bị bỏ tù nhiều lần vì những hành động gây rối hay chống quân dịch đi Triều Tiên hay Chiến tranh thế giới II.
Cuộc sống của họ và của tôi có một điểm song song và giao thoa chẳng giống ai. Giống như tôi, họ căm ghét vũ khí hạt nhân.
Nhưng một vài người vào giữa những năm 50 đã đi tới tận vùng biển cấm Bikini trên con thuyền "Nguyên tắc vàng" để phản đối việc thử nghiệm vũ khí hạt nhân. Một vài năm sau tôi tham gia vào các kế hoạch chiến tranh hạt nhân, hy vọng sẽ cầm cự được một cuộc tấn công hạt nhân bất ngờ của Liên Xô trong giai đoạn mà người ta cho là có khoảng cách về tiềm lực tên lửa.
Giờ đây tất cả chúng tôi đều chống chiến tranh Việt Nam.
Ai mà không chống chiến tranh cơ chứ, vào thời điểm tháng 4 năm 1968? Bod Eaton và những người khác cùng ngồi tại bàn này, noi gương tàu "Nguyên tắc vàng" đã đi trên một con tàu tương tự mang tên Phượng Hoàng tới cảng Hải Phòng ở miền Bắc Việt Nam chở đầy thuốc men. Từ đó họ đã đi xuống phía Nam Việt Nam, để rồi con tàu bị xua đuổi, đúng vào lúc tôi đang làm việc tại Đại sứ quán ở Sài Gòn. Thật tuyệt vời khi giờ đây tôi lại thấy mình ngồi cùng một bàn với họ.
Về nội dung của cuộc hội thảo, có thể kết luận rằng họ đồng cảm với nhiều sự nghiệp cách mạng. Mối quan tâm của tôi đối với cuộc hội thảo bắt đầu từ công việc trước đây và hiện nay của tôi về việc chặn đứng hay đánh bại các cuộc cách mạng do phe Cộng sản lãnh đạo. Trên thực tế tôi là một người chống cách mạng chuyên nghiệp.
Tôi đã học việc về kỹ năng này tại Lầu Năm Góc trong khoảng thời gian 1964-1965. Sau đó trong vòng hai năm ở Việt Nam tôi tập trung vào "bình định hoá", một công việc lẽ ra cần được định nghĩa bởi các quan chức Mỹ, mặc dù trên thực tế chẳng có định nghĩa nào, như là hành động chống cách mạng ở vùng nông thôn. Chỉ một tháng trước cuộc hội thảo ở Princeton, cuộc Tổng tiến công Mậu Thân cho thấy tất cả những gì mà đồng nghiệp của tôi và tôi làm đều thất bại. Điều này không làm tôi ngạc nhiên. Đề tài nghiên cứu của tôi tại Rand vào thời điểm này là "Bài học về các lực lượng nổi loạn và nổi dậy" và cũng chẳng giấu gì khi tôi tìm hiểu vấn đề này hoàn toàn dựa trên những bài học rút ra từ sự thất bại trên. Tôi cũng không hy vọng áp dụng những bài học này nhằm đem lại hiệu quả lớn hơn mà không phải ngăn chặn việc leo thang và đưa chúng ta ra khỏi cuộc xung đột đó. Kể từ lúc tôi quay lại Mỹ vào mùa hè năm 1967, cuộc kháng chiến giành độc lập của người Việt Nam là một cuộc cách mạng mà tôi không hề muốn đất nước tôi phải cố gắng đương đầu nữa. Cuộc Tổng tiến công đã khẳng định một chân lý đơn giản nhưng ngoạn mục về hầu hết những gì mà tôi đã báo cáo lên cho chính phủ kể từ khi tôi trở về. Cuộc chiến là một sự bế tắc không hồi kết, vô vọng và đẫm máu.
Dường như cuối cùng Tổng thống cũng thấu hiểu bức thông điệp này. Chỉ hai đêm trước đó vào ngày chủ nhật, 31-3-1968, trong lúc đang chuẩn bị hành lý để đi dự Hội thảo tại Princeton, tôi theo dõi Johnson phát biểu trên truyền hình trước toàn thể dân chúng rằng ông ta đang cho ngừng lại việc ném bom miền Bắc và kêu gọi đàm phán. Ông ta cũng thông báo rằng ông ta sẽ không tranh cử Tổng thống nhiệm kỳ hai. Giờ đây tại Princeton, Tom Hayden, nhà sáng lập tổ chức Sinh viên vì một xã hội dân chủ và một trong những phát ngôn viên chính của tổ chức này, thông báo: "Chúng ta vừa lật đổ một Tổng thống hay ít ra cũng đã tiến rất gần tới ngưỡng đó vì hệ thống chúng ta cho phép điều này. Chúng ta đã kết thúc một cuộc chiến".
"Chúng ta", Hayden hẳn đã không có tên tôi trong đầu. Tuy vậy cũng giống như bất kỳ ai khác tôi muốn tin rằng cuộc chiến đã qua đi (nó vẫn chưa và sẽ chưa; Hayden đã sai về nhận định đó. Về khía cạnh này thì Lyndon Johnson cũng chưa thấu hiểu bức thông điệp). Với việc tiết lộ thông tin tài liệu tối mật một vài tuần trước cuộc gặp gỡ với những nhà hoạt động hoà bình phong phú về nguồn gốc này, tôi ý thức mình có nguy cơ bị bắt hay bỏ tù hoặc khả năng lớn nhất mà tôi nghĩ là bị tước quyền tiếp cận thông tin và kết thúc sự nghiệp của mình với một cách hoàn toàn khác với hành động gây mất trật tự của những người bạn đang ở trước mặt tôi. Chắc chắn tôi không tư duy việc mình làm trên những khía cạnh đó. Tôi không chắc rằng thậm chí tôi đã nghe thấy những điều đó hay chưa. Nhưng vì những điều mà tôi sắp sửa được nghe, nhìn lại, tôi nhận thấy mình đã có một thái độ sẵn sàng khác thường.
Một người phụ nữ trẻ đang ngồi gần như đối diện bên kia bàn. Đến từ Ấn Độ, cô ấy khoác một bộ san (áo quấn của phụ nữ Ấn Độ), nước da màu sẫm, gần như đen. Trên trán của cô ấy có một chấm đỏ. Cô ấy đang nói chuyện bằng một giọng du dương với một vài người bạn ngồi bên cạnh tôi. Tôi không muốn nhìn chằm chằm vào cô ấy và cũng không cố gắng nghe câu chuyện của cô ấy. Sau đó, trong một khoảng im lặng giữa chúng tôi, khi cô ấy đáp lại bình luận của ai đó về khái niệm "kẻ thù", tôi nghe cô ấy nói: "Tôi đến từ một nền văn hoá không dung nạp ý niệm "kẻ thù".
Một tuyên bố lạ tai. Khó hiểu. Không có khái niệm "kẻ thù"? Thế còn các khái niệm mặt trời, mặt trăng, bạn bè, nước?
Tôi đến từ một nền văn hoá mà khái niệm kẻ thù chiếm vị trí trung tâm, dường như không thể thiếu được, văn hoá của Rand, thuỷ quân lục chiến Mỹ, Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng, chính trị đối ngoại, chính trị đối nội, lý thuyết trò chơi, lý thuyết mặc cả Nhận diện kẻ thù, hiểu và dự đoán hành vi của họ để chiến đấu và kiểm soát họ tốt hơn, phân tích mối quan hệ của kẻ thù vô hình: Tất cả những điều này trong nhiều năm là bánh mỳ với bơ hàng ngày của tôi, một phần của không khí mà tôi thở. Để cố gắng hoạt động trong một thế giới con người và những quốc gia mà không có khái niệm kẻ thù dường như quá khó khăn, gần như không thể hiểu được, nó giống như thực hiện phép tính của người La Mã mà không cần đến con số không.
Nếu câu nhận xét bị nghe lỏm của cô ấy xuất phát từ một người ít đáng chú hơn, có thể tôi sẽ phải bối rối một lúc và sau đó để vấn đề trôi đi. Nhưng cô ấy… đẹp và lối kể chuyện của cô ấy gần như hát, bởi vậy thay vì đó tôi say sưa nhìn cô ấy và hỏi: "Ý cô là gì?"
Cô ấy đã trả lời tôi một cách ngắn gọn. Điều cô nói đã cuốn hút tôi. Tôi muốn cô ấy nói nhiều hơn. Chúng tôi hẹn nhau vào sáng hôm sau. Sau bữa sáng chúng tôi nói chuyện với nhau, bỏ qua phiên họp, rồi ăn trưa, sau đó tiếp tục hết cả phiên buổi chiều và tới tận đêm.
Tên cô ấy là Janaki, một người phụ nữ xuất thân từ vùng Madras, miền Nam Ấn Độ. Chấm đỏ trên trán cô ấy là "dấu chân của Chúa"; cô ấy là tín đồ Shivaite Brahmin. Bố mẹ cô ấy là những đệ tử trung thành của Mahatma Gandhi và trong nhiều năm cô ấy đã tham gia phong trào sarvodaya, một phong trào hoạt động mang tính xây dựng với mục đích đem đến những chuyển đổi ở nông thôn và do một đệ tử của Gandhi là Vinoba Bhave lãnh đạo, song song với phong trào Bhoodan lấy đất của nhà giàu chia cho nông dân không có đất. Năm 1963, cô ấy đã tham gia cuộc tuần hành xuyên Ấn tới biên giới với Trung Quốc để phản đối vai trò của Ấn Độ trong cuộc chiến tranh Trung-Ấn.
Hành động của những người này, theo Janaki, đã gây sốc cho chính bản thân Vinoba khi mà tinh thần dân tộc chủ nghĩa trong thời chiến đã vượt cao hơn tinh thần hoà bình của ông. Cô ấy không ăn thịt hay khoác lên người bất cứ thứ gì lấy từ những con vật bị giết (Một cách tình cờ, tôi có một chiếc vali bằng da mà tôi rất thích. Cô ấy khen "Nó thật đẹp" đồng thời hỏi "Đó là cái gì vậy?")
Ý mà cô ấy muốn nói trong cuộc tranh luận kéo dài với tôi là: Trước hết, để trả lời câu hỏi của tôi theo lời dạy của đức Gandhi không nên xem ai hay đối xử ai như "kẻ thù", kể cả những người mà anh cho là có quyền quyết định mạng sống của họ, hay căm ghét, hay xem như người xa lạ, những người mà anh cho là không thể học được điều gì hay không hề biết, không hề cảm thông. Một cách đơn giản đây không phải là những thái độ đúng mực của con người đối với con người. Không nên đối xử với ai dù ở giai đoạn "chi sơ" hay mãi mãi về sau như những người tội lỗi, như thể họ không bao giờ có tính thiện trong mình, như thể họ xa lạ và kém phẩm chất con người hơn những con người khác, như thể ta không thể học hỏi được gì từ họ hay như thể ta không thể làm gì để chuyển hoá họ, ngay cả nếu họ có làm gì đó gây hại cho người khác, làm một điều gì đó thật khủng khiếp tội lỗi hay đáng bị lên án. Bởi vì vậy ý niệm kẻ thù là không cần thiết và sẽ dẫn đến những kết quả tai hại.
Janaki nói thêm điều này vẫn đúng cho dù con người vẫn thường làm điều sai trái, ở cả mức độ cực đoan nhất của hành động sai trái khi ta không chỉ cần bị lên án mà còn phải chống lại bằng phương cách phi bạo động hay biện pháp quân sự, với cái giá mà người trong cuộc phải trả, thậm chí cả mạng sống của mình. Đây là suy nghĩ mà người ta dùng để mô tả một số hành động nhất định như "tội lỗi", mặc dù họ không phải là người gây nên hành động đó. Nhưng khi phản đối những hành động sai trái của con người, kể cả những hành động sai trái nhất, tồi tệ nhất, khi muốn cảm hoá trái tim của họ và trên tất cả, để bảo vệ những người khác từ hành vi gây hại của họ, chúng ta không cần, không nên tìm cách huỷ hoại họ hay đe doạ gây thương tổn đến thể xác của họ.
Điều này đã mang đến những thay đổi nào? Đó là thái độ bất hợp tác: rút các nguồn quỹ, thuế, từ chối quân dịch, tẩy chay, tổng đình công. Đó là ngăn cản bằng phương pháp bất bạo động: từ sự ra đời của "Nguyên tắc vàng" trong khu vực thử hạt nhân đến biểu tình ngồi, bãi công tại chỗ ở các quầy ăn trưa. Đó là bày tỏ: nêu lên sự thật, thực hiện niềm tin đích thực của một cá thể về quyền con người, và về những điều sai trái, chấm dứt sự im lặng mà có thể được diễn giải hay dẫn đến sự chấp thuận hay ủng hộ.
Tất cả những phương pháp này vượt xa "quyền khiếu nại" thông thường để trở thành một lực lượng đối đầu và làm mai một quyền lực bằng những hình thức quyền lực khác, dù đó là bất bạo động hay phản đối quyết liệt, điều mà Gandhi gọi là satyagraha (sức mạnh chân lý).
Cô ấy cũng cho rằng hầu như tất cả mọi hành động sai trái, giống như tất cả mọi hình thức quyền lực cưỡng chế, hợp pháp hay không hợp pháp, đều tuỳ thuộc vào sự hợp tác, sự phục tùng, sự ủng hộ, vào sự đồng lòng hay ít nhất là sự bao dung của nhiều con người. Điều đó tuỳ thuộc vào nhiều cộng tác viên hơn là vai trò hiện có của họ; những cộng tác viên này bao gồm kể cả nhiều nạn nhân, cùng với những người đứng ngoài cuộc một cách thụ động mà trên thực tế chính là những tòng phạm. Hiệu ứng quyền lực có thể xoá bỏ một sự hợp tác như vậy. Hành động của những cá nhân có thể dẫn đến thái độ bất hợp tác có tổ chức, giống như câu chuyện của Rosa mà đã dẫn đến cuộc tẩy chay xe buýt ở Montogomery. Việc cô ấy từ chối tuân theo một mệnh lệnh hợp pháp theo hệ thống luật tại Alabama để không nhường ghế cho một hành khách nam người da trắng, việc cô ấy thay vì đó lựa chọn chấp nhận bị bắt, đã thách thức thói quen phục tùng của cộng đồng người da đen tại Montogomery. Nhắc lại lời phân giải của một đồng môn về bài luận của Thoreau liên quan đến chủ đề bạo động dân sự, noi gương hành động của Park, Martin Luther King đã nói, Janaki giúp tôi trích lại: "Một điều gì đó đã bắt đầu nói với tôi: "Người chấp nhận sự tội lỗi bằng sự nhịn nhục thì sẽ dính sâu vào tội lỗi cũng như giúp khắc sâu tội lỗi. Người chấp nhận tội lỗi mà không hề có biểu hiện phản đối thì thực sự đang đồng loã với nó … Kể từ giờ phút này tôi sẽ xem phong trào của chúng ta (tẩy chay xe buýt) như một hành động bất hợp tác ở quy mô lớn"(89).
Khi tôi lắng nghe Janaki, tôi nhận thấy mình đang nghe một học thuyết nhất quán đến mức ngạc nhiên và một tập hợp kinh nghiệm phù hợp hỗ trợ cho học thuyết đó, tất cả đều mới mẻ đối với tôi Nó đã kích thích những câu hỏi về mặt học thuật, rất sáng sủa, một cách hiểu mới về các vấn đề và giải pháp. Lẽ đương nhiên là có nhiều phép tính bạn có thể thực hiện mà không cần đến con số không, ít ra là đối với cá nhân tôi không cần phải có một điểm bắt đầu quen thuộc. Tuy nhiên nếu chúng ta thực hiện điều đó mà không có một khái niệm "kẻ thù" và không có mối đe doạ sử dụng vũ lực thì nó sẽ cũng không tách rời khỏi ý niệm về xung đột hận thù, tranh đấu, chống đối, kháng cự và phát xét đạo lý. Ngược lại, như tôi vỡ lẽ ra sau này, tất cả những ý niệm này chiếm một vị trí then chết trong tư duy và hành động của Gandhi. Nhưng Janaki đưa ra một cách lập luận mới về những điều đó và những ví du liên hệ về chúng. Đó không phải là cách tư duy duy nhất, nó không thay thế cho tất cả những điều khác mà tôi đã được học, nhưng tôi thấy nó đem đến một nhận thức mới, thực sự mới cho tôi. Những điều như vậy không phải lúc nào cũng xảy ra. Dường như học thuyết này đã đem đến một điều gì đó mà tư duy thông thường chưa từng gợi ý, một cơ hội đem đến sự thay đổi thực sự, đi ngược lại học thuyết của bạo lực và thù hận.
Cô ấy diễn thuyết rất nhiều về Martin Luther King và hối thúc tôi đọc cuốn "Bước đến nền tự do", cuốn sách mà cô ấy dùng để trích dẫn giúp tôi câu nói ở trên. Tôi chưa bao giờ nghĩ nhiều về King và chắc chắn là tôi chưa biết khái niệm hành động phi bạo động quân sự của ông. Trước đây tôi chưa hiểu hết sức mạnh chống đối chiến tranh Việt Nam của King kể từ năm 1965. Tôi rất ấn tượng với sự mô tả của cô ấy về lập trường King đưa ra tại Nhà thờ Riverside ở thành phố New York gần một năm trước, vào ngày 4-4-1967. Bất chấp lời nhắn nhủ nhiệt huyết của đồng minh bạn bè, da trắng và da đen, ông đã thực hiện bước đi mạo hiểm dẫn tới nguy cơ đánh mất sự ủng hộ dành cho phong trào quyền dân sự và mất khả năng tiếp cận Nhà Trắng bằng cách tố cáo cuộc chiến một cách không khoan nhượng bởi vì như ông đã nói "Đã đến lúc im lặng nghĩa là phản bội" (Khi tôi đọc toàn văn bài phát biểu sau này tôi nhận ra vào năm 1967 ông đã thâu tóm được ý nghĩa lịch sử của cuộc chiến mà tôi chưa hề biết trong hai năm. Hơn nữa, những đề xuất cụ thể của ông về việc tách bạch vấn đề - chấm dứt ném bom miền Bắc và miền Nam, xác định một mốc thời gian cho việc đơn phương rút quân của Mỹ, chấp nhận Mặt trận dân tộc giải phóng có vai trò trong đàm phán và trong bất kỳ một chính phủ Việt Nam nào trong tương lai - đã vượt quá tầm của bất kỳ đề xuất công khai nào của bất kỳ nhân vật tai to mặt lớn nào trong giai đoạn 1967-1968. Lẽ ra đề xuất của ông có thể và nên là cơ sở cho việc chấm dứt cuộc chiến vào bất kỳ tháng nào trong năm năm sau đó). Janaki khuyên tôi nên gặp ông - cô ấy nghĩ cô ấy có thể thu xếp được việc đó - và tôi quyết định tôi cần phải diện kiến con người này. Câu chuyện của Janaki đã đem đến một niềm hy vọng về những điều có thể diễn ra trên đất nước này (Mỹ) một niềm hy vọng mà tôi cũng đã nhận thấy, chỉ cách đó vài tháng thôi và ở trong một bối cảnh khác, ở Robert Kennedy.
Chúng tôi không quay lại cuộc hội thảo. Chúng tôi ở lại cùng nhau và tiếp tục trao đổi với nhan cho tới tận ngày hôm sau Chiều muộn hôm đó, vào ngày 4-4-1968, chúng tôi theo dõi tin tức buổi tối và biết rằng Martin Luther King đã bị ám sát. Dường như cả Washington đang bốc cháy.
Chú thích:
(85) Chiến tranh đang tới hồi kết thúc: Báo Bưu điện Washington, 22 tháng 11, 1967.
(86) (87) "con số thương vong của dân thường sẽ ở mức thấp nhất có thể"; "Nếu các quan chức Washington" - Westmoreland, trang 338.
Thực chất, cuộc tranh luận trong Quốc hội: Xem thêm một số tài liệu khác như "Chuyến đi thăm châu Á của chuyên gia khơi lên tin đồn về việc sử dụng vũ khí nguyên tử", Thời báo New York, 11 tháng 2, 1968; "Cú gọi nặc danh khơi lên tin đồn về việc sử dụng vũ khí nguyên tử ở Việt Nam", Thời báo New York, 13 tháng 2; "Wheeler phủ nhận khả năng sử dụng vũ khí nguyên tử tại Khe Sanh", Thời báo New York, 15 tháng 2; "Fulbright và Rusk xung đột về khả năng hạt nhân", Báo Bưu điện Washington, 6 tháng 2; "McCarthy yêu cầu "thẩm tra bản báo cáo về vũ khí"- Báo Bưu điện Washington, 17 tháng 2; "SANE ủng hộ Mỹ sử dụng bom nguyên tử", Thời báo New York, 3 tháng 3; "Sử dụng vũ khí nguyên tử sẽ dẫn đến thảm hoạ", Báo Bưu điện Washington, 9 tháng 3.
(88) "Tình hình tài chính của chúng ta" - trích trong Gardner, trang 454-56; Clifford, trang 515-16.
(89) "Một điều gì đó đã bắt đầu nói với tôi" - King, trang 51-52.
Với bài phát biểu của Tổng thống vào ngày 31-3 năm 1968, công chúng và đa phần các nhà bình luận cho rằng ông ta đã quyết định nhanh chóng chấm dứt chiến tranh theo những điều kiện có lợi nhất cho ông ta, cho dù đó là điều kiện gì đi nữa. Rõ ràng là các nhà lãnh đạo Hà Nội lúc đầu cũng nghĩ như vậy khiến cho Johnson và Rusk rất ngạc nhiên và họ đồng ý bàn bạc trực tiếp mặc dù việc ném bom vẫn đang tiếp diễn. Tại sao ông ta không rút ra khỏi chiến dịch này và ngừng ném bom miền Bắc? Nhưng tôi không chắc chắn lắm. Một vài tuần trôi qua và hai bên vẫn chưa thoả thuận được sẽ gặp nhau ở đâu, chứ đứng nói gì tới nội dung chương trình làm việc.
Một ngày tháng tư trong văn phòng của mình ở Lầu Năm Góc, Mort Halperin nhận xét với tôi rằng việc ném bom vẫn đang diễn ra ác liệt hơn trước đây phía Nam vĩ tuyến 19 và trên đất Lào. "Có ba người trong chính phủ này tin vào những gì chúng ta đang làm: Walt Rostow, Dean Rusk, và Tổng thống".
Đó là một phỏng đoán chính xác đến không ngờ. Tuy nhiên phỏng đoán đó cũng có cơ sở của nó. Ở phía bên kia bàn làm việc chúng tôi ngồi một vài phút và cùng nhau rà soát lại những nhân vật khác trong chính phủ và xem xem có thể đưa thêm ai vào trong danh sach ba người kể trên hay không. Chúng tôi liệt kê lại tất cả các cơ quan khác nhau ở Washington phụ trách về Việt Nam và chúng tôi biết một loạt những nhân vật tham gia vào việc hoạch định chính sách. Nhưng chúng tôi không thể nghĩ ra ai thêm để đưa vào danh sách nêu trên. Không có một ai trong nhóm soạn thảo Hồ sơ Lầu Năm Góc, cũng không có một ai chúng tôi biết tại Cục Tình báo trung ương, Bộ Ngoại giao hay Nhà Trắng.
Mãi đến tận gần đây, Mort vẫn còn nhắc lại với tôi rằng điều đó không có nghĩa là tất cả những ai hồi đó chúng tôi nghĩ đến đều là những người quyết tâm rút quân. Vẫn có những người, đặc biệt trong lực lượng không quân, tin rằng chúng ta cần tiếp tục ném bom ác liệt hơn nữa. Vấn đề ở đây là họ không còn tin rằng những gì chúng ta đang làm là phương án "tối ưu thứ hai" hoặc phương án có thể chấp nhận được, thậm chí có thể coi là tác nhân để chúng ta tiếp tục lấn tới. Tất cả những phương án hoặc ném bom ác liệt hơn tại miền Bắc hoặc rút quân hoặc đàm phán rút ra khỏi Việt Nam giờ đây không có nghĩa lý gì với họ. Trên thực tế, những quan chức này có cùng quan điểm mà lúc đó dân chúng đều chia sẻ: Hoặc chiến thắng hoặc rút quân về nước.
Điều đáng chú ý là trong phỏng đoán của chúng tôi, số lượng dân chúng ủng hộ việc leo thang chiến tranh hơn là rút quân thì nhiều hơn là số lượng quan chức và binh lính, tính tới thời điểm này - thậm chí trước Tết Mậu Thân năm 1968 và điều đó càng đúng sau Tết Mậu Thân. Thậm chí ngay trong các sĩ quan quân đội bảo thủ, một số người làm việc trong Lực lượng tác chiến của Lầu Năm Góc, và đặc biệt trong những sĩ quan quân đội trước đây đã phục vụ trong chiến tranh Việt Nam, số lượng sĩ quan cho rằng nên rút quân vào cuối năm 1967 nhiều hơn dân chúng. Tuy nhiên lệnh ném bom vẫn được phát ra và vẫn được thi hành. Trong thời gian 10 tháng sau khi McNamara rời Nhà Trắng, Clark Clifford, theo lệnh Tổng thống, đã ném xuống Đông Dương một số lượng bom (1,7 triệu tấn) nhiều hơn số lượng bom của ba năm trước đó (15 triệu tấn). Nếu Halperin đúng, và tôi tin rằng anh ta đúng thì lệnh ném số lượng bom khổng lồ như vậy trong vòng 10 tháng đã được cấp dưới của Tổng thống, từ Clifford trở xuống tới các phi công ngoan ngoãn thi hành và họ tin rằng việc làm đó không hề phục vụ lợi ích quốc gia chút nào. Là một người Mỹ, tôi đã dành nhiều thời gian trong vòng 30 năm qua để cố gắng hiểu và chấp nhận được việc làm đó.
Khi bầu cử Tổng thống đang diễn ra, tôi cảm thấy lo lắng một khi có nhu cầu chia sẻ quan điểm và nhận thức của tôi với bất kỳ một nhân vật chính trị nào. Đối với những người trong cuộc tiếng tăm của tôi từ Việt Nam và Lầu Năm Góc khiến nhiều người muốn lắng nghe. Khi tôi nhận được phản hồi của các cố vấn hay đại diện của các ứng cử viên chức Tổng thống, từ Romney và Rockefeller tới Kennedy và Humphrey, tôi thấy rằng tất cả họ đều có chung quan điểm với tôi. Những nỗ lực thuyết phục của tôi hiện nay dường như không còn cấp bách như hồi đầu năm, nhưng tôi vẫn có thể trấn an những người ngoài cuộc nghi ngờ về ý muốn của họ muốn chính phủ Mỹ rút quân khỏi Việt Nam. Thật đáng tiếc, tôi không biết một ai có liên lạc với George Wallace, người đã chọn tướng Curtis Lemay làm phó soái để tranh cử cùng ông ta. Đối với phần lớn các nhà quan sát, kế hoạch kết thúc chiến tranh của Nixon nghe giống như kế hoạch rút quân được cải trang. Thực ra, hai nhà báo Walter Lippmann và Joseph Kraft đều đoán rằng một ông "Nixon mới" có nhiều khả năng kết thúc chiến tranh hơn là ông Humphrey, người mà ủng hộ chính sách của Johnson hơn. Đối với tôi, điều đó nghe rất hợp lý. Kỳ vọng của tôi là tất cả các ứng cử viên chức Tổng thống có thể sẽ đồng thuận với nhau - trừ ông Wallace - về sách lược Mỹ rút quân để tránh sa lầy tại Việt Nam.
Khi bắt đầu chiến dịch tranh cử của mình, Robert Kennedy gọi điện cho tôi ở California đề nghị tôi làm "chuyên gia về Việt Nam" cho ông ta trong chiến dịch tranh cử. Điều đó sẽ có nghĩa tôi thôi việc ở Rand, tôi sẽ có văn phòng làm việc mới ở Washington hoặc New York, và quản lý tất cả các tài liệu giấy tờ các tuyên bố, bài phát biểu về chiến tranh Việt Nam. Tôi rất thích làm công việc mới này. Nhưng tôi muốn chưa bắt tay ngay vào công việc cho đến khi có đại hội của ứng viên tranh cử vì tôi muốn đóng góp ý kiến đồng thuận với mọi người, nếu có thể.
Tôi không muốn tạo ra mâu thuẫn giữa hai ứng cử viên tranh cử chức Tổng thống khi làm việc cho một trong hai người. Và tôi cũng có lý do cá nhân để từ chối lời đề nghị làm công việc mới tại thời điểm đó: tôi vừa mới bắt đầu khoá phân tích tâm lý, học bốn buổi một tuần và tôi không muốn rời Los Angeles.
Nhưng tôi rất thông cảm và ủng hộ Kennedy. Giống như một số người khác, tôi thấy mình gần gũi với Robert Kennedy hơn là những nhân vật chính trị khác mà tôi từng gặp. Từ khi tôi từ Việt Nam trở về, không một người Mỹ nào gây ấn tượng với tôi sâu sắc hơn những mối quan tâm và lo lắng của ông về chiến tranh Việt Nam. Tôi rất yêu quý ông.
Từ những dịp được nói chuyện với ông từ tháng mười năm 1967, tôi đi đến kết luận rằng Robert Kennedy là ứng cử viên duy nhất (McCarthy rất ít có khả năng được đảng đề cử) mọi người có thể tin cậy trong việc giúp Mỹ sớm thoát khỏi tình thế sa lầy ở Việt Nam. Tôi biết rằng Humphrey trước đây đã hoài nghi về việc Mỹ dính líu vào Việt Nam, nhưng thật khó có thể kính trọng ông ta khi ông ta đã và đang tiếp tục ủng hộ chính sách của Johnson. Tôi cho rằng ông ta cũng muốn Mỹ rút quân nhưng làm thật chậm vì ông ta cố gắng không làm sếp trước đây của ông ta nổi trận lôi đình. ấn tượng trên là hoàn toàn đúng khi tôi gặp ông ta lần đầu tiên.
Tôi được mời đi ăn trưa tại Waldorf-Astoria vào ngày Humphrey phát biểu trước một đám đông tại New York. Một số nhân vật khác, bao gồm Zbigniew Brzezinski của Đại học Columbia và Sam Huntington của Đại học Harvard cũng được mời đến để "cố vấn" cho ông ta. Trong bữa ăn, Humphrey nhận xét về một tư tưởng rất phổ biến trong số những người ủng hộ McCarthy và Kennedy. Nhìn xung quanh bàn, ông ta nói: "Tôi thực sự rất lo lắng về câu khẩu hiệu đơn giản "Không còn Việt Nam nữa!" - Một khẩu hiệu thật nguy hiểm". Mặc dù ông ta đang nói với cả nhóm chúng tôi, nhưng lúc đó vì tôi đang ngồi trực diện với ông ta nên tôi thấy mình cũng nên đưa ra một nhận xét.
Sau khi im lặng một lúc và thấy không ai lên tiếng cả, tôi nói:
"Khẩu hiệu đó còn tốt hơn khẩu hiệu "Hãy tiếp tục Việt Nam".
Sau đó cả bàn ăn đều im lặng.
Một giờ sau đó, khi chúng tôi ăn xong, tôi nhấn mạnh lại quan điểm nói trên. "Nếu "Không còn Việt Nam nữa" có nghĩa là "Không còn tiếp tục sự can thiệp quân sự của Mỹ ở Việt Nam mà không được sự đồng ý của Quốc hội" thì đó là một chính sách rất hay", Humphrey miễn cưỡng gật đầu.
Còn có một vấn đề khác với khẩu hiệu "Không còn Việt Nam nữa!", nó cho thấy bản thân cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc hoặc sắp kết thúc mà không cần sự quan tâm hay sức ép từ cử tri nữa. Trên thực tế, cả hai điều này đều không đúng vào năm 1968 và bảy năm sau đó. Tuy nhiên, cả hai niềm tin trên gạt bỏ sự cần thiết phải đấu tranh chống lại cuộc chiến chính là niềm tin của đa phần các cử tri trong giai đoạn đó.
Cuối tháng Năm tôi làm việc với phụ tá của Kennedy là Adam Walinsky và Jeff Greenfield về chính sách Việt Nam trong bài phát biểu cuối cùng của Kennedy trước khi diễn ra cuộc bầu chọn ứng cử viên của đảng cho bầu cử Tổng thống sắp tới ở California. Theo dự kiến, bài phát biểu này sẽ được đọc tại Câu lạc bộ Khối thịnh vượng chung San Fransisco vào ngày 31 tháng Năm. Nội dung cốt lõi của bài phát biểu này không phải do tôi, mà do Walinsky viết. Nhưng họ muốn tôi tư vấn về những vấn đề thực chất cho một số bài phát biểu. Một đêm tôi thức khá khuya tại văn phòng của họ ở khách sạn Ambassador, xem lại bản thảo cuối cùng của Walinsky. Chiến dịch tranh cử thuê phần lớn các phòng trên tầng trên của khách sạn, làm phòng ngủ và văn phòng cho nhân viên. Kennedy ngủ lại luôn ở đó.
Sáng ngày hôm sau, tôi thức dậy và chợt nghĩ ra một số điểm vào phút chót. Tôi viết những điểm đó ra giấy và bạn của tôi, Yvonne, đưa tôi tới khách sạn trước, rồi sau đó mới ra sân bay.
Lúc đó còn rất sớm và hầu như không có ai dưới sảnh khách sạn cả. Thang máy đưa tôi lên hội trường lớn mà chiến dịch tranh cử đang sử dụng. Vắng tanh không có một ai. Chỉ mới đêm trước ở đây rất đông, mọi người có mặt và nói chuyện rôm rả nhưng bây giờ chúng tôi rất ngạc nhiên khi ở đó không có cả nhân viên an ninh. Có một người đang tiến lại phía chúng tôi, trong bộ áo choàng tắm. Đó là Bobby. Anh ta chưa cạo râu và tóc tai bù xù, tay cầm một tách cà phê.
Chúng tôi nói chuyện vài phút. Tôi không làm anh ta bận tâm với những vấn đề mà tôi sắp nói với Adam. Nhưng tôi vẫy tờ giấy chúng tôi đang cầm để hy vọng anh ta hiểu là tại sao chúng tôi lại đến đó sớm như vậy. Tôi đi tìm Walinski, lúc đó đã miệt mài làm việc. Tôi nói với Adam rằng tôi rất ngạc nhiên khi không có ai kiểm tra chúng tôi khi chúng tôi bước vào đây, không có bóng dáng một nhân viên an ninh nào. Anh ta nói Kennedy đã từ chối không sử dụng lực lượng bảo vệ bí mật vì ông ta sợ rằng lực lượng này làm gián điệp cho Nhà Trắng, sẽ báo cáo tất cả động thái của mọi người, đi đâu làm gì. Ông ta cũng từ chối lời mời của Thị trưởng Los Angeles là ông Sam Yorty về việc sử dụng cảnh sát cũng vì lý do tương tự. Tuy nhiên chúng tôi vẫn có cảm giác rất lạ khi đi vào trong đại sảnh, vắng tanh vắng ngắt. Yvonne thấy rất phấn chấn khi tình cờ gặp lại anh ta và khiến anh ta nhớ rằng trước đây đã từng gặp cô ta, nhưng đồng thời điều đó cũng khiến Yvonne thấy hơi nản lòng.
Như lời cô ấy nói khi chúng tôi đi thang máy xuống, "Chúng ta có thể là bất kỳ một ai".
Sau đó cô ta đưa tôi ra sân bay. Trên đường đến đó, chúng tôi cười đùa vui vẻ khi nhớ lại cuộc nói chuyện giữa Bobby và Ethel khi chúng tôi ăn tối với họ ở Washington, tại nhà của phóng viên Sander Vanocur. Khi bữa tối sắp kết thúc, Vanocur hỏi xem chúng tôi có muốn xem một show truyền hình về nghiện ma tuý mà anh ta đã ghi hình trước đó. Chúng tôi sang một phòng nhỏ cạnh phòng ăn xem cuốn băng. Khi thấy Vanocur xuất hiện trên màn hình, đang nói về acid, Ethel nói chắc như đinh đóng cột: "Ma tuý thì cùng tồi tệ như heroin vậy".
Bobby nói: "Ethel, điều đó không đúng!"
Ethel nói: "Đúng như vậy còn gì nữa".
"Ethel, tôi là uỷ viên công tố và tôi nói điều đó không đúng", Bobby cãi lại.
Vào năm 1964, đó là một lời nói rất buồn cười bằng chất giọng mũi Boston của anh ta.
Anh ta sắp xếp thời gian rất hợp lý. Điều đó khiến tôi ngạc nhiên khi tôi phỏng vấn anh ta trong lúc đang làm nghiên cứu về cuộc khủng hoảng tên lửa tại Cuba. Lúc đầu anh ta không gây ấn tượng gì nhiều đối với tôi. Nhưng việc sắp xếp thời gian và việc nhận xét về đại sứ Liên Xô Anatoly Dobrynin khiến tôi phải nhìn anh ta với con mắt khác. Anh ta nói rằng Dobrynin đã tuyên bố rằng không có tên lửa của Liên Xô tại Cuba và tên lửa sẽ không được đưa đến đó. Bobby cho rằng khi Dobrynin tuyên bố như vậy thì tên lửa vẫn còn nằm ở Cuba nhưng sau đó đã được chuyển đi, "Cả tôi và anh trai tôi đều nghĩ ông ta nên biến đi vì ông ta đã nói dối hoặc cấp trên của ông ta không tin vào những thông tin ông ta cung cấp".
Tôi tới Chicago dự hội nghị về Việt Nam vào ngày thứ ba, ngày 4 tháng sáu, ngày diễn ra cuộc bầu chọn ứng cử viên của Đảng Tôi ở một tối với Susan Bellow, một người bạn của tôi.
Chúng tôi cùng nhau xem cuộc bầu chọn ứng cử viên của đảng.
Kennedy đã giành chiến thắng tại tiểu bang Nam Dakota và dường như sẽ thắng lợi tại California, nơi mà cử tri rất ủng hộ Ông ta trở thành ứng cử viên của đảng. Hôm đó là một ngày làm việc dài, và tôi thấy mệt. Tôi không thức được tới tận lúc ông ta có bài phát biểu chiến thắng tại khách sạn Ambassador, phát sau nửa đêm tại California. Tôi đi taxi về khách sạn.
Sáng ngày hôm sau, có tiếng gõ cửa phòng khi tôi đang cạo râu. Đó là Susan, cô ấy đang khóc. Tôi hỏi có chuyện gì và cô ấy nói: "Anh không biết ư? Bật vô tuyến lên coi. Bobby bị bắn chết rồi! Tôi bủn rủn cả chân tay. Vô tuyến đang phát phần cuối cùng bài phát biểu của Bobby. Sau đó là cảnh ông đi qua đám đông. Rồi cảnh ông nằm trên sàn nhà bếp, mắt mở to. Người bình luận nói: "Ông ấy chết lâm sàng trong bệnh viện và không thể tỉnh lại được". Tôi thấy hoa hết cả mắt. Tôi đi đi lại lại giữa hai cái giường trong phòng khách sạn. Tôi bắt đầu khóc, rồi khóc nức nở. Tôi ngồi trên giường, ngực tôi rung lên. Susan nhìn tôi và không nói gì.
Bây giờ khi tôi khóc tôi mới biết là tôi yêu quý Bobby (mặc dù trước đây tôi không hay biết điều đó). Ông là chính trị gia duy nhất mà tôi thấy yêu quý. Tại thời khắc này tôi chợt nhận ra rằng mình đã đặt hết hy vọng vào ông ấy: không chỉ cho Việt Nam mà cho cả quê hương tôi. Bất thần tôi nhận ra rằng cuộc chiến sẽ không chóng kết thúc. Tôi nghĩ có lẽ không có cách nào để thay đổi đất nước này.
Sau khoảng nửa tiếng đồng hồ, tôi thôi khóc. Tôi lau nước mắt và lau sạch bọt cạo râu trên mặt rồi mặc quần áo. Susan lái xe đưa tôi tới hội nghị. Một số người ở đó cũng có tâm trạng giống tôi; dường như là rất ít người đã thức khuya đêm hôm qua để theo dõi tin tức. Chúng tôi tham dự cuộc hội nghị trong trạng thái bị sốc và không khí của hội nghị chìm hẳn xuống. Hôm đó tôi thấy mình nói rất hăng về việc nước Mỹ "nghiện" một loại vũ lực, đó là ném bom chiến lược. Vào ngày thứ năm sau khi hội nghị đã kết thúc một số đại biểu quay về New York tham dự lễ tang của Bobby tại nhà thờ Thánh Patrick. Tôi quay về Los Angeles.
Thứ bảy ở Malibu là một ngày nắng đẹp. Khi tôi bật vô tuyến lên, xe tang chở thi hài Bobby đang đi dọc theo bờ biển phía Tây, qua đám đông những người đi tiễn đưa Bobby về nơi an nghỉ cuối cùng. Tôi đi dọc theo bãi biển và cuối cùng ngồi xuống, nhìn những con sóng tràn bờ. Khi tôi quay trở lại nhà thì trên vô tuyến vẫn chiếu cảnh chiếc xe tang màu đen đang di chuyển chậm rãi dọc bờ biển.
Trong khi đó, việc ném bom vẫn diễn ra ác liệt tại miền Bắc cho đến tận vĩ tuyến 19. Ngày 1-8, báo chí đưa tin máy bay Mỹ đã ném 2.581.876 tấn bom và tên lửa xuống Đông Dương kể từ năm 1965. Đó là tính thêm cả 1 triệu tấn tính đến ngày 1-3 - khi số lượng bom ném xuống đã là 1,5 triệu tấn bằng số bom Mỹ ném xuống châu Âu trong Chiến tranh thế giới II - kể từ khi Clifford thay thế McNamara tại Lầu Năm Góc.
Trong vòng 5 tháng thì có tới 4 tháng sau khi Johnson đã ngừng ném bom phần lớn Bắc Việt Nam và kêu gọi đàm phán, người Mỹ đã ném một nửa tổng số bom sử dụng trong Chiến tranh thế giới II, tức là 2 triệu tấn. Điều đó có nghĩa là có 3 cuộc Chiến tranh thế giới II?
Khi việc ném bom vẫn còn tiếp diễn, các đại biểu của chính phủ Hà Nội tham dự đàm phán tại Paris nhất quyết không chịu bàn tới điều gì khác ngoài việc ngừng lâu dài và không điều kiện những cuộc tấn công vào Bắc Việt Nam, và Johnson sẽ không chấp nhận điều đó nếu như không có sự đảm bảo hay "sự đánh đổi nào từ phía chính phủ Hà Nội". Phía Việt Nam từ chối điều này, với lý do những cuộc tấn công như vậy là bất hợp pháp và người Mỹ không có quyền đòi hỏi cái gì từ phía Hà Nội để đổi lại việc ngừng ném bom. Chủ tịch Hồ Chí Minh thậm chí còn chỉ ra sự tương đồng mà tôi đã sử dụng khi lý giải hành vi của phe Việt Cộng trong những bài phát biểu mà tôi viết cho McNaughton và McNamara vào năm 1965. Ông Hồ nói rằng nước Mỹ hành động như những kẻ cướp Chicago, những kẻ đồng ý không bắn vào mục tiêu của mình nếu được trả một khoản tiền. Để đổi lại, Hà Nội thực sự đã hứa và bảo đảm rằng Hà Nội sẽ không ném bom và xâm lược Bắc Mỹ. Điều này nghe rất logic nhưng bị các nhà thương thuyết Mỹ cho là "tầm phào".
McCarthy vẫn đang tham gia tranh cử Tổng thống, nhưng có lẽ rơi vào thế bị động hoặc chán nản - sau khi đối thủ mà ông ta căm ghét bị giết. Lập trường của Humphrey cũng không hoàn toàn vững như bàn thạch. Khi nghỉ giải lao, tôi hội ý với ông ta.
Theo lời gợi ý của một phụ tá của ông ta, tôi tới gặp một người gây quỹ cho ông ta ở Los Angeles, đi xe limousine cùng họ tới nơi hẹn gặp và thảo luận những bước tiếp theo về Việt Nam.
Humphrey muốn ngừng ném bom không điều kiện, nhưng ông ta lo ngại rằng sau khi ngừng ném bom sẽ là một đợt tấn công khác mà bản thân ông ta sẽ bị khiển trách. Tôi không thể nói với ông ấy rằng điều đó không thể xảy ra. Tôi chỉ có thể nói với ông ta là điều đó ít có khả năng xảy ra và, ít có khả năng xảy ra hơn cả việc tiếp tục ném bom. Tôi nghĩ ông ta phải chấp nhận những rủi ro chính trị xảy đến với mình. Ông ta lắng nghe tôi, nhưng khi chúng tôi bắt tay và tạm biệt, ông ta vẫn lo lắng về tiền đồ như khi lần đầu tiên đề cập đến nó.
Mối đe doạ đối với Humphrey không phải từ Bắc Việt Nam, mà ông ta còn đối mặt với hiểm hoạ từ hai Đảng ở Mỹ. Có thể ông ta sẽ không được đề cử và càng ít có khả năng nhận được sự đồng tình ủng hộ của đảng đưa ông ta đến thắng lợi trong bầu cử, nếu ông ta không tách mình ra khỏi lập trường của Johnson về cuộc chiến tranh, về việc ném bom ít nhất (ông ta không định kêu gọi thành lập một chính phủ liên hiệp tại Sài Gòn). Đây là vấn đề quan trọng nhất. Nhưng nếu ông ta tuyên bố mình hoạt động độc lập thì ông ta sẽ bị Tổng thống nổi giận và trả thù bằng nhiều hình thức khác nhau.
Trong khi đó, chính quyền Hà Nội không tỏ ra vội vã khi muốn chấm dứt việc ném bom hay kết thúc chiến tranh bằng cách nhượng bộ. Thực ra, đó không phải là sự lừa phỉnh cho cả hai bên. Không bên nào chịu nhượng bộ và ban lãnh đạo của mỗi bên cũng không bị ảnh hưởng gì khi cuộc chiến tiếp diễn, cho dù cuộc chiến có đẫm máu đến đâu đối với một số người dân thường và tang thương với gia đình họ. Do vậy cho dù một bên có thay đổi chiến thuật, đáp ứng những điều kiện của bên kia đi nữa và bắt đầu "đàm phán" thì cũng chẳng có kết quả gì, chẳng thay đổi được gì.
Cuối cùng, vào tháng mười một, cả hai bên đều làm điều đó. Hai bên thực sự ngồi lại với nhau, đàm phán trực tiếp và chỉ có vậy, chẳng giải quyết được vấn đề gì. Chiến tranh vẫn tiếp tục. Hơn 10.000 lính Mỹ chết trong năm 1969, bằng số lượng năm 1967 khi mà quá trình đàm phán diễn ra công khai cũng như bí mật. Hơn 10.000 lính Mỹ nữa cũng chết trong ba năm đàm phán tiếp theo.
Do vậy, việc "ngừng ném bom không điều kiện và lâu dài ở miền Bắc Việt Nam là ảo tưởng, gần như là một trò tiêu khiển, khi muốn kết thúc chiến tranh. Việc "ngừng ném bom là điều kiện tiên quyết để "tiến hành đàm phán". Một trong hai điều này chỉ có ý nghĩa khi nó là một phần của những chính sách nhằm giải quyết xung đột và chấm dứt sự can thiệp của Mỹ vào Việt Nam.
Khi bỏ phiếu, dân chúng hầu như không mấy ủng hộ việc rút ngay, rút đơn phương toàn bộ quân đánh bộ của Mỹ. Chính sách đó được một ứng cử viên tranh cử chức Tổng thống năm 1968, ông Eldridge Cleaver đề xuất. Ông này trước đây đã bị truy tố về tội hiếp dâm nhưng nay ra tranh cử cho đảng Hoà bình và Tự do tại hai tiểu bang New Yòrk và California.
Các nhà chiến lược của Kennedy, McCarthy và Humphrey vạch ra một cương lĩnh hoà bình cho dại hội bầu ra ứng cử viên Tổng thống, kiến nghị ngừng ném bom toàn bộ và cả hai bên Mỹ và Bắc Việt Nam sẽ rút quân, rồi hối thúc chính phủ Nam Việt Nam đàm phán trực tiếp với Mặt trận dân tộc giải phóng để thành lập ra chính phủ liên hiệp. Hai điểm đầu tiên mà họ đề xuất sẽ chẳng đi đến đâu, nhưng kết hợp lại và nhìn tổng thể thì tất cả những kiến nghị đó tạo ra cơ sở có thể đàm phán để kết thúc chiến tranh. Humphrey chấp nhận kế hoạch này. Nhưng khi Tổng thống Johnson bác bỏ nó thì Humphrey cũng thôi luôn và sau này ông ta hối tiếc về việc làm đó.
Do vậy vấn đề Việt Nam tiếp tục gây chia rẽ sâu sắc tại đại hội bầu ra ứng cử viên Tổng thống. Tôi theo dõi tranh luận 3 tiếng đồng hồ trên vô tuyến ở Malibu. Mọi người phản đối khi Pierre Salinger nói rằng Robert Kennedy sẽ ủng hộ cương lĩnh hoà bình nếu ông ta còn sống. Nhưng cương lĩnh của chính quyền Tổng thống mà Ted Sorensen mô tả là "một cương lĩnh mà Richard Nixon hay Barry Goldwater sẽ vui vẻ chấp nhận", được 1527 cử tri của Johnson ủng hộ so với 1.041 phiếu chống.
Tôi không muốn xem Humphrey được đề cử. Sau khi bỏ phiếu về cương lĩnh Việt Nam, tôi tắt vô tuyến. Phải mãi đến sáng ngày hôm sau tôi mới xem những đoạn phim về vụ bạo động cảnh sát tại Chicago đêm hôm đó, với những nhà tổ chức của McCarthy như Dave Mixner xô đẩy nhau qua cửa sổ của khách sạn Hilton và bị cảnh sát đẩy vào trong, những đám hơi cay bay tận tới phòng của McCarthy và Humphrey và cảnh những trạm cấp cứu dành cho những người biểu tình, nhân viên, nhà báo bị đánh đập trên tầng của khách sạn Hilton; cảnh hỗn loạn nơi diễn ra đại hội bầu ứng cử viên chức Tổng thống trong khi bỏ phiếu. Tôi nhớ sáng ngày hôm sau có một phần tin trên chương trình Today chiếu cảnh người biểu tình bị quẳng lên không trung. Đoạn phim này quay chậm đến nỗi người ta tưởng đó là một vở balê và những nhà sản xuất còn ghép cả nhạc vào nữa chứ. Đó là ca sĩ Frank Sinatra đang hát "Chicago, Chicago".
Tôi lại tắt vô tuyến đi.
Tôi không xem một thời khắc nào của chiến dịch tranh cử trên vô tuyến cho đến khi Johnson thục sự chấm dứt ném bom Việt Nam vào ngày 31-10-68, năm ngày trước khi tiến hành bỏ phiếu. Lúc đó tôi cũng không còn quá chú tâm vào công trình tôi đang làm ở Rand nữa: "Bài học từ cuộc chiến tranh Việt Nam" quá ư buồn thảm. Tôi không dành nhiều thời gian làm việc ở cơ quan và tôi cũng không cần quan tâm nếu tôi có bị sa thải. Tôi không quan tâm đến điều gì nữa. Đó là một quãng thời gian sầu thảm với nhiều người Mỹ. Khi nhìn lại mùa hè và mùa thu năm đó, tôi nghĩ chúng tôi đang gặp phải suy thoái chính trị chứ không phải suy thoái kinh tế. Dường như chẳng có gì hữu ích đáng làm nếu như bạn muốn chấm dứt chiến tranh. Chúng ta có hai ứng cử viên đi khắp đất nước nhưng không nói gì tới việc chấm dứt ném bom. Đây không phải là động cơ giúp họ thắng cử hay khiến mọi người chú ý đến họ.
Bây giờ nhìn lại chúng ta thấy có sự khác nhau lớn giữa hai ứng cử viên này. Không có sự khác nhau rõ rệt giữa Johnson và Nixon trong quan điểm của họ đối với Việt Nam, nhưng bí mật mà nói thì có sự khác biệt giữa Johnson và Phó Tổng thống của ông ta. Do vậy, cũng có sự khác nhau trong quan điểm của Nixon và Humphrey về vấn đề Việt Nam. Nhưng cả hai ông đều không muốn mọi người biết về điều bí mật này. Chắc chắn là tôi không biết và tôi cũng không biết là có ai biết điều bí mật này không.
Bây giờ nhìn lại, việc hỗ trợ kịp thời của chúng tôi dành cho Humphrey có lẽ đã tạo ra sự khác biệt rất lớn khiến cho Việt Nam và Mỹ không phải tiếp tục cuộc chiến trong năm hay sáu năm.
Tuy nhiên tôi không thể trách cứ bản thân hay nhiều người khác vì đã không nỗ lực hay ủng hộ để thay đổi tình hình. Điều đó bao gồm cả McCarthy, người đã từ chối chấp nhận Humphrey cho đến những ngày cuối cùng của chiến dịch tranh cử và sau đó chỉ chấp nhận ủng hộ Humphrey một cách nửa vời. Điều đó còn bao gồm cả các nhà hoạt động chống chiến tranh, bắt đầu với những người biểu tình phản đối ở Chicago, những người hành động theo giả thuyết cho rằng không có sự khác nhau giữa hai ứng cử viên, không lo lắng là hành động của họ sẽ phương hại Đảng Dân chủ, giúp đỡ Nixon và chối bỏ bất kỳ ai ủng hộ Humphrey. Những sự lựa chọn này hoá ra có tầm quan trọng sâu xa, thậm chí bi kịch, nhưng với thông tin có sẵn thì tôi không thấy nhiều lý do để đổ lỗi cho họ. Trong suốt câu chuyện này, tôi tự coi mình có trách nhiệm đối với những tội lỗi khi tôi không hành động theo những gì tôi biết và theo cảm tính. Đó là thời gian mà tôi, cũng như những người khác, không thể hành động theo những gì chứng tôi không biết. Đặc biệt, Nixon che đậy những ý đồ của ông ta rất khéo, trừ việc ông ta lựa chọn rất ít người mà ông ta biết sẽ ủng hộ họ. Nếu mùa thu năm đó tôi thậm chí đoán được những gì tôi dần dần biết - một mình, bên ngoài Nhà Trắng - về những ý đồ một năm sau đó thì tôi đã hành động không khoan nhượng để ngăn cản việc bầu cử của ông ta. Trên thực tế quãng thời gian mười tuần cũng là thời gian duy nhất trong mười một năm khi ý nghĩ của tôi không bị ám ảnh chỉ vì chính sách Việt Nam. Phần lớn sức lực của tôi tập trung vào cuộc sống riêng tư của một người đàn ông chưa vợ.
Khi Johnson tuyên bố ngày 31-10 rằng ông ta sẽ ngừng ném bom toàn bộ miền Bắc, tôi chợt nhớ lại bộ phim trong đó Humphrey và Muskie có tham gia diễn xuất. Đó là những thước phim không chính thức, một cuốn phim tự làm không chuyên nghiệp miêu tả Humphrey và Muskie chơi bowling trong một căn phòng có hai đường bowling đủ cho hai người chơi, bóng bị mắc kẹt trong đó và họ phải cố gắng gỡ ra. Một giọng nói vang lên: "Đó là một chiến dịch tranh cử". Trong quảng cáo của Nixon, tôi thấy ông ta mặc quần bó. Sự tương phản đó khiến tôi thấy phấn khích khi bỏ phiếu. Rõ ràng là Humphrey tài ba hơn với những vấn đề trong nước. Tôi dừng lại ở văn phòng chiến dịch tranh cử và lấy một tờ poster Humphrey-Muskie, sau đó tôi dán lên xe hơi.
Đó không phải là sự đóng góp nhiều nhặn gì cho chiến dịch tranh cử mặc dù keo dính có làm bong lớp sơn trên xe của tôi khi tôi bóc tờ poster ra một vài ngày sau đó - nhưng điều đó có ý nghĩa là tôi quan tâm tới người thắng cử.
Tại thời điểm đó, kết quả cuộc chạy đua chức Tổng thống rất sít sao, với số phiếu bầu cho thấy Humphrey dẫn điểm nhỉnh hơn một chút. Ông ta đã xoay xở vượt lên trên Nixon từ vị trí kém Nixon 15 điểm sau khi Nixon giành được lợi thế vào tháng chín khi ông ta tuyên bố chấm dứt ném bom miền Bắc Việt Nam. Sự bứt phá về đích xảy ra trong những ngày cuối cùng khi Tổng thống cũng có số phiếu bằng Humphrey; điều đó bất ngờ chấm hết một ngày trước khi bỏ phiếu, khi Tổng thống Thiệu tuyên bố từ chối không đàm phán tại Paris.
Humphrey giành được 31.270.000 phiếu (kể cả lá phiếu của tôi) vào ngày 5 tháng mười một, chiếm 42.7% số phiếu bầu.
Wallace được khoảng 9.906.000 phiếu, chiếm 13,5%, giảm nhiều so với 20% số người bỏ phiếu ủng hộ trước khi ông ta giới thiệu phó tá cùng tham gia tranh cử là tướng LeMay tại một cuộc họp báo trong đó Tham mưu trưởng lực lượng không quân chiến lược bắt chước tướng Jack D. Ripper. Người chiến thắng trong cuộc tranh đua chức Tổng thống giành được 31.770.000 phiếu, hơn Humphrey 500.000 phiếu, một khoảng cách tương ứng với chỉ chưa đến 7/10 của 1%.
Richard Nixon được bầu làm Tổng thống với 43.4% số phiếu bầu. Không phải là thắng lợi vẻ vang gì. Tuy nhiên, rõ ràng là phần lớn cử tri, không chỉ những người bỏ phiếu cho ông ta, vẫn hy vọng ông ta sẽ chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam. Ông ta đã hứa sẽ kết thúc chiến tranh "trong danh dự". Nhiều người Mỹ thích câu nói nghe kêu như chuông đó. Nhưng ông ta làm thế nào để đạt được điều đó? Và cụm từ "trong danh dự" có ý nghĩa thế nào với ông ta? Câu trả lời, như tôi biết một năm sau đó là nó có ý nghĩa với ông ta nhiều hơn những gì mọi người suy đoán. Điều đó có nghĩa là chiến tranh sẽ không kết thúc trong nhiệm kỳ đầu tiên của ông ta và cũng không kết thúc trong nhiệm kỳ thứ hai.
Trong khoảng thời gian hai năm sau khi Lyndon Johnson quyết định không ra tranh cử lần thứ hai, từ tuyên bố của ông ta vào ngày 31-3-1968 tới khi Nixon xâm lược Campuchia ngày 30-4-1970, cuộc chiến tranh Việt Nam dường như không còn được giới chính trị ở Mỹ bàn cãi nhiều như một vấn đề nóng hổi. Trong toàn bộ quá trình đó, bao gồm cả những cuộc bầu cử của Đảng Dân chủ chọn ứng cử viên ra tranh cử Tổng thống, chiến dịch vận động tranh cử vào mùa thu và 16 tháng đầu tiên của chính quyền Nixon, cuộc chiến tranh Việt Nam nổi lên hai lần như một cuộc tranh luận rất ngắn gọn: trong đại hội Chicago và khoảng sáu tuần phản đối quyết liệt mùa thu năm 1969.
Việc dư luận không mấy tranh cãi và bàn bạc (trừ trong những thời kỳ vừa nêu trên) phản ánh niềm tin kiên định trong đởi sống chính trị ở Mỹ: tuyên bố của Johnson ngày 31-3, bao gồm cả quyết định của ông ta ngừng ném bom phần phía bắc của Bắc Việt Nam và mong muốn đàm phán với chính phủ
Hà Nội tạo ra một bước ngoặt rất quan trọng mang tính quyết định dẫn đến việc chấm dứt nhanh chóng sự can thiệp của Mỹ vào chiến tranh Đông Dương.
Bản thân Hồ sơ Lầu Năm Góc - tối mật "Lịch sử quá trình hoạch định chính sách của Mỹ tại Việt Nam, 1945-1968" - phản ánh tình hình tương tự trong những trang cuối và ngay trong tiêu đề của tập tài liệu đó. Nghiên cứu này, khi được McNamara bắt đầu tiến hành từ giữa năm 1967, là một nghiên cứu chính thức xét về nội dung và thời gian, và công việc nghiên cứu tiếp tục đến đầu năm 1969; nhưng các tác giả và người giám sát nghiên cứu này quyết định ngừng nghiên cứu vào ngày 31-3-1968. Việc chọn ngày này để quyết định ngừng nghiên cứu đối với lịch sử hoạch định chính sách của Mỹ ở Việt Nam thực sự phản ánh sự thật rằng những ai phụ trách về nghiên cứu đó (Morton H. Halperin và Leslie Geth, dưới sự giám sát của Paul Warnke) có cùng niềm tin như dân chúng rằng việc đưa ra tuyên bố ngày hôm đó chính là sự chuyển hướng có tính quyết định đối với việc Mỹ rút quân khỏi Việt Nam. Chương kết 3 trang ở cuối tập tài liệu này bắt đầu với tuyên bố ngày 3-4 của Hà Nội rằng Hà Nội sẽ đàm phán với Mỹ và viết tiếp: "Bước đầu tiên trên con đường dài tiến tới hoà bình đã được khởi động. Trong một hành động đầy kịch tính, Tổng thống Johnson đã một lần đưa vấn đề Việt Nam ra khỏi tranh luận chính trị trong nước"(90).
Cái gọi là "đã một lần" đó kéo dài trong gần hai năm.
Những gì nổi bật trong quá trình kéo dài này về niềm tin bị lừa dối của công chúng rằng hoà bình đã cận kề đâu đây là ở chỗ mặc dù một số hình thức hội đàm và cuối cùng là đàm phán chính thức đã được tiến hành nhưng chiến tranh vẫn tiếp diễn không ngừng và quy mô không kích vẫn không hề giảm. Sau tháng 3-1968, máy bay Mỹ không còn dội bom trên vĩ tuyến 20 ở Bắc Việt Nam nữa. Sau tháng mười một thì không còn dội bom một lần nào xuống miền Bắc Việt Nam nữa. Nhưng đơn giản là Mỹ chỉ chuyển hướng ném bom sang Nam Việt Nam và Lào (và bí mật đầu năm 1969 chuyển hướng ném bom sang cả Campuchia), một số lượng bom lớn hơn bao giờ hết.
Từ tháng 11-1968 đến tháng 8-1969, tôi đã ngờ nghệch hy vọng (như tất cả những người khác) về tiền đồ của một giải pháp thông qua đàm phán. Nhưng tôi có lẽ là người thuộc nhóm thiểu số vẫn còn nhớ thực tế cuộc chiến trên quy mô lớn, cùng với khả năng rằng cuộc chiến này có thể còn tiếp tục lâu dài và leo thang bằng quyết định của Washington hay Hà Nội.
Tính tới ngày 6-11-1968, một ngày sau bầu cử, tôi tiếp tục bị ám ảnh bởi chiến tranh Việt Nam sau mười tuần quyết tâm không nghĩ gì về nó nữa. Sáng hôm đó, tin tức báo chí cho biết Hubert Humphrey đã thua cuộc không khiến tôi bận tâm. Tôi đã bỏ phiếu cho Humphrey vì mọi lý do nhưng Việt Nam mới là mối quan tâm duy nhất của tôi. Tôi không có lý do gì để nghĩ rằng Nixon có thể kéo dài cuộc chiến thất bại của Đảng Dân chủ lâu hơn Humphrey. Là người của Đảng Cộng hoà, ông ta có thể làm được ngược lại. Việc ném bom ở miền Bắc đã chấm dứt, mở ra khả năng đàm phán thực sự, và Nixon đã công khai ủng hộ điều đó. Thậm chí ông ta còn đề nghị muốn tới Sài Gòn, ngay trước kỳ bầu cử, để hối thúc Thiệu đồng ý đàm phán tại Paris.
Trên thực tế, lời bình luận tồi tệ nhất mà tôi nghe được về Nixon là từ Henry Kissinger của Đại học Harvard. Ông ta là học trò cưng và là cố vấn của Nelson Rockefeller. Ông ta đến thăm Rand vào ngày thứ sáu, 8-11, ba ngày sau cuộc bầu cử theo lời mời của Fred Iklé, Trưởng khoa Khoa học xã hội.
Trong buổi nói chuyện ngày hôm đó, Kissinger nhắc đi nhắc lại tuyên bố mà ông ta đã phát biểu tại đại hội của Đảng Cộng hoà:
"Richard Nixon không xứng đáng được làm Tổng thống".
Dường như đó là lời nhận xét lộ liễu đối với một người hoạt động tích cực trong đời sống chính trị của Đảng Cộng hoà, đặc biệt giờ đây khi Nixon đã được bầu làm Tổng thống. Tuy vậy, điều đó không ngăn được Kissinger nhận lời mời của Nixon vài tuần sau đó, làm Cố vấn An ninh quốc gia.
Đây là một trong những lần đầu tiên Kissinger tới thăm Rand sau một thời gian quan hệ đóng băng từ cuối những năm 1950 vì Rand chỉ trích chủ trương của ông ta coi việc sử dụng chiến tranh hạt nhân hạn chế là công cụ trong chính sách của Mỹ viết trong cuốn sách năm 1957: "Vũ khí hạt nhân và Chính sách đối ngoại". Chủ đề này đã thu hút được sự quan tâm của Nixon, lúc đó đang làm phó Tổng thống. Một bức ảnh in trên trang nhất của tờ Thời báo New York cho thấy Nixon cầm quyển sách, tên quyển sách được in rõ ràng, khi ông ta bước vào cuộc họp của Hội đồng An ninh quốc gia. Tôi nghĩ đó là một cách quảng cáo sách kỳ lạ.
Nhưng đã nhiều năm qua, cả Nixon và Kissinger đều không có những nhận xét công khai và tích cực về vũ khí hạt nhân.
Trong những năm gần đây, Iklé đã kết bạn với Kissinger và nối lại quan hệ giữa ông ta với Rand. Về vấn đề Việt Nam, tôi có ấn tượng rất tốt với ông ta, kể từ những cuộc tranh luận ở Sài Gòn năm 1965, khi ông ta là một cố vấn tới thăm Đại sứ Lodge.
Trong buổi nói chuyện tháng mười một năm 1968 tại Rand, ông ta nói với nhân viên làm việc cho Rand, trong đó có tôi rằng, "tôi biết về Dan Ellsberg nhiều hơn bất kỳ ai ở Việt Nam". Đó là một điều rất thú vị được nghe thấy trước các bạn đồng nghiệp. Kissinger có thói quen tâng bốc về một ai đó trước mặt những người khác. Tôi biết ông ta đang muốn nói gì.
Đó không phải là những thông tin cụ thể mà tôi đã cung cấp cho ông ta khi chúng tôi nói chuyện với nhau ở Sài Gòn vào tháng mười năm 1965 - lúc đó tôi chưa phải là chuyên gia nghiên cứu sâu về Việt Nam, tôi mới đến Sài Gòn được vài tháng ông ta đã bắt đầu bằng việc đặt một câu hỏi rất hay: làm thế nào để thông báo cho ông ta thật nhanh.
Tôi đã nói với ông ấy tránh mất thời gian tại các cuộc họp chính thức hay nói chuyện với ai đó khi có mặt sếp của ông ta.
Thay vì làm điều đó, ông ta nên tìm kiếm những ai đã ở Việt Nam lâu, những ai hiểu biết rõ về tình hình - đặc biệt, những ai nói được tiếng Việt, có bạn bè người Việt và có khả năng đi lại giữa thành phố và vùng nông thôn. Ông ta nên nói chuyện riêng với họ, hỏi họ tên của những người mà họ kính trọng và sau đó tìm cách nói chuyện với những người đó. Đặc biệt ông ta nên hỏi tên của những người Việt Nam mà ông ta muốn nói chuyện. Tôi rất may mắn được người ta khuyên như vậy khi đặt chân tới Việt Nam. Tôi đưa cho ông một danh sách những người Mỹ và người Việt Nam để có thể bắt đầu công việc của mình.
Tôi đã nói với ông ấy rằng trong chừng mực mà tôi biết, McNamara không bao giờ làm điều này trong những chuyện công du thường xuyên của ông ta tới Việt Nam. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng tham dự những cuộc họp chính thức và nói chuyện với các quan chức chóp bu; và khi ông ta gặp các cố vấn hay các sĩ quan tham mưu cấp dưới thì bao giờ cũng có mặt các tướng tá của họ. Dường như ông ta không bao giờ nhận thức được rằng làm việc kiểu ấy sẽ khiến ông ta tốn kém đến đâu, Đại sứ quán và Tham mưu hỗ trợ quân sự của Việt Nam sẽ lôi kéo và ông ta sẽ bị lừa dòí đến mức độ nào. Điều tương tự cũng đúng với hầu hết các chính khách cấp cao khác.
Tôi có ấn tượng rõ nét rằng Kissinger thực sự đã làm theo những gì tôi khuyên nên làm, không giống như những người khác ông ta thực sự đã gặp những người tôi gợi ý nên gặp và chỉ trong vài cuộc gặp ngắn ngủi, đã biết được rất nhiều điều.
Ông ta đặt những câu hỏi rất thông minh và chịu khó lắng nghe, ghi chép cẩn thận những gì nghe được. Chẳng bao lâu, Kissinger cũng bắt đầu nghi ngờ và bi quan về tiền đồ của chính quyền Sài Gòn.
Năm 1967 và 1968, tôi cùng Kissinger tham dự một số hội nghị về Việt Nam, nơi ông ta trình bày quan điểm "đi trước thời đại" hơn các chính trị gia khác tại thời điểm đó. Ông ta lập luận rằng mục tiêu duy nhất của chúng ta lại Việt Nam sẽ là bảo đảm một thời kỳ chuyển giao hợp lý sau khi chúng ta ra đi và trước khi Cộng sản tiếp quản, để chúng ta có thể rút quân mà không nếm mùi nhục nhã vì thất bại của những mục tiêu trước đây. Ông ta không giải thích rõ là quá trình chuyển giao như vậy sẽ kéo dài trong bao lâu; trong những cuộc bàn bạc, mọi người thường nói là sáu tháng đến hai năm. Rất ít người hình dung ra rằng lực lượng Cộng sản đợi lâu hơn thời gian đó và một chính phủ có cả Cộng sản trong đó có thể đứng vững lâu hơn một khi quân Mỹ đã rút hết đi.
Làm thế nào để chúng ta có thể trì hoãn lâu đến như vậy?
Giả thuyết của Kissinger là Bắc Việt Nam sẽ không rút quân theo phương án cả hai bên cùng rút. Điều đó sẽ khiến cho Chính phủ Sài gòn và quân đội VNCH đối chọi với Mặt trận dân tộc giải phóng. Với việc Mỹ tiếp tục viện trợ tài chính và trang thiết bị, họ có thể trì hoãn thắng lợi của Cộng sản thêm một hai năm nữa hoặc là thoả thuận với họ. Trong khi đó, họ sẽ có thời gian chuẩn bị dựng nên một chính quyền mới.
Liệu Hà nội có đồng ý với phương án cả hai bên cùng rút quân không. Vào năm 1969 và sau đó, câu trả lời là không.
Trong vòng sáu năm sau, Bắc Việt Nam không bao giờ chấp nhận điều đó. Nhưng câu trả lời không hiển nhiên đối với tôi cũng như đối với những người khác. Lời đề nghị đó chưa bao giờ được nêu ra trong đàm phán - thực ra cũng chưa có lần đàm phán nghiêm túc nào - và miền Bắc Việt Nam được đề nghị rằng có ít nhất một cơ hội để họ chấp nhận điều đó. Do vậy đề xuất này là điểm khởi đầu thích hợp để tiến hành đàm phán. Năm 1967, những lời kêu gọi Mỹ đơn phương rút quân toàn bộ, dần dần hay ngay lập tức chủ yếu vẫn là của các trí thức cấp tiến như Howard Zinn hay Noam Chomsky (tôi mới bắt đầu đọc các bài viết của ông này), các nhà hoạt động vì hoà bình và những người kích động công luận như Abbie Hoffman và Dave Dellinger và ứng cử viên chức Tổng thống của phe Hoà bình và Tự do Eldridge Cleaver. Nhân vật chính trị lớn duy nhất đề xuất việc này là Martin Luther King.
Cương lĩnh của Đảng Cộng hoà cho chiến dịch tranh cử năm 1968 rất giống như cương lĩnh của Đảng Dân chủ được Johnson ủng hộ. Người của Nixon đã hợp lực với các đại diện của Nelson Rockerfeller, nổi bật là Henry Kissinger để chống lại quan điểm diều hâu của Thống đốc bang Ronald Reagan. Tuy nhiên, quan điểm của Kissinger gần gũi với cương lĩnh hoà bình của những người bất đồng Đảng Dân chủ hơn là cương lĩnh chính thức của một trong h.ai Đảng. Đặc biệt, mục tiêu thực tiễn của quá trình chuyển giao dường như ít tham vọng hơn và thực tiễn hơn những gì mọi người trong chính giới muốn tuyên bố công khai. Nó di quá cả việc khuyến khích thành lập ra một chính phủ liên hiệp - cương lĩnh thoả hiệp mà Humphrey chấp nhận nhưng Johnson và các lực lượng của ông ta đã bác bỏ - để quy định việc chấp nhận một chính phủ Cộng sản ở Sài Gòn, không ngay lập tức nhưng có thể trong một vài năm. Không một nhân vật chính trị nào công khai tuyên bố điều đó.
Tất nhiên, Kissinger chưa công khai tuyên bố đề xuất của mình, nhưng ông ta đã hối thúc ứng cử viên của Đảng Cộng hoà Nelson Rockerfeller. Mặc dù những người chỉ trích kêu gọi ngừng ném bom và Mỹ rút quân nhưng ngụ ý nói tới việc chấp nhận một chính quyền gần như là Cộng sản ở Nam Việt Nam, họ không nói điều đó một cách rõ ràng, thậm chí khi bàn bạc riêng với nhau, Kissinger sẵn sàng nói đó là một kết cục có thể chấp nhận được trong ngắn hạn và điều này nghe thật kỳ quặc đối với phe chỉ trích.
Nhìn chung, đối với những người trong cuộc không theo đuổi chính sách diều hâu và các học giả biết những gì Kissinger nói trong năm 1968, thì mọi người thấy an tâm khi Nixon bất ngờ chọn ông ta làm Cố vấn An ninh quốc gia sau khi được bầu làm Tổng thống. Ẩn ý ở đây là mong muốn của Nixon "thoát khỏi vũng lầy Việt Nam" cũng lớn như của Humphrey. Giả thuyết này được củng cố khi bài báo của Kissinger đăng trên Tuần báo Quốc tế có tiêu đề là "Đàm phán về Việt Nam" xuất hiện vào tháng giêng năm 1969. Cuối cùng bài báo này cũng lý giải công khai và chi tiết những lập luận riêng trước đây của ông ta cho quá trình tìm kiếm "thời gian quá độ hợp lý" trước khi Cộng sản tiếp quản Sài Gòn. Xét về nhiều phương diện, đó là đóng góp có giá trị vào những cuộc bàn thảo về Việt Nam.
Nhưng căn cứ vào thời gian và hoàn rảnh thì dường như mọi việc còn hơn thế. Xuất hiện cùng lúc với việc chính quyền mới tuyên thệ nhậm chức, trong đó việc bổ nhiệm ông ta đã được thông báo trước đó hai tháng, bài báo này trông giống như việc trình bày luồng quan điểm chính thống. Người ta mặc nhiên cho rằng tân Tổng thống chắc hẳn đã đọc nội dung bài báo, hoặc ít nhất cũng nắm được sơ sơ nội dung đó, trước khi bổ nhiệm và chắc chắn Tổng thống đã đồng ý cho xuất bản bài báo.
Ấn tượng này là giả tạo. Chừng nào ông ta còn đương nhiệm và thậm chí về sau này, Nixon không bao giờ chấp nhận rằng Sài Gòn sẽ trở thành thành phố Hồ Chí Minh dưới trướng Cộng sản sau thời gian "quá độ" hợp lý và ông ta sẵn sàng không chỉ kéo dài cuộc chiến tranh vô thời hạn mà còn mở rộng quy mô cuộc chiến. Kissinger chắc chắn đã được sếp mới của mình thông báo về điều này trước khi bài báo xuất hiện. Nhưng đó là điều bí mật mà ông ta giữ kín, không cho ai ở trong và ngoài Nhà Trắng biết.
Sau khi được Nixon bổ nhiệm, Kissinger yêu cầu Harry Rowen, Giám đốc của Rand chuẩn bị nghiên cứu "Các phương án đối với Việt Nam" và triệu tập cuộc họp đầu tiên của Uỷ ban An ninh quốc gia vào tháng giêng. Ông ta yêu cầu việc này thông qua Fred Inkle. Harry đề xuất tôi sẽ chủ trì công trình nghiên cứu đó. Với kiến thức của tôi thì đó là sự lựa chọn tự nhiên. Kissinger đồng ý việc này, mặc dù có hơi do dự. Inkle nói với tôi rằng Kissinger rất vui khi có tôi chủ trì nghiên cứu nhưng ông ta hơi nghi ngại một chút về "tài phán xét" của tôi.
Tôi rất ngạc nhiên. Không một ai nghi ngại về điều đó cả, trong một thập kỷ vừa qua. Toàn bộ công việc của tôi dựa trên sự tin tưởng vững chắc của mọi người đối với "tài phán xét" của tôi (Tôi không tin rằng Kissinger hay ai đó ngoài tờ Thời báo New York biết rằng tháng 3 năm ngoái tôi có bí mật cung cấp thông tin cho Neil Sheehan). Điều gì đã khiến ông ta nghi ngại về tôi như vậy?
Fred trả lời: "Henry nói rằng rất có lợi cho ông ta vì anh tỏ ra thẳng thắn khi nói chuyện với ông ta ở Việt Nam. Nhưng bây giờ ở vào cương vị khác, ông ta nhìn nhận tình hình cũng khác đi ngụ ý ông ta vẫn còn nhớ tính trung thực của tôi ở Sài Gòn - đó là lý do tại sao ông ta tâng bốc tôi vài tuần trước - có thể làm ông ta lo lắng khi nhận tôi vào làm tư vấn. Tôi nói với Fred: "Nhưng khi tôi nói chuyện với ông ta lúc đó, ông ta là nhà tư vấn chính thức cho sếp của tôi là Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn cơ mà?".
Không có vấn đề gì. Thông điệp là ở chỗ chuẩn mực về phán xét giờ đây còn cao hơn. Hoá ra Kissinger khá nhạy cảm với việc tuyên bố công khai rằng ông ta quay ra nhờ Rand giúp đỡ, mà Rand lại là một công ty ngoài, chủ trương hoà bình (theo chuẩn mực của Đảng Cộng hoà) trong cộng đồng quốc phòng. Đặc biệt ông ta không muốn mọi người biết rằng tôi có tham gia vào công trình nghiên cứu, bởi vì tính đến thời điểm đó, những người trong cuộc đều biết tôi phê bình việc Mỹ can thiệp vào Việt Nam. Chính vì kính trọng tôi mà Kissinger đã đồng ý cho tôi tham gia vào nghiên cứu. Tôi nói với Fred rằng Henry không cần phải lo lắng như vậy.
Tuy nhiên, bản thân tôi cũng hoài nghi khi tham gia làm công việc kiểu như vậy trong giai đoạn này. Điều hiển nhiên là từ quan điểm của Kissinger, khi được giới thiệu với Tổng thống, cách trình bày của anh ta cần được coi là "cân bằng", "khách quan, thể hiện những "phương án khác nhau" mà không lập luận mạnh mẽ ủng hộ phương án này hơn phương án khác. Tại thời điểm này tôi không thấy an tâm về việc áp đặt các quan điểm của tôi đối với các vấn đề khác nhau mà tôi thấy tâm huyết, trong bài trình bày cho Tổng thống. Nếu Tổng thống mới, dù là Nixon hay Wallace muốn biết tôi hay ai đó khác ở Rand có kinh nghiệm về Việt Nam nghĩ gì - hoặc thậm chí nếu anh ta không đề nghị điều đó, nếu có cách nào đó để trình bày quan điểm của chúng tôi trước anh ta - thì điều đó rất tốt.
Tuy nhiên, đã nhiều năm nay Rand muốn hoạt động ở cấp chính sách cao hơn là lực lượng không quân hay thậm chí cả Bộ Quốc phòng. Đây thực sự là cơ hội đầu tiên Rand có để làm việc trực tiếp với Nhà Trắng, giúp đỡ Kissinger có thể mở ra những cánh cửa cho Rand. Tôi cũng muốn giúp Harry, mặc dù tôi hơi nghi ngờ về việc trình bày những cách tiếp cận mà tôi tin rằng là những cái bẫy nguy hiểm. Bên cạnh đó, tôi chợt nảy ra ý nghĩ rằng ngay cả nếu tôi có đề cập đến trong bài trình bày của tôi những thuận lợi và bất lợi hơn là tôi muốn thì vẫn có những lợi thế khi tham gia vào công trình nghiên cứu này. Tôi có thể bảo đảm rằng tôi sẽ trình bày một cách đầy đủ và hợp lý hơn những bất lợi của việc leo thang và những thuận lợi của các phương án hoà bình, so với một nhóm làm việc bao gồm các sĩ quan quân đội. Xác định các phương án chiến lược phản ánh các mục tiêu và quan điểm khác nhau đã từ lâu là chuyên môn chính của tôi, tại Rand và trong chính phủ. Đó là một lý do khác, cùng với kinh nghiệm của tôi ở Việt Nam và Washington, khiến cho tôi trở thành điều phối viên của công trình nghiên cứu này.
Nhưng về việc xác định tất cả các phương án, thì quan điểm của tôi rất kiên định. Có một người tại một trong những cuộc họp đầu tiên mà tôi chủ trì nói rằng để giải quyết vấn đề một cách hoàn thiện thì chúng ta có thể sử dụng vũ khí hạt nhân. Tôi nói, nếu tôi không liên quan gì đến công trình nghiên cứu này thì tôi sẽ không ký vào một tài liệu nào gợi ý sử dụng vũ khí hạt nhân, bất kỳ tình huống gì ở Việt Nam. Kể từ đó, không ai còn nêu lại vấn đề này nữa và từ "hạt nhân" không còn xuất hiện trong bất kỳ bản thảo nào của công trình nghiên cứu.
Sẽ có một chính quyền mới, một đảng phái mới lên nắm quyền sau 8 năm. Cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân năm 1968 đã làm suy yếu chiến lược Westmoreland và Bộ trưởng Clifford đã hạn chế mức trần đối với số lượng quân. Đàm phán chính thức bắt đầu được tiến hành. Việt Nam đang sẵn sàng, đang yêu cầu và trông đợi những thay đổi. Trên hết, những gì cần làm là theo hướng rút quân. Nhưng vấn đề là làm thế nào và tốc độ được đến đâu?
Tôi đi Washington trong hơn một tuần để kiểm tra những thông tin của tôi với Lầu Năm Góc và Bộ Ngoại giao. Tôi đọc các bức điện tín, những dự đoán và có những cuộc nói chuyện lâu với Mort Halperin, Les Gelb và một số người khác để lấy ý tưởng về những gì một vị tân Tổng thống cần đến nhất. Tôi đi đến kết luận rằng những gì ông ta cần nhất là nhận thức được sự rạn nứt trong suy nghĩ trong nội bộ các quan chức đã trở nên sâu sắc hơn và hệ thống hơn so với nhiều năm nay.
Vào buổi chiều trước ngày lễ Giáng sinh năm 1968, tôi đưa tập bản thảo cuối cùng về các phương án cho các thư ký tại Rand đánh máy. Sau khi dàn xếp với vợ cũ của tôi, tôi vui đêm trước Giáng sinh với hai con. Đêm đó tại Malibu, tôi tặng quà cho chúng. Ngày hôm sau, Giáng sinh, tôi lái xe đưa chúng tới mẹ chúng, lấy những giấy tờ tại Rand và ra sân bay với Harry Rowen và Fred Inkle. Tối hôm đó, tại New York, chúng tôi nghỉ ở khách sạn Pierre, nơi mà Nixon và Kissinger đang sử dụng làm đại bản doanh của mình khi chuẩn bị nhậm chức Tổng thống. Tôi đưa tập tài liệu nghiên cứu cho Kissinger đọc trong đêm hôm đó vì sáng hôm sau tôi muốn trao đổi với ông ta.
Sáng ngày hôm sau, trong phòng khách sạn Henry đang sử dụng làm văn phòng làm việc, tôi bàn thảo với ông ta từng trang một của 72 trang tập tài liệu nghiên cứu. Fred và Harry không có mặt ở đó, nhưng Kissinger đã mời Tom Schelling tới New York để cùng làm việc này. Schelling là một giáo sư kinh tế tại Đại học Harvard, có ảnh hưởng lớn đến tư duy của tôi về học thuyết mặc cả. Ông ta trước đây là cố vấn chính thức cho luận văn tiến sĩ của tôi. Giờ đây ông ta là một nhà tư vấn tại Rand và cũng là bạn thân của tôi. Trước đây tôi không biết Kissinger và Schelling thân nhau đến mức độ nào.
Hoá ra, Schelling đặt nhiều câu hỏi hơn Kissinger. Một trong những nhận xét đầu tiên của ông ta là: "Dan, anh không có chiến lược chiến thắng ở đây, một chiến lược mà theo anh chúng ta phải sử dụng để chiến thắng". Thực ra ba chiến lược quân sự đầu tiên mà tôi đưa ra được coi như "Chiến thắng thông qua thương lượng với Cộng sản" và niềm tin của những người ủng hộ chiến lược đó vào chiến thắng, trong những quãng thời gian khác nhau, đều được giải thích rõ ràng. Nhưng tôi không hề tin vào những dự đoán này hoặc giả thuyết cho những dự đoán đó hoặc các chiến lược đi kèm.
Tom nói: "Tôi có cảm giác rằng khi anh trình bày một loạt những phương án trước Tổng thống, anh phải trình bày một chiến lược mà ông nghĩ sẽ đem lại chiến thắng, cho dù anh có thể không kiến nghị áp dụng nó vì nó quá tốn kém hay nguy hiểm hay vì một lý do nào khác. Anh sẽ nói: "Đây là những gì chúng ta phải làm để chiến thắng", cho dù anh không nghĩ là Tổng thống nên làm điều đó".
Tôi nói: "Nhưng tôi không tin rằng sẽ có cách nào đó giúp chúng ta chiến thắng. Một phương cách như vậy không tồn lại. Một số người nghĩ rằng họ có thể làm được điều đó và tôi đã vạch ra những cách tiếp cận của họ nhưng tôi nghĩ họ chỉ nói đùa. Tôi không tin rằng hy vọng của họ chỉ hơn những ảo tưởng".
Mọi người im lặng một lúc. Theo như tôi biết thì trước đó, Kissinger cũng có những kết luận tương tự. Tôi nói tiếp: "Anh có thể đưa một triệu quân vào Nam Việt Nam, có thể là hai triệu và bình ổn tình hình ở đó cho đến khi họ rút quân.
"Anh có thể xâm lược Bắc Việt Nam, giống như người Pháp và sẽ diễn ra một cuộc chiến tranh tồi tệ gấp năm lần những gì chúng ta đã có. Anh có thể đuổi lực lượng Cộng sản qua biên giới, chạy sang Lào và Trung Quốc và tiếp tục đánh đuổi họ. Nhưng anh có thể làm điều đó bao xa và trong bao lâu?
"Anh có thể giết hết mọi người với vũ khí hạt nhân. Tôi không coi đó là chiến thắng". Tôi nói thêm, thực ra nếu có cái gì đó còn sống sót thì có lẽ đó là bộ máy kiểm soát của Đảng Lao động (của lực lượng Cộng sản), bộ máy có thể hoạt động ở Lào hay Trung Quốc nếu cần thiết".
Schelling không nhấn mạnh điểm này, nhưng anh ta đưa ra sự chỉ trích khác: "Ở đây, anh chưa nói gì tới các mối đe doạ. Anh không có chiến thuật đe doạ".
Tôi rất ngạc nhiên. Cả Schelling và tôi đều là các nhà phân tích về lý thuyết mặc cả và đe doạ và ông ta còn là thầy của tôi.
Tôi thấy rất ngượng khi chính ông ta chỉ ra sai sót này của tôi.
Tôi nói: "Giáo sư nói đúng". Sau đó tôi nói thêm: "Tôi thấy rất khó tin rằng những lời đe doạ leo thang chiến tranh sẽ có tác động đối với họ. Chúng ta thực sự đã ném bom Việt Nam trong 3 năm nay và điều đó không mang lại cho chúng ta sức mạnh trên bàn đàm phán". Tuy nhiên tôi có đưa vào nghiên cứu những phương án khác được Lầu Năm Góc ưa thích nhưng tôi nghĩ sẽ không có tác dụng gì.
Cuối cùng Kissinger nói: "Làm thế nào mà anh có thể tiến hành hoạt động ngoại giao mà không đe doạ leo thang? Thiếu điều đó chúng ta sẽ không có cơ sở để đàm phán".
Tôi nói: "Henry, rất nhiều tiến trình thương lượng, rất nhiều cuộc đàm phán diễn ra trên thế giới mà đâu cần đến lời đe doạ ném bom".
Nhưng tôi chấp nhận luận điểm của Tony. Tôi nói tôi sẽ đưa phương án đe doạ vào trong bản thảo tiếp theo. Ngày hôm đó, tôi làm việc tiếp với phương án đó, chuyển sang phương án tiếp theo và nộp tập tài liệu nghiên cứu vào buổi chiều.
Trong cuộc gặp thứ hai với Kissinger tại khách sạn Pierre vào ngày 27 tháng mười hai, tôi thảo luận về mục đích đằng sau những câu hỏi mà tôi đã đưa vào phụ lục của tập tài liệu.
Tôi thông báo cho ông ta biết về những vấn đề mà McNamara đã trình bày trước các bộ phận khác nhau của Bộ Quốc phòng Mỹ khi ông ta bắt đầu làm việc tại Lầu Năm Góc và những vấn đề mà sau đó tôi đã phác thảo trong kế hoạch của Tổng Tham mưu trưởng có liên quan tới chiến tranh hạt nhân, mà Thứ trưởng Quốc phòng đã gửi cho các tham mưu trưởng vào mùa xuân năm 1961. Trong cả hai trường hợp, giá trị của những vấn đề này không phải chỉ là lấy thông tin; bản thân các vấn đề này có những tác động riêng của nó. Chúng giúp sớm định hình quyền lực của McNamara trong Lầu Năm Góc. Một mặt, những vấn đề này cho thấy ông ta và các phó tướng có những cố vấn rất quen thuộc với những cuộc tranh cãi bên trong Lầu Năm Góc. Do vậy sẽ nguy hiểm nếu lừa dối ông ta về một mặt trận thống nhất. Ông ta có những trợ thủ đắc lực, những cánh tay phải, biết được "những xác chết được chôn cất ở đâu". Ông ta có những nguồn thạo tin hoặc các cố vấn có kiến thức và tin tức rất cập nhật. Dù thế nào đi nữa, ông ta sẽ phát hiện ra ngay khi mình bị lừa phỉnh và sẽ phản ứng.
Hơn thế nữa, trong trường hợp của Việt Nam, điều quan trọng đối với Tổng thống là biết được quy mô của các vấn đề tranh luận. Ông ta sẽ không biết được điều đó nếu ông ta chỉ theo cách thông thường là hỏi vấn đề đó với các cơ quan phụ trách nó. Thông thường các cơ quan khác bị cấm bày tỏ quan điểm của mình trực tiếp với Tổng thống, có thể có những nguồn thông tin không những khác mà còn có sức thuyết phục hơn, khách quan hơn và đáng tin cậy hơn.
Một ví dụ là xung đột giữa các tướng lĩnh ở Việt Nam và CIA chỉ về việc thực lực của Việt Cộng đến đâu trong năm trước đó Thông thường, không một cơ quan tình báo dân sự nào được mời tới hoặc được phép ước tính về sức mạnh quân sự của đối phương mà lại không có sự tham gia của Tổng tham mưu trưởng hoặc các tham mưu mặt trận mặc dù những ước tính của CIA phù hợp và chính xác hơn. Nhưng hiện giờ còn có hơn mười vấn đề gây nên xung đột kiểu như vậy, ví dụ như hoạt động của Quân đội Việt Nam cộng hoà hoặc là khả năng chống đột kích bằng cách đặt mìn ở Hải Phòng hay ném bom miền Bắc. Thông thường người ta không mời các cơ quan dân sự như CIA hay bộ phận tình báo của Bộ Ngoại giao (INR) hay các cán bộ dân sự trong Bộ Quốc phòng (các vấn đề An ninh quốc tế và phân tích hệ thống) tới để góp ý trực tiếp với Tổng thống về các vấn đề quân sự. Giả sử rằng họ có làm việc đó thì bên quân đội, Tổng Tham mưu trưởng liên quân và Tư lệnh hỗ trợ quân sự của Việt Nam sẽ nổi đoá lên và rêu rao rằng "những cán bộ dân sự này" đang vượt quá quyền hạn và chuyên môn của họ.
Đối với vấn đề chuyên môn, bao gồm cả tính khách quan trong đó, lời cáo buộc nêu trên là hoàn toàn sai, xét về thông tin, kinh nghiệm khu vực và khả năng phân tích. Vì lẽ đó, nhiều chuyên gia trong các cơ quan dân sự này cũng là những sĩ quan quân đội cừ khôi. Đánh giá của họ về những vấn đề này trong thời điểm hiện tại không chỉ khác và bi quan hơn thế hệ cha anh họ, mà còn đáng tin cậy hơn. Nhưng bên quân đội, lấy cớ bảo vệ đất nước, có thể ngăn cản Tổng thống không nghe những ý kiến vớ vẩn này.
Tôi cho rằng những gì Nixon có thể làm một lần khi còn đang đương nhiệm là giải quyết một số vấn đề được lựa chọn kỹ lưỡng trước các cơ quan chuyện trách và kêu gọi tách biệt các cơ quan riêng ra mà không có sự điều phối. Nhưng bạn không thể cấm việc điều phối được. Đó là một thông lệ bình thường và là bản chất của quá trình quan liêu. Nhưng nhiều khi bạn có thể hợp thức hoá việc trình lên Tổng thống những ý kiến đa chiều và "nổi loạn" mà nhiều khi rất khó chuyện được đến cấp cao nhất.
Quá trình này bảo vệ tân Tổng thống khỏi hai vấn đề cùng một lúc. Thứ nhất, những câu trả lời dành cho Tổng thống từ các cơ quan chức năng thường là sai hoặc không đáng tin cậy hơn là những câu trả lời ông ta có được từ các nơi khác. Thứ hai, dù đúng hay sai, những ý kiến này sẽ được trình bày với mức độ chắc chắn nhất định. Việc tập hợp một lần tất cả những đánh giá mâu thuẫn nhau về cùng một vấn đề có thể không phải là mối quan tâm của Nhà Trắng, nhưng đó có thể là lời cảnh báo có giá trị về tình trạng thiếu chắc chắn của các nhận định.
Hơn thế nữa, chính việc tiết lộ những tranh cãi và quan điểm không hề có sức thuyết phục của một số cơ quan (trong tình hình có những thách thức và trả đũa cùng với những câu trả lời) sẽ gây ra những tình huống khó xử. Nó sẽ khiến những kẻ quan liêu phải lui về thế phòng thủ trước các nguồn câu hỏi - có nghĩa là Kissinger.
Kissinger thích điều đó. Điều đó thật hấp dẫn ông ta mà lúc đó tôi không hay biết gì. Với sự giúp đỡ của Kissinger, Nixon dự tính tập trung vào kiểm soát chính sách đối ngoại bao gồm cả Việt Nam trong Nhà Trắng và điểm cuối cùng của tôi sẽ giúp Kissinger có những động thái để làm được điều đó. Hơn thế nữa, ông ta đã có Morton Halperin soạn thảo cho ông ta những thủ tục mới đối với việc điều phối kế hoạch giữa các cơ quan dưới sự lãnh đạo của ông ta với tư cách là Chủ tịch Hội đồng An ninh quốc gia. Trong tháng tới, những vấn đề mà tôi đã soạn thảo cho ông ta và cả những vấn đề ông ta nêu ra khiến cho các cơ quan phải bận tâm và bận rộn suy nghĩ trong khi ông ta sắp xếp mọi việc vào vị trí; có thể ông ta đã dự đoán được tác động tiềm năng này ngay khi tôi nói chuyện với ông ta.
Dù thế nào, khi kết thúc buổi bàn thảo của chúng tôi, Kissinger bảo tôi tách danh sách câu hỏi của tôi ra khỏi tập tài liệu, nêu các phương án và làm cho danh sách này dài hơn nữa (danh sách lúc ban đầu của tôi chỉ bao gồm các ví dụ), và ông ta sẽ công bố danh sách đó như một chỉ thị nghiên cứu riêng, một tài liệu nghiên cứu an ninh quốc gia (NSSM). (NSSM này được gọi là NSSM-1, tài liệu đầu tiên trong hàng trăm tài liệu sau này ông ta yêu cầu tiến hành). Ông ta yêu cầu tôi làm việc cật lực với tài liệu đó ngay lập tức. Fred Inkle sẽ đảm nhận việc soạn thảo bản cuối cùng của tập tài liệu bao gồm các phương án.
Kissinger không vội vã gì kết thúc câu chuyện của chúng tôi vào sáng hôm đó và tôi có thêm một thông diệp mới chuyển tới ông ta. "Henry, có một vài điều tôi muốn nói với anh. Những điều đáng nhẽ tôi phải được biết nhiều năm trước đây. Anh đã là người cố vấn trong thời gian dài và anh đã xử lý rất nhiều tài liệu tối mật. Nhưng sắp tới anh sẽ nhận được một loạt các tài liệu mới, còn hơn cả tối mật nữa kia.
"Bản thân tôi đã có một ít tài liệu này rồi và tôi cũng biết những ai vừa mới có được tài liệu và tôi cảm nhận được tác động của tập tài liệu đó với một người mà người này không hề biết rằng có tồn tại một tập tài liệu như vậy. Và tác động tới bản thân ông khi ông đọc những thông tin trong tập tài liệu đó.
"Thứ nhất, ông sẽ rất hào hứng với những thông tin mới này và với việc ông sẽ được tiếp cận với toàn bộ thông tin này một cách bất ngờ. Điều này thật không thể tin nổi. Thứ hai, một cách nhanh chóng, ông sẽ cảm thấy mình như một chàng ngốc sau khi đã nghiên cứu, đã viết, đã đọc về những chủ đề này, phê bình và phân tích các quyết định của Tổng thống trong hàng năm trời mà không biết là có tồn tại những thông tin như vậy, những thông tin mà Tổng thống và những người khác có nhưng anh lại không và thông tin này chắc chắn đã gây ảnh hưởng lên quyết định của họ. Đặc biệt, anh sẽ cảm thấy ngốc nghếch hơn vì đã tiếp xúc hơn 10 năm với một số quan chức và giữa cố vấn, những người được tiếp cận với tất cả các thông tin mà anh không biết và không biết rằng họ có thông tin đó, và anh sẽ té ngửa khi biết rằng họ giấu không cho anh biết những thông tin đó một cách khéo léo.
"Ông sẽ cảm thấy như một chàng ngốc, và điều đó sẽ kéo dài khoảng 2 tuần. Sau đó, sau khi anh đã bắt đầu đọc tất cả những thông tin tình báo hàng ngày này và quen với việc sử dụng bao nhiêu thông tin bí mật trong thư viện, anh sẽ quên rằng đã có thời anh không có thông tin đó và anh sẽ nhận ra rằng bây giờ anh có thông tin và phần lớn những người khác thì không và tất cả những người khác là những kẻ ngờ nghệch.
"Trong tương lai - không quá lần đầu, chỉ khoảng hai hay ba năm thôi - cuối cùng anh sẽ thấy mặt hạn chế của những thông tin này. Có rất nhiều điều những thông tin này không giúp ích gì cho anh, bởi chúng không chính xác và có thể lừa dối anh giống như tờ Thời báo New York vậy. Nhưng phải mất một thời gian anh mới nhận ra điều đó.
"Trong khi đó, sẽ rất khó khăn cho anh lấy được thông tin từ những ai không có mấy thẩm quyền. Bởi vì anh sẽ nghĩ, "Người này sẽ nói gì với ta khi mà ông ta biết những gì ta đã biết cơ chứ? ông ta sẽ khuyên ta như những người khác hay là điều đó sẽ làm thay đổi toàn bộ những dự đoán và kiến nghị của ông ta?
Và những câu hỏi mệt mỏi như vậy sẽ tra tấn anh. Tới một lúc nào đó anh sẽ từ bỏ và không còn muốn nghe người khác nói nữa. Tôi đã có kinh nghiệm về chuyện này với sếp của tôi, đồng nghiệp của tôi và cả bản thân tôi nữa.
"Anh sẽ tiếp xúc với một người không có thẩm quyền và anh sẽ phải nói dối rất khéo với ông ta về những gì anh biết.
Trên thực tế, anh sẽ phải lợi dụng ông ta. Anh sẽ không còn muốn cố gắng đánh giá những gì ông ta nói. Nguy cơ là ở chỗ anh sẽ trở thành một cái gì đó giống như kẻ khờ khạo. Anh sẽ không thể học được từ nhiều người trên thế giới này, cho dù họ có kinh nghiệm đến đâu đi nữa về những lĩnh vực khác nhau".
Đó là một bài nói mà tôi đã nghĩ trước, một bài nói mà tôi muốn giảng giải cho ai đó sắp bước vào thế giới "những bí mật thực sự". Cuối cùng tôi nói rằng từ lâu tôi đã nghĩ đến những thông tin bí mật này như những phần thức ăn bố thí cho người gặp nạn đắm tàu hay bị bỏ rơi trên hoang đảo và họ biến thành những con lợn bẩn thỉu. Họ không hiểu được tiếng người và không tìm thấy đường về nhà.
Kissinger không ngắt lời khi tôi nói. Như tôi đã nói, ông ta rất chịu khó lắng nghe. Ông ta dường như hiểu rằng những gì tôi nói là chân thành, chứ không phải "kẻ cả", "lên lớp" với ông ta, như tôi vốn e ngại. Nhưng tôi biết, bây giờ còn quá sớm để ông ta có thể đánh giá cao tất cả những gì tôi đang mới.
Vào giữa tháng hai, Halperin gọi tôi tới Washington để xem những thư hồi âm của các cơ quan chức năng với NSSM-1, tổng cộng dày hơn 500 trang. Trợ lý của ông ta, Winston Lord, một cán bộ đối ngoại trẻ, đang tập hợp các thư hồi âm, chia các phần của bức thư gửi tới các bộ phận khác nhau trong Hội đồng An ninh quốc gia để so sánh và tóm tắt cho Tổng thống. Vì tôi đã viết tất cả các câu hỏi trong đó có tính tới những bàn cãi có thể nảy sinh, Halperin muốn tôi là người sẽ đọc tất cả các câu trả lời và kiểm tra xem những phần tóm tắt có gây ra bất đồng lớn hay tạo ra sự nhất trí cao hay không. Tôi cũng giúp Lord soạn thảo bản tóm tắt cuối cùng, mặc dù anh ta là người viết phần lớn bản tóm tắt, dựa trên những phần của nhóm làm việc mà anh ta lập ra.
Những ý kiến khác nhau cho thấy những gì tôi đã dự đoán trong bản thảo của tôi về tập tài liệu trình bày những phương án khác nhau. Một liên minh tập hợp Tổng Tham mưu trưởng, CINCPAC, Tham mưu hỗ trợ quân đội và Đại sứ quán Mỹ tại Sài Gòn cùng với Vụ Đông Á của Bộ Ngoại giao chia sẻ quan điểm lạc quan. Quan điểm của họ đối trọng với một nhóm khác, bao gồm CIA, Văn phòng của Bộ trưởng Quốc phòng (ISA và phân tích hệ thống), bộ phận tình báo của Bộ Ngoại giao và các nhà phân tích dân sự ở Washington. Nhóm này bảo thủ và bi quan hơn nhóm đầu tiên trong quan điểm của họ về tiến trình bình định, về tác động của việc ném bom Lào và Việt Nam và chiến tranh ở miền Nam, ảnh hưởng của Việt Cộng ở khu vực nông thôn và sức mạnh tổng lực. Đối với tôi, ảnh hưởng của Việt Cộng ở khu vực nông thôn và sức mạnh tổng lực xem chừng thực tế hơn. Nhưng dù thế nào thì tôi cũng rất vui khi thấy những ước đoán của họ được trình bày trước Tổng thống. Thậm chí những ước đoán của nhóm đầu tiên (bao gồm chủ yếu các thành phần trong quân đội) cho thấy phải mất 8,3 năm mới có thể bình định xong 4,15 triệu Việt Cộng. Những người bi quan hơn thì dự đoán để hoàn thành việc đó phải mất 13,4 năm.
Quan trọng hơn nữa, NSSM-l cuối cùng đã đặt dấu chấm hết cho chiến lược tiêu hao lực lượng. Tư lệnh hỗ trợ quân đội cùng với Tổng Tham mưu trưởng phải thừa nhận rằng cho dù những tổn thất lớn lao của Mặt trận dân tộc giải phóng và quân đội Bắc Việt Nam trong năm 1968 nhưng họ vẫn có thể dễ dàng bù lại được từ những lần tuyển quân mới ở cả miền Bắc và miền Nam Việt Nam. Hơn thế nữa, nếu không có cuộc tấn công Tết Mậu Thân 1968 thì sẽ không thể làm tiêu hao lực lượng của họ.
"Ba phần tư số trận đánh là do đối phương chọn địa điểm, thời gian và hình thức. CIA ghi nhận rằng chưa tới 1% trong tổng số gần 2 triệu hoạt động quân sự nhỏ lẻ diễn ra trong hai năm qua đều dẫn đến những liên lạc với đối phương và khi tiến hành khảo sát trong Quân đội Cộng hoà Nam Việt Nam thì tỷ lệ này còn giảm xuống còn 1/10 của l%. Do vậy mọi người đều đồng ý rằng: "Theo những quy định hiện nay về mức độ can thiệp vào Việt Nam (giới hạn số lượng lính bộ binh ở Nam Việt Nam), lực lượng của đối phương và khả năng biệt kích là mạnh hơn so với khả năng tiêu hao lực lượng của quân đội Mỹ trong một thời gian dài. Nhìn chung, phía đối phương có thể làm chủ tỷ lệ thương vong của cả hai bên".
Một số điểm được mọi người tán thành quan trọng hơn những điểm mọi người bất đồng. Dưới đây là những gì chúng tôi đã nhất trí và trình lên Tổng thống:
- Chính phủ Nam Việt Nam đã cải thiện được vị thế chính trị của mình, nhưng không chắc là chính phủ này và những lực lượng phi cộng sản có khả năng đấu tranh hoà bình với Mặt trận dân tộc giải phóng để giành quyền lực chính trị tại Nam Việt Nam hay không.
- Chỉ riêng RVNAF (tập hợp tất cả các lực lượng quân sự ở Sài Gòn, bao gồm cả Quân đội Việt Nam cộng hoà), trong giai đoạn hiện nay và trong tương lai gần, không thể kháng cự lại được lực lượng Việt Cộng - Bắc Việt Nam.
- Đối phương đã gặp một số thất bại nhưng họ không thay đổi mục tiêu cơ bản của mình và họ có đủ sức mạnh để theo đuổi các mục tiêu đó. Chúng ta không thể tiêu hao lực lượng của họ nhanh hơn là họ có thể tuyển quân hay gửi biệt kích.
Tất cả mọi người đều nhất trí rằng chính sách Việt Nam hoá sắp được công bố nhằm mở rộng, trang bị lại, hiện đại hoá Quân đội Việt Nam cộng hoà và các lực lượng quân sự phi cộng sản khác để có thể đảm đường được vai trò lớn hơn trên chiến trường sẽ không giúp họ chống lại được lực lượng quân đội Bắc Việt Nam không có "sự hỗ trợ của Mỹ dưới hình thức không quân, máy bay trực thăng, pháo binh, hậu cần và bộ binh". Thực ra, Tổng Tham mưu trưởng, CINCPAC và Tư lệnh hỗ trợ quân đội đều tin rằng phải mất ít nhất 3 năm trước khi lực lượng quân đội Nam Việt Nam, không được Mỹ hậu thuẫn, có thể đối phó với phong trào nổi dậy của lực lượng Việt Minh ở Nam Việt Nam.
Bộ Quốc phòng không nghĩ rằng mục tiêu đó có thể thực hiện được trước năm 1972 mà không có sự cải tổ lớn trong Quân đội Cộng hoà Nam Việt Nam.
Sau khi Winston và tôi soạn thảo xong bản tóm tắt những câu trả lời cho NSSM-l để trình lên Tổng thống, tôi quyết định gợi ý một số chủ đề khác để tiếp tục nghiên cứu, bao gồm một nghiên cứu về mức độ thiệt hại cho dân thường từ những cuộc ném bom và sử dụng pháo. Một nghiên cứu khác có liên quan đến công trình nghiên cứu gần đây nhất, bản "Đánh giá tình báo quốc gia" (NIE 50-68). Công trình này đánh giá thấp tầm quan trọng của học thuyết Domino và kết luận rằng diễn biến như vậy sẽ khiến cho Lào và Campuchia rơi vào quỹ đạo của Hà Nội nhưng "không nhất thiết là gây phương hại tới châu Á". Lord và tôi thông báo, tất cả các cơ quan có văn bản trả lời đối với NSSM-1 đều "bác bỏ quan điểm cho rằng một giải pháp không thấu tình đạt lý ở Việt Nam chắc chắn sẽ dẫn đến việc Cộng sản tiếp quản bên ngoài khu vực Đông Dương. Một số người khác còn tỏ ra bi quan hơn, nhưng việc gọi những tác động tiêu cực là "những điều chỉnh thực tế" như người Thái Lan vẫn nói, hay "một số biện pháp thích nghi" không nói rõ là những biện pháp này sẽ gây phương hại thế nào tới an ninh của Mỹ. Sau 15 năm cảnh báo về những "điều chỉnh" hay "thích nghi" tại Đông Nam Á và xa hơn thế nếu Việt Nam trở thành nhà nước cộng sản, tôi kiến nghị một công trình nghiên cứu liên ngành để xem xem những từ ngữ nêu trên có ý nghĩa cụ thể nào, tại sao lại như vậy và chúng ta cần phải quan tâm nhiều đến đâu.
Khi Mort Halperin trình bày với Kissinger nghiên cứu tôi đã đề xuất để xin chữ ký, Kissinger nói với ông ta: "Giờ đây chúng ta đã có quá đủ câu hỏi rồi". Đối với tôi điều đó nghe không hợp lý sau khi chúng tôi đã gửi đi hơn 20 câu hỏi của NSSM-1, nhưng tất nhiên chưa một nghiên cứu nào trong số này được tiến hành.
Khi tôi chuẩn bị đi, tôi thấy rõ rằng 500 trang những câu trả lời từ các cơ quan khác nhau đối với các câu hỏi của NSSM-l sẽ mang lại những mối quan tâm sâu sắc tới các đồng nghiệp ở Rand hiện giờ đang tham gia các công trình nghiên cứu khác nhau về Việt Nam. Thực ra không có gì giống những câu trả lời này, những câu trả lời về cùng một câu hỏi mà không có sự phối hợp nhịp nhàng. Đây chính là loại thông tin mà bất kỳ một nhân viên nào của Rand tham gia vào nhóm làm việc ở Washington cố gắng muốn mang về cho các đồng nghiệp ở Santa Monica. Tất nhiên, Mort Halperin biết rõ điều đó. Do vậy một sáng anh ta kéo tôi sang văn phòng điều hành và nói: "Tôi yêu cầu anh không cho ai ở Rand xem tài liệu này và anh cũng không mang tài liệu về nhà". Lời đề nghị của anh nghe ra cũng có lý bởi vì tài liệu này là tài sản của Hội đồng An ninh quốc gia và thông thường thì nhân viên hợp đồng không được phép tiếp cận với tài liệu. Thực ra, theo những gì tôi được biết, có rất ít tiền lệ khi một nhà nghiên cứu của Rand, như tôi chẳng hạn, tham gia vào một nghiên cứu của Hội đồng An ninh quốc gia và được phép tiếp cận với tài liệu như vậy.
Từ giọng điệu của Mort, mặc nhiên tôi cho rằng những gì anh ta muốn nói là bảo tôi đừng làm những điều này và e ngại rằng Nhà Trắng không biết được rằng Rand có tập tài liệu của anh ta.
Tôi thấy thông tin này không đến mức nhạy cảm như vậy.
Phần lớn thông tin là về những giao tiếp giữa các cơ quan hữu quan và Hội đồng An ninh quốc gia, chứ không phải là các công văn giấy tờ giữa các nhân viên của Rand và Tổng thống.
Và nó cũng không phản ánh quan điểm của Tổng thống hay của bản thân Henry Kissinger. Bản tóm tắt này không phải dành cho đôi mắt của Tổng thống và Kissinger, mà nó chỉ đơn thuần là tóm tắt lại những quan điểm của một cơ quan cấp dưới. Tuy nhiên nếu Mort thực sự không muốn tôi gửi tài liệu này cho Rand thì anh ta có thể chuyển bức thông điệp đó và anh ta biết điều đó, bằng giọng điệu, lời nói và ánh mắt khi anh ta nói với tôi: "Dan, anh không thể chuyển tài liệu này cho Rand. Tôi tin rằng anh sẽ không làm điều đó và sẽ không chuyện tài liệu cho Harry Rowen, cho Fred Inkle, cho bất kỳ một ai".
Sau khi đã đồng ý với Rand, tự tôi sao chụp tất cả tập tài liệu trong phòng photocopy của Hội đồng An ninh quốc gia, thay vì đưa cho thư ký sao chụp hộ. Khi tôi mang tài liệu này về Rand, tôi triệu tập một cuộc họp gồm khoảng 12 người làm về Việt Nam. Sau khi đã nhân bản và phân phát một số lượng tài liệu, tôi nhắc lại lời yêu cầu của Halperin rằng anh ta không muốn tôi sao chụp tài liệu này rồi phân phát cho mọi người ở Rand. Tôi nói sở dĩ có chuyện như vậy vì anh ta không muốn nhận trách nhiệm là đã đưa cho tôi tập tài liệu này và điều quan trọng là không được để Nhà Trắng biết rằng chúng ta có tập tài liệu. Tôi nói rằng nếu ai có tình cờ nói chuyện với Halperin hay bất kỳ ai ở Nhà Trắng thì người đó không nên nói rằng anh ta biết nội dung của tài liệu hay thậm chí nó đang nằm ở Rand bởi vì tôi dám chắc rằng không muốn bị người ta chú ý khi tôi đã vi phạm những gì anh ấy dặn.
Đây không phải là lời cảnh báo xa lạ đối với các chuyên gia phân tích của Rand, mặc dù từ trước đến nay thì Rand chưa bao giờ có chuyện gì liên can đến Nhà Trắng cả. Các tài liệu bí mật mà chúng tôi có được thường được mang về Rand. Nếu đưa vào hệ thống lưu trữ tại Rand thì những tài liệu này sẽ được "cải trang" đi.
Vài tháng sau, để bảo đảm rằng tôi làm theo đúng lời Halperin dặn, tôi nói với anh ta những gì tôi đã làm và những gì tôi đã nói ở Rand. Tôi hỏi anh ta rằng không biết tôi suy nghĩ và hành động như vậy có đúng không và anh ta có thấy thoải mái với điều đó không. Anh ta nói: "Dĩ nhiên những gì anh đã làm là đúng".
Ngược lại, lời cảnh báo anh ta nói với tôi trong tuần đó, khi tôi chuẩn bị lấy một số tập trong nghiên cứu McNamara từ Washington mang về Santa Monica, về việc không chia sẻ tài liệu cho một ai biết, là hoàn toàn khác. Thỉnh thoảng tôi đọc những bản thảo trong nghiên cứu của McNamara khi tôi làm việc trong Nhà Trắng vào năm 1968. Phần cuối của bản nghiên ctnl, chủ yếu liên quan đế.n các sự kiện diễn ra đầu năm 1968 và quá trình đàm phán, đã được hoàn tất vào cuối năm đó. Les Gelb tiếp tục làm việc cho ISA thêm một vài tháng nữa trong chính quyền mới, chủ yếu để làm nết công việc biên tập và xuất bản nghiên cứu trước khi anh ta chuyển sang làm việc tại viện Brookings.
Vào tháng mười hai, anh ta và sếp, Paul Warnke và Halperin đã có thoả thuận giấy trắng mực đen rằng với Han y Rowen rằng hai bản của toàn bộ công trình nghiên cứu, một bản thuộc về Warnke, một bản thuộc về Halperin và Gelb, sẽ được lưu trữ tuyệt mật tại văn phòng của Rand ở Washington. (Viện Brookings không nghiên cứu tài liệu tuyệt mật và không có thiết bị lưu trữ thông tin mật).
Họ đã phải dàn xếp tài liệu theo hình thức hơi kỳ lạ một chút. Mặc dù đã được lưu trữ, bảo vệ và coi như tuyệt mật, người ta sẽ không đưa tài liệu này vào hệ thống kiểm soát tuyệt mật chính thức. Thông thường để đưa thông tin vào hệ thống này thì cần cỏ một cán bộ chuyện trách; tài liệu sẽ được gán một mã số nhất định và đăng nhập vào hệ thống. Halperin lo sợ rằng Walt Rostow hay một ai đó lo ngại về sự tồn tại của tài liệu đó sẽ cố gắng truy tìm tất cả các bản sao và tiêu huỷ chúng đi. Họ muốn bảo đảm rằng một hoặc hai bản tài liệu đó vẫn được tồn tại. Họ không muốn những bản tài liệu đó rơi vào các hệ thống lưu trữ chính thức, lực lượng không quân, Bộ Quốc phòng và Nhà Trắng. Cũng vì lý do tương tự, họ muốn càng ít người ở Rand biết về sự tồn tại của tài liệu này càng tốt, có lẽ chỉ nên mình Harry biết. Vì điều đó khiến cho tài liệu không còn có ích gì như tài liệu nghiên cứu, họ cho phép những người khác được tiếp cận với tài liệu từng người một.
Cả Harry và tôi đều muốn rằng tôi sẽ tham gia vào công việc nghiên cứu, vì tôi đang mong nghiên cứu so sánh một phần nào đó trong công trình. Tôi coi đây như là cơ sở tiềm năng cho công trình nghiên cứu của tôi "Chuyên".
Gelb chối bỏ rằng anh ta đã thoả thuận như vậy với tôi - điều đó đúng - và không nhớ là đã khiến tôi nghĩ rằng cuối cùng tôi có thể hoàn toàn có thể tiếp cận với tài liệu. Anh ta và Halperin lúc đầu rất lưỡng lự, không muốn cho tôi tham gia. Tôi hiểu rằng mối quan ngại của họ không phải là vì tôi tiết lộ cho ai biết nội dung và sự tồn tại của tài liệu này mà không xin phép mà ở chỗ tôi có thể để lộ cho các đồng nghiệp khác biết và họ có thể tiếp cận được với thông tin. Nhưng sau khi Halperin nhấn mạnh luận điểm rằng nghiên cứu của tôi phụ thuộc vào điều này - tôi có thể là nhà nghiên cứu duy nhất trọng chính phủ tại thời điểm này đang tìm hiểu nghiêm túc về Việt Nam, và đó không phải là mối quan tâm của chính phủ lúc đó - vì thế họ đồng ý đưa tên tôi vào.
Tháng 3-1969, vấn đề đặt ra là làm sao chuyển một số tập trong lài liệu tới Santa Monica để tôi có thể dành thời gian ở đó để đọc. Một lần nữa, Gelb lo ngại rằng điều này sẽ dẫn đến việc càng có nhiều người biết về nơi cất giữ những tập tài liệu đó và sẽ không thuận tiện cho anh ấy khi anh ấy đọc tài liệu. Tuy nhiên, tôi hứa sẽ trả lại những tập tài liệu ngay cả khi được báo gấp nếu ông ta muốn đọc. Tôi sẽ đảm nhận việc lưu thông tài liệu hai chiều, nếu như tài liệu được một sĩ quan không quân chuyển hay được chuyển trên một máy bay của lực lượng không quân. Vì phần lớn tài liệu mật được gửi đi từ Washington, chúng sẽ phải nhập chính thức vào hệ thống kiểm soát chính thức và gửi cho một nhân viên phụ trách hệ thống này. Do vậy, vào ngày 4-3, tôi tuyên thệ làm thư ký phụ trách tài liệu tuyệt mật tại văn phòng của Rand ở Washington. Hai túi to tài liệu chất đầy hai cặp sách lớn - các túi chuyên dùng để chứa tài liệu, có nắp và khoá rất cẩn thận - mà tôi sẽ luôn xách tay trên đường về nhà. Chúng không thể đi cùng hành lý gửi được. Từ điện thoại trong phòng làm việc của ông Larry Henderson, Phó giám đốc của Rand ở Washington, tôi nhận được mệnh lệnh của Rowen: khi tôi quay trở lại Santa Monica thì toàn bộ số tài liệu đó phải được đưa ngay vào trong két bảo mật. Jan Butler, nhân viên kiểm soát bảo mật và sếp của cô ta là Dick Best, cán bộ an ninh không được biết về việc những tài liệu này đã đến nơi.
Không một ai ở Rand biết rằng tập tài liệu nghiên cứu đã có mặt ở đó. Một số người đã nghe về tập tài liệu này, bao gồm Fred Inkle và Bob Korner, hỏi tôi rằng tôi có biết một bản sao của tài liệu hiện đang nằm ở Rand không. Tôi nói dối họ là không biết. Nhưng sau đó tôi giục Harry để yêu cầu Gelb và Halperin cho phép phân phát tài liệu cho thêm một số người khác nữa. Không phải là tôi ngại nói dối các bạn thân của mình - điều đó tôi cũng không thấy thoải mái lắm, nhưng đó là công việc và họ sẽ thông cảm với tôi nếu họ phát hiện ra tôi đã nói dối họ - mà vì những người tôi thực sự muốn chia sẻ lài liệu này là những nhà nghiên cứu làm việc cho dự án và bản thân họ cũng đã tham gia viết một phần của nghiên cứu, cũng như là các nhà phân tích có năng lực khác ở Rand. Tôi thấy một số mô hình phân tích tiết lộ trong tập tài liệu này hơi khó hiểu (ngay cả đến bây giờ vẫn khó hiểu), và tôi muốn những người khác có cơ hội xây dựng và thử nghiệm những giả thuyết khác nhau. Tôi thấy thật khó chịu khi trình bày những khái quát hoá không mấy quen thuộc nhưng nghe rất hợp lý về quá trình hoạch định chính sách trong những cuộc họp hay trong các công văn mà lại không thể xử lý những thách thức bằng cách trích dẫn những phân tích trong nghiên cứu mà tôi đang làm. Nhưng mỗi lần khi bị tôi thúc giục, Rowen nêu vấn đề đó với Halperin và Gelb rằng nên thêm một hay hai nhà nghiên cứu nữa vào trong danh sách những người được phân phát tài liệu thì anh ta đều bị từ chối. Một thời gian sau đó, người ta đưa hai người khác đã làm việc cho dự án này vào trong danh sách: đó là nhà nghiên cứu Richard Moorsteen và Emie May, giáo sư tại đại học Harvard. Nhưng Gelb và Halperin chỉ cho phép đến đó thôi.
Chú thích:
(90) "Bước đầu tiên" - Hồ sơ Lầu Năm Góc, Gravel biên tập, quyển số 4, trang 603.
Chương 16
Khía cạnh đạo đức của cuộc chiến kéo dài Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Công trình nghiên cứu "Những bài học về Việt Nam" mà tôi tiếp tục tiến hành sau khi tôi đến Washington vào mùa xuân năm 1969, ngoài những vấn đề khác ra, còn đề cập tới những "tiêu chí không can thiệp", cảnh báo những dấu hiệu can thiệp mà chúng ta cần tránh hoặc cần loại bỏ. Đa phần người Mỹ từ lâu đều biết rằng Việt Nam nằm trong số những tiêu chí này, căn cứ vào cách chúng ta có thể hành động, cách chúng ta đã hành động và khả năng không thể giành thắng lợi. Tuy nhiên, mãi đến mùa hè năm đó, câu hỏi "Làm thế nào để chúng ta có thể chiến thắng tại Việt Nam?" vẫn rất hấp dẫn tôi. Và cả những câu hỏi đại loại như vậy nữa: nước Mỹ đáng nhẽ ra nên làm gì để nâng cao khả năng thành công? Nếu một số mục tiêu đặt ra không khả thi - ít nhất sau một thời điểm nào đó - thì Tổng thống sẽ đặt ra những mục tiêu nào khác khả thi hơn?
Đó là những gì nằm trong số những câu hỏi mà tôi đề cập đến trong tài liệu nghiên cứu tôi viết tháng bảy và tháng 8-1969, tài liệu thứ chín trong một loạt các tài liệu nội bộ của Rand mà tôi tham gia viết, có tựa đề là "Những mục tiêu không khả thi và nền chính trị bế tắc"(91). Những câu hỏi này thiên về học thuật; rõ ràng là những câu hỏi này ảnh hưởng tới chính sách đang phát huy hiệu quả tại các khu vực khác, nơi mà các chương trình chống biệt kích xâm nhập có lẽ phù hợp hơn.
Tôi cho rằng vào thời điểm đó, những câu hỏi này khiến tôi nhớ lại những gì mà Richard Bames đã miêu tả là mối bận tâm của nước Mỹ: "Mục tiêu quốc gia của toàn nước Mỹ là phải chiến thắng". Quan điểm của tôi thay đổi rất nhiều - một phần là vì lúc đó tôi sắp đọc (đúng ra là vào tháng chín) những chương đầu tiên của Hồ sơ Lầu Năm Góc - do vậy những quan ngại thể hiện trong tập tài liệu dự thảo này kết thúc một giai đoạn đối với tôi. Chính trong tháng cuối cùng của giai đoạn đó, những gì tôi viết đã thể hiện được mối quan ngại về việc làm thế nào chúng ta có thể chiến thắng ở Việt Nam.
Một vài năm sau, khi đọc lại những phân tích tôi viết trước thời điểm giữa năm 1969, tôi rất ngạc nhiên về niềm tin kiên định rằng chúng ta có quyền chiến thắng, cái quyền mà chúng ta tự định nghĩa theo cách của riêng mình (tức là theo cách của Tổng thống). Hầu như tất cả các nhà phân tích chiến lược khác cũng như các chính khách của chính phủ đều viết như vậy. Giả thuyết ngầm đó làm cơ sở cho một giả thuyết ngầm khác của một nhóm rất nhiều các quan chức, các cựu quan chức và những thành viên tự do không còn tin vào khả năng thực tiễn giành được chiến thắng bằng bất kỳ giá nào. Tuy nhiên đây là giả thuyết để chúng ta có thể kéo dài cuộc chiến bất thành nhằm trì hoãn thất bại hoặc trong trường hợp xấu nhất thì sẽ thua cuộc trong danh dự với mạng sống của không biết bao nhiêu người châu Á, một tổn thất mà họ và chính sách của chúng ta không đặt ra giới hạn.
Tới cuối mùa xuân năm 1969, tôi đã loại trừ giả thuyết thứ hai khi tôi bắt đầu hoài nghi về sự phù hợp trong đánh giá chính trị giải thích cho cảm giác của đa phần các quan chức Mỹ, trong đó có cả tôi, rằng việc can thiệp vào Việt Nam lúc ban đầu và sau này tiếp tục can thiệp là hợp pháp. Tôi bắt đầu suy nghĩ lại ngay sau khi tôi giảng bài về nền chính trị Nam Việt Nam cho một lớp ở đại học Ohio vào tháng 5-1969. Bằng cách đặt câu hỏi cho sinh viên, tôi phân biệt sự khác nhau giữa các ý kiến. Tôi có cảm giác một số sinh viên hồ nghi về quan điểm của tôi. Tôi đề nghị cả lớp giơ tay biểu quyết xem ai tin rằng đa số người dân Nam Việt Nam ủng hộ thắng lợi của Mặt trận dân tộc giải phóng. Đúng như tôi nghĩ, hầu hết sinh viên đều giơ tay. Tôi nói họ có thể đúng nhưng trong thâm tâm tôi lại không nghĩ như vậy. Tôi tin rằng bản chất của tình hình không phải là những gì trái ngược với những điều họ nghĩ, mà bản chất đó hơi khác một chút. Bằng cách đưa ra sự phân biệt quen thuộc với người dân Việt Nam, mặc dù không quen thuộc với người dân Mỹ, tôi nhận xét rằng đa phần người dân Nam Việt Nam là phi cộng sản, chứ không phải chống Cộng sản. Điều này có nghĩa rằng, không giống địa chủ, người theo đạo Thiên Chúa, công chức và chiến sĩ, những người hết lòng ủng hộ chính phủ Việt Nam - có lẽ chiếm khoảng 10-15% dân số - thì đa phần người phi cộng sản không nhiệt tình tham gia hay tự nguyện ủng hộ một chiến dịch sử dụng vũ lực để truất quyền của người cộng sản hoặc trừ khử họ như một lực lượng chính trị, chứ đừng nói gì tới tiêu diệt họ. Tuy nhiên đa phần mọi người càng không muốn đất nước mình diệt vong dưới đạn bom của Mỹ khi theo đuổi những mục đích như vậy.
Tôi nói tiếp: "Ngay bây giờ, nguyện vọng chính trị chính của nhóm đa số này là muốn thấy chiến tranh kết thúc. Tôi không dám chắc là lâu nay phần lớn người dân Nam Việt Nam mong muốn chiến tranh kết thúc - dù bên nào thắng cũng được - hơn là chiến tranh cứ tiếp diễn với quy mô như hiện nay.
Tối hôm đó, tôi chợt nảy ra một ý tưởng mới khi tôi ngồi nghĩ lại những gì hiển hiện trong đầu khi đang giảng bài. Trái ngược lại với niềm tin của phần lớn thanh niên trong phong trào phản chiến - bao gồm đa phần sinh viên trong lớp học hôm đó - phần lớn người dân Nam Việt Nam không nhiệt tình ủng hộ Việt Cộng hay ban lãnh đạo của họ (trừ Chủ tịch Hồ Chí Minh). Nếu hiểu theo cách đó thì chúng ta không tham chiến bất hợp pháp chống lại phần đông ý kiến của người dân Nam Việt Nam.
Không. Phải theo cách hiểu đó. Nhưng liệu còn cách đánh giá khác mà tôi đã trình bày khi cố gắng định nghĩa chính kiến của người Việt Nam? Tác động của việc cho rằng đa phần người dân Nam Việt Nam muốn chiến tranh kết thúc cho dù bất kỳ bên nào thắng? Điều đó sẽ có ý nghĩa gì về tính hợp pháp khi chúng ta áp đặt ý định muốn tiếp tục cuộc chiến?
Đêm hôm đó tôi cứ trăn trở mãi với những câu hỏi đó. Sáng hôm sau, trước khi tôi đáp máy bay về nhà ở bang California, tôi gọi điện cho Mort Halperin, lúc đó đang làm việc cho Henry Kissinger trong Nhà Trắng, phụ trách về Việt Nam.
Tôi nói: "Mort, tôi muốn hỏi anh một câu. Anh dự đoán thế nào về tỷ lệ người Việt Nam, tính cho đến thời điểm này, muốn chiến tranh kết thúc, dù bất kỳ bên nào thắng?"
Mort đưa ra câu trả lời khiến tôi không hề ngạc nhiên: "Khoảng 80 đến 90%".
"Thế còn sếp của anh?", ý tôi muốn nói đến Kissinger.
"Tôi chưa bao giờ nói với sếp. Nhưng tôi nghĩ ông ta cũng sẽ nói như vậy".
Tôi nói: "Con số dự đoán đó nghe rất có lý. Nhưng tôi mới có thêm một câu hỏi khiến tôi bận tâm nhiều hơn. Nếu đúng là đa phần người dân Nam Việt Nam muốn chiến tranh kết thúc, dù phe Cộng sản hay chính quyền Nam Việt Nam chiến thắng thì làm sao chúng ta có đầy đủ lý do chính đáng để kéo dài cuộc chiến tại đất nước họ? Tại sao chúng ta có quyền kéo dài cuộc chiến đó dù chỉ thêm một ngày?"
Mort im lặng hồi lâu rồi nói: "Đó là một câu hỏi rất hay. Tôi chưa có ngay câu trả lời. Tôi sẽ suy nghĩ thêm".
Khi đáp máy bay về nhà và sau đó, tôi cảm thấy kết quả không hoàn toàn logic. Kết quả có được từ một tầm nhìn khác, từ những cân nhắc khác nhau. Tôi không hoàn toàn đồng ý với các bạn sinh viên - thể hiện bằng việc giơ tay biểu quyết trong lớp - rằng đa phần người dân nam Việt Nam nhiệt tình và ngầm ủng hộ Mặt trận dân tộc giải phóng. Tôi dần dần mường tượng ra rằng những gì tôi thực sự tin về việc Nam Việt Nam thiếu hậu thuẫn trong cuộc chiến này không có nghĩa rằng chính sách của chúng ta ít tàn bạo và vô nhân đạo hơn là lớp sinh viên tôi dạy đã nghĩ. Tôi hiểu theo một cách khác về mối hoài nghi của các bạn sinh viên tôi cảm nhận được khi giảng bài cho họ, cảm giác xa cách của họ đối với thái độ của tôi. Cảm giác xa cách đó cũng bắt đầu xâm chiếm tôi.
Để phục vụ cho nền chính trị trong và ngoài nước, chúng ta đang tiến hành chiến tranh tại xứ người, một đất nước không hề tấn công chúng ta hay một nước nào khác. Tiếp tục cuộc chiến chống lại ý nguyện của nhân dân quốc gia đó bắt đầu khiến tôi thấy mặc cảm tội lỗi.
Cảm giác đó càng ngày càng lớn mạnh trong tôi vào những tháng tiếp sau khi cuối cùng tôi quay sang đọc về nguồn gốc của cuộc chiến tranh này. Gần một năm trước đó, tôi đã bắt đầu đọc những báo cáo lịch sử chính thống, một số được viết bằng tiếng Pháp. Đến lượt mình, những bản báo cáo này đã khiến tôi mang từ Washington về Rand vào cuối tháng tám những phần đầu tiên của Hồ sơ Lầu Năm Góc viết về giai đoạn 1945-1960.
Niềm tin rằng chúng ta có quyền chiến thắng tại Việt Nam, áp đặt ý nguyện chính trị của chúng ta bằng biện pháp quân sự đã biến mất trong tôi khi tôi đọc những phần đầu tiên này.
Mùa xuân năm 1969, ông Hoàng Văn Chí, bây giờ là một nhà tư vấn cho Công ty Rand, nói với tôi: "Ông phải hiểu rằng trong con mắt của tất cả người Việt Nam, chúng tôi giành được độc lập vào tháng 3-1945, và gần hai năm sau đó, người Pháp bắt đầu quay lại xâm lược miền Bắc Việt Nam". Lúc đó tôi hầu như không hiểu những gì ông ta nói và tôi cũng không nghi ngờ bất kỳ quan chức Mỹ nào mà tôi làm việc cùng. Ông ta muốn nói tới sự thật là người Nhật đã giam giữ lực lượng chiếm đóng của Pháp vào ngày 9-3-1945, tuyên bố Việt Nam độc lập từ tay người Pháp và Hoàng đế Bảo Đại một lần nữa khẳng định nền độc lập, và sau đó 5 tháng chính thức thoái vị, nhường chỗ cho Chủ tịch Hồ Chí Minh. Từ lúc đó đến tháng 11, 12-1946 khi quân Pháp bắt đầu chiến dịch sử dụng vũ lực hòng tái chiếm lại thuộc địa cũ của mình thì người Pháp có ý muốn coi ít nhất là khu vực Bắc Bộ, một phần ba lãnh thổ Việt Nam ở phía bắc, là nhà nước độc lập và chủ tịch nước là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Lúc đó lời đề nghị khẩn thiết của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi tới nước Mỹ yêu cầu công nhận cả Việt Nam là một nhà nước độc lập đã bị Bộ Ngoại giao Mỹ dưới thời Tổng thống Truman bác bỏ.
Tài liệu nội bộ nêu rõ rằng việc bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh là một người cộng sản - không hề liên quan đến việc năm 1945 Mỹ quyết định không đáp lại lời đề nghị nêu trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đúng ra, việc chúng ta lặng thinh như vậy phản ánh một quyết sách hơi do dự nhưng chắc chắn của Tổng thống Roosevelt để người Pháp thấy rằng chúng ta công nhận "quyền sở hữu" thuộc địa của người Pháp đối với Việt Nam, mặc dù trong chiến tranh đã có thời gian bị ngắt quãng và bất chấp việc đòi độc lập sau chiến tranh. Quyết định đó, được tiếp tục dưới thời Tổng thống Truman, mâu thuẫn với truyền thống chống thực dân hoá của nước Mỹ (và cảm giác của Tổng thống Roosevelt rằng người Pháp đã bóc lột và lợi dụng thuộc địa này) và lời hứa về quyền tự quyết ghi trong Hiến chương Đại Tây Dương. Cả hai điều này đều được Chủ tịch Hồ Chí Minh nói đến trong những bức thư gửi Tổng thống Truman. Bản Hiến chương này được thông qua hoàn toàn vì lợi ích mong muốn xây dựng quan hệ tốt đẹp với Pháp cũng như với Anh. Mặc dù Anh có tham gia vào Hiến chương Đại Tây Dương nhưng Anh không muốn và cũng không có ý định áp dụng bản Hiến chương này vào các thuộc địa của mình ở Ấn Độ và Malaysia.
Tại Pháp, vào mùa xuân và mùa hè năm 1946, trong những cuộc hội đàm về tương lai của khu vực nam Trung Hoa, bao gồm cả Sài Gòn, tôi rất ngạc nhiên khi biết rằng Chủ tịch Hồ Chí Minh được trọng vọng như một nguyên thủ quốc gia và sử dụng tư cách đó để đàm phán với Pháp. Jean Sainteny, viên toàn quyền trước đây của Pháp tại Việt Nam, vào tháng 3 đã ký một bản thoả thuận rằng việc có đưa Sài Gòn vào nhà nước độc lập ở Bắc Việt Nam hay không sẽ được quyết định thông qua trưng cầu dân ý. Nhưng chính phủ Pháp không có ý định thực hiện bản thoả thuận đó. Việc làm này cùng với ý đồ rõ ràng của Pháp muốn dùng vũ lực biến Bắc Việt Nam một lần nữa thành thuộc địa đã khiến cho hai bên nổ súng giao chiến vào cuối năm 1946. Trong năm năm làm quan chức và tư vấn phụ trách về Việt Nam, tôi không hay biết gì về giai đoạn lịch sử này hoặc ít nhất là về tầm quan trọng của nó. Tới cuối mùa hè, tôi biết về câu chuyện kể trên thông qua những tài liệu mà tôi đã trích dẫn, những tài liệu mà cho đến nay tôi vẫn khuyên người Mỹ nên đọc. Điều làm tôi ấn tượng hơn là ở chỗ tình hình cũng được đánh giá tương tự trong tài liệu tối mật của nghiên cứu McNamara về giai đoạn đó.
Từ những gì tôi làm cho nghiên cứu McNamara về giai đoạn 1950- 1961, tôi biết rằng trong thập kỷ 50, Chủ tịch Hồ Chí Minh và các cộng sự của ông có đủ mọi lý do để Mỹ, Pháp, cộng đồng quốc tế và trên hết là các nước đồng minh cộng sản, Liên Xô và Trung Quốc, phản bội lại vì họ đã không thực hiện được chính xác thoả thuận trong Hiệp định Geneva ký năm 1954. Hiệp định này quy định rõ khu vực phi quân sự không phải là biên giới quốc tế chia cắt hai nhà nước độc lập. Năm 1956, họ kêu gọi tổng tuyển cử với sự giám sát quốc tế để quyết định về chính phủ của nhà nước Việt Nam thống nhất. Khi còn là quan chức Lầu Năm Góc, tôi không hề hay biết gì về việc này. Lúc đó tôi tin vào lý lẽ nguỵ biện của Bộ Ngoại giao Mỹ mà tôi được đọc, thậm chí trong những công văn giấy tờ tối mật về hiệp định Geneva và việc không tổ chức tổng tuyển cử được.
Dù nội bộ hay công khai, Ngoại trưởng Mỹ, Rusk và cấp dưới nhiều lần tuyên bố rằng "tất cả những gì chúng tôi yêu cầu là Bắc Việt Nam hãy để cho người láng giềng của mình được yên" và tuân thủ các điều khoản của hiệp định Geneva năm 1954.
Giả thuyết hiểu ngầm và nhiều khi tuyên bố công khai thể hiện ở chỗ hiệp định này đã sinh ra hai nhà nước tách biệt, độc lập và có chủ quyền, hai "người láng giềng", Bắc và Nam Việt Nam. Cuối cùng khi tôi đọc hiệp định, tôi phát hiện ra rằng điều đó hoàn toàn trái ngược với tinh thần của hiệp định như nó vốn có trên giấy trắng mực đen. Trái ngược đến mức trơ trẽn.
Và cũng trơ trẽn không kém là việc trong suốt thập kỷ 60 Mỹ thường xuyên yêu cầu "phải quay lại tuân thủ những điều khoản của hiệp định" trong khi Mỹ chưa bao giờ có ý định ủng hộ và cho phép tuân thủ những điều khoản chính trị cốt lõi của hiệp định, kêu gọi tổ chức tổng tuyển cử thống nhất đất nước.
Nhưng điều đó được phản ánh rất rõ trong các tài liệu tôi đọc được năm 1967 tại Lầu Năm Góc. Tháng 3-1964, Bộ trưởng McNamara đã báo cáo với Tổng thống Johnson rằng kiến nghị của De Gaulle "trung lập hoá Nam Việt Nam" bao gồm việc Mỹ rút quân hoàn toàn và rằng: "Đàm phán trên cơ sở này có nghĩa là Cộng sản sẽ tiếp quản toàn bộ Nam Việt Nam. Chỉ có sự hiện diện của Mỹ sau năm 1954 mới thống nhất được Nam Việt Nam trong những hoàn cảnh thuận lợi hơn và cho phép Ngô Đình Diệm từ chối tuân thủ những điều khoản của hiệp định năm 1954 kêu gọi tổng tuyển cử "tự do" toàn quốc năm 1956. Những gì tôi đọc được năm 1969 là một bản hiệp định khác giống hiệp định năm 1954 nhưng đã bị Pháp vi phạm 8 năm trước đó, năm 1946. Tôi phát hiện ra rằng hậu quả của việc vi phạm đó được cả hai bên nhìn nhận rất rõ.
Khi tôi đọc, tôi thấy một câu trích đã tóm tắt được cả câu chuyện. Đó là lời đề nghị buồn bã gửi tới Jean Sainteny vào tháng 9-1946 tại Pháp khi kết thúc hội đàm thất bại, "Tôi không muốn ra đi như thế này. Hãy cho tôi vũ khí để chống lại những kẻ muốn khuất phục tôi". (Tại Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh bị các đồng nghiệp chỉ trích gay gắt vì đã ông đã nhượng bộ để tránh giải quyết mâu thuẫn bằng một cuộc chiến tranh). "Ông sẽ không hối tiếc về điều đó. Nếu chúng tôi phải chiến đấu, chúng tôi sẽ chiến đấu. Ông giết được mười lính của tôi thì tôi sẽ giết được một lính của ông, và cuối cùng chính ông sẽ mệt mỏi và chán chường".
Tính lo xa kỳ lạ trong lời cảnh báo này không chỉ có ở nhà lãnh đạo Việt Nam. Kể từ tháng 9-1969 khi lần đầu tiên tôi đọc tập đầu tiên của Hồ sơ Lầu Năm Góc, tôi luôn bị ám ảnh bởi một công văn nội bộ của Mỹ viết một vài tháng sau khi ông Hồ đưa ra lời cảnh báo. Ngày 19-12-1946, một tháng sau "sự cố" tàu ngầm, máy bay và pháo binh dội bom trừng phạt xuống khu dân cư ở Hải Phòng, cướp đi sinh mạng của hơn 6.000 dân thường, chiến sự đã nổ ra tại Hà Nội. Pháp thực hiện dã tâm - có lẽ là có một không hai trong số các cường quốc thực dân sau chiến tranh thế giới lần thứ hai - dùng vũ lực chiếm lại thuộc địa cũ của mình. Bốn ngày sau đó, vào ngày 23-12-1946, John Carter Vincent, Trưởng phòng các vấn đề Viễn Đông gửi một công văn cho Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, Dean Acheson đánh giá tình hình như sau:
"Mặc dù người Pháp tại Đông Dương đã có những nhân nhượng trước nguyện vọng tự trị của người Việt Nam, nhưng hành động gây hấn của Pháp là nhằm giảm bớt quyền lực và thu hẹp phạm vi lãnh thổ của "nhà nước độc lập"(92) Việt Nam. Người Việt Nam tiếp tục chống lại quá trình này. Đồng thời bản thân người Pháp cũng phải thừa nhận rằng họ thiếu sức mạnh quân sự để tái chiếm Việt Nam. Nói tóm lại, khi không có đủ lực lượng, bị dư luận chỉ trích, chính phủ hoạt động không hiệu quả vì chia rẽ nội bộ, mưu toan người Pháp tại Đông Dương cũng giống như mưu toan xuẩn ngốc của nước Anh hùng mạnh và đoàn kết tại Miến Điện vậy. Với tình hình hiện nay, chiến tranh du kích sẽ tiếp diễn lâu dài".
Tại Rand, tháng 9-1969, khi đọc tiếp những tập đầu tiên mà tôi mang từ Washington về, tôi thấy những đánh giá ban đầu của Vincent về tình hình luôn nhất quán với đánh giá trong những năm tiếp theo đó. Và những cuộc thảo luận cũng không thiếu những sự kiện chính trị làm cơ sở cho những đánh giá này, thậm chí cả những sự thật không mấy dễ chịu.
Cụm từ "sự thật không mấy dễ chịu" đó xuất hiện nổi bật trong tuyên bố bí mật vì chính sách tại Đông Dương của Bộ Ngoại giao Mỹ ngày 27 tháng 9-1948, một năm rưỡi trước khi chúng tôi đề cập tới những gì tuyên bố này gọi là "trách nhiệm can thiệp".
"Chúng ta không hối thúc người Pháp đàm phán với ông Hồ Chí Minh mặc dù hiện nay có lẽ ông Hồ đang được đa số người Việt Nam ủng hộ vì ông là người Cộng sản và nhiều nhân vật có ảnh hưởng trong chính phủ của ông Hồ cũng là người cộng sản.
Khó khăn lớn nhất của chúng ta khi nói chuyện với người Pháp và nhấn mạnh những gì nên và không nên làm là việc chúng ta không thể đưa ra một giải pháp thực tiễn nào đối với vấn đề Đông Dương bởi vì tất cả chúng ta đều nhận thức được một sự thật không mấy dễ chịu là nhà Cộng sản Hồ Chí Minh là nhà lãnh đạo tài ba và có năng lực nhất ở Đông Dương và bất kỳ một thủ đoạn nào muốn loại bỏ ông Hồ đều mang lại hậu quả khôn lường. Chúng ta ngại ngần không muốn thúc ép người Pháp quá nhiều hay can thiệp quá sâu chừng nào mà chúng ta không ở vị thế có thể đưa ra một giải pháp hoặc cho đến khi chúng ta sẵn sàng chấp nhận trách nhiệm can thiệp"(93).
Nếu chúng ta muốn trực tiếp ủng hộ người Pháp (như chúng ta đã sẵn sàng làm một năm sau đó khi Trung Quốc đang "phân rã"), chúng ta sẽ chống lại một phong trào dân tộc mà lãnh tụ của phong trào được đa số người Việt Nam ủng hộ.
Nhận thức về điều này giúp tôi nhìn nhận rõ hơn về sự cao cả "lòng vị tha" của việc chúng ta đã và đang can thiệp vào Việt Nam. Đánh giá lâu dài của Vincent đề cập tới sự thiếu quyết đoán trong chiến dịch thực dân hoá của Pháp mà chúng ta sắp tham gia. Tuyên bố chính sách này đi quá xa trong việc vứt bỏ tính hợp pháp, theo chuẩn mực của nước Mỹ, về việc chúng ta can thiệp gián tiếp hoặc trực tiếp. Những hàm ý đạo đức trong sự lựa chọn của một vị Tổng thống được thể hiện rõ ràng nhất trong tài liệu viết về thời kỳ đầu từ năm 1945 đến năm 1950, khi người Việt Nam vừa mới bắt đầu đấu tranh để duy trì nền độc lập non trẻ của mình. Nhưng trong những năm tiếp theo, tôi thấy chính sách của Mỹ luôn đi theo hình vòng cung, trong đó phương diện đạo đức và thực tiễn không thực sự thay đổi.
Cuối năm 1949, với chiến thắng của Cộng sản tại Trung Quốc, chính quyền Mỹ đột nhiên coi việc ngăn chặn lực lượng Cộng sản kiểm soát Đông Dương như lợi ích của nước Mỹ.
Đúng ra, chính quyền Mỹ coi việc cứu đảng Dân chủ khỏi những lời cáo buộc cho rằng đảng này đã làm mất "sân" cho Cộng sản là cực kỳ quan trọng, giải thích cho việc viện trợ và hỗ trợ trực tiếp cho quá trình thực dân hoá của Pháp.
Khi lực lượng Cộng sản tới được biên giới Việt Nam vào cuối năm 1949, biên giới mở cửa để Cộng sản Trung Quốc giúp phong trào độc lập của Việt Minh. Như ông Vũ Văn Thái tại Rand nói: "Từ lúc đó trở đi, người Pháp không thể đánh bại lực lượng Việt Minh". Người Pháp đã nhụt chí về triển vọng chiến thắng và muốn rút lui. Điều này rất thực tế. Nhưng cùng thời điểm đó, với lý do tương tự - phản ánh thông qua nền chính trị trong nước của Mỹ - chính quyền Mỹ, về mặt chính trị mà nói, không thể cho phép Pháp thất bại hay rút lui (vì Mỹ không muốn gửi quân tham chiến cùng với Pháp). Đó là khởi đầu của những gì sau này tôi gọi là "bộ máy bế tắc". Kể từ đó, người Pháp là công cụ của người Mỹ trong cuộc chiến này hơn là người bạn đồng minh, với việc Mỹ thúc ép và tiếp tục cung cấp viện trợ, cuối cùng lên tới 85%. Nước Mỹ, trong nước và ngoài nước thường bị buộc tội là vô tình bán "những giá trị" của mình, thì ở đây Mỹ không bán "dân chủ, tự quyết, độc lập, tự do". Những giá trị của Mỹ áp đặt lên Việt Nam là: thà là Pháp còn hơn là Cộng sản. Một số người Việt Nam tán thành với điều đó nhưng đa phần thì không, và Mỹ đang cấp tiền cho Pháp để tống giam hoặc thủ tiêu những ai không tán thành. Do vậy bằng nguồn viện trợ của mình, Mỹ đang thể hiện giá trị của mình đối với Việt Nam: thà là chiến tranh, hay chết còn hơn là Cộng sản. Khẩu hiệu này rất quen thuộc ở nước Mỹ vào thời điểm đó nhưng không quen thuộc tại một đất nước nơi mà người Cộng sản đang lãnh đạo phong trào độc lập dân tộc.
Sau này tôi biết, các quan chức Mỹ luôn tin tưởng rằng những giá trị này thực sự là tốt nhất cho người dân Việt Nam, cũng như cho Mỹ. Người Pháp, chế độ Ngô Đình Diệm, các tướng tá người Pháp tốt cho Việt Nam hơn là Cộng sản. Có cơ sở để người ta tin rằng nhiều người Việt Nam rất ngây thơ và bị lừa phỉnh về những gì mà chiến thắng của Cộng sản sẽ mang lại cho họ. Nhưng tôi cũng nhận ra rằng đến lượt chúng ta, những quan chức Mỹ cũng không hay biết gì về bản chất của người Pháp hay của các chế độ Sài Gòn khác nhau mà chúng ta hậu thuẫn hoặc động cơ khiến người dân Việt Nam cầm súng đứng lên, chống lại các thế lực siêu phàm hơn - và trên hết là gánh nặng của một cuộc chiến tranh đối với người dân nông thôn. Dù thế nào, đánh giá những gì tốt đẹp nhất cho họ, khi cuộc sống và sinh mạng bị đe doạ, là đỉnh cao của tính ngạo mạn đế quốc, "ngạo mạn về quyền lực" như thượng nghị sỹ Fulbright đã gọi.
Trước đây tôi mới chỉ đọc những ước tính tình báo cho thập kỷ trước năm 1961 thì giờ đây tôi được đọc toàn bộ phân tích trong nghiên cứu của McNamara với tài liệu viết về những quyết định trong thập kỷ 50, cả trong cuộc "chiến tranh Pháp" và những năm sau đó khi Mỹ "ủng hộ" cuộc chiến chính trị và chiến tranh vũ trang tại Nam Việt Nam. Tôi quyết định đọc những tài liệu này cuối cùng vì tôi cho rằng những tài liệu đó ít liên quan nhất đến việc tìm hiểu thập kỷ 60. Tôi đã nhầm.
Đây là những gì tôi hiểu, mà mới chỉ vài tháng trước đó tôi không hiểu, khi đọc xong toàn bộ Hồ sơ Lầu Năm Góc tới cuối tháng 9-1969.
- Không có chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất và lần thứ hai; chỉ có một cuộc xung đột liên tục kéo dài gần một phần tư thế kỷ.
- Trên thực tế, đó luôn luôn là cuộc chiến của người Mỹ ngay từ đầu: lúc đầu là giữa Pháp và Mỹ, cuối cùng là toàn bộ Mỹ. Trong cả hai trường hợp, đó là cuộc chiến đấu của người dân Việt Nam - không phải tất cả người Việt Nam nhưng số lượng đủ lớn - để chống lại chính sách và tài trợ của Mỹ, kỹ thuật viên, súng đạn và cuối cùng là binh lính và phi công.
- Ít nhất là từ cuối thập kỷ 40, không có một năm nào mà bạo lực chính trị tại Việt Nam có thể đạt tới quy mô của một "cuộc chiến" nếu như Tổng thống Mỹ, Nghị viện Mỹ hay người dân Mỹ không đổ tiền của, vũ khí và cuối cùng là sức người: đầu tiên thông qua người Pháp, sau đó qua nguỵ quyền Sài Gòn và cuối cùng là rót trực tiếp. Thực ra sẽ không có cuộc chiến nào sau năm 1954 nếu Mỹ và tay chân nguỵ quyền tại Việt Nam được Mỹ tài trợ không quyết tâm đi ngược lại và phá hoại quá trình giải quyết chính trị bằng tổng tuyển cử như đã đàm phán ở Geneva.
Sau năm 1955 hoặc 1960, cuộc chiến ở Việt Nam không hơn gì một cuộc nội chiến so với thời kỳ Pháp mưu toan tái chiếm Việt Nam và được Mỹ hậu thuẫn. Một cuộc chiến tranh mà một bên được cường quốc nước ngoài hoàn toàn trang bị và đổ tiền của vào thì không thể coi là nội chiến. Nói rằng chúng ta đang "can thiệp" vào việc định nghĩa "thế nào là nội chiến", như phần lớn các học giả và thậm chí các nhà phê bình tự do ngày nay vẫn làm, chỉ càng làm cho thực tiễn thêm đau đớn hơn. Theo như những điều khoản của Hiến chương Liên Hợp quốc và lý tưởng được công nhận thì đó là một cuộc chiến tranh xâm lược, cuộc chiến tranh xâm lược của người Mỹ.
Không phải dễ gì mà tôi có được đánh giá cuối cùng nêu trên. Đó là đánh giá mà tôi liên tưởng với những cuộc tụ tập phản chiến. Tôi chưa bao giờ tham dự lại một cuộc tụ tập kiểu như thế (sau lần đầu tiên đi cùng Patriacia năm 1965), nhưng trước đây tôi đã đọc những luận điểm tương tự như vậy và coi đó chỉ là lối nói phô trương quá mức, giống như các đồng nghiệp của tôi vậy. Đó là những gì các nhà phê bình "cực đoan", các nhà cấp tiến, và phần lớn các luật sư nước ngoài đã nhiều năm nay nói về sự dính líu của chúng ta vào Việt Nam.
Trước đây tôi không tin họ. Bây giờ tôi phải tin.
5 năm trước, vào tháng 12-1964, sếp của tôi là John McNaughton đã nhận xét với các nhà nghiên cứu của Randkhi họ báo cáo với ông về "Động cơ và chí khí của người Cộng sản": "Nếu những gì các bạn nói là đúng (về động cơ chủ nghĩa dân tộc, lòng yêu nước, kỷ luật và không tham nhũng, thái độ của Việt Cộng đối với nông dân), thì chúng ta đã sai lầm khi tham chiến. Chúng ta thực sự đã sai".
Cuối cùng, không phải luật quốc tế, những định nghĩa không bao giờ được thực hiện chống lại các cường quốc thực sự làm tôi quan tâm; mà là cảm giác rằng sự can thiệp của chúng ta vào Việt Nam là không hợp pháp. Chúng ta không có cơ sở nào để đòi hỏi quyền lực đối với bất kỳ chế độ nào mà chúng ta hậu thuẫn. Không phải trong con mắt của người Việt Nam; và cũng không phải trong con mắt của chúng ta nếu chúng ta biết rõ và thực tiễn hơn về vai trò của chúng ta trong quá khứ và hiện tại. Nếu nhìn nhận thực tiễn thì đó chưa bao giờ là một "sự nghiệp chính nghĩa cả".
Trong một vài năm trước đó, tôi luôn coi cuộc chiến tranh này như một sự dính líu, can dự cần kết thúc và trên hết, nó không được phép leo thang. Trong chừng mực tôi biết, tôi có cùng cảm giác đó với phần lớn các ban đồng nghiệp trong chính phủ với kinh nghiệm của cuộc chiến tranh ở Washington hay Sài Gòn. Nhưng bắt đầu vào mùa hè năm 1969 và chắc chắn là cuối tháng chín năm đó, khi tôi bắt đầu đọc những chương đầu tiên của tập Hồ sơ, tôi không còn cho rằng cuộc chiến này là một nỗ lực đã sai lầm hay đi quá xa, cuộc chiến này là những dự định tốt nhưng không thực hiện được những mục tiêu hợp pháp. Tôi đã đọc về quãng thời gian 9 năm chúng ta ủng hộ về mặt ngoại giao đối với những yêu sách của Pháp đòi sở hữu có chủ quyền với thuộc địa trước đây của họ, một thuộc địa đã tuyên bố độc lập với sự ủng hộ rộng rãi của người dân; trên hết, năm năm cuối cùng Pháp nỗ lực tái chiếm thuộc địa bằng cách sử dụng vũ lực, trong đó chúng ta đã thúc ép Pháp tiếp tục đấu tranh quân sự chống lại phong trào độc lập và hầu như tài trợ cho việc làm đó. Bản chất của cuộc xung đột cũng không thay đổi vào năm 1954 khi các ông chủ Mỹ quản lý chính quyền và quân đội thực dân ngừng cung cấp viện trợ thông qua người Pháp và viện trợ trực tiếp cho tay chân của họ. Sau đó, tình hình về cơ bản cũng không có gì thay đổi.
Đối với tôi một người Mỹ được đọc tài liệu bí mật quốc gia về nguồn gốc của cuộc xung đột và sự tham gia của người Mỹ vào cuộc xung đột đó, tôi nhìn thấy sự dính líu của người Mỹ - và sự chết chóc chúng ta đã và đang gây ra - là một sự thật trần trụi không có một chút hợp pháp nào trong đó cả. Điều đó càng củng cố và cùng với thời gian càng mở rộng hơn nữa kết luận tôi đã có từ hồi tháng 5 ở Ohio: thật vô đạo đức khi chúng ta cố tình kéo dài sự chết chóc và bom đạn thêm một ngày nữa.
Mùa hè năm đó, kể từ khi tôi giảng bài ở đại học Ohio, tôi dần dần nhận thức được việc kéo dài cuộc chiến chống lại ý nguyện của người dân Việt Nam, những con người sẵn sàng chấp nhận những điều khoản để kết thúc cuộc chiến mà chúng ta đã chối từ không cân nhắc đến. Bây giờ tôi nhận ra rằng đó không chỉ là sự tiếp tục một cuộc chiến tàn phá và bế tắc tuyệt vọng, một cuộc chiến phi nghĩa, một sai lầm ngay từ đầu.
Trong tình hình đó thì việc chúng ta tiếp tục cuộc chiến là một sai lầm lớn nhất. Một tội ác.
Nếu cuộc chiến là phi lý, như tôi nhìn nhận bây giờ, thì điều đó có nghĩa rằng bất kỳ người Việt Nam nào bị lính Mỹ hoặc lính đánh thuê mà chúng ta tài trợ kể từ năm 1950 giết hại có thể coi là đã bị chúng ta giết mà không cần sự giải thích, phân minh nào. Tôi không thể nghĩ ra một từ nào khác ngoài hai chữ "giết người". Giết người hàng loạt. Liệu có quá hấp tấp nếu chúng ta chấm dứt chính sách giết người?
Đó không phải là quan điểm tôi muốn áp đặt lên các bạn đồng nghiệp hoặc công chúng. Tôi không thể hy vọng họ sẽ đồng ý với tôi, hoặc làm cho họ tin về điều đó, khi họ hoàn toàn không biết gì đến quãng thời gian lịch sử trong những tài liệu mà tôi được đọc. Tôi không hề phê phán các quan chức cũng như công chúng khi họ không biết về quãng thời gian đó.
Tôi biết nhưng giữ kín trong lòng mình những gì tôi biết về Việt Nam sau năm năm phụ trách về Việt Nam. Giống như tôi, họ chấp nhận các báo cáo chính thức của chính phủ, vừa là tài liệu được công bố công khai, vừa là tài liệu mật. Tôi biết rằng sự thật lịch sử đang được che giấu kỹ lưỡng trong những hồ sơ bí mật rất dài của chính phủ. Tôi cũng không hy vọng gì nhiều người trong số họ sẽ sớm đọc hàng trăm trong hàng ngàn trang hồ sơ này, những trang hồ sơ đã làm thay đổi tư duy của tôi, cho dù họ có được tiếp cận với hồ sơ đó đi chăng nữa.
Sự khác nhau mà những khái niệm này tạo ra đối với tôi nằm trong tinh thần trách nhiệm và sự cấp bách, đòi hỏi về đạo đức nhằm kết thúc chiến tranh, chứ không phải chỉ ngăn chặn không cho chiến tranh leo thang. Giờ đây tôi coi sự can thiệp không phải là cái gì cần loại bỏ ngay khi nó được làm thật "khéo léo" không gây phương hại gì tới các mục tiêu quan trọng khác của nước Mỹ, như tôi đã từng nghĩ trong vòng hai, ba năm qua, mà đúng ra sự can thiệp đó là những gì chúng ta cần phải chấm dứt, càng sớm càng tốt.
Đó là những gì tôi đã kết luận vào giữa tháng 9-1969. Nhưng một tháng trước đó, vừa giữa tháng tám, khi tôi sắp kết luận điều này thì tôi biết rằng sự can thiệp không dễ có thể nhanh chóng kết thúc.
Nói chuyện với tôi trên điện thoại vào giữa mùa hè, Morton Halperin nói: "Nixon tiếp tục làm Tổng thống". Điều đó cỏ nghĩa rằng cuối cùng cuộc chiến sẽ ngày càng lan rộng. Đó là tin xấu, thực ra là một tin khủng khiếp. Tuy nhiên đối với tôi, một người, tới thời điểm này, đã đọc phần lớn nghiên cứu của McNamara, thì tin tức đó không có gì đáng ngạc nhiên cả. Nó chỉ đơn thuần có nghĩa rằng một vị Tổng thống mới sẽ tiếp bước bốn vị Tổng thống tiền nhiệm của ông ta. Khi nói chuyện tôi không gặng hỏi Mort vì tôi không hy vọng anh ta sẽ nói thêm điều gì trên điện thoại. Khi tôi nghỉ ở nhà anh ta vào cuối mùa hè năm đó, anh ta kể cho tôi thêm nhiều chi tiết nữa.
Nixon không hề muốn thấy Sài Gòn dưới cờ Việt Cộng sau một thời gian cách quãng hai, ba năm. Ít nhất là ông ta không muốn thấy điều đó xảy ra khi còn đang đương nhiệm, có nghĩa là ông ta không muốn điều đó trong suốt năm 1976, nếu như ông ta có thể xoay xở và ông ta tin là có thể xoay xở được.
Điều đó không có nghĩa là ông ta trông đợi Việt Cộng hay Việt Nam dân chủ cộng hoà từ bỏ vĩnh viễn mục đích thống nhất Việt Nam dưới sự kiểm soát của mình. Và điều đó cũng có nghĩa là về cơ bản, cuộc chiến tranh sẽ không bao giờ kết thúc. Lời hứa khi vận động tranh cử của Nixon sẽ chấm dứt chiến tranh chỉ là hứa hão. Nhưng ông ta tin rằng cuối cùng công chúng Mỹ sẽ thấy và chấp nhận sự kết thúc của vai trò đánh bộ của Mỹ cũng không hơn gì một lời hứa hão khác. Liệu có thể làm được điều đó mà không mất Sài Gòn không? Nixon tin là có thể làm được, bằng một trong hai cách. Cách thứ nhất được ông ta thích hơn là cuối cùng miền Bắc Việt Nam đồng ý rút quân cùng với Mỹ. Trong trường hợp đó thì Mỹ sẽ tiếp tục viện trợ cho chính phủ Nam Việt Nam và không lực Cộng hoà Việt Nam. Ngoài ra, sự hỗ trợ về không lực cho chính quyền Nam Việt Nam sẽ tiếp tục lâu dài, với lời đe doạ và ý định phản công tổng lực trả đũa vào miền Bắc nếu miền Bắc tấn công.
Với sự hỗ trợ về không lực, không quân của nguỵ quyền được tăng cường và mở rộng sẽ có thể tự mình đối phó được với lực lượng của Mặt trận dân tộc giải phóng, mà không cần bộ binh của Mỹ. Đó là hy vọng của Nixon.
Trong khi đó, Nixon tiếp tục theo đuổi một hướng khác.
Trong tình huống thứ hai này, Mỹ sẽ đơn phương giảm quân số, nhưng giảm chậm, mỗi lần giảm khá ít, miễn sao số lượng lớn quân của Mỹ vẫn tiếp tục ở lại Nam Việt Nam trong một vài năm tới trong khi quá trình Việt Nam hoá chiến tranh sẽ tăng cường cho lực lượng không quân của nguỵ quyền. Nhưng sẽ không có kế hoạch rút hết quân Mỹ nếu Hà Nội cũng từ chối rút quân. Mỹ tiếp tục duy trì một số lượng quân tối thiểu tương đối lớn tại Nam Việt Nam chừng nào mà lực lượng Bắc Việt Nam vẫn còn ở lại, có lẽ khoảng 200.000 lính hơn (chắc chắn không ít hơn từ 50.000 đến 100.000 lính) sẽ đóng quân lâu dài tại Nam Việt Nam. John Vann cũng có nói cho tôi biết về phần kế hoạch này của Nixon, khi ông ta về thăm nhà cuối mùa hè năm đó. Ông ta biết được điều này qua một người bạn là tướng Bruce Palmer, lúc đó là phó Tổng Tham mưu trưởng. Vann từ lâu đã nói, hiện giờ có nhiều lính Mỹ tại Nam Việt Nam hơn mức cần thiết để kiểm soát các khu vực dân cư đông đúc và thậm chí ngăn không cho những khu vực "tranh chấp" không bị Mặt trận dân tộc giải phóng kiểm soát hoàn toàn, thậm chí khi lực lượng của bắc Việt Nam vẫn còn ở miền Nam. Dần dần, Nixon có thể gửi về nước hàng trăm ngàn lính Mỹ (Vann nghĩ, có thể gửi ngay lập tức, nhưng đó là trường hợp bất thường đối với bộ phận hỗ trợ quân đội tại Việt Nam), mà vẫn có thể kiểm soát Sài Gòn, các thành phố lớn khác và các khu vực đông dân trong suốt năm 1976 và sau đó.
Làm thế nào để công chúng Mỹ chấp nhận được điều này - hoặc là tốc độ rút quân chậm, hoặc là lực lượng lớn tiếp tục đóng quân ở lại. Bằng cách bảo đảm rằng tỷ lệ lính Mỹ thương vong sẽ giảm nhanh, hầu như không có trường hợp thương vong; điều này đạt được bằng cách đe doạ miền Bắc rằng nếu không miền Bắc sẽ bị thiêu trụi. Mort nói với tôi rằng đồng minh Liên Xô đã nói với chính phủ ở Hà Nội rằng miền Bắc sẽ chịu số phận như vậy không chỉ khi Hà Nội mở cuộc phản công mới mà ngay cả khi Hà Nội không tuân thủ theo những điều khoản hợp lý nhằm giải quyết xung đột - có nghĩa là Hà Nội không nhanh chóng đồng ý cả hai bên sẽ rút quân. Nhưng sau khi Hà Nội từ chối rút quân, Mort không tin rằng Nixon sẽ rút lại lời đe doạ.
Nhưng Mort không tin rằng Nixon bịp bợm khi ông ta doạ sẽ một lần nữa mở rộng quy mô cuộc chiến trong tnlờng hợp miền Bắc Việt Nam và Mặt trận dân tộc giải phóng tiến hành tấn công chống lại lực lượng còn sót lại của Mỹ và thậm chí còn đe doạ sẽ ngăn chặn và răn đe các cuộc tấn công ồ ạt vào Không lực Nam Việt Nam và lực lượng Mỹ còn sót lại. Ông ta coi Nixon đang dự định và hy vọng lời đe doạ của mình sẽ bảo vệ Nam Việt Nam an toàn khi số lượng lớn quân Mỹ còn đang có mặt vô thời hạn tại Nam Việt Nam - ít nhất là 50.000 cho tới 200.000 quân - trong một cuộc xung đột kéo dài, một cuộc chiến bế tắc với mức chi phí thấp dành cho người dân Mỹ đóng thuế và gây rất ít thương vong cho người lính Mỹ. Ngoài ra Nixon còn hy vọng, khi chính phủ Bắc Việt Nam nhận ra rằng nó không thể sử dụng các đơn vị quân của bắc Việt Nam tại Nam Việt Nam mà không bị tổn thất quá mức tại miền Bắc, điều này có thể thay đổi lập trường của họ về việc cả hai bên cùng rút quân và sẽ tìm kiếm một giải pháp chính thức theo điều kiện của phía Mỹ. Cho dù thế nào, việc Mỹ rút quân toàn bộ luôn gắn liền với điều kiện rằng Bắc Việt Nam cũng phải rút quân. Nếu điều đó không xảy ra, Nixon dự tính sẽ duy trì lâu dài số lượng quân tương đối lớn tại Nam Việt Nam, giống như tại Triều Tiên. Và mặc dù nếu cả hai bên cùng rút quân đánh bộ thì Mỹ vẫn tiếp tục hỗ trợ cho không lực Nam Việt Nam nếu cần.
Mort cho tôi biết, ngoài việc cảnh báo, Nixon dự định nhấn mạnh lời đe doạ rằng ông ta sẵn sàng tấn công tổng lực vào Bắc Việt Nam mà Johnson trước kia luôn tránh: cảng biển, tấn công vào hệ thống đê điều, ném bom vào các khu đông dân cư, thậm chí sử dụng vũ khí hạt nhân. Tám tháng trước, tôi đã đặt câu hỏi cho Schelling, có liên quan tới chiến lược đe doạ: "Tại sao lời đe doạ leo thang lại phát huy tác dụng trong khi việc thực sự ném bom miền Bắc lại không?". Mort giải thích với tôi rằng câu trả lời của Nixon trước thách thức này vẫn còn giá trị: "Nếu cần tôi sẽ huỷ diệt miền Bắc nặng nề hơn là những gì miền Bắc đã từng hứng chịu. Và tôi sẽ chứng minh được điều đó bằng cách leo thang chiến tranh mà trước đây Lyndon Johnson không dám làm". Mort nói, đó là ý nghĩa của chiến dịch ném bom bí mật đang được tiến hành tại Campuchia mà Nixon bắt đầu hồi tháng hai. Chiến dịch đó vẫn "bí mật" mặc dù trang nhất của tờ Thời báo New York đã đăng tải một bài viết vào tháng 5, bởi vì cùng ngày hôm đó Lầu Năm Góc đã chối bỏ điều này và không một nhà báo nào tiếp tục theo dõi sự việc đó nữa. Mort đã khiến tôi biết yề sự việc đó đơn giản bằng cách gợi tôi nhớ lại câu chuyện William Beecher trên tờ Thời báo New York và nói với tôi: "Sự thật đúng như vậy". (Ông ta không phải là nguồn cung cấp thông tin; ông ta tin rằng thông tin rò rỉ ra từ Lầu Năm Góc).
Mort nói mục đính chính của cuộc ném bom là chứng tỏ cho miền Bắc thấy rằng Nixon không bị bó buộc giống như Johnson. Nếu Cộng sản thách thức sự có mặt lâu dài của Mỹ tại Nam Việt Nam bằng những cuộc tấn công gây tổn thất lớn cho Mỹ, Nixon cũng sẵn sàng chứng minh như vậy. Những toán biệt kích bằng đường sông cũng đã bí mật thâm nhập vào Lào (chiến dịch Dewey Canyon).
Những gì mà tôi nghe thấy không chỉ là cuộc chiến đang tiếp diễn lâu dài, mà cuộc chiến đang lan rộng. Rõ ràng đó không phải là những gì Nixon muốn hay hy vọng. Halperin nói ông ta hy vọng rằng những lời đe doạ của mình sẽ phát huy tác dụng. Với việc chứng tỏ uy thế như đã nói ở trên, Hà Nội sẽ phải lùi bước, giảm quy mô chiến sự lâu dài, đồng ý rút quân và giải quyết xung đột. Nhưng tôi không tin điều đó và Halperin cũng vậy. Tôi biết đó là những gì Nixon tin vì tôi đã đọc nghiên cứu của McNamara. Đó cũng là những gì mà Eisenhower tin trong suốt thập kỷ 50; là những gì mà Nixon, McNamara và Wat Rostow đã tin hoặc làm ra vẻ tin vào năm 1965.
Nếu như tôi không hiểu giai đoạn lịch sử đó thì có lẽ tôi đã phản ứng trước câu chuyện của Mort giống như những người khác khi họ được nghe câu chuyện đó. Họ nói: "Nixon không thể tin vào điều đó, ông sai rồi". Nhưng tới thời điểm này Mort đã đọc về giai đoạn lịch sử đó và ông ta tin chắc rằng tính liên tục trong báo cáo của McNamara không kết thúc vào tháng 3-1968. Là người hiểu ông ấy, tôi thấy hài lòng với những gì Ông ta nói với tôi. Ông ấy không kể cho tôi biết làm thế nào ông ấy biết được điều này và tôi cũng không nài nỉ ông ấy phải nói cho mãi đến mùa thu năm đó. Nhưng những gì ông ấy kể cho tôi đã rất chi tiết rồi. Vào tháng 9-1969, ông ấy nói: "Chính phủ hiện nay sẽ không ra tranh cử năm 1972 mà lại không đặt mìn ở Hải Phòng hay ném bom Hà Nội (ông ấy đã nhầm về trường hợp của Hà Nội). Mãi 6 tuần sau khi tranh cử, Hà Nội mới bị ném bom.
Dự đoán đó giả thuyết rằng lời lẽ đe doạ có thể không phát huy tác dụng và rằng Nixon, thay về mất mặt, sẽ tiến hành những gì ông ta đã hù doạ. Cả hai chúng tôi đều tin vào giả thuyết thứ nhất, từ kinh nghiệm trong vòng 5 năm qua (và những gì chúng tôi đọc được về quãng thời gian 24 năm qua).
Halperin tin vào giả thuyết thứ hai, từ kinh nghiệm của ông về Nixon trong vòng 6 tháng qua. Thuyết phục tôi rằng điều đó đúng cũng không khó, một khi Tổng thống đã cam kết vào những hành động này, một khi ông ta thấy uy tín và danh dự của mình bị tổn hại. Nhưng tôi vẫn nghĩ có lẽ không quá muộn để cho ông ta thoát ra khỏi những hành động ngu xuẩn đó.
Không một cam kết nào là cuối cùng cho đến khi người ta công khai thực hiện cam kết đó. Những gì Halperin kể cho tôi nghe là một quyết định bí mật. Đó không hề là những gì dư luận mong đợi từ ông ta, mà chính là điều ngược lại. Nếu Nixon suy nghĩ lại, trì hoãn quyết định hoặc thậm chí tuyên bố một chính sách khác thì cũng chẳng ai biết đấy là đâu. Halperin không nghĩ rằng có khả năng làm được điều này từ nội bộ Hội đồng An ninh quốc gia (ông ấy cũng sắp thôi việc ở đó, và đó là một trong những lý do) và ông ta không đưa ra một phương án khác.
Nhưng đó là những gì chợt nảy ra trong đầu tôi vì tôi phải rời Washington đi họp ở Haverford, Pennsylvania.
Chú thích:
(91) Chúng nằm trong… một loạt các tài liệu lưu hành trong nội bộ Rand: Ellsberg, Các mục tiêu và sức mạnh của Mỹ ở Việt Nam, tháng 6, 1969; Các động thái quyết định tới quá trình ra quyết định của Mỹ về Việt Nam, tháng 6, 1969; Vũ Văn Thái nói về các mục tiêu và can thiệp của Mỹ vào Việt Nam, tháng 7, 1969; Nho sĩ và Cộng sản, tháng 7, 1969; Sự ủng hộ của Mỹ cho Diệm, tháng 7, 1969; Về quá trình bình định, tháng 7, 1969; Chính sách của Mỹ và nền chính trị các nước, tháng 7, 1969; Các mục tiêu bất khả thì và nền chính trị ngưng đọng, tháng 8, 1969; Cộng sản và người Việt Nam, tháng 8, 1969; Nhu đạo cách mạng, tháng 7, 1970, tài liệu không xuất bản; "Việc thương lượng trên cơ sở này" - Hồ sơ Lầu Năm Góc, Gravel biên tập, quyển số 3, trang 502; "Đừng để tôi phải rời khỏi đây theo cách này" - trích trong Sainteny, trang 210.
(92) "Mặc dù là người Pháp" - Hồ sơ Lầu Năm Góc, Gravel biên tập, quyển số 1, trang 29.
(93) "Chúng ta không hối thúc" - Hồ sơ Lầu Năm Góc, GPO biên tập, quyển số 8, trang 143-49.
Chương 17
Những người chống lại chiến tranh Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Vào tuần cuối của tháng 8-1969 tôi đến đại học Quaker ở gần thành phố Philadephia để dự hội nghị tổ chức 3 năm một lần của những người chống chiến tranh quốc tế (WRI).
Chủ đề của hội nghị là "Tự do và Cách mạng", không giống với chủ đề của Hội nghị Princeton "Nước Mỹ trong một thế giới cách mạng" được tổ chức trước đó 16 tháng. Nhưng cuộc gặp mặt những người chống chiến tranh năm nay không được Liên đoàn Ivy đồng tài trợ. Và tôi không còn đến dự như một người phản cách mạng nhiệt thành nữa.
Mặt khác, tôi cũng không phải là nhà cách mạng Gandi không dùng bạo lực hay người theo chủ nghĩa yêu chuộng hoà bình, như nhiều người đến dự nghĩ về bản thân họ. Nhưng một năm sau khi đọc những gì Janaki đã gợi ý nên đọc, tôi rất muốn gặp những người đã tự coi họ như vậy. Từ trước đến nay, Janaki là người duy nhất tôi thực sự hiểu và thường xuyên gặp gỡ. Sau Hội nghị ở Princeton, cô ấy đã đến thăm tội ở Malibu và chúng tôi gặp nhau vài ngày ở London. Cô ấy để lại ấn tượng sâu sắc đối với tôi. Tôi có thể nói cô ấy là người anh hùng của tôi, giống như một người khác mà tôi đã từng biết đến, Rosa Parks. 15 năm trước đó một trong những người anh hùng của tôi là John Wayne, người đã tuyển dụng tôi và rất nhiều người khác vào làm việc trong Hải quân Mỹ. Tôi phát hiện ra rằng lần này điều gì đó đã đổi khác Người anh hùng của tôi đã thay đổi cả màu da lẫn giới tính. Nhưng tôi còn muốn gặp cả những người khác nữa, tốt nhất là những người có kinh nghiệm sống gần giống với tôi hơn là với Janaki và hàng ngày áp dụng những nguyên tắc của Gandi mà tôi được đọc. Tôi sẵn sàng để họ thử thách, thậm chí để họ thay đổi tôi.
Năm trước đó, tôi có đọc những cuốn sách Janaki khuyên tôi nên đọc; trong số đó có hai cuốn "Bước đi của Luther King hướng tới tự do". "Chinh phục bạo lực" của John Bondorant, viết về phương châm và thực hành không dùng bạo lực của Gandi và cuốn "Cách mạng và sự cân bằng" của Barbara Deming, tác giả có những bài viết về nhu cầu không cần sử dụng vũ lực trong chiến tranh Việt Nam mà tôi đã đọc đi đọc lại nhiều lần. Tôi cũng đọc nhiều lần một bài viết khác cũng về chủ đề đó, nhưng được một tác giả khác viết trước đó gần một thế kỷ, cuốn "Về nghĩa vụ không tuân lệnh dân sự" của Henry David Thoreau. Bản gốc có tiêu đề nghe rất phá phách "Chống lại chính phủ dân sự".
Không tuân lệnh quyền lực dân sự, phải chăng đó là một nghĩa vụ? Liệu đó có phải là sự lựa chọn hợp pháp không? Theo Thoreau thì trong những hoàn cảnh nhất định, câu trả lời là có khi "toàn bộ một đất nước bị quân đội nước ngoài vô cớ dày xéo và chiếm đóng"(94), khi "quân đội của chúng ta là quân đội đi xâm lược"(95). Ông ta nói trong trường hợp như vậy thì tuân lệnh những nhà lãnh đạo trong một sự nghiệp phi nghĩa là lựa chọn sai lầm. Bản thân ông ta đã vào tù vì từ chối không chịu đóng thuế thân để phản đối chiến tranh Mehicô. Ông ta chỉ ở trong tù có một đêm vì, trái với ý muốn của bản thân, "ai đó đã can thiệp và đóng thuế hộ ông ta(96). Giống như Gandi hay King, Thoreau chủ trương không sử dụng vũ lực, nhưng chống lại tội ác nô lệ và một cuộc chiến phi nghĩa, bài viết của ông ta kêu gọi nổi loạn và phiến loạn không dùng vũ lực. Cùng giống như Rosa Parks, bằng ví dụ của mình, ông ta hối thúc những gì vượt quá cả sự phản đối bằng ngôn ngữ bất hợp tác, thường dân không chấp hành mệnh lệnh của quân đội, giống như việc "binh lính không chịu tham gia vào cuộc chiến phi nghĩa". Tại tiểu bang Massachusetts, quê hương ông, ông cho rằng những người lính như vậy được nhiều người khen ngợi nhưng không có nhiều người bắt chước làm theo, trong số hàng ngàn người, về lý thuyết thì phản đối chế độ nô lệ và chiến tranh, nhưng trên thực tế thì lại không làm gì để chấm dứt điều đó cả. Họ do dự, họ hối tiếc và thỉnh thoảng họ yêu sách nhưng họ chẳng làm được điều gì cho ra hồn cả. Họ sẽ đợi những người khác giải quyết vấn đề này. May lắm thì họ chỉ bỏ lá phiếu rẻ mạt.
Đối với một thế kỷ các độc giả (Tolstoy trích dẫn lời của ông ta để chống lại lệnh gọi nhập ngũ; Gandi truyền bá lời nói của ông trước đám đông ở Ấn Độ). Thoreau tuyên bố: "Hãy bỏ lá phiếu của mình. Không phải bỏ một tờ giấy mà là gửi gắm cả ảnh hưởng của bạn nữa. Một nhóm người thiểu số là bất lực khi nó phải phục tùng đa số nhưng nó sẽ không thể đánh bại nếu dồn hết sức lực của mình".
Tôi đọc những dòng chữ đó lần đầu tiên vào mùa hè nàm 1968. Một năm sau việc cử tri bỏ lá phiếu của mình mà vẫn không kết thúc được cuộc chiến tranh mà họ muốn kết thúc, văng vẳng trong đầu tôi là câu nói: "Hãy bỏ lá phiếu của mình. Không phải bỏ một tờ giấy mà là gửi gắm cả ảnh hưởng của bạn nữa"(97). Tôi đã tới Haverford với hy vọng tìm hiểu xem điều này có nghĩa là gì.
Nhiều điều đã xảy ra trong suốt 16 tháng đó. Đáng nhẽ ra những điều này phải làm cho tình hình khác đi, nhưng trên thực tế lại không phải như vậy: chiến dịch bầu cử Tổng thống đã bắt đầu với cuộc chiến tranh Việt Nam là vấn đề cốt lõi; thay đổi hoàn toàn trong đảng và chính phủ; khi một chính phủ mới bắt đầu thì người ta thường xem xét kỹ lại các phương án lựa chọn khác nhau và đặt câu hỏi về bộ máy quan liêu; bắt đầu đàm phán với Hà Nội. Những vấn đề này, hoặc bất kỳ một khía cạnh nào khác của chính trị bình thường, dường như sẽ gỡ rối mọi chuyện, mặc dù cử tri trông đợi điều này và rõ ràng là lo lắng cho nó. Nếu tôi sẵn sàng thay đổi quan hệ của mình với tình hình, thậm chí sẵn sàng thay đổi cuộc đời mình thì chắc chắn có lý do của nó.
Janaki đã mời tôi tham dự hội nghị. Cô ấy là một trong những nhà tổ chức hội nghị này. Cô ấy muốn tôi làm diễn giả lên phát biểu để nêu ra những câu hỏi về chủ nghĩa yêu chuộng hoà bình mà tôi đã hỏi cô ấy từ những tài liệu mà cô ấy khuyên tôi nên đọc. Tôi từ chối ngay lời mời này. Tôi biết quá ít về chủ đề này và những suy nghĩ của tôi chưa có gì là rõ ràng cả để tôi có thể lên tiếng tại hội nghị. Những thông tin tôi có được từ đại học Harvard, Rand, Bộ Quốc phòng và Bộ Ngoại giao Mỹ sẽ không gây ấn tượng gì đối với các đại biểu dự hội nghị. Và tôi cũng không có phẩm chất gì khác để khiến họ tin rằng tôi là một diễn giả thực thụ. Tôi nói tôi muốn lắng nghe, chứ không muốn tranh luận.
Tại hội nghị tôi rất ít khi nhìn thấy Janaki. Là nhà tổ chức, co ấy rất bận. Nhưng như những gì tôi hy vọng, tôi thực sự có cơ hội được gặp một nhà hoạt động đã cùng ăn trưa với chúng tôi tại Princeton một ngày trước khi tôi gặp Janaki. Trên thực tế, tất cả những ai ăn rưa cùng chúng tôi hôm đó đều đến dự hội nghị.
Một người trong số đó là Bob Eaton, người đã tới Bắc và Nam Việt Nam trên chiếc tàu Phoenix, theo kế hoạch sẽ bị tống giam vào sáng ngày thứ ba của hội nghị, tại phòng xử án liên bang trong toà nhà Bưu điện tại trung tâm Philadelphia. Anh ta sẽ ngồi tù 3 năm.
Eaton là người đầu tiên chống quân dịch mà tôi được gặp. Anh ta hơn bất kỳ đồng nghiệp hay bạn bè tôi ở Washington hay Santa Monica. Giờ đây nhìn lại tôi kinh ngạc nhận ra rằng tôi và bạn bè tôi bị cô lập như thế nào, mãi đến năm 1969 và thậm chí sau khi nhiều người trong chúng tôi chỉ trích gay gắt cuộc chiến tranh, từ phong trào phản chiến đang rầm rộ hay rộng hơn nữa là phong trào hoà bình. Những gì tôi biết về những con người đó chủ yếu có được chỉ qua các phương tiện trưyền thông đại chúng, nhìn chung rất tiêu cực với mức độ khác nhau, nào là cực đoan, đơn giản hoá, thân Cộng sản hoặc thân Mặt trận dân tộc giải phóng nào là cuồng tín, chống Mỹ và giáo điều. Tôi tới Haverford cũng một phần là để tìm hiểu xem những gì báo chí viết có chính xác không. Tôi không muốn bản thân mình bị gọi như vậy (nhưng những năm sau, cái giá mà tôi phải trả vì đã phản kháng không dùng vũ lực để chống chiến tranh là việc tôi đã bị gán cho tất cả những tội danh nêu trên).
Nhưng những người mà tôi gặp và lắng nghe tại hội nghị lại không gặp phải những vấn đề như vậy. Bốn ngày thảo luận sôi nổi mà tôi được tham dự, bao gồm cả những tranh luận về nguyên tắc và chiến lược chung, cũng như các chiến thuật đã phản bác lại những tội danh nêu trên. Xin lấy một ví dụ, người ủng hộ thuyết vô chính phủ và yêu chuộng hoà bình chỉ trích quyền lực và bạo lực của nhà nước mà tất cả các đại biểu đều chung quan điểm hầu như không tạo ra cơ sở gì cho quan điểm thán phục và không phê phán Liên Xô, chính quyền ở Hà Nội hay Mặt trận dân tộc giải phóng. Những đại biểu tham dự hội nghị này phản đối chiến tranh mà không thi vị hoá Việt Cộng, những chiến sĩ cách mạng sử dụng vũ lực của thế giới thứ ba, hay các nước xã hội chủ nghĩa nhiều hơn là phản đối nhà nước của chính họ.
Cũng giống như phản đối chiến tranh, khi thách thức việc lạm dụng quyền lực nhà nước, họ đi quá những lời chỉ trích bên lề. Một số người có mặt, bao gồm Michael Randle, Chủ tịch của Tổ chức những người chống chiến tranh quốc tế và Devi Prasad, Tổng thư ký của tổ chức này đã có những hành động trực tiếp không dùng vũ lực tại Đông Âu vào tháng 9-1968, rải truyền đơn tại một số thủ đô để phản đối việc Liên Xô và Khối hiệp ước Varsava xâm lược Tiệp Khắc. Điều này đồng nghĩa với những cuộc biểu tình tại các quảng trường thành phố, nơi mà các cuộc biểu tình là bất hợp pháp và những người tham gia sẽ bị bắt ngay lập tức. Trong đa phần các trường hợp, họ sẽ bị giam giữ và cầm tù.
Tôi hoài nghi về cam kết giáo điều đối với chủ nghĩa yêu chuộng hoà bình tuyệt đối mà họ có. Tổ chức những người chống chiến tranh quốc tế, trong đó Liên đoàn những người chống chiến tranh là một chi nhánh của Mỹ, đã được thành lập sau Chiến tranh thế giới lần II như một tập hợp những người phản đối chiến tranh có lương tri, vào một thời điểm mà có rất ít nước chính thức công nhận tổ chức đó. Trong thập kỷ 20, tổ chức này đã thông qua quan điểm của Gandhi và bây giờ tiếp tục mở rộng hơn nữa các cuộc đấu tranh giải phóng không dùng vũ lực, nhưng nó vẫn giữ các nguyên tắc yêu chuộng hoà bình. Tôi nói với Randall Kehler, người đứng đầu chi nhánh của Liên đoàn những người chống chiến tranh tại San Francisco và là một trong những người tổ chức hội nghị, rằng tôi không thể tham gia chi nhánh này được, vì theo như tôi hiểu thì nó bao gồm việc ký một cam kết từ chối không tham gia vào tất cả các cuộc chiến tranh, những cuộc chiến bị coi là tội ác chống lại nhân loại. Mặc dù cuộc chiến tranh Việt Nam và tôi càng ngày càng có xu hướng hoài nghi về bất kỳ cuộc chiến nào được coi là "chính nghĩa", tôi nói với Kehler rằng tôi tin là việc tự vệ bằng cách sử dụng vũ lực được biện hộ chống lại sự xâm lược, giống như trường hợp của Hitler vậy. Kehler nói ông ta cũng có mối băn khoăn tương tự.
Ông ấy nói: "Tôi chưa bao giờ ký cam kết". Ông ta hỏi những người xung quanh và được biết đa phần họ cũng chưa ký cam kết. Chủ nghĩa yêu chuộng hoà bình của họ không phải giáo điều. Nó phát triển và khám phá, công nhận tính bất trắc và tình hình tiến thoái lưỡng nan.
Một khía cạnh nổi trội của hội nghị này là chiến tranh Việt Nam chắc chắn thu hút được sự chú ý hàng đầu, trong chương trình nghị sự hoặc trong những cuộc thảo luận. Điều này xảy ra mặc dù hầu như mọi người có mặt, từ nước Mỹ cho đến các nơi khác, đều kịch liệt phản đối chiến tranh và mặc dù chiến tranh vẫn tiếp diễn khốc liệt như trước. Thực ra, máy bay Mỹ không còn ném bom Bắc Việt Nam mà chỉ đơn thuần là chuyển mục tiêu sang Lào, Nam Việt Nam và bí mật sang Campuchia. Tính tổng cộng, họ đã ném một số lượng bom lớn hơn trước đó, với số lượng khoảng một triệu tấn bom một năm hay là bằng nửa tổng số bom ném xuống trong Chiến tranh thế giới lần II. Tuy nhiên biên bản của hội nghị này cho thấy chỉ có một phần mười giấy tờ và một phần hai mươi diễn giả tập trung trực tiếp vào chiến tranh Việt Nam, cuộc chiến mà tất cả các diễn giả đều cho rằng sắp kết thúc.
Những nhà hoạt động chống chiến tranh này đều có chung một giả thuyết được hầu như tất cả mọi tầng lớp trong xã hội Mỹ chấp nhận trong vòng 18 tháng kể từ khi Hà Nội đồng ý lời đề nghị của Johnson tiến hành đàm phán công khai vào ngày 3-4-1968. Giả thuyết cho rằng cuộc tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968 và lời đề nghị đàm phán của Johnson đã vĩnh viễn giải quyết liệu Mỹ có rút quân khỏi Việt Nam và kết thúc chiến tranh hay không? Người ta cho rằng câu hỏi duy nhất còn lại là những gì mà một diễn giả đã mô tả là "tốc độ rút quân khi kết thúc cuộc chiến tranh bẩn thỉu đằng đẵng này".
Nhưng tôi biết giả thuyết đó là sai. Tôi vừa được biết tại Washington một tuần trước khi họp hội nghị về điều bí mật được giữ kín rằng bản thân Nixon không chấp nhận giả thuyết đó Nixon cũng như Johnson đều không muốn chấp nhận thất bại của Mỹ trong việc quyết định chính trị của Nam Việt Nam, thất bại trong việc ngăn ngừa sự thống trị của Cộng sản tại Sài Gòn và những nơi khác nữa. Khi tôi tới Haverford, trong đầu tôi văng vẳng lời tiên đoán của Halperin với tôi ở Washington: "Chính quyền này sẽ không tham gia tranh cử năm 1972 mà lại không đặt mìn tại Hải Phòng hay ném bom tại Hà Nội". Và sự tiết lộ của Vann rằng ít nhất sẽ vẫn còn hàng nghìn quân Mỹ đóng ở Việt Nam vào cuối năm 1972. Tại hội nghị tôi không thể tiết lộ những gì tôi biết. Những thông tin được tiết lộ cho tôi cực kỳ bí mật. Tôi hầu như không thể nói gì về điều đó mà không hỏi ý kiến hay nguồn cung cấp thông tin là John Paul Vann và Morton Halperin. Bản thân hai người này không phải là người chia sẻ thông tin và đã bí mật biết được thông tin này.
Dù thế nào đi nữa thì tôi vẫn cố gắng giải thích rõ ý nghĩa của những thông tin đó. Tôi dành hẳn 4 ngày hội nghị để xem xem cần phải làm những gì.
Cuối cùng, vào tối thứ ba, tôi đã có cơ hội nói chuyện với Bob Eaton, một đêm trước khi anh ta bị tống giam, hai năm sau khi anh ta tuyên bố với Uỷ ban tuyển quân rằng anh ta sẽ không cộng tác với Hệ thống dịch vụ tuyển trạch nữa. Kể từ đó, ngoài chuyến đi của anh ta trên tàu Phoenix tới bắc và nam Việt Nam, anh ta làm việc với mạng lưới những người yêu chuộng hoà bình AQAG (một nhóm hành động Quaker) và nhóm Chống chiến tranh, ủng hộ việc bất hợp tác với việc tuyểm quân. Tháng 9-1968, anh ta là một trong những thành viên của tổ chức những người chống chiến tranh quốc tế, suýt nữa thì bị tống giam tại Đông Âu vì đã phản đối việc xâm lược Tiệp Khắc.
Đúng là một kẻ quấy rối. Tuy nhiên với niềm tin rằng chiến tranh đang kết thúc, án tù sắp thi hành đối với Eaton, đối với nhiều người, dường như đã lỗi thời. Anh ta ám chỉ tới thái độ này trong câu chuyển vào ngày đầu tiên. Nó đề cập tới việc chống lại chủ nghĩa quân phiệt nói chung, chứ không chỉ chiến tranh Việt Nam vì, như anh ta nói, "Cơ sở của việc tổ chức lính Mỹ hiện nay là không ai muốn mình là chiến sĩ cuối cùng bị bắn gục trong chiến tranh. Đó cũng là một vấn đề đối với nhóm Chống chiến tranh, vì tôi nghĩ không ai muốn là người cuối cùng ngồi tù vì đã chống lại một cuộc chiến tranh".
Một ngày trước khi ngồi tù, ngày 26-8-68, anh ta đã tham dự tất cả các phiên họp, kể cả một phiên kéo dài tới tận 10h30 tối hôm đó, sau đó có tiệc và khiêu vũ. Tôi tìm thấy anh ấy trong một căn phòng tách biệt hẳn nơi tổ chức tiệc, tay đang cầm cốc bia nhưng miệng thì luôn mồm nói về những chiến lược lâu dài và những chiến thuật để thay đổi nước Mỹ. Tôi gợi ý với anh ấy rằng đó không phải là cách tôi sẽ làm nếu đó là ngày cuối cùng trước khi tôi ngồi tù. Anh ta trả lời ngay lập tức: "Nhưng đó là cách của tôi. Tôi là nhà tổ chức. Tôi sẽ là nhà tổ chức trong tù, giống như khi tôi tự do ở bên ngoài vậy".
Sáng hôm sau, thứ tư, hội nghị không tổ chức phiên họp nào để các đại biểu có thể đi Philadelphia làm thành một vòng tròn xung quanh Toà nhà Bưu điện để cầu nguyện trong khi Eaton bị giam giữ bên trong. Xe bus và xe hơi sẽ đưa tất cả chúng tôi đi.
Tôi cố nghĩ ra lý do từ chối không tham gia nhưng không dễ. Tôi thấy ngượng ngùng trước những hồ nghi của bản thân. Thì đã sao nhỉ? Một người tôi ngưỡng mộ bị tống giam vì đã hành động đúng lương tâm. Anh ta và những người bạn muốn thể hiện tình đoàn kết với những lý do chính trị dễ hiểu và có thể vì điều đó giúp anh ấy thấy dễ chịu hơn. Tham dự còn có Pastor Martin Niemoller, một trong những người hùng của thế kỷ và những người khác mà tôi rất ngưỡng mộ. Vậy thì tại sao tôi lại không tham gia nhỉ?
Thực ra tôi có lý do của riêng mình. Tôi vừa sợ mình sẽ bị phát hiện vừa có cảm giác rằng có một điều gì đó không đàng hoàng trong sự kiện này. Điều gì sẽ xảy ra nếu báo chí hoặc cảnh sát hoặc FBI chụp ảnh chúng tôi? Điều gì sẽ xảy ra nếu tên tôi xuất hiện trên các phương tiện truyền thông đại chúng và lan đến tận Washington hay Santa Monica? Tôi biết đồng nghiệp và bạn bè của tôi tại hai nơi đó sẽ nghĩ gì: họ nghĩ tôi bị điên. Họ sẽ coi việc đó như việc đó như sự hy sinh phẩm giá vô ích, hy sinh vì những hành động không mang lại kết quả gì, không có tác dụng gì không đáng phải mạo hiểm không được tiếp cận với thông tin bí mật và với những con người có ảnh hưởng. Không ai có thể lý giải được điều này ngoài sự điên rồ. Tôi có thể nghe thấy sự phản ứng của họ văng vẳng trong đầu tôi và tôi thực sự không thể tranh luận được với điều đó. Đây không phải là nơi, là cách để tôi tuyên bố với Rand, với Lầu Năm Góc và Nhà Trắng rằng tôi đang cùng dư luận phải đối chiến tranh. Cuộc chiến tranh mà họ gây ra.
Nhưng Bob Eaton chuẩn bị vào tù và tôi không thể nghĩ ra lý do nào để từ chối không đi tiễn anh ta. Tôi nghĩ có lẽ mình viện cớ bị ốm nhưng hội nghị vẫn còn họp hai ngày nữa nên lý do đó không chính đáng. Do vậy vào một sáng tháng 8-1969, trong khi Martin Niemoller và Devi Prasad đang ở cùng với Bob, thay mặt anh ta để trả lời toà thì tôi đang ở trung tâm Philadelphia, hoà vào dòng người biểu tình, ăn mặc sặc sỡ, một số người tay giơ biểu ngữ, một số người khác đang phân phát truyền đơn. Tôi đi theo họ, lúc đầu với mối nghi hoặc sâu sắc.
Vỉa hè bên ngoài toà nhà Bưu điện ở Philadelphia sáng hôm đó khác xa so với toà nhà Văn phòng Hành pháp tại Washington, nơi tôi dành tháng hai năm đó viết công văn giấy tờ cho Tổng thống. Cả hai nơi đều là để "nói lên sự thật với các cơ quan quyền lực" và "chứng kiến hoà bình". Nhưng bạn không thể làm điều đó ở cả hai nơi, nếu như bạn không muốn quay lại Hội đồng An ninh quốc gia. Bạn không có cơ hội soạn thảo các bài bình luận tối mật cho Tổng thống về những phương án lựa chọn cho Việt Nam, hoặc cố vấn cho trợ lý an ninh quốc gia nếu bạn là loại người bỏ làm mấy ngày liền để biểu tình ủng hộ những người chống quân dịch trên đường phố ở Philadelphia.
Bạn sẽ không được những người quyền thế tin cẩn nếu có khả năng rằng bạn sẽ công khai thách thức chính sách của họ tại bất kỳ một diễn đàn nào. Đó là quy luật bất di bất dịch của ngành hành pháp. Đó là quy tắc thiêng liêng của những người trong cuộc, của cả những người quyền thế lẫn những người như tôi có vinh hạnh được cố vấn và giúp đỡ họ. Tôi hiểu điều đó như bất kỳ một ai khác. Tôi đã sống theo quy tắc đó trong suốt 10 năm qua, nó đã ăn sâu vào máu thịt tôi rồi. Sáng hôm đó dường như tôi đang vứt bỏ phần máu thịt đó của mình trước khi tôi có được phần máu thịt mới. Tôi cảm thấy mình đang khoả thân và trần trụi. Bây giờ những gì tôi nhớ là một ngày u ám, tuyết rơi đầy và rét mướt.
Tôi luôn nhủ thầm rằng đó là Philadelphia vào tháng tám. Nhưng xét cho cùng, chẳng ai để ý đến tôi cả. Không có cánh báo chí, không có cả cảnh sát nữa. Mọi người thờ ơ đi qua, cũng chăng thèm dừng lại đọc những tấm biểu ngữ nữa. Một số người cầm lấy tờ truyền đơn chúng tôi phát cho họ. Những người khác vứt đi hoặc trả lại chúng tôi. Khách qua đường liếc nhìn chúng tôi hoặc cắm đầu đi thẳng, giống như họ liếc nhìn, hoặc thậm chí không thèm đếm xỉa đến, những kẻ ăn xin hoặc vô gia cư.
Khung cảnh giống như có diễn giả đứng trên bục diễn thuyết trong công viên Hyde Park. Chẳng cần phải nói gì nhiều, bạn đang tự bộc lộ bản thân, biến mình thành trò hề trước đám đông, đứng trước những người mà bản thân họ cũng chẳng quan trọng gì và họ sẵn sàng phớt lờ bạn. Nếu bạn muốn thách thức một nhà nước chỉ bằng một khán đài thì có lẽ không còn cách nào thất sách hơn như thế. Quan điểm của các quan chức và các nhà tư vấn cũng giống như quan điểm của tôi. Nếu bạn không có gì tốt hơn để sử dụng một vài giờ trong quỹ thời gian của bạn hơn là thuyết phục những người qua đường thay đổi suy nghĩ của họ bằng cách phát truyền đơn thì đúng là bạn hoàn toàn không có một chút quyền hành nào. Ý nghĩ "Tại sao chúng ta làm điều này? Tôi đang làm gì?" hằn rõ trên trán tôi giống như biểu ngữ mà người đứng cạnh tôi đang cầm. Tôi thấy thật nực cười.
Cảm giác đó trôi qua mau. Xét cho cùng không ai có thể để ý quá nhiều theo cách này hay cách khác. Những người bạn đồng hành cùng tôi thấy thoải mái. Có lẽ tất cả bọn họ trước đây đều đã làm điều này. Tôi muốn giúp họ. Tôi lấy một tập truyền đơn và phân phát cho người qua đường. Dường như là phải biết cách thì họ mới chịu nhận truyền đơn. Tôi thử nghiệm với những câu nói dễ chịu khác nhau. Một số câu thành công. Một số câu khác thì không. Tôi bắt đầu thực sự thích công việc này. Cuối buổi sáng, tôi phát truyền đơn cho các xe hơi đỗ chờ đèn giao thông tại ngã tư. Tâm trạng của tôi đã thay đổi. Tôi cảm thấy rất vui, một niềm vui khó giải thích. Đến buổi trưa, mọi người kháo nhau rằng Eaton đã bị tuyên án và đã được đưa vào xà lim. Thẩm phán đã chăm chú lắng nghe lời tuyên bố của Pastor Niemoller và những người khác và đã tuyên án Bob chịu 3 năm tù, bản án mà Bob đã trông đợi. Chúng tôi quay trở lại hội nghị.
Một điều gì đó rất quan trọng đã xảy ra với tôi. Tôi cảm thấy tự do. Tôi không biết là tôi có thể giải thích lúc đó được hay không. Nhưng bây giờ tôi đã nhìn thấy niềm vui sướng phấn chấn đó ở người khác, đặc biệt là những người vừa trải qua lần đầu tiên không tuân thủ công dân, cho dù họ có bị tống giam hay không. Nghi lễ cầu nguyện đơn giản này, lần đầu tiên tôi làm trước công chúng, đã giải thoát tôi khỏi nỗi sợ hãi mà ai cũng có.
Tôi nghĩ mọi người thường đánh giá quá thấp sức mạnh ức chế của nỗi sợ hãi đó. Tôi thoát khỏi nỗi sợ hãi rằng mình là một kẻ lạc loài kẻ ngốc nghếch.
Một điều nữa cũng xảy ra, mặc dù mãi về sau này tôi mới nhận thức đầy đủ. Bằng cách thể hiện tình đoàn kết với Bob Eaton và sát cánh cùng những người có quan điểm như tôi và những người tôi tôn trọng, tôi đã bước qua một ranh giới khác, một ranh giới vô hình mà những người được tuyển dụng vạch ra trên nền của trung tâm tuyển việc làm. Tôi đã tham gia vào phong trào.
Ngày hôm sau, 28-8-1969, ngày cuối cùng của Hội nghị, tôi nghe bài nói chuyện của Randy Kehler trong phiên họp cuối cùng vào buổi chiều. Trong tất cả các bài nói chuyện tại hội nghị, bài nói chuyện của ông ta hoàn toàn mang tính cá nhân. Ông nói ông muốn chia sẻ những suy nghĩ của mình.
Trước đây tôi không có cơ hội nói chuyện lâu với Kether nhưng tôi có ấn tượng rất tốt về con người ông. Ông lắng nghe rất chăm chú, trả lời mạch lạc. Trong số nhiều thanh niên Mỹ mà tôi gặp tại hội nghị thì anh ta là người tôi muốn gặp gỡ hơn cả.
Tôi đã quyết định sẽ sớm đến thăm anh ấy ở San Francisco. Anh ấy có một phong thái bình dị và thẳng thắn, cùng với sự nồng hậu và khiếu hài hước. Anh ta là một người biết lôi cuốn người khác.
Tôi hơi ngạc nhiên khi biết rằng chúng tôi học cùng trường đại học và cũng giống như tôi, anh ấy là sinh viên chuyển tiếp từ Cambridge tới California. Tôi nhớ lúc đó mình nghĩ rằng đây đúng là nhờ công lao của Đại học Harvard. Sau đó lần đầu tiên tôi có dịp được nghe về con đường đã dẫn anh ấy thành người đứng đầu văn phòng liên đoàn những người chống chiến tranh tại San Francisco.
"Khi tôi tốt nghiệp Đại học Harvard và học được ba tuần sau đại học ở Standford, tôi lên đường đến bờ biển phía Tây. Tôi tham gia vào một cuộc biểu tình trong đó hàng trăm người ngồi ở cửa ra vào của trung tâm giới thiệu việc làm, cố gắng đặt câu hỏi cho tất cả những ai đi qua cửa để được nhận vào làm việc.
Chúng tôi muốn câu hỏi đó phải thực chất, chứ không phải chỉ đơn thuần là một vài từ ngữ, do đó chúng tôi cứ ngồi lỳ tại lối ra vào như vậy.
"Đó là một kinh nghiệm rất mới đối với tôi và thực sự làm thay đổi toàn bộ cuộc đời tôi. Trước khi tôi kịp nhận ra điều đó, tôi đã bị tống giam cùng với mấy trăm người kia và lần đầu tiên tôi tìm thấy một cộng đồng những con người không chỉ đoàn kết với nhau, mà là một cộng đồng cam kết một điều gì đó to lớn hơn bản thân họ, cao cả hơn, lý tưởng hơn bất kỳ những gì mà tôi đã tham gia sau 20 năm cắp sách đến trường. Chính nhờ có cuộc biểu tình và thời gian tôi bị tống giam với những con người đó mà tôi nhìn thấy một cuộc sống khác so với cuộc sống mà tôi đang sống. Điều đó khiến tôi quyết định thôi học vả đầu quân làm việc cho Liên đoàn những người chống chiến tranh, tại San Francisco".
Anh ấy nói về việc không sử dụng vũ lực như một lối sống, nói về hy vọng, nói về hai thế giới đang song hành cùng tồn tại, một thế giới đang suy vong đầy những lo sợ và một thế giới khác đang xuất hiện, càng ngày càng giống một gia đình. Những gì tôi nhớ rõ nét nhất không phải là nội dung anh ta nói mà là những ấn tượng anh để lại trong tôi khi anh ta đứng lên nói chuyện trước cuộc họp mà không cần chuẩn bị. Lắng nghe anh ấy giống như là nhìn vào nước trong vắt vậy. Tôi đang tận hưởng một cảm giác mà tôi không nhớ là mình đã được tận hưởng trong hoàn cảnh nào khác. Tôi thấy tự hào vì anh ấy là người Mỹ. Cuối hội nghị tôi thấy tự hào rằng, anh ấy, người đang diễn thuyết là người Mỹ. Thực ra, rất khó có thể hình dung ra ai đó có nét mặt và phong thái giống người Mỹ hơn Randy Kehler. Đó là những gì khiến tôi thấy tự hào dân tộc. Khán phòng lúc đó toàn các vị đại biểu đến từ khắp thế giới. Tôi rất vui mừng khi thấy các đại biểu nước ngoài có cơ hội được nghe anh ấy nói chuyện. Anh ấy là những gì tốt nhất mà chúng ta có.
Vào thời điểm đó, anh ta kéo tôi ra khỏi cảm giác mơ màng khi bất thần anh ta nói: "Ngày hôm qua một người bạn của tôi, anh Bob đã bị tống giam". Anh ta ngừng trong giây lát, nuốt nước bọt nghẹn đắng ở cổ. Mọi người nhìn thấy rõ những giọt nước mắt trên khóe mắt của anh. Anh ta mỉm cười và nói tiếp:
"Điều này giống như lễ cưới khi Jane và tôi lấy nhau cách đây một tháng trên bờ biển San Francisco, vì tôi rất hay khóc". Một lát sau anh ta tiếp tục bằng một giọng nói cứng cỏi: "Tháng trước, David Harris cũng bị tống giam. Những người bạn khác của tôi như Wanen, John, Teny và nhiều người khác nữa cũng đang ngồi tù, và tôi thực sự không buồn về điều đó. Điều đó có một vẻ đẹp riêng và tôi rất phấn khởi nếu tôi cũng sớm được mời vào tù cùng với họ".
Anh ta lại phải dừng lại. Đại biểu bên dưới rất ngạc nhiên.
Vài người bắt đầu vỗ tay, rồi cả khán phòng cùng vỗ tay và tất cả mọi người đều đứng dậy. Nhưng anh ấy tiếp tục nói, tiếng vỗ tay ngớt đi và mọì người lặng lẽ đứng dậy. "Ngay bây giờ, tôi là người duy nhất còn lại trong văn phòng liên đoàn những người chống chiến tranh ở San Francisco vì tất cả những người khác đã ngồi tù rồi. Chẳng bao lâu nữa khi tôi vào tù thì văn phòng này chỉ còn phụ nữ mà thôi. Điều đó cũng chẳng sao. Tôi biết rõ. Tôi nghĩ Bob và David cũng biết, nhưng còn có một lý do khác giải thích tại sao tôi thích ngồi tù mà không hề hối tiếc hay sợ hãi. Đó là vì tôi biết rằng tất cả mọi người ở đây và nhiều người trên thế giới như các bạn sẽ tiếp tục đấu tranh".
Tất cả mọi người trong khán phòng đều đứng dậy. Họ vỗ tay và hò reo rất lâu. Tôi đứng dậy cùng với mọi người, nhưng đột nhiên tôi ngã phịch xuống ghế, thở gấp, chóng mặt và người lắc lư. Tôi khóc, nhiều người khác xung quanh tôi chắc hẳn cũng đang khóc, nhưng tôi bắt đầu khóc thầm, khuôn mặt nhăn nhó giàn giụa nước mắt, hai bờ vai run lên. Janaki là diễn giả tiếp theo nhưng tôi không thể nán lại được. Tôi đứng dậy, - tôi đang ngồi ở dãy ghế cuối cùng trong khán phòng - đi ra phía hành lang sau và tìm nhà vệ sinh. Tôi bước vào và bật đèn. Đó là một căn phòng nhỏ, có hai bồn rửa tay. Tôi lảo đảo tựa lưng vào tường và loạng choạng ngồi xuống sàn nhà lát đá hoa. Tôi bắt đầu khóc nấc lên, không thể kiềm chế nổi bản thân nữa. Tiếng khóc của tôl giống như tiếng cười, lúc khác lại giống như tiếng rên rỉ. Tôi thổn thức. Tôi thở gấp.
Tôi ngồi ở đó hơn một tiếng mà không đứng dậy. Đầu tôi thỉnh thoảng dựa vào tường, thỉnh thoảng tôi hai tay ôm đầu. Từ trước đến nay tôi chưa bao giờ khóc như thế này trừ phi tôi biết Bobby Kennedy chết. Một câu nói cứ văng vẳng trong đầu tôi: chúng ta đang huỷ hoại thế hệ trẻ.
Tôi không sẵn sàng lắng nghe những gì Randy nói. Tôi chưa chuẩn bị tinh thần cho điều đó. Khi anh ta nói tới những người bạn đang ở trong tù và nhận xét rằng anh ấy sẽ nhanh chóng nhập hội với hó, phải mất một lúc tôi mới định thần được xem anh ấy đang nói cái gì. Sau đó cảm giác của tôi như thể một chiếc rìu giáng xuống đầu tôi và tim tôi nứt toác ra. Nhưng những gì thực sự xảy ra là cuộc sống của tôi đã chia tách thành hai phần.
"Chúng ta đang huỷ hoại thế hệ trẻ", tôi ngồi đó trên sàn nhà khu vệ sinh trong giai đoạn thứ hai của cuộc sống. Trên cả hai bờ giới tuyến ngăn cách, chúng ta đang sử dụng thế hệ trẻ, sử dụng hết sức lực của họ, "phí phạm" con người họ. Đó là những gì đất nước chúng tôi đạt tới. Chúng tôi đã đi xa đến mức độ như thế này. Điều tốt nhất mà thanh niên ưu tú nhất đất nước chúng tôi có thể làm là đi ngồi tù. Con trai tôi, Robert, mới 13 tuổi. Cuộc chiến này vẫn còn tiếp diễn khi nó tròn 18 tuổi (trên thực tế đúng như vậy). Con trai tôi sinh ra là để đi tù. Một câu nói khác cứ văng vẳng trong đầu tôi, điệp khúc của một bài hát của Leonard Cohen: "Đúng vậy, chúng ta đã đi xa đến mức độ này. Con đường phía trước cũng chẳng còn xa là bao".
Sau đó khoảng một tiếng, tôi nín khóc. Tôi đờ đẫn nhìn chằm chằm vào hai bồn rửa mặt trước mặt tôi, suy nghĩ, không khóc, mệt lả và thở dốc. Cuối cùng tôi cũng đứng dậy được và rửa mặt cho khoan khoái. Tay tôi nắm chặt bồn rửa mặt và nhìn chằm chằm vào gương. Sau đó tôi lại ngồi bệt xuống sàn nhà và tiếp tục suy nghĩ. Tôi lại khóc, nhưng khóc ít thôi và không khóc to. Những gì tôi nghe Randy nói bắt đầu dấy lên một câu hỏi trong đầu tôi. Tôi có thể làm được gì, tôi nên làm gì để góp sức kết thúc cuộc chiến này giờ đây khi tôi đã sẵn sàng vô tù vì nó?
Không một giai đoạn quá độ nào xảy ra khiến tôi có thể hỏi bản thân rằng tôi có muốn vào tù không để góp sức kết thúc chiến tranh. Điều đó không xuất hiện như một câu hỏi mà câu hỏi đó có thể tự trả lời cho bản thân nó. Từ chiến tranh Việt Nam, tôi hiểu lòng mình hơn. Tôi đã mạo hiểm cuộc sống của mình, hoặc thậm chí tồi tệ hơn nữa là mạo hiểm cơ thể tôi gấp một nghìn lần hơn là khi tôi lái xe hoặc chiến đấu trên sa trường.
Nếu tôi có thể làm được điều đó khi tôi tin vào cuộc chiến tranh Việt Nam thì điều hiển nhiên là có thể vào tù để góp sức kết thúc cuộc chiến. Phải chăng hành động vô tù có thể rút ngắn cuộc chiến lại?
Rõ ràng là Randy nghĩ như vậy. Câu trả lời đó gần như thoả mãn. Ngoài ra, từ kinh nghiệm bản thân, tôi không mấy nghi ngờ rằng anh ấy đã đúng. Trong sâu thẳm trái tim, tôi cảm nhận được sức mạnh trong hành động anh ấy làm. Tính cho đến buổi tối nay, tôi biết mình có đủ sức mạnh và tự do để hành động giống anh ấy.
Chú thích:
(94) "Toàn bộ đất nước bị quân đội nước ngoài vô cớ dày xéo và chiếm đóng" - Thoreau, trang 229. Xem thêm Schlesinger, Nhiệm kỳ chuyên chế của Tổng thống, trang 42-43.
(95) "… quân đội của chúng ta là đội quân đi xâm lược" - sđd.
(96) "… ai đó đã can thiệp" - sđd, trang 240.
(97) "Hãy bỏ lá phiếu của mình" - sđd, trang 235.
Tôi trở về từ Haverford qua Washington. Tại đó tôi lấy thêm tám tập của Bản nghiên cứu McNamara từ văn phòng Rand để mang về nhà tôi ở Santa Monica. Tôi quyết định chưa đọc vội những nghiên cứu đầu tiên trong giai đoạn 1945-1960 vì lúc đầu cho rằng những nghiên cứu đó không liên quan nhiều lắm đến tình hình hiện tại. Đó là sai lầm của tôi. Giờ đây tôi đọc tài liệu để chứng minh với các tài liệu chính thức, tuyệt mật nội bộ của chính phủ Mỹ những gì tôi đã đọc trong các báo cáo của các nhà báo và sử gia Pháp. Không một tập tài liệu nào trong nghiên cứu này có tác động tới quan điểm của tôi về cuộc chiến tranh sâu sắc như vậy. Những tập tài liệu tôi đọc sau này hầu như không khiến tôi ngạc nhiên(98).
Nhưng đối với tôi, ngoài những kết luận đạo đức mà tôi đã lý giải, còn có những kết luận nhận thức và chiến thuật rút ra được từ những gì tôi đọc được trong tháng chín này. Những kết luận này không những bổ sung cho những nghiên cứu trước đây của tôi mà còn khiến tôi tin rằng dòng chảy lịch sử sẽ thay đổi như thế nào trong những tháng tới. Mặt khác, những phát hiện này khép lại một điều bí ẩn "sa lầy" đối với tôi, một khái niệm mà các đời Tổng thống đã bị lừa dối vào những thời điểm bước ngoặt bởi tính lạc quan hão huyền của các cố vấn quân sự và dân sự. Rõ ràng là khi quyết định trực tiếp hậu thuẫn cho Pháp vào tháng 5-1950 (sau nhiều năm cho phép viện trợ của Mỹ được sử dụng gián tiếp để hỗ trợ cho chiến tranh), Harry Truman, giống như 4 người tiền nhiệm, phải chịu trách nhiệm vì đã để xảy ra "thập kỷ đẫm máu" do "khủng hoảng".
Tương tự như vậy, sự hỗ trợ của Eisenhower sau năm 1954 về một nhà nước cảnh sát nhằm bắt bớ, làm câm họng và thủ tiêu tất cả các phần tử chính trị tại Việt Nam, dù là Cộng sản hay phi cộng sản, những ai kêu gọi tuân thủ theo các điều khoản của Hiệp định Geneva đòi tổng tuyển cử thống nhất đất nước, bảo đảm rằng cuộc đấu tranh vũ trang sẽ tiếp tục. Chúng ta không có quyền thắng trong cuộc chiến đó hơn người Pháp đã làm, và đó là con số không tròn trịa. Hơn thế nữa, mặc dù giống như người Pháp với sự hậu thuẫn của người Mỹ, chúng ta có thể kéo dài cuộc chiến năm này qua năm khác nhưng triển vọng để chúng ta chiến thắng cũng chẳng sáng sủa gì hơn người Pháp. Lại một con số không tròn trịa nữa.
Luận điểm về triển vọng chiến thắng đã được các nhà cố vấn có thẩm quyền trình bày trước tất cả các vị Tổng thống từ đời Truman trở đi. Vị Tổng thống nào cũng được thông báo về khả năng rằng sự tiếp cận mà ông ta lựa chọn chắc chắn sẽ đi đến bế tắc hoặc nếu may lắm thì chỉ trì hoãn được sự thất bại mà thôi. Đó là thông điệp hàng năm của riêng tôi kể từ năm 1966; nhưng từ năm 1946, cá nhân các vị Tổng thống đều nhận được bức thông điệp này từ những nguồn đáng tin cậy hơn nhiều. Tuy nhiên ai trong số họ cũng quyết định "khăng khăng làm theo ý mình", lừa dối dư luận về những gì họ đang làm hay về triển vọng chiến thắng.
Những dự đoán nội bộ về thời điểm đưa ra các quyết định cũng không làm thay đổi tới quyết định của Tổng thống. Như tôi đã hy vọng và chờ mong, tháng 3-1969, Tổng thống Mỹ, Nixon phần nào nhận thức được tình hình thực tế từ những câu trả lời cho Tài liệu nghiên cứu An ninh quốc gia 1 (NSSM l) hoàn toàn phù hợp để ông ta quyết định hành động khác đi so với quyết định hành động mà Halperin đã tiết lộ cho tôi biết vào tháng tám. Dựa trên cơ sở những tài liệu có được từ năm 1946, việc "nói sự thật riêng và bí mật với Tổng thống - những gì mà tôi và các bạn đồng nghiệp coi là cơ hội lớn nhất và cao quý nhất để phục vụ cho quốc gia - hoàn toàn không phải là cách nhiều triển vọng để kết thúc cuộc chiến tranh Việt Nam.
Kết luận đó đã thách thức giả thuyết vốn là kim chỉ nam cho toàn bộ sự nghiệp của tôi. Để đọc được liên tục các tài liệu đánh giá tình báo và những dự đoán về chiến tranh Việt Nam từ năm 1946 trở đi cũng có nghĩa là đánh mất đi ảo tưởng rằng cung cấp thông tin cho ngành hành pháp là chiếc chìa khoá để kết thúc chiến tranh - hoặc hoàn thành nghĩa vụ công dân. Dường như chỉ khi quyền lực gây ảnh hưởng đến ngành hành pháp với những tác động quan trọng chia sẻ trách nhiệm về sau này thì Tổng thống mới hết muốn tiếp tục leo thang chiến tranh Việt Nam và chấp nhận "thất bại". Bằng sự im lặng đó - dù sự tư vấn riêng có khôn ngoan và thẳng thắn đến đâu đi nữa - nó ủng hộ và tham gia vào cấu trúc quyền lực hành pháp trực tiếp mà trong những hoàn cảnh như của Việt Nam nó dẫn đến cách ứng xử cứng nhắc và vô vọng. Tiếp thu và làm theo khái niệm đó không thống nhất với ý định làm việc lâu dài cho Rand mà tôi sẽ quay lại với ước muốn và kỳ vọng sẽ làm việc hết đời tôi ở đó.
Đó không phải là tất cả. Cùng với những ẩn ý về tính bất hợp pháp trong chính sách của chúng ta và nhu cầu cấp bách thay đổi chính sách đó, những tập đầu tiên của Hồ sơ Lầu Năm Góc khẳng định với tôi những gì mà tôi đã bắt đầu nghi ngờ khi tôi đọc hai tập tiếp theo trong vòng hai năm sau đó: Tổng thống là một phần trong những rắc rối. Đây rõ ràng là vấn đề liên quan tới vai trò của ông ta, chứ không phải tính cách hay đảng của ông. Khi tôi bắt đầu nhìn nhận ra vấn đề, sự tập trung quyền lực trong ngành hành pháp kể từ chiến tranh thế giới lần thứ hai đã tập trung tất cả trách nhiệm khi chính sách thất bại vào một người, đó chính là Tổng thống. Đồng thời nó cho phép Tổng thống có khả năng trì hoãn hoặc chối bỏ thất bđi của bản thân bằng cách gian lận hay dùng thế lực của mình. Khi gặp phải sự kháng cự quyết liệt từ bên ngoài, như trong trường hợp của Việt Nam, quyền hành đó đã làm hư hỏng con người nắm giữ nó.
Cách duy nhất để có thể thay đổi hành động của Tổng thống là gây sức ép đối với ông ta từ bên ngoài, từ Quốc hội và dư luận.
Cơ may duy nhất để huy động điều đó là cho những người ngoài biết Nixon thích hành động như thế nào. Rất tiếc tôi không có tài liệu để chứng minh điều đó là đúng, để bác bỏ sự hào nhoáng bề ngoài lừa dối người khác mà người ta hy vọng Nhà Trắng sẽ trưng ra như cách không leo thang chiến tranh và rút toàn bộ quân Mỹ khỏi Việt Nam. Không có những tài liệu này, báo cáo của tôi thiếu sức thuyết phục, thậm chí không thể tin được.
Halperin và Vann biết sự thật, nhưng tôi lại không nảy ra ý định hối thúc họ công bố công khai những gì họ đã nói với tôi. Họ cũng không có tài liệu để chứng minh được điều đó, và thực ra (cũng giống như tôi), họ vốn dĩ không được biết điều này và cũng không muốn tiết lộ nguồn thông tin tuyệt mật của họ. Vì lý do tương tự, tôi không hề có ý định tiết lộ nguồn thông tin tuyệt mật của họ, khiến họ mất việc. Có những người sẽ đáng giá cao và trân trọng quan điểm của tôi, mặc dù như tôi đã dự đoán (và phát hiện ra) thậm chí họ biết những gì tôi đòi hỏi là "cực đoan", gieo rắc hoang mang lo sợ, hầu như không thể tin nổi: rằng Nixon đang theo đuổi chính sách không thực tế, không được lòng dân trong hoàn cảnh cuối năm 1968. Tất nhiên chưa ai trong số họ đã đọc Hồ sơ Lầu Năm Góc cả.
Nếu người Mỹ không được tiếp cận với các tài liệu chứng minh tất cả những gì Tổng thống chuẩn bị làm hoặc được nghe những bản báo cáo từ các thành viên hiện nay của chính quyền Tổng thống, thì có lẽ cách tiếp cận tốt thứ hai là cho họ thấy những kiến nghị công khai của các quan chức có quyền hành lớn trước đây hoặc các nhà phân tích cho rằng họ được tiếp cận với thông tin tuyệt mật, cho dù không được tiếp cận với các kế hoạch cấp cao nhất hiện nay. Trong phương án đầu tiên là các nhân sĩ mà tổ chức quyền góp Camegie đã tập hợp tại Bermuda hai năm trước đó. Theo phương án thứ hai sẽ có những người đồng nghiệp trong Công ty Rand của tôi, những người mà đã hơn một năm nay hối thúc việc Mỹ rút quân khỏi Việt Nam. Có lẽ bằng cách công khai với các quan điểm "chuyên môn cao" của chúng tôi, chúng ta có thể mời nhóm thứ nhất tham gia cùng, cụ thể là mời các đảng viên Đảng Dân chủ kêu gọi rút quân khỏi Việt Nam. Bằng cách làm việc đó công khai, trước khi Nixon cam kết bản thân với chính sách mà ông ta thích, họ không những có thể gây sức ép với ông ta mà còn trấn an với ông ta rằng họ sẽ chia sẻ trách nhiệm đối với việc rút quân. Đặc biệt là vào tháng chín sau khi đọc xong về toàn bộ quãng thời gian 23 năm trong nghiên cứu McNamara, tôi dần dần nhận ra sự trấn an của các chính trị gia đối thủ với nhau là cực kỳ quan trọng đối với sự sẵn sàng của Tổng thống để đối mặt với những cáo buộc "đã thua cuộc trong chiến tranh".
Các nhà lãnh đạo trong phe đối lập của Đảng Dân chủ, bao gồm các quan chức trước đây phải chấp nhận, trái ngược với bản năng của họ, rằng việc rút quân và tránh sa lầy tại Việt Nam bây giờ là chính sách thích hợp, là lợi ích tối cao và sự bất đồng quan điểm công khai của họ đối với chính sách của Tổng thống là quan trọng và đáng làm. Thậm chí có thể khó khăn hơn đối với họ, họ sẽ phải chịu búa rìu dư luận về tình huống khó xử bắt buộc đối với tân Tổng thống và thuyết phục ông ta về việc họ sẵn sàng chia sẻ trách nhiệm khi thay đổi chính sách và những hậu quả sau này của nó. Làm được điều đó không phải là dễ. Nhưng đối với tôi dường như đó là việc cần làm ngay, và đó là công việc tôi quyết tâm làm.
Gây sức ép với Tổng thống đương nhiệm, một phần bằng cách khuyến khích đảng đối lập với Tổng thống tự lên án, là không nhất quán với cuộc đời của một nhà phân tích của Rand.
Tôi cũng nhận ra sự thù địch giữa lãnh đạo hai đảng Dân chủ và Cộng hoà. Sau khi tôi đi Haverford về, cả hai mối quan ngại này đều giảm đi. Dường như tôi không thể có cơ hội nào một lần nữa được hỏi ý kiến của chủ tịch một trong hai đảng, cho đến bây giờ đó vẫn là tham vọng lớn nhất của tôi. Nhưng đọc Hồ sơ Lầu Năm Góc về cách xử sự của bốn đời Tổng thống tại Việt Nam, và nhớ lại những kinh nghiệm của cá nhân tôi với vị Tổng thống thứ tư và thứ năm, đột nhiên khiến tôi dễ chấp nhận việc tham vọng của mình không thực hiện được. Tôi đã không còn mong muốn làm việc cho Tổng thống, nếu hiểu theo một cách nào đó thì là phụ tá của Tổng thống.
Điều đó nghe có vẻ ngạo mạn và kiêu căng, nếu xét theo cấp bậc thấp mà tôi phục vụ trong quân đội. Xét cho cùng, tôi chưa bao giờ gặp một vị tổng thống nào (trừ một lần vào năm 1967 khi Tổng thống Johnson trao huy chương cho Frank Scotton, một người bạn của tôi vì anh đã có nhiều sáng kiến khi làm việc với Cơ quan thông tin của Mỹ (USAI). Nhưng thậm chí khi làm đại uý hải quân, tôi luôn coi mình là vệ sĩ của Tổng thống, sẵn sàng chiến đấu bất kỳ khi nào và chống lại bất cứ ai mà Tổng thống muốn. Tôi nghĩ rằng trách nhiệm trực tiếp trước Tổng thống khi làm việc phục vụ ông ta là đặc điểm nổi bật của phần lớn, hoặc nhiều, quan chức trong ngành hành pháp. Nhưng trong tháng đó, cảm giác hài lòng đó biến mất trong tôi, sau khi tôi biết những gì mà năm đời Tổng thống đã làm trong cuộc chiến tranh lâu dài này.
Tôi không còn liên quan gì đến Tổng thống, không còn coi mình là người phục vụ ông ta theo cách hiệu quả nhất để gây ảnh hưởng đến chính trị hay phục vụ xã hội.
Tuy nhiên, sự vỡ mộng này luôn luôn mang lại một cảm giác tự do mới. Tôi không còn đợi Nhà Trắng hay một quan chức nào phục vụ cho Tổng thống gọi nữa. Đó là cảm giác tự do như có thêm nhiều sự lựa chọn để phản kháng, giống như sự thoải mái vô tư mà tôi mới tìm thấy. Giờ đây tôi thấy mình có thể dễ dàng cân nhắc những hình thức phản kháng khác nhau để trình bày chính sách có khả năng ngăn cản không cho phép tôi được làm việc trong ngành hành pháp. Nỗi lo sợ không được làm việc trong ngành hành pháp, chứ không phải bị đi tù, là yếu tố răn đe khiến cho phần lớn các đồng nghiệp của tôi, cả trong quá khứ lẫn hiện tại, không cân nhắc các hành động chính trị đi quá xa mức cho phép. Riêng tôi thì không còn lo sợ gì về điều đó nữa. Từ quan điểm của họ, tôi trở thành một phần tử nguy hiểm khi biết nhiều chuyện.
Giữa tháng chín, tôi nói với đồng nghiệp của tôi, anh Konrad Kellen, rằng tôi đã sẵn sàng hợp tác cùng các cán bộ của Rand, những người đã hai năm liền hối thúc để có được chiến lược đơn phương gỡ rối thoát khỏi cuộc chiến tranh Việt Nam. Tôi gợi ý chúng tôi nên tổ chức cuộc họp để bàn bạc xem chúng tôi nên làm gì. Chiều hôm đó, anh ta đi họp cùng với 4 đồng nghiệp nữa: Mel Gurtov, Paul Langer, Amold Horelick, và Oleg Hoeffding. Gurtov là chuyên gia phụ trách về Trung Quốc và Đông Nam Á, Langer về Nhật Bản, Horelick và Hoeffding về Nga. Tôi thông báo cho họ biết những gì tôi biết được từ Halperin và Vann về chính sách của Nixon. Tổng thống đã thử nghiệm cách tiếp cận muốn cả hai bên cùng rút quân thông qua đàm phán nhưng cách đó đã thất bại. Ông ta dường như hy vọng rằng điều này sẽ xảy ra nếu quân Mỹ tiếp tục ở lại Việt Nam, nhưng tôi không trông đợi điều đó, và tôi cũng không muốn tiếp tục ném bom và giao chiến khi chúng ta chờ đợi điều đó. Bây giờ, tôi chấp nhận lập luận của nhóm làm việc rằng cách duy nhất để chúng ta thoát khỏi chiến tranh Việt Nam là đơn phương rút quân Vì Nixon không nói gì nhiều tới chính sách của ông ta kể từ khi ông ta thông báo hy vọng cả hai bên cũng rút quân vào mùa xuân, tôi nghĩ vẫn còn có cơ hội thuyết phục ông ta nên có kế hoạch khác trước khi việc binh lính Mỹ thương vong và những tuyên bố công khai sẽ khiến cá nhân ông ta phải chịu trách nhiệm về hậu quả của cuộc chiến mà ông ta không thể chấp nhận được nếu không phải là sự thành công.
Chúng ta đều nhất trí rằng điều đó có khả năng xảy ra, thậm chí cả với đề xuất vào tháng 7-1969 của Clark Clifford trong Tạp chí Ngoại giao (bây giờ anh ta đã thôi việc) để rút hết bộ binh của Mỹ ra khỏi Việt Nam vào cuối năm 1970, và sau này căn cứ vào những diễn biến tiếp theo sẽ quyết định rút toàn bộ các đơn vị hậu cần, hỗ trợ không quân và cầu hàng không.
Mặc dù điều đó đi đúng hướng, so với chiến lược hiện nay và đi xa hơn cả những gì các quan chức chính phủ chỉ ra, cuộc chiến sẽ không kết thúc, và cũng không chấm dứt được sự can thiệp trực tiếp của lính bộ binh Mỹ - với sự yểm trợ của không quân - vào một thới điểm xác định rõ ràng. Tuy nhiên, Clifford đã đúng khi anh ta đề xuất rằng Mỹ nên đề ra kế hoạch hành động ngừng tham chiến không phụ thuộc vào ý nguyện hay những thích nghi của Sài Gòn hay Hà Nội. Nhưng những người khác tại cuộc họp lại muốn những gì diễn ra trong vòng 2 năm qua đi xa hơn những gì anh ấy đề xuất và tôi đồng ý với họ.
Kể từ khi Martin Luther King chết, các quan chức chính phủ duy nhất muốn nói với chính phủ "Hãy rút quân khỏi Việt Nam" là những nhà hoạt động chống văn hoá như Abbie Hoffman, những người cấp tiến được coi là ủng hộ Bắc Việt Nam, và chủ trương hành động trực tiếp, không chịu tuân thủ công dân. Những gì họ kêu gọi đều bị phớt lờ, không ai thèm đếm xỉa đến. Thực ra, chủ trương rút hết quân của họ là nhằm doạ những nhân vật chính trị quan trọng. Minh chứng duy nhất và hùng hồn nhất cho sự tiếp cận này là tờ truyền đơn của nhà hoạt động dân quyền kiêm sử học Howard Zinn, có tựa đề "Việt Nam, logic của việc rút quân". Nhưng lập luận cứng cỏi của Zinn, được Noam Chomsky tán thành trong một bài bình luận(99) đã không nhận được sự đồng tình ủng hộ của các học giả và các nhà trí thức chủ đạo.
Các cố vấn trước đây của Tổng thống Lyndon Johnson, những người đã công khai chỉ trích chính sách của ông ta, ví dụ như Arthur Schlesinger, Jr., Richard Goodwin, và John Kenneth Gallbraith, trong năm cuối cùng khi Johnson làm Tổng thống đã kêu gọi giảm bớt sự can dự của Mỹ vào chiến tranh Việt Nam, chấm dứt ném bom và tiến hành đàm phán. Nhưng họ quyết định không liên quan và cũng không chê bai gì những đề xuất "cực đoan hơn". Họ đành ngậm bồ hòn làm ngọt để nói rằng họ không đề xuất trên thực tế là họ phản đối, những đề xuất đó. Điều đó cũng đúng đối với các chính trị gia như Eugene McCarthy, George McGovern, Frank Church và thậm chí cả Bobby Kennedy trước khi ông này chết. Không ai trong số này đi quá xa vào năm 1969; và người ta cũng không nghe thấy ý kiến gì của họ cả. Khi họ kêu gọi đàm phán, họ không nói rõ ai sẽ là đối tượng tham gia đàm phán và mọi người hy vọng sẽ chấp nhận kết quả đàm phán như thế nào. Trước đó chỉ có duy nhất một trường hợp ngoại lệ của Bobby Kennedy vào đầu năm 1966.
Ông ta cho rằng chúng ta nên đàm phán với Mặt trận dân tộc giải phóng và mặt trận này cần có một vai trò nhất định trong chính phủ tương lai, nhưng phản ứng của chính quyền Tổng thống gay gắt đến nỗi ông ta đành nhượng bộ và không bao giờ còn dám công khai đề xuất việc làm này nữa. Đầu năm 1967, Bobby đã hối thúc một đề xuất tương tự riêng với Tổng thống Johnson và một tháng sau đó Robert McNamara cũng đề xuất tương tự, nhưng cả hai ông này đều không tiết lộ đề xuất đó trước công chúng và trước quốc hội sau khi Tổng thống đã bác bỏ đề xuất.
Trong tình hình này, nếu tân Tổng thống phải làm những gì mà tôi nghĩ là ông ta phải làm - ví dụ những gì mà Kennedy và McNamara đã kiến nghị riêng, trong trường hợp phải rút quân - ông ta sẽ phải công khai tuyên bố với trước các quan chức, những người chỉ trích gay gắt chiến tranh Việt Nam, thậm chí có nguy cơ ông ta còn bị họ chỉ trích vì đã áp dụng cách tiếp cận quá giản đơn và cực đoan. Đó sẽ là cách lãnh đạo nguy hiểm nhất, một sự thay đổi lớn trong chính sách và bác bỏ những giả thuyết về chiến tranh lạnh, đó là điều cuối cùng mà bất kỳ một Tổng thống nào muốn làm.
Vẻ đẹp quyền lực và mục tiêu của các nhà phân tích của Rand khi đưa ra lời tuyên bố công khai giống như lời tuyên bố của những người chống chiến tranh được thể hiện ở chỗ nó không thể hiện rằng bạn phải cấp tiến hay hippie, bạn không cần phải là người không yêu nước hay người ủng hộ Hà Nội, và trên hết bạn không phải không biết về những thông tin bí mật để chủ trương rút nhanh quân Mỹ ra khỏi Việt Nam. Zinn và Chomsky có thể bị coi thường không chỉ như những người "cấp tiến" mà như những ai không biết gì về thông tin bí mật gửi tới Tổng thống hay các cố vấn của ông ta. Những "nhà trí thức quân sự" của Rand khi được chính phủ cấp giấy phép và ký hợp đồng để làm nghiên cứu và tư vấn không thể bị coi thường như vậy được.
Chúng ta hy vọng tuyên bố công khai của chúng ta sẽ khuyến khích ý kiến của các nhà lãnh đạo trên các phương tiện truyền thông đại chúng và Quốc hội, những người đã đồng ý về trực giác với cách tiếp cận này nhưng không phải là những chuyên gia về Việt Nam để cảm thấy tự tin về tính sáng suốt của cách tiếp cận đó để công khai ủng hộ nó. Khi đối mặt với những lời cáo buộc của các đồng nghiệp rằng cách tiếp cận đó quá đơn giản và cực đoan và phản ánh sự vô tội trong những xem xét ở cấp chính trị cao, họ sẽ dựa vào chúng tôi để được bảo vệ. Cùng với chúng tôi, họ sẽ chứng tỏ sự tự tin tương tự với công chúng và với đại diện của họ trong Quốc hội. Ít nhất thì chúng ta cũng có thể nhằm vào việc mở rộng quy mô của cuộc tranh luận đầy tính trách nhiệm này để bao gồm việc rút quân toàn bộ như là một sự lựa chọn hay quan điểm hợp pháp.
Thậm chí nếu Nixon không chấp nhận cách tiếp cận này vào năm sau đó thì những tranh luận hay chủ trương từ cách tiếp cận đó sẽ có tác dụng gây ảnh hưởng tới ông ta để rút quân ra khỏi Việt Nam nhanh hơn là những gì ông ta đang bí mật lên kế hoạch, có thể là kế hoạch gần giống với những gì Clark Clifford đã đề xuất vào tháng bảy (rút hoàn toàn quân đánh bộ của Mỹ trước cuối năm 1970). Điều đó sẽ không giúp chúng ta thoát khỏi sa lầy và trong mắt chúng ta nó còn tồi tệ hơn những gì chúng ta đề xuất, nhưng tốt hơn nhiều so với chính sách hiện thời của Nixon và có lẽ dễ được chấp thuận hơn là kế hoạch của chúng ta.
Tôi rất vui được tham gia vào công việc đó. Tốc độ là quan trọng. Chúng tôi cần phải thể hiện quan điểm trước công chúng trong một vài tuần, trước khi Nixon công khai bày tỏ quan điểm của ông ta. Một cân nhắc khác là những cuộc biểu tình lớn chống chiến tranh theo kế hoạch sẽ được tổ chức vào ngày 15-10. Những cuộc biểu tình này sẽ diễn ra trên cả nước vào cùng một ngày làm việc trong tuần, dưới hình thức một cuộc tổng đình công. Thay cho việc mô tả mang tính khiêu khích, chiến dịch này sẽ được gọi là "giai đoạn tạm ngừng hoạt động".
Nếu gây ra áp lực mãnh liệt, Nixon sẽ có phản ứng vào mùa thu, có thể tích cực, có thể tiêu cực. Chúng tôi sẽ cố gắng gây ảnh hưởng tới những quan điểm thể hiện trong "giai đoạn tạm ngừng hoạt động" này, chỉ còn một vài tuần nữa thôi, cũng như là gây ảnh hưởng tới sự phản ứng của Nixon tới những quan điểm đó.
Chúng tôi thảo luận những phương án khác nhau, cả trong nội bộ lẫn bên ngoài, để bày tỏ suy nghĩ của chúng tôi.
"Chúng ta có thể làm được điều này dưới hình thức một bức thư" - một ai đó trong nhóm làm việc nói. Đó là cách duy nhất chúng ta có thể xuất bản ngoài khuôn khổ của Rand mà không phải xin phép một cách chính thức. Thậm chí cả những bình luận trên giấy trắng mực đen chúng tôi định đọc bên ngoài các cuộc hội nghị cũng phải xin phép. Theo như những quy định của công ty chỉ có những lời nhận xét bột phát, ngẫu hứng, không chuẩn bị trước tại cuộc họp hoặc một bức thư gửi tới báo chí và tạp chí (lỗ hổng trong quy định của công ty) mới không cần phải xin phép. Tôi nghi ngờ không biết một bức thư có đủ và hợp lý để thực hiện được mục đích của chúng tôi hay không. Tôi nghĩ chúng tôi cần một công trình nghiên cứu trong đó phác thảo. ra những điều thực tế như chúng tôi thấy và trình bày quan điểm của chúng tôi thấu đáo hơn là một bức thư ngắn gọn. Một bức thư sẽ không thể thuyết phục được những ai đã vốn không đồng ý với chúng tôi.
"Hoặc là viết thư, hoặc là không viết gì cả" - những người khác nói. Nếu chúng ta muốn xin phép về an ninh thì chúng ta có thể lập luận rằng chúng ta đang gián tiếp trình bày quan điểm dựa trên thông tin tuyệt mật mà chúng ta có được. Tới chừng mực nhất định thì đúng như vậy. Thậm chí chúng ta muốn mọi người hiểu rằng chúng ta thực sự đã nhìn thấy những tài liệu như vậy Nhưng thật mỉa mai, phần lớn mọi người trên thế giới đều biết tới thực tế mà dựa vào đó chúng ta rút ra các kết luận của mình. Thực tế đó chỉ bị che giấu trước những ai tin vào sự lừa dối công khai của chính phủ Mỹ. Điều bí mật mà chúng ta tiếp cận cho thấy tài liệu mà chỉ chính phủ Mỹ có không thể làm mất giá trị của kiến thức và những kết luận thực tiễn mà phần lớn mọi người bên ngoài chính phủ đã biết về sự ngu xuẩn khi chúng ta sa lầy tuyệt vọng tại Việt Nam.
Những gì cần tiết lộ thể hiện ở chỗ có thể theo đuổi công việc của một nhà nghiên cứu và nhà tư vấn đầy trách nhiệm, tài ba và uyên thâm được tiếp cận với những ước đoán, kế hoạch và những mật báo nội bộ rằng các quan chức cấp cao của chính phủ đã dựa vào đó, cũng có thể đạt được những kết luận tương tự như Abbie Hoffman và số lượng ngày càng nhiều các nhà quan sát trên toàn thế giới mà không có những thông tin đặc biệt rằng Mỹ không còn chỗ dung thân tại Việt Nam.
Một bức thư không thể làm được điều đó. Bức thư không cần nhiều lập luận; bức thư cũng không cần thuyết phục những ai chống lại kết luận. Bức thư sẽ có chức năng quan trọng nếu như nó tạo được sự tự tin cho nhiều người đồng ý và nếu cuối cùng nó đạt được khái niệm trong chương trình làm việc thảo luận công khai như một phương án nghiêm túc, "có trách nhiệm".
Gurtov và Kellen xung phong viết bản thảo thứ nhất của bức thư. Chúng tôi hẹn gặp lại nhau và cùng xem lại bản thảo đó.
Trong khi đó, tôi bắt đầu viết bức thư thứ hai của riêng tôi, không phải là để xuất bản mà là để gửi cho tổ chức hiến tặng Carnegie vì hoà bình quốc tế. Tổ chức này đã kêu gọi một nhóm các nhà tư vấn và quan chức cố gắng gây ảnh hưởng tới chính sách của Tổng thống Johnson hai năm trước đó. Tôi muốn nhóm này hoặc một nhóm tương tự họp lại lần nữa cũng vì mục đích làm thế nào để thoát khỏi sa lầy ở Việt Nam, giống như trong bức thư của Rand (mặc dù không nhất thiết bị ràng buộc bởi cùng một kiến nghị). Tôi gọi điện cho Joe Johnson, người đứng đầu tổ chức hiến tặng Camegie vì hoà bình quốc tế. Ông ta nói giọng rất lạc quan và bảo tôi viết một bức thư với đề xuất của tôi cho Charles Bolté, Giám đốc điều hành.
Đây là một bức thư dài hơn và phân tích sâu hơn, bởi vì tôi thực sự muốn thuyết phục các độc giả, tất cả trước đây đều là những người trong cuộc cấp cao, làm một điều gì đó trái ngược với bản năng của họ: gây sức ép dư luận lên Tổng thống đương nhiệm. Tuy nhiên, ngôn ngữ tôi sử dụng có thể khiến họ thất vọng vì tôi muốn chuyến đi một thông điệp cấp bách và thách thức. Tôi kiến nghị triệu tập một nhóm làm việc để tuyên bố một chính sách "nhằm vào rút quân Mỹ không điều kiện ra khỏi Việt Nam" và rằng việc thảo luận trong nhóm đó sẽ chỉ giới hạn tới những đề xuất rõ ràng. Cuối thư tôi viết như sau: "Đã đến lúc chúng ta. cần chấm dứt sự can thiệp đẫm máu, vô vọng và phi đạo đức của chúng ta tại Việt Nam".
Câu chữ của câu cuối cùng trong bức thư, đặc biệt tính từ "phi đạo đức", không được trịnh trọng cho lắm, nhưng người đọc chắc chắn sẽ chú ý. Sau này Bolté nói với tôi rằng Joe Johnson đã đọc rất kỹ bức thư và mang trả lại Bolté, nhấn mạnh vào từ "phi đạo đức". Anh ta nói với Bolté: "Chúng ta không thể tiếp tục mời Ellsberg họp cùng chúng ta được nữa. Anh ta đã đánh mất tính khách quan rồi".
Tôi gửi nhiều bản sao bức thư tới các thành viên trước đây của các nhóm nghiên cứu Carnegie cũng như gửi tới các quan chức cấp cao trong chính quyền Johnson và các đảng viên Đảng Dân chủ trong Quốc hội Mỹ. Câu trả lời của họ nhìn chung giống câu trả lời của Uỷ ban điều hành của Carnegie, đó là khó thấy "điều gì hữu ích" mà việc hiến tặng ủng hộ có thể đóng góp trong thời điểm này. Những thành viên khác cũng đồng ý rằng bây giờ không phải là thời điểm thích hợp.
Cảm giác của riêng tôi là có một điều gì đó mà họ có thể làm được và thời gian thì sắp hết rồi. Tôi muốn có những tuyên bố bất đồng quan điểm rõ ràng, không khoan nhượng đối với chính sách hiện nay của chính quyền" được trình bày trước Tổng thống bất kỳ hôm nào và muốn Tổng thống phải cam kết với chính sách đó. Để có được những tác động mà tôi mong muốn, một số lời tuyên bố phải được trích dẫn chính xác từ những đảng viên Đảng Dân chủ, là những quan chức trước đây của Johnson, những người trên hết sẽ bảo vệ Tổng thống. Họ cần phải trấn an các đảng viên đảng Cộng hoà càng nhiều càng tốt chống lại sự tấn công của đảng đối lập để thay đổi chính sách mà đáng nhẽ ra chính sách này sẽ bị thách thức nếu từ bỏ cam kết của Kennedy và Johnson.
Để làm được điều đó, họ cần đi xa hơn là một tuyên bố bất đồng quan điểm. Những gì họ có thể làm một cách thật hữu ích rất quan trọng nếu muốn thay đổi chính sách là cuối cùng phải công nhận trước người Mỹ, trách nhiệm của họ đối với chính sách mù quáng và thất bại trong quá khứ cũng như hiện tại. Họ phải cho thấy họ sẵn sàng chia sẻ trách nhiệm của tân Tổng thống để thay đổi chính sách và đón nhận bất kỳ hậu quả nào có thể xảy ra.
Tôi quyết định đưa lập luận này ra trước hai đảng viên Đảng Dân chủ, các quan chức trước đây trong chính quyền Johnson mà tôi nghĩ rất có thể hai người này sẽ đáp lại lời kêu gọi của tôi.
Tôi biết cả hai đảng viên này đều rất muốn Mỹ rút khỏi Việt Nam. Cả hai ông đều làm việc cho Uỷ ban Cố vấn chính sách của Đảng Dân chủ, một nhóm quan trọng đề ra chính sách và cương lĩnh của Đảng này, do vậy họ có uy tín và vị thế thuận lợi để tập hợp xung quanh mình các đảng viên Đảng Dân chủ cấp cao. Đối với người đầu tiên tôi tiếp cận khi gọi điện, tôi vạch ra những gì tôi nghĩ là Nixon sẽ phải giải quyết trước, trong một tuyên bố công khai của các quan chức trước đây, những người trên thực tế chịu trách nhiệm về cuộc chiến tranh Việt Nam mà Nixon thừa hưởng từ những người tiền nhiệm, nếu như ông ta muốn kết thúc cuộc chiến đó. Tôi nói với ông ta những gì tôi tin từ quan điểm chiến thuật.
Tôi không nghĩ bất kỳ Tổng thống nào trông đợi chỉ một mình chịu trách nhiệm về kết quả của một cuộc chiến muốn kết thúc mà lại không gặt hái được thành công. Đó là lý do tại sao không thể chậm trễ hơn nữa việc công chúng muốn sẵn sàng chia sẻ trách nhiệm với ông ta để ông ta thay đổi chính sách và hành động của mình. Chẳng bao lâu, việc tiếp tục cuộc chiến sẽ được xác định với nhiệm kỳ của ông ta mà ông ta không thể trốn tránh trách nhiệm chính của mình được. Tôi biết rằng những gì tôi đang yêu cầu là rất khó thực hiện, hoặc thậm chí rất khó cân nhắc nữa. Có thể bởi vì trước đây chưa hề có tiền lệ như vậy. Tôi sẽ rất vui khi bản thân mình được góp sức tham gia vào tuyên bố đó nhưng những gì mà chúng ta thực sự cần là tuyên bố của những người cấp cao hơn rất nhiều, như Tổng thống. Tôi nói:
"Ông không phải dùng chính xác đến những ngôn từ này, nhưng đây là nội dung những gì cần nói: "Thưa Ngài Tổng thống, đây không phải là cuộc chiến tranh của ngài. Đây là cuộc chiến tranh của chúng tôi. Đừng biến nó thành cuộc chiến tranh của Ngài. Chúng ta đã phạm sai lầm khi chúng ta tham chiến. Đừng phạm thêm sai lầm nữa. Chúng ta phải thoát ra thôi. Chúng tôi sẽ đứng bên cạnh Ngài nếu Ngài quyết định rút quân về nước".
Ở đầu dây bên kia, không thấy có tiếng người nói. Sau đó giọng nói cất lên: "Dan, chúng ta không thể làm như thế được.
Bây giờ không phải là lúc. Điều đó sẽ phá hoại Đảng Dân chủ. Đảng Cộng hoà họ sẽ nói: "Chính các ông đã tham chiến và bây giờ các ông định rũ bỏ trách nhiệm". Chúng ta sẽ bị lên án vì đã bắt đầu cuộc chiến và bây giờ thất bại ngay trong cuộc chiến đó. Điều đó sẽ như một nhát dao đâm vào lưng vậy".
Tôi lập luận thêm với ông ta. Tôi chỉ ra rằng có sự thật trong lời buộc tội rằng chúng ta đã bắt đầu cuộc chiến; nhưng phải chăng điều đó không có nghĩa rằng chúng ta không có bổn phận phải có những hành động để rút quân về nước? Nhưng ông ta không chịu thua. Ông ta không bác bỏ tính logic trong lập luận của tôi nhưng cái giá mà Đảng Dân chủ phải trả quá cao và điều đó cũng không mang lại ích lợi gì cho đất nước cả. Đây không phải là thời điểm chín muồi. Thời điểm này quá sớm sau khi một số quan chức vừa mới nghỉ việc. Nghe có vẻ rất chua chát. (Cảm giác chua chát giống như khi người Pháp nói với chúng tôi năm 1964: "Những gì chúng tôi không chiến thắng được thì các ông cũng không thể chiến thắng nổi" và người Pháp đã nói đúng. Tôi nghĩ những gì ông ta thực tâm định nói là ý ưởng tôi đề xuất rằng đảng viên Đảng Dân chủ phải chịu hết trách nhiệm vì bắt đầu một cuộc chiến không thể thắng được và phải chịu phần lớn trách nhiệm khi thua cuộc. Đó là những gì tôi đề xuất. Ông ta không hoàn toàn nhất trí. Ông ta nói có lẽ về sau này. Khi chúng tôi gác máy, tôi nghĩ, sau này, sau này là khi nào. Sau này thì đã quá muộn.
Từ những phản ứng tôi quan sát được, tôi dần dần hiểu ra rằng có một số đảng viên Đảng Dân chủ thực sự muốn cuộc chiến vẫn tiếp tục một thời gian dưới thời Nixon cho đến khi nó thực sự trở thành "cuộc chiến Nixon". Tôi hoài nghi không biết là họ bí mật trông đợi điều đó, trông đợi thời điểm khi thất bại không còn là trách nhiệm của cá nhân họ. Lúc đó họ có thể nói với bản thân họ rằng, họ sẽ cộng tác với Tổng thống để kết thúc cuộc chiến, hay tốt hơn thì họ sẽ theo sự lãnh đạo của ông ta khi ông ta quyết định giành được sự ủng hộ của họ để kết thúc cuộc chiến. Ông ta sẽ phải là người đưa ra sáng kiến, xuất phát từ kinh nghiệm cay đắng, chứ không phải sáng kiến có được vì sự thừa nhận tội lỗi của mình. Rắc rối là ở chỗ sau này họ không bao giờ kêu gọi Nixon chia sẻ trách nhiệm làm thay đổi chính sách. Một khi cuộc chiến trở thành cuộc chiến Nixon, ông ta không muốn mất đi hy vọng thành công, cho dù lúc đó đảng viên Đảng Dân chủ có muốn nói gì đi nữa. Lúc đó đã quá muộn rồi. Cuộc chiến đã kéo dài hàng năm trời.
Những ý tưởng cay đắng như vậy một lần nữa được khẳng định chắc chắn khi tôi gọi người thứ hai, trước đây ông này làm phụ tá cho Lyndon Johnson. Tôi đã nói chuyện vài lần với ông ấy khi tôi từ Việt Nam trở về và xem chừng chúng tôi rất hợp cạ với nhau. Đầu năm 1968, ông ta cộng tác chặt chẽ với người đầu tiên mà tôi gọi điện thoại và với Clark Clifford nhằm cố gắng thuyết phục Tổng thống Johnson chấm dứt ném bom Bắc Việt Nam để khởi động đàm phán. Tôi biết ông ta quen biết nhiều người trong Đảng Dân chủ. Tôi trình bày đề xuất của mình và ông ta phản ứng y hệt như người đầu tiên. Hai người dùng ngôn từ rất giống nhau. Ông ta kết thúc bằng một giọng đầy kịch tính: "Dan, nếu chúng ta làm những gì như anh đề xuất thì chúng ta sẽ tắm máu chính trị, cả anh và tôi. Đó là một cuộc tắm máu anh chưa bao giờ thấy".
Tôi rất sốc trước những lời lẽ này của ông ta. Tôi nói với một giọng bình tĩnh rằng ông ta có thể đúng về điều đó. Chúng ta sẽ gặp nhiều khó khăn. Nhưng tôi nghĩ chúng ta phải chấp nhận điều đó Tôi nói tôi không thực sự nluốn bảo vệ tương lai chính trị của mình, hoặc của Đảng Dân chủ bằng sinh mạng của lính Mỹ và người dân vô tội Việt Nam. Ở Việt Nam, chính tại thời điểm này cũng đang diễn ra một cuộc tắm máu. Tôi không muốn nghĩ rằng chúng ta sẽ kéo dài cuộc tắm máu đó thêm một ngày, hay một tháng, hay một năm để bảo vệ lợi ích chính trị của tôi hay của ông ta.
Ông ta không nói gì. Chúng tôi chào tạm biệt và gác máy.
Chú thích:
(98) Những phát hiện này đã chấm dứt băn khoăn của tôi về một sự sa lầy tưởng tượng: "Ellsberg, Leo thang khi đang sa lầy", tài liệu không xuất bản; Ellsberg "Sự sa lầy tưởng tượng và cỗ máy ngưng trệ".
(99) Bài phê bình của Chomsky về cuốn sách của Zinn: Chomsky, trang 221-94 (được viết lần đầu tháng 7-1967).
Chương 19
Giết chóc và cỗ máy nói dối Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Vào buổi sáng ngày 30-9, tôi ra khỏi giường, mở cửa trước ra đường cao tốc Pacific Coast và nhặt tờ Thời báo Los Angeles lên. Đã thành lệ, tôi quay về phòng ngủ nhìn ra bãi biển và vào giường đọc báo.
Câu chuyện chính của tờ báo ngày hôm nay là trường hợp lính mũ nồi xanh, hay còn gọi là lực lượng đặc nhiệm, đã giết người. Tôi đã theo dõi câu chuyện này được vài tuần và câu chuyện xuất hiện trên bìa của hầu hết mọi tờ tạp chí. Kể từ tháng bảy, đại tá chỉ huy lực lượng đặc nhiệm tại Việt Nam. Robert Rheault và năm sĩ quan tình báo khác dưới quyền ông này bị buộc tội chủ mưu giết người. Một trung sĩ và sĩ quan khác cũng đang bị giam giữ.
Câu chuyện chính của Ted Sell tổng kết những lời cáo buộc như sau: "Các nguồn tin cho biết nạn nhân của vụ việc là Thái Khắc Chuyên, 31 tuổi, người dân Bắc Việt Nam đã làm việc trong lực lượng đặc nhiệm từ tháng 12-1963. Thông tin cho hay Chuyên đã tham gia vào cuộc họp với các chiến sĩ tình báo của Cộng sản. Sau khi bị hỏi cung - sử dụng cả máy phát hiện nói dối và cái gọi là huyết thanh phát hiện sự thật - những lời buộc tội đó được các sĩ quan trong lực lượng đặc nhiệm khẳng định. Ngày 20 tháng sáu, có nguồn tin cho hay Chuyên đã bị xử bắn, xác anh ta bị cho vào trong bao tải và quẳng ra ngoài biển Đông".
Tít lớn trong câu chuyện của Sell nằm giữa trang báo viết: "Những lời cáo buộc giết người của lính mũ nồi xanh đã bị quân đội Mỹ bác bỏ". Câu chuyện viết như sau:
Hôm thứ hai, quân đội Mỹ đã bác bỏ những cáo buộc rằng 8 lính mũ nồi xanh nghi ngờ đã giết một điệp viên hai mang Việt Nam.
Việc bác bỏ gây nhiều ngạc nhiên này là theo lệnh của Bộ trưởng Quốc phòng Stanley R. Resor. Mới chỉ 11 ngày trước đó, ông Bộ trưởng này còn nói rằng ông thấy vụ việc này cần được đưa ra xét xử.
Resor nói ông quyết định như vậy là vì các sĩ quan sẽ không được xét xử công minh vì Cục tình báo Trung ương Mỹ (CIA) đã từ chối làm chứng. Nhưng rõ ràng là quyết định này có liên quan tới việc tự vấn lương tâm ở cấp cao.
Sell tìm hiểu hai giả thuyết của vụ việc: thứ nhất, các mật vụ CIA có thể đã nhất trí rồi sau đó lại không nhất trí với việc thủ tiêu; thứ hai, điều trần của các mật vụ CIA cho thấy việc giết các điệp viên hai mang cũng không phải hiếm, và do vậy, xét xử các sĩ quan Mỹ là không công bằng.
Về giả thuyết thứ nhất, sau này Sell nói: "Các quan chức CIA nghe đâu đã lệnh cho nhóm biệt kích phải giết tên gián điệp đó. Theo những nguồn tin khác, CIA sau đó đã thôi không triển khai theo hướng đó và quyết định không thủ tiêu Chuyên nữa. Nhưng trên thực tế lúc đó thì Chuyên đã bị mang đi thủ tiêu rồi".
Sell viết rằng Resor hình như nói rằng: "Nếu CIA từ chối không cung cấp thông tin liên quan đến tội ác này", các sĩ quan sẽ không được xét xử công minh và do vậy phải thôi những lời cáo buộc. Mặc dù ông ta không nói nhưng rõ ràng là CIA không thể từ chối làm chứng mà không có sự hậu thuẫn của Tổng thống. Các phát ngôn viên của cả Lầu Năm Góc và Nhà Trắng đều bác bỏ bất kỳ sự dính líu nào của Nhà Trắng trong quá trình ra quyết định. Nhưng câu chuyện này và cả những câu chuyện khác nữa mặc nhiên cho rằng những lời bác bỏ đó không đúng (Gần đây, cuốn nhật ký của ông H. R. Haldeman, Tổng Tham mưu trưởng dưới thời Nixon đều xác nhận rằng tất cả mọi quyết định đều do Nixon và Kissinger đưa ra).
Tại sao quân đội Mỹ lại ém nhẹm vụ xét xử có một không hai này? Theo Resor: "Tôi muốn nói rõ rằng những hành vi nào bị cáo buộc mà không đủ bằng chứng chứng minh, là vi phạm nghiêm trọng quy định, kỷ luật và mệnh lệnh của quân đội Mỹ. Quân đội Mỹ sẽ không và không thể tha thứ cho những hành vi trái luật pháp đó, Như Resor thường xuyên nói: "Quân đội Mỹ không tha thứ cho tội giết người". Tướng Creighton Abrams, Tham mưu trưởng lực lượng quân đội Mỹ ở Việt Nam, người đã ra lệnh xét xử theo toà án binh, cũng có cùng quan điểm. Ông không có cách lựa chọn nào khác là đưa ra xét xử, nếu có bằng chứng giết người. Có một sự căng thẳng giữa quan điểm này và giả thuyết cho răng Nhà Trắng đã quyết định bỏ qua những lời cáo buộc không mấy phổ biến. Dường như là mặc dù quân đội không tha thứ cho tội giết người, nhưng Tổng thống thì lại có thể tha thứ.
Tuy nhiên nếu đúng là những vụ giết người như vậy không phải hiếm nhưng từ trước đến nay chưa bao giờ bị mang ra xét xử thì câu hỏi đặt ra là: "Tại sao lại xuất hiện những lời cáo buộc này?" Tại sao lại đưa ra xét xử vụ việc cụ thể này khi rất có khả năng chứng minh được chính quyền và chính sách chiến tranh tỏ ra khá lúng túng? Những báo cáo của Resor và Abram về động cơ đưa vụ việc ra xét xử dường như không thoả đáng - điều đó không đúng.
Sau này trong báo cáo của mình, Sell bình luận rằng: "Động cơ của Abram khi tán thành việc xét xử, vụ xét xử tập trung sự chú ý vào những phương diện không phù hợp của cuộc chiến tranh Việt Nam, nghe đâu đã phát điên lên khi biết mình bị lừa dối. Theo như những báo cáo này thì Rheault và những người khác khi bị văn phòng của Abram thẩm vấn về trường hợp của Chuyên, đã khai rằng anh ta đang thục thi nhiệm vụ gián điệp ngoài lãnh thổ Nam Việt Nam thì chết".
Một phân tích đi kèm của phóng viên Robert Donovan nói thêm rằng bản thân Rheault lúc đầu đã bị lừa dối về những gì đã xảy ra bởi những điệp viên dưới trướng ông ta, bao gồm cả Đội trưởng Robert F. Marasco, và các đội trưởng khác, những người đã ra lệnh cho cấp dưới nguỵ tạo ra một câu chuyện hoàn toàn khác.
Tôi nằm trên giường, lắng nghe tiếng sóng biển và nghĩ về những gì tôi đã đọc. Một điều mà tôi nghĩ tới là sự phẫn nộ của các đảng viên Đảng Dân chủ và Cộng hoà trong Hạ nghị viện và Thượng nghị viện rằng các quan chức của Mỹ bị buộc tội hình sự, có nguy cơ bị tống giam chỉ vì đã ra tay giết một dân thường Việt Nam. Và xuất hiện cảm giác không công bằng khi liệt các sĩ quan này vào một loại giết người mà không phải là không phổ biến.
Báo cáo của Donovan trích dẫn các tuyên bố tán thành không đưa ra xét xử của nhiều nghị sỹ quốc hội hàng đầu. Hạ nghị sỹ George Bush nói: "Tôi nghĩ hành động này của Bộ trưởng là đúng đắn và sẽ khích lệ tinh thần của quân đội chúng ta".
Tuy nhiên, Donovan ghi nhận: "Điều này sẽ đặt ra câu hỏi đạo đức về quyền của binh sĩ được phép giết một tù nhân mà không đưa ra xét xử, nếu sự thực đúng là như vậy, như đã bị buộc tội".
Trong thời chiến, liệu việc giết người theo lệnh cấp trên có thể coi là giết người được không? Câu trả lời là "đúng" khi tôi còn đang được huấn luyện làm lính bộ binh. Giết dân thường và tù binh trong khi đang bị giam giữ? Chắc chắn rồi. Do đó, tình cờ tôi có được một câu hỏi rộng hơn cho câu trả lời đó, bao gồm tất cả các vụ giết chóc trong một cuộc chiến phi nghĩa như cuộc chiến của chúng ta ở Việt Nam. Tôi không hy vọng là Bộ trưởng Resor hay tướng Abrams đồng ý với tôi về điều đó, nhưng trong những tình huống cụ thể như thế này thì họ bắt buộc phải đồng ý. Tuy nhiên nếu cá nhân họ không dung thứ cho một vụ giết người nào đó họ đang nói dối về việc nêu và bác bỏ những lời buộc tội. Một tầm nhìn dần dần hình thành trong óc tôi là cốt truyện của hai câu chuyện tôi vừa mới đọc: những lời dối trá về một vụ giết người.
Thực ra lần duy nhất từ "dối trá" xuất hiện trong một, hai câu chuyện có liên quan đến cơn giận dữ của tướng Abrams khi ông ta nghĩ mình bị đại tá Rheaut lừa. Nhưng cả hai tác giả đều không cố gắng che giấu niềm tin của ông ta rằng sự dối trá chính thức đó không chỉ giới hạn trong vụ việc này. Theo thông lệ của cánh báo chí, cả hai tác giả đều không gắn chữ "dối trá" hay "không đúng sự thật" vào những tuyên bố của các quan chức. Họ chỉ đơn thuần là theo dõi những tuyên bố này với những báo cáo bình luận mâu thuẫn nhau, ví dụ như "Sự thật là… cho thấy"; "do vậy dường như là…"; "Điều hình như đã xảy ra là…", "nhưng rõ ràng là…. Tuy nhiên những uyển ngữ kiểu này không giấu được mức độ đánh giá của họ về sự thật trong các tuyên bố chính thức.
Đồng thời, điều đó thật đáng ngạc nhiên, cho dù các nhà báo có cố gắng khách quan bao nhiêu về tất cả sự tồn tại của những sự khác nhau này, cho dù họ có cho là điều hiển nhiên đi chăng nữa.
Bản thân tướng Abrams, trong các báo cáo của Sell và Donovan, hứa là sẽ dựng ra một câu chuyện dối trá. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Tổng thống cũng vậy. Không chỉ có đại tá Rheault mà tất cả cấp dưới của ông ta đã dựng lên một câu chuyện dối trá để đưa cho Abrams.
Sáng thứ ba hôm đó, tôi nằm trên giường và suy nghĩ: đây là chế độ mà tôi đang làm việc phục vụ, tôi là một phần của chế độ này đã 12 năm nay - không, đúng ra là 15 năm nay, kể cả thời gian tôi phục vụ trong hải quân. Đó là một chế độ nói dối ở tất cả các cấp từ cao xuống thấp - từ hạ sĩ tới Tổng Tham mưu trưởng để che giấu tội ác giết người.
Như tôi đã dần dần nhận thức được từ những gì tôi đọc được trong tháng đó, điều đó mô tả những gì mà chế độ đó đang làm tại Việt Nam, trên một quy mô rộng lớn hơn, liên tục trong hơn một phần ba thế kỷ qua. Và tình trạng này vẫn đang tiếp diễn.
Tôi nghĩ: tôi không muốn là một phần của chế độ đó nữa. Tôi sẽ không là một phần của cái máy nói dối này, sự che dấu này, tội ác giết người này nữa.
Tôi chợt nảy ra một ý rằng những gì tôi có trong két sắt an toàn ở Công ty Rand là bảy ngàn trang tài liệu minh chứng cho sự nói dối của bốn vị Tổng thống và chính quyền của họ trong vòng 23 năm để che giấu các kế hoạch và hành động của vụ giết người hàng loạt. Tôi quyết định bản thân mình sẽ không tiếp tục che giấu điều đó nữa. Bằng cách nào đó, tôi sẽ công bố tập tài liệu này.
Trước tiên phải nhân bản tài liệu đã. Tôi không thể làm điều đó ở Công ty Rand hay cửa hàng photocopy được. Có lẽ có thể đi thuê một cái máy photocopy. Tôi ngồi dậy, sang phòng khách và gọi điện cho một người bạn thân và trước đây là đồng nghiệp của tôi ở Rand, anh Tony Russo. Tôi nói có đôi điều tôi muốn trao đổi với anh ấy.
Tony đã từng tham gia nghiên cứu thẩm vấn những kẻ phản bội và tù nhân Việt Cộng, một nghiên cứu của Rand. Tôỉ gặp anh ta lần đầu tiên khi tôi đặt chân đến Sài Gòn năm 1965. Khi chúng tôi gặp lại nhau ở Santa Monica năm 1968, chúng tôi thường hay tranh luận vui vẻ với nhau, trong phòng làm việc của anh ấy ngay dưới phòng làm việc của tôi, về những gì anh ấy biết được thông qua các buổi phỏng vấn. Anh ấy cho tôi xem một số các biên bản phỏng vấn, có biên bản dài tới 60 trang giấy một mặt. Rất nhiều những biên bản này, thông qua phiên dịch, làm anh ấy rất ấn tượng trước tấm lòng yêu nước và xả thân vì tổ quốc của người Việt Nam, về niềm tin vào chính nghĩa trong sự nghiệp đấu tranh của họ. Thậm chí cả những kẻ phản bội, phần lớn đào ngũ vì lý do cá nhân hoặc không chịu nổi sự vất vả của cuộc sống lính du kích, cũng không hề nói xấu gì về sự nghiệp giải phóng dân tộc và lãnh tụ của họ. Konrad Kellen, người đã xử lý những tài liệu hỏi cung tù nhân trong chiến tranh thế giới lần thứ hai và chiến tranh Triều Tiên và những kẻ đào ngũ từ Đông Âu, đã đọc hàng trăm biên bản này cho dự án của Rand và nói với tôi anh ấy chưa bao giờ thấy cái gì tương tự như thế này cả "Thông thường tù nhân và những kẻ đào ngũ kể cho bạn nghe những gì mà họ nghĩ là bạn muốn nghe. Nhưng bạn không thể nào khiến những tù nhân này nói một điều gì đó chỉ trích chế độ của họ cả". Kết luận của ông ta mà ông ta hối thúc tôi chuyển tới Kissinger cho thấy đây là sự thù địch mà ban lãnh đạo và dân chúng "không thể nào bị cưỡng ép". Họ có thể bị huỷ diệt, nhưng họ không thể bị cưỡng ép.
Tony có bằng đại học về kỹ sự hàng không vũ trụ và đã làm việc cho Cơ quan hàng không vũ trụ Mỹ (NASA) trước khi học khoa chính trị tại Princeton. Lúc đầu anh ta cũng là người lính như tôi. Nhưng được gặp người miền Bắc Việt Nam và Việt Cộng và đã nghe những câu chuyện của họ đã làm anh ta thay đổi hoàn toàn. Dần dần anh ta không chỉ ngưỡng mộ họ như những con người mà còn tin rằng họ đã đúng khi bảo vệ sự nghiệp đấu tranh chính nghĩa của mình. Tôi vẫn tập trung vào sự phi nghĩa của người Mỹ như những gì tôi được chứng kiến trước thời điểm giữa năm 1969. Tôi không có kinh nghiệm trực tiếp mặt đối mặt như anh ta - trên thực tế tôi chưa bao giờ gặp một ai trong Mặt trận dân tộc giải phóng - và tôi vẫn nghi ngờ rằng hy vọng của họ sẽ trở thành hiện thực nếu sự nghiệp đấu tranh quốc gia chính nghĩa dẫn tới việc thành lập được một nhà nước Stalinist.
Dù thế nào, nếu không có quan điểm chính trị đó thì Tony đã bị sa thải khỏi phòng kinh tế của Công ty Rand. Tôi thấy vẻ thông cảm của anh ta đối với các Việt Cộng trong các cuộc nói chuyện khi chúng tôi còn làm việc tại Rand; anh ta không công khai điều đó và cũng không viết thành giấy trắng mực đen.
Nhưng tôi biết chắc chính những gì anh ta viết thành giấy trắng mực đen đã khiến anh ta gặp rắc rối với người trưởng phòng diều hâu là ông Charlie Wolf. Anh ta đã viết một nghiên cứu thống kê cẩn thận về tác động của dân số với chương trình sử dụng thuốc diệt cỏ nhằm huỷ diệt nguồn cung cấp thức ăn cho Việt Cộng nhưng có tác động rộng lớn hơn. Ngoài ra, từ những quan sát cá nhân của anh ta về các tù nhân đang bị giam giữ, anh ta đã phanh phui, trong một nghiên cứu bí mật, thói quen đánh đập và tra tấn các tù nhân Việt Cộng của quân đội Việt Nam cộng hoà, thường là có sự góp mặt của các cố vấn Mỹ.
Wolf không thích nghiên cứu này hay một nghiên cứu khác mà Russo tiến hành về mối quan hệ giữa sự kiểm soát của Việt Cộng với các chính sách đất đaỉ và những người khác ở Rand lo ngại về quan niệm của các nhà tài trợ không quân về những nghiên cứu này. Tôi chưa biết đến Tony khi anh ta nói với tôi rằng Wolf sẽ sa thải anh ta, nhưng tôi rất ấn tượng với những công trình nghiên cứu của anh và tôi nói với Charlie rằng tôi nghĩ sa thải anh ta là một sai lầm và mất mát đối với Phòng Kinh tế. Charlie khăng khăng cho rằng quyết định sa thải là hoàn toàn vì ngân sách mặc dù Tony là người duy nhất chịu ảnh hưởng bởi lý do này.
Sau khi Tony không còn làm việc cho Công ty Rand nữa thì tôi bắt đầu hẹn gặp Tony sau giờ làm việc. Càng ngày tôi càng thấy quý mến anh ta. Anh ta rất vui tính, có đầu óc sáng tạo, không chỉ về chiến tranh mà còn nhiều lĩnh vực khác nữa. Chúng tôi trở thành bạn thân. Anh ấy bắt đầu đọc những phân tích cấp tiến thể hiện chính sách của chúng ta đối với Việt Nam không phải như một sai lầm mà coi chính sách đó là phù hợp với các mục tiêu mà Mỹ không công nhận và các hoạt động bí mật khác tại các nước thế giới thứ ba. Lúc đó tôi chưa được đọc các tài liệu đó (mãi đến khi kết thúc chiến tranh tôi mới được đọc). Nhưng vào ngày 30-9, tôi không còn do dự quyết định rằng anh ấy là người bạn đuy nhất tôi có thể nói những gì tôi muốn làm.
Khi tôi mặc quần áo, tôi nghĩ tới những gì hiển hiện trong đầu óc của những người mà tôi vừa mới đọc, những con người đã nói dối và giúp sức vào việc giết chóc. Do vậy nhiều người trong số họ đã nói dối (và một số người đã giúp sức vào việc giết chóc) không vì một lý do nào khác là họ bị cấp trên ra lệnh phải làm như vậy. Cấp trên nói với họ rằng điều đó có lợi cho cuộc chiến tranh, cho chính quyền, cho lực lượng đặc nhiệm. Điều đó tốt cho bản thân họ; họ chỉ cần biết có vậy. Tôi hiểu điều đó. Tôi cũng đã ở đó và làm việc trong những cương vị như thế. Nhưng họ đã sai lầm, giống tôi, khi hành động như vậy.
Một ý nghĩ nảy ra trong đầu tôi dưới hình thức một nguyên tắc: Từ nay, không ai có thể bắt tôi phải nói dối, bắt tôi phải nói dối như một bổn phận. Không ai sẽ nói với tôi điều đó và khiến tôi tin anh ta hay nghĩ rằng tôi phải phục tùng anh ta. Tôi sẽ không nghe theo. Điều đó không còn quyền lực gì với tôi nữa.
Nói dối công chúng, về bất kỳ điều gì, và trên hết nói dối về những vấn đề sống còn, chiến tranh và hoà bình, là một việc làm nghiêm trọng. Đó không phải là điều anh có thể dễ dàng đổ lỗi cho người khác. Tôi sẽ không làm điều đó nữa.
Dần dần tôi nhận thức được rằng điều tương tự cũng xảy đến đối với bạo lực. Không ai sẽ bảo tôi (hoặc bất kỳ một ai khác) phải giết ai đó, rằng tôi không còn sự lựa chọn nào khác, rằng tôi có quyền hay nghĩa vụ làm cái điều mà người khác đã quyết định thay cho tôi.
Nguyên tắc mới này, như tôi đã suy nghĩ về nó, không trả lời tất cả các câu hỏi về việc liệu người ta có nên sử dụng vũ lực hay không và nên sử dụng khi nào, những câu hỏi mà tôi đã vất vả đánh vật với kể từ khi tôi gặp Janaki và bắt đầu đọc về những người chủ trương hoà bình theo kiểu Gandhi hay Thiên Chúa giáo, nhưng nguyên tắc đó trả lời một số câu hỏi. Ví dụ về việc chấp nhận bị gọi nhập ngũ. Tôi không bị gọi nhập ngũ nhưng điều đó có thể xảy ra với con trai tôi, Robert. Tôi sẽ nói với các con rằng không ai có thể thuyết phục chúng mang súng và bắn ai đó chỉ bằng cách là bảo phải làm như vậy. Việc làm đó là sự lựa chọn của mỗi người, hoàn toàn là trách nhiệm của mỗi người.
Nếu như tôi lại làm điều đó thì đó là sự lựa chọn của bản thân tôi hoặc tôi nghĩ rằng đó là việc làm đúng đắn, chứ không phải tôi làm theo mệnh lệnh của người khác. Tôi cũng sẽ xem xét rất kỹ lập luận của riêng mình cho việc làm đó. Tôi phải có những lý do tốt hơn, những lý do đứng trên cả cái nhìn nghi ngờ mà tôi có khi ở Việt Nam. Trách nhiệm về việc giết chóc hay sẵn sàng giết chóc không phải là cái anh có thể đổ lỗi cho người khác, kể cả Tổng thống cũng không thể làm như vậy được.
Trong khi đó, khi tôi lái xe tới nhà Tony, tôi nghĩ cách làm thế nào để điều này sẽ ăn khớp với những gì tôi dự định làm trong tháng này. Do thấy mệt mỏi vì cái máy nói dối, việc thổ lộ điều này với Tony không phải là ưu tiên cấp bách. Mối quan tâm của tôi là về nội dung của những lời nói dối hiện nay: những lời nói dối che giấu cái gì, tạo điều kiện cho cái gì. Điều không hay là ở chỗ họ cho rằng những vụ giết chóc trong quá khứ là giết người, nhưng cá nhân tôi không muốn xét xử hay tống giam ai.
Tôi chắc chắn không muốn xét xử hay tống giam ai để báo thù hay chỉ để làm sáng tỏ những sự thật lịch sử về Việt Nam. Tôi quan tâm tới việc làm thế nào để chấm dứt giết chóc trong những năm tháng sắp tới.
Lúc đầu, tôi nghĩ công bố toàn bộ nghiên cứu của McNamara cho công chúng biết sẽ không đóng góp vào quá trình đó, cho dù điều đó có tính giáo dục cao đến đâu, xét về lâu về dài. Nhưng từ thời điểm buổi sáng khi tôi đã quyết định kiểu gì tôi cũng sẽ công bố, tôi bắt đầu nghĩ rằng nó có thể có ích ngay cả trong ngắn hạn.
Đúng là tài liệu này không chứng minh những gì cần phơi bày về chiến lược bí mật của Nixon: những gì Halperin đã nói với tôi những gì tôi đã chuyển cho các đồng nghiệp của tôi trong Công ty Rand và những quan chức quan trọng mà tôi liên lạc gần đây Nhưng đồng thời, tài liệu này củng cố những lý lẽ cho điều đó. Nó cho thấy những gì mà tôi cho rằng Nixon đang làm về cơ bản là giống các Tổng thống tiền nhiệm của ông ta đã làm. Khi tôi cho rằng ông ta sẵn sàng lừa dối Quốc hội và người dân Mỹ về những gì ông ta đang làm, mục đích chính của ông ta là gì thì nghiên cứu này cho thấy bốn người tiền nhiệm của ông ta làm đúng y hệt như vậy. Cứ cho là như vậy, ông ta ngụ ý nói rằng ông ta đã từ bỏ mục đích và ưu tiên mà tất cả họ đã hành động, nhưng tính liên tục mà nghiên cứu này cho thấy nêu ra các câu hỏi về điều đó, ít nhất là những câu hỏi mà người ta có thể thuyết phục Quốc hội Mỹ theo đuổi.
Chỉ đơn giản công bố nghiên cứu của McNamara sẽ không thể kết thúc chiến tranh hay đến gần ngày kết thúc chiến tranh. Nhưng điều đó sẽ góp một phần nào và trong tâm trạng hiện nay của tôi thì đó là lý do để công bố. Nếu tôi công bố nghiên cứu đó - lý tưởng nhất thì sau đó sẽ có những cuộc điều trần ruóc Quốc hội dựa vào những gì được công bố, sẽ có các nhân chứng thề chỉ nói sự thật, hoặc tài liệu này sẽ được công bố - thì lúc đó Nixon sẽ phải lo lắng rằng chính sách bí mật của ông ta sẽ không thể được bảo vệ khỏi những cuộc tranh cãi và thách thức đầy nghi ngờ.
Trên thực tế, tôi hy vọng sẽ có được tác động mà tôi đã kiếm tìm 18 tháng trước đó, nếu tôi tiết lộ nghiên cứu này cho tờ Thời báo New York. Điều đó sẽ cảnh báo Tổng thống rằng chính sách của ông ta đã mất đi tính vô hình và ông ta sẽ từ bỏ nó.
Giờ đây khi tôi suy nghĩ tích cực về kế hoạch này, tôi chợt nảy ra suy nghĩ có một cách khác mà nghiên cứu này có thể có ích. Điều đó sẽ tạo điều kiện cho ông Nixon, tân Tổng thống, người của Đảng Cộng hoà, đổ lỗi cuộc chiến tranh cho Đảng Dân chủ. Xét cho cùng, Đảng Dân chủ xứng đáng phải chịu trách nhiệm hơn (mặc dù động cơ của họ chủ yếu là tránh những đòn tấn công nội bộ trong nước bởi những người cánh hữu như bản thân Nixon?). Ông ta sẽ không phải thay đổi chính sách, từ bỏ sự hẫu thuận của mình cho cuộc chiến, như ông ta làm trên cương vị phó Tổng thống và khi ông ta hết nhiệm kỳ Tổng thống. Ông ta có thể nói rằng người của Đảng Dân chủ đã làm tình hình rối tung rối mù lên, không thể giải quyết nổi; bây giờ đã quá muộn không thể làm gì được nữa ngoài việc xử lý cái mớ bòng bong đó. Sự thật cũng gần giống như vậy (mặc dù tôi biết chắc rằng cái mớ bòng bong đó còn tồi tệ hơn nếu Nixon thắng cử Tổng thống năm 1960 và đã thực hiện những gì mà ông ta kiến nghị trong thời gian đó) và nếu đó là những gì cần để ơng ta từ bỏ những ý định hiện tại của mình thì tôi thấy hài lòng. Tôi biết một số đảng viên đảng Dân chủ không cảm ơn tôi về điều này, nhưng đối với tôi nó chỉ là vấn đề ưu tiên cái gì trước, cái gì sau. Tôi đã rất nỗ lực để thuyết phục một số người của họ tình nguyện chia sẻ trách nhiệm rút ra khỏi chiến tranh Việt Nam bằng cách hứng chịu sự chỉ trích vì đã dính líu vào cuộc chiến đó. Từ trước đến nay, không ai tình nguyện làm điều đó Nixon cũng không cám ơn tôi. Nhưng nếu phần lịch sử bị che giấu trong nghiên cứu của McNamara có thể làm cho người dân Mỹ ghê tởm hơn nữa về cuộc chiến tranh mà họ đã tham gia và đồng thời làm cho Nixon dễ dàng hơn khi rêu rao rằng ông ta đang giảm bót chi phí mà Đảng Dân chủ gây ra thì điều đó có thể làm cho cán cân có lợi cho ông ta nghiêng về phía chấp nhận một "thất bại được cải trang" hơn là kéo dài cuộc chiến.
Trước đây tôi có nói với Tony rằng tôi có làm việc với một công trình nghiên cứu ở Washington về việc ra quyết định trong chiến tranh Việt Nam nhưng tôi không nói gì về nội dung của tập tài liệu cả, cho đến một buổi chiều tôi gặp anh ấy trên bãi biển sau nhà tôi. Anh ấy mô tả một mô hình nói dối về chương trình những kẻ đào ngũ của một số những người cấp trên của anh ta và về bản chất chiến tranh tại cấp thấp trong chính phủ và tôi nói rằng nghiên cứu tôi đọc được ở Washington cũng cho thấy những điều tương tự ở cấp cao nhất. Tôi không nói với anh ta và anh ta cũng không đoán rằng đó chính là nghiên cứu McNamara và tôi tiếp cận được ở Santa Monica. Tony nói: "Anh phải công bố tài liệu đó".
Điều anh ta vừa nói thật kỳ lạ. Những ai được phép thường không khuyên người khác nên tiết lộ thông tin. Tony không biết rằng tôi đã tiết lộ thông tin cho tạp chí Times trước đó một năm rưỡi. Tôi không nói với ai về điều này cả. Nhưng tôi không kinh ngạc ước đề xuất của anh ta. Trong hoàn cảnh hiện nay của anh ta khi đã thôi không làm việc cho Rand nữa thì việc nghĩ tới điều đó cũng thật dễ hiểu (và trước đó cũng thật dễ hiểu khi anh ta không nghĩ đến việc mang theo các tài liệu mật đi cùng khi anh ta thôi việc ở Rand). Anh ta biết hiện nay tôi và anh ta có cùng quan điểm về cuộc chiến tranh và đã đến lúc còn hành động phản kháng.
Thậm chí khi so sánh với bức thư của Rand mà tôi soạn thảo và việc tôi kết thân với các đảng viên Đảng Dân chủ thì đề xuất của Tony thực sự đáng quan tâm. Nghiên cứu của McNamara có lẽ không hoàn toàn phù hợp với cuộc khủng hoảng này. Nghiên cứu đó không nói gì tới việc Nixon là tân Tổng thống và nghiên cứu kết thúc vào ngày 31-3-1968 dưới thời Lyndon Johnson. Nixon vừa mới thắng cử nhờ vào lý do rằng ông ta không hề có dự định tiếp tục những chính sách thất bại trong quá khứ. Những gì tôi cần, nhưng không có, là những tài liệu phản bác lại điều đó. Tại Washington, vào cuối tháng tám, nếu Mort đưa cho tôi một tài liệu chứng minh rằng ông ta tin vào chính sách của Nixon, thì tôi đã dúi tập tài liệu đó vào tay Thượng nghị sỹ Fulbright hay đưa cho tờ Thời báo New York, hay cả hai, trước khi tôi quay về Haverford. Tôi không có bằng chứng đó và nghiên cứu của McNamara không thể thay thế cho bằng chứng đó được.
Nhưng hai tuần sau, việc làm thân với Đảng Dân chủ chẳng có tác dụng gì và bức thư của chúng tôi có thể không được gửi đi.
Trong 2 tuần đó, tôi đã đọc xong phần đầu tiên của nghiên cứu, về nguồn gốc của cuộc chiến tranh. Câu chuyện trên tờ Thời báo Los Angeles vào buổi sáng, vượt lên trên tất cả ảnh hưởng của các tháng trước đó, đã đẩy tôi qua ranh giới. Tôi cảm thấy mình sẵn sàng ngồi tù chỉ để tố cáo những lời nói dối về vụ giết người này.
Một khi tôi bắt đầu suy nghĩ về điều đó, tôi thấy rằng sẽ có lợi nếu như công bố giai đoạn lịch sử này - giá như có thể làm nhanh, trước khi Nixon biến cuộc chiến tranh thành cuộc chiến tranh Nixon. Chỉ trong vòng vào tuần, Tổng thống sẽ làm theo cách này hay cách khác. Những tài liệu này có thể không có tác dụng như tôi muốn đối với việc gây ảnh hưởng tới sự lựa chọn đó, nhưng cùng với bức thư của Rand, đó là tất cả những gì tôi có. Đã đến lúc tôi bỏ lá phiếu của mình.
Khi tôi đến căn hộ của Tony, tôi nói với anh ấy: "Anh biết về nghiên cứu tôi đã nói với anh cách đây vài tuần, đúng không? Tôi có được tập tài liệu đó ở Công ty Rand, trong két sắt của tôi và tôi chuẩn bị công bố nó". Như tôi đã dự đoán trước, Tony không cần phải hỏi cũng đã sẵn lòng giúp tôi rồi. Anh ấy nói: "Thật tuyệt! Chúng ta hãy bắt tay vào làm thôi!". Anh ta không đủ kiên nhẫn để nghe tất cả những lý lẽ mà tôi nghĩ ra trên đường đến đây. Tôi không biết là đã bao giờ bàn những lý lẽ đó với anh ta. Bây giờ thì điều đó không còn cần thiết nữa. Tôi nói với anh ấy rằng nghiên cứu đó rất dài và mất rất nhiều công sức mới photocopy xong được. Tôi muốn đưa một bản cho Thượng nghị viện và một bản cho báo giới. Tôi hỏi không biết anh ấy có biết ở đâu có máy photocopy không. Anh ấy nói có biết. Bạn gái của anh ấy, Lynda Sinay có mở một công ty quảng cáo nhỏ. Anh ấy gọi điện ngay cho bạn gái và cô ấy nói chúng tôi có thể sử dụng máy photocopy sau giờ làm việc. Chúng tôi có thể bắt đầu công việc ngay tối hôm sau.
Sáng sớm ngày 1-10-1969, tôi mở két sắt bí mật trong góc phòng làm việc và bắt đầu chọn ra những tập trong tài liệu của McNamara để nhân bản đêm hôm đó. 47 tập chất đầy hai ngăn kéo, cao khoảng 8 feet. Tôi nghĩ nên bắt đầu từ những nghiên cứu được ưu tiên hàng đầu. Tôi không biết mất bao lâu mới photocopy xong một tập và cũng không biết là có thể photocopy hết được không trước khi đến giờ phải công bố tài liệu này. Tôi muốn công bố trước ngày 15-10 và từ nay đến lúc đó cũng không còn nhiều thời gian nữa.
"Tôi có thể bị phát hiện trước khi làm được điều đó. Thực ra có khi chỉ 10 phút nữa thôi tôi cũng sẽ bị phát hiện. Tôi không nghĩ rằng điều đó rất dễ xảy ra. Tôi không còn nhớ là bảo vệ có yêu cầu kiểm tra cặp sách của tôi khi tôi rời nhiệm sở hay không. Và tôi cũng không nhớ là chính mình đã từng nhìn thấy bảo vệ làm điều đó với ai hay là trên thực tế họ không bao giờ làm cả: Tôi chưa bao giờ có cơ hội nghĩ hoặc để ý đến điều đó. Tôi chưa bao giờ mang tài liệu mật của Rand về nhà. Ở Washington thì lại khác. Ngay cả ở đó tôi cũng chưa bao giờ mang tài liệu mật về nhà, nhưng tôi thường xuyên ra vào Nhà Trắng, Lầu Năm Góc và Bộ Ngoại giao Mỹ với các bức điện tín mật. Khi tôi rời phòng làm việc về các vấn đề an ninh quốc tế, cửa phòng làm việc luôn mở, trên bàn để những chồng tài liệu mật cao. Luôn có một, hai người thư ký ngồi phía bên ngoài, nhưng không phải lúc nào cũng vậy và cửa các phòng làm việc của khu vực các vấn đề an ninh quốc tế cũng không khoá.
Nhưng Công ty Rand thì khác. Rất hiếm khi người ta đi ra sảnh lớn với tập tài liệu mật trên tay, trừ phi ra vào Phòng kiểm soát tối mật. Bạn không thể để tài liệu mật trên bàn hoặc thậm chí để trong két sắt khoá lại khi bạn rời khỏi phòng làm việc.
Bạn không được phép rời mắt khỏi nó một lúc nào trừ phi bạn có một két sắt tối mật khoá lại, nhưng không phải nhiều người có két sắt như vậy. Những ai không có sẽ phải đọc nhờ tài liệu tối mật ở phòng kiểm soát tối mật hoặc trả tài liệu về đó khi rời cơ quan. Điều đó hơi bất tiện nếu như bạn thường xuyên muốn đọc tài liệu mật đó, nhưng đa phần mọi người không thưòng xuyên làm việc với tài liệu mật nhiều đến như vậy. Nếu họ cần, họ sẽ cố gắng có két sắt tối mật cho riêng mình. Những két sắt này nặng hơn két sắt bảo mật thông thường và khoá cũng khác.
Một két sắt tối mật rất dễ nhận ra trong phòng bởi vì nó màu đen, chứ không phải màu ghi. Phần lớn các két sắt có hai ngăn kéo. Một số có 4 ngăn, tất cả đều để kín tài liệu.
Tôi bắt đầu với tập tài liệu về giai đoạn 1964- 1965. Giai đoạn này phù hợp nhất với thời điểm hiện tại. Đó là giai đoạn lịch sử mà tôi cố gắng không muốn lập lại: một vị Tổng thống đe doạ leo thang chiến tranh, và có những kế hoạch bí mật để thực hiện điều đó; một cuộc chiến đang ngày càng mở rộng và kéo dài hơn, mà dư luận hoàn toàn không hề biết đến. Bản thân những tập tài liệu đó sẽ kể những câu chuyện cần được kể, như là những thông tin cơ bản cho những lập luận của tôi về chính sách của Nixon. Ít nhất điều đó sẽ chứng minh tất cả những gì đã xảy ra từ trước đến nay. Sự thật là điều đó đã lập đi lập lại trong vòng 24 năm. Bằng chứng của việc làm đó hiện cũng đang nằm trong két sắt của tôi: đó là toàn bộ nghiên cứu, nhưng mất nhiều thời gian để nhân bản. Tôi hy vọng chỉ trong một vài đêm tôi sẽ nhân bản được tài liệu nói về giai đoạn 1964- 1965 để tôi có thể phát tán, thậm chí nếu tôi có bị bắt trước khi kịp nhân bản số tài liệu còn lại.
Những tập tài liệu này rất dày. Tài liệu tôi có trong két sắt bảo mật bao gồm những tập mà tôi chưa bao giờ nhập vào hệ thống. Tài liệu đó có bìa các tông màu xanh. Cả bìa trước và sau đều ghi "Tối mật" bằng chữ đen và to cả ở phía trên và phía dưới trang bìa. Tôi đút những tập tài liệu này vào cặp sách da màu nâu của mình và đi xuống dưới nhà. Tôi biết rất rõ về những gì mình đang mang trong cặp sách. Chưa bao giờ tôi đi qua bảo vệ dưới nhà với tài liệu mật trong cặp cả.
Tôi mở cửa đi ra sảnh lớn dưới nhà. Như thường lệ có hai bảo vệ ngồi ở bàn. Tôi đeo thẻ ra vào nhưng chỉ cần nhìn là họ biết ai là ai ngay. Họ nói: "Tạm biệt, Dan", rất thân thiện như mọi ngày và tôi cũng vẫy tay chào họ khi tôi đi ngang qua bàn.
Một bảo vệ tìm tên tôi trong danh sách và ghi lại thời điểm tôi rời cơ quan. Tôi đẩy cửa kính và bước ra bãi đỗ xe.
Tôi đi thẳng về căn hộ của Tony Russo. Lúc đó có cả Lynda Sinay ở đó nữa. Cô ấy rất xinh, khoảng ngoài 20 tuổi và cũng rất thông minh nữa. Cô ta còn trẻ để điều hành một công ty quảng cáo. Chúng tôi lái xe đến văn phòng công ty cô ta ở góc đường Melrose và Crescent. Văn phòng nằm ở tầng 2, trên một cửa hàng hoa. Lynda hướng dẫn chúng tôi cách tắt hệ thống chuông báo động bằng một chìa khoá đặc biệt.
Máy photocopy nằm trong phòng khách. Ngoài ra còn có hai phòng nữa, rộng hơn, có bàn làm việc, một bếp nhỏ và một nhà tắm. Lynda hướng dẫn chúng tôi cách sử dụng máy photocopy. Đó là một máy photocopy to, rất hiện đại so với thời đó, nhưng rất chậm so với tiêu chuẩn ngày nay. Mỗi lần chỉ chụp được một trang và phải mất vài giây mới xong. Tôi cố gắng ấn quyển sách xuống mặt kính, hy vọng mỗi lần chụp được 2 trang nhưng phần ở gáy sách chụp rất mờ. May sao, những tập tài liệu này được đóng gáy xoắn nên có thể dỡ tung ra. Tôi cố gắng tháo gáy xoắn thật cẩn thận để không bị phát hiện. Lúc đầu tôi dự định sao chụp thành hai bản, mặc dù sẽ mất thời gian hơn. Máy photocopy này không tự sắp xếp theo đúng trật tự được. Tony và Lynda đang ngồi nói chuyện ở phòng bên cạnh. Tôi đưa một tập tài liệu cho Tony và bảo anh ấy sắp xếp theo đúng thứ tự. Tôi quay trở lại máy photocopy và tiếp tục công việc của mình.
Có tiếng gõ cửa trên cửa kính phía bên trái tôi. Hai cảnh sát mặc đồng phục xuất hiện. Một người vừa dùng gậy gõ vào cửa kính. Anh ta ra hiệu cho tôi mở cửa. Tôi đậy nắp máy photocopy lại, đè lên trang có đề dòng chữ tuyệt mật. Khi tôi quay ra để mở cửa thì tôi vô tình đánh rơi một tờ giấy trắng lên trên tập tài liệu có hàng chữ tuyệt mật. Tôi nghĩ: Lạy chúa! Tôi hỏi họ: "Có việc gì không, thưa các ông?"
Một người cảnh sát nói: "Hệ thống báo động của ông đã tắt".
Tôi gọi với vào phòng bên cạnh: "Lynda, có ai cần gặp cô đây này". Tôi hy vọng Tony sẽ che những tờ giấy đó đi. Anh ta đã làm điều đó khi cảnh sát bước vào.
Một người cảnh sát nói: "Chào Lynda. Cô lại quên không bật hệ thống báo động".
Lynda nói: "Ôi, lạy chúa, tôi xin lỗi. Tôi hoàn toàn không biết sử dụng cái chìa khoá chết tiệt này".
Người cảnh sát nói: "Ồ, không sao. Cô nên rút kinh nghiệm về chuyện này".
Lynda nói: "Vâng, tôi sẽ rút kinh nghiệm". Họ chào tạm biệt. Chúng tôi nhìn nhau, thở phào nhẹ nhõm rồi tiếp tục làm công việc của mình.
Tony thay tôi photocopy tài liệu, còn tôi thì sắp xếp theo thứ tự. Một lúc sau, Tony và Lynda về nhà. Tôi muốn photocopy được càng nhiều càng tốt. Tôi làm việc suốt đêm.
Để cho nhanh, tôi cố gắng phối hợp các hoạt động thật nhịp nhàng. Một tay cầm tờ giấy lên, một tay đặt xuống máy, bấm nút, đợi, nhấc tờ giấy ra, để sang bên phải và đặt tờ giấy khác vào máy. Ngày nay quy trình này nghe rất quen thuộc nhưng lúc đó là cả một công nghệ mới. Hơi mất thời gian khi phải nâng nắp máy lên rồi đậy xuống và tôi không hiểu tại sao lại phải làm như vậy. Đó là để cho bản photocopy được đẹp hay là muốn bảo vệ mắt? Ánh sáng có sáng quá không nhỉ? Máy móc hoạt động ra sao? Ánh sáng màu xanh lá cây đó có gây phóng xạ không? Để tiết kiệm thời gian, tôi bắt đầu photocopy từ trên xuống - những bản sao trông rất đẹp - hy vọng rằng tôi sẽ không bị đau đầu hay mù mắt. Tôi cố gắng không nhìn thẳng vào ánh sáng, hoặc là tôi nhắm mắt lại. Nhưng thị lực của tôi thấy vẫn bình thường và tôi không còn lo lắng nữa.
Tới 5h30 , trời đã sáng và tôi muốn nghỉ. Tôi đóng gáy xoắn lại cho tập tài liệu, rất cẩn thận để người khác không phát hiện ra là tôi đã tháo ra. Tôi hoàn thành xong việc sắp xếp các trang theo đúng trật tự vốn có. Tôi để riêng những trang photocopy mờ hay bị hỏng. Tất cả mọi trang đều đề "Tối mật" và văn phòng của Lynda không có máy huỷ giấy. Tôi cho chúng vào cặp để về huỷ tại Công ty Rand. Ở Lầu Năm Góc, người ta cho giấy tờ bí mật vào những chiếc túi lớn, cuối ngày gom các túi này lại và đem đi đốt. Tại Công ty Rand, tài liệu mật đi theo một cái máng vào trong thùng rác to ở dưới tầng hầm và được huỷ tại đó.
Lúc đó còn quá sớm để đến cơ quan. Tôi thường làm việc rất muộn và bảo vệ không bao giờ thấy tôi đến cơ quan trước 8 giờ sáng. Trên đường về nhà, tôi dừng lại ở Zucky và ăn một bữa sáng. Tôi đợi đến 8 giờ, sau đó đi vào sảnh lớn với cặp tài liệu của mình, đi ngang qua bảo vệ, họ chào, kiểm tra và cho tôi vào. Không có vấn đề gì. Tôi cho tài liệu vào trong két sắt, khoá két lại, rời cơ quan theo một cửa khác và đi qua những người bảo vệ khác. Tôi về nhà và ngủ một lúc. Nhà tôi năm trên đường cao tốc Pacific Coast đi Malibu. Tôi không quen lái xe trên con đường đó vào giờ đó. Ánh nắng xuyên xuống từ một hướng khác, mặt trời đang mọc phía bên tay phải tôi, thay vì tay trái. Buổi sáng trời rất quang đãng, bầu trời trong xanh.
Trước khi đi ngủ, tôi đi bơi một lúc. Tôi không biết mình còn có bao nhiêu buổi sáng được đi bơi như vậy nữa.
Buổi chiều, sau khi tôi đã ngủ được một vài tiếng, tôi quay trở lại Công ty Rand và giải quyết tiếp công việc. Có một cuộc họp trong nhóm làm việc của chúng tôi để quyết định về bản thảo bức thư. Khoảng 7 giờ tối ngày hôm đó, tôi đút tài liệu tối mật vào cặp sách và đi qua bảo vệ an toàn. Tôi tới văn phòng của Lynda và photocopy cả đêm ở đó. Việc làm này đã thành thông lệ trong những ngày tiếp theo. Tôi không được ngủ đủ.
Đó là một công việc mệt mỏi triền miên. Nhưng cũng có những việc khác nữa khiến cho công việc đó không đơn điệu.
Dòng chữ đánh dấu tuyệt mật trên phía đầu và phía dưới mỗi trang ngay lập tức khiến tôi nhớ lại những hiểm nguy. Tôi chưa biết làm thế nào để tiết lộ những thông tin bí mật này trước công chúng. Nhưng dù điều đó có xảy ra như thế nào thì nó cũng sẽ làm thay đổi cuộc sống của tôi rất nhiều và nhanh chóng. Điều đó sẽ sớm xảy ra, có thể chỉ trong hai tuần nữa - vào ngày 15-10 hoặc một tháng sau đó, ngày 15-11. Khoảng một tháng nữa, tôi sẽ bị tống giam, có lẽ là đến hết đời.
Tôi cho rằng điều hiển nhiên là tôi đang phạm luật. Trong sự nghiệp của mình, kể từ khi gia nhập Hải quân Mỹ, tôi đã ký khoảng 12 thoả thuận cam kết giữ bí mật khác nhau. Mỗi lần ký, tôi thường liếc nhìn những dòng chữ cảnh báo quy định những đạo luật của liên bang mà theo đó tôi sẽ phải chịu sự truy tố và tống giam nếu tôi "tiết lộ thông tin có liên quan tới an ninh quốc gia" cho những ai không có phận sự. Tôi chưa bao giờ đọc những lời cảnh báo đó thật cẩn thận bởi vì tôi chưa bao giờ nghĩ mình có ý định làm gì để phải chịu sự trừng phạt đó cả. Do vậy tôi không bao giờ tìm hiểu xem là những đạo luật như vậy sẽ được áp dụng như thế nào. Nhưng người ta không cần phải đọc những lời cảnh báo đó mà phải tự biết rằng công bố các tài liệu tuyệt mật không được phép là một tội ác nghiêm trọng. Điều đó quá hiển nhiên.
Đồng thời, tôi hơi mường tượng ra rằng những vụ tiết lộ thông tin cllo báo chí, cứ cách ngày lại xảy ra một lần, không bị truy tố thường xuyên. Thực ra tôi không còn nhớ là mình đã từng biết đến một vụ truy tố nào như vậy chưa, mặc dù nhiều vụ tiết lộ thông tin đã khiến cho ngành hành pháp phát điên lên và nghe đâu là họ đã tập trung tiến hành điều tra rất sát sao: ít nhất trong một vài trường hợp như vậy, việc điều tra phải xác định được nguồn thông tin rõ ràng. Kể cả nếu các trường hợp đó không dẫn đến việc truy tố đi chăng nữa thì tôi phỏng đoán là chắc chắn phải có lý đo chính trị hay quan liêu - không quá khó để có thể hình dung ra một số lý do - mà có thể dẫn tới quyết định cố tình không truy tố. Dường như có khả năng điều đó sẽ xảy ra trong trường hợp này. Đối với tôi không sao cả. Nhưng cơ may dường như khá nhỏ, chỉ một hoặc hai phần trăm. Trong chừng mực tôi được biết, từ trước đến nay chưa có ai công bố hàng ngàn trang tài liệu tối mật cả.
Tôi không biết làm thế nào mà các cấp chính quyền có thể bỏ qua sự thách thức đối với một hệ thống như vậy nếu họ tìm thấy nguồn thông tin. Và trong trường hợp này, điều đó không khó khăn gì. Trong các trường hợp trước đây, có thể trở ngại đối với việc truy tố là ở chỗ khó xác định thông tin bị rò rỉ từ đâu để có thể tiến hành khởi tố. Thường là có rất nhiều mối nghi vấn tiềm tàng, tất cả đều phủ nhận đã làm rò rỉ thông tin và các nhà báo sẽ không cung cấp thông tin gì cả. Nhưng lần này tình hình lại không như vậy. Trừ phi vì một lý do nào đó tôi không thể đoán trước được rằng chính quyền quyết tâm không khởi tố vụ việc, còn nếu không chắc chắn người ta sẽ tiến hành điều tra hình sự. Ngay khi việc điều tra được tiến hành, chính quyền sẽ biết được nguồn rò rỉ thông tin, tôi dám chắc như vậy.
Chỉ có khoảng 12 người sở hữu tài liệu nghiên cứu của McNamara bên ngoài Lầu Năm Góc và rất ít người khác được tiếp cận với nó. Trên thực tế, mỗi người trong số họ đã bị chính quyền coi là những phần tử phản đối cuộc chiến tranh Việt Nam và do vậy họ bị tình nghi. Nhưng đồng thời mỗi người trong số họ là cấp trên hoặc đồng nghiệp cũ của tôi; tôi quý trọng họ và trong đó có cả những người là bạn thân nhất của tôi. Tôi không muốn họ bị tình nghi nếu tôi có thể giúp được họ. Đem hết sức mình, tôi muốn bảo vệ họ khỏi liên luỵ về pháp luật hoặc hậu quả của cuộc điều tra. Điều đó có nghĩa là khi có những dấu hiện đầu tiên của cuộc điều tra hình sự đó, tôi sẽ tuyên bố rằng tôi là nguồn công bố thông tin duy nhất (tôi sẽ không làm điều này sớm, tôi sẽ không làm điều này để bị truy tố). Tôi sẽ nói rằng tôi hành động một mình, không những không nhận được sự hợp tác giúp đỡ của những con người cụ thể nêu trên mà còn không cho họ biết lý do nào để họ nghi ngờ rằng tôi sẽ làm một việc tày trời như vậy. Tôi muốn họ có thể qua được bài kiểm tra trên máy phát hiện nói dối. Tôi không tự lừa phỉnh bản thân rằng họ sẽ mang ơn tôi về điều đó. Một khi bản thân tôi đã quyết tâm làm việc này, tất cả họ sẽ phải trả giá cho việc trước đây họ có liên quan đến tôi và do vậy tôi mới được tiếp cận với tài liệu này. Đối với những người mà tôi thân cận nhất, gánh nặng có thể thật nặng nề. Tôi không biết cách làm thế nào để tránh được điều đó và cũng không biết cần phải làm thêm điều gì. Tất cả những gì tôi có thể làm cho họ là cố gắng hết sức giúp họ thoát khỏi vòng lao lý.
Nếu tôi không tiên đoán rằng những gì tôi đang làm có lẽ sẽ khiến tôi vào tù và rằng tình hình đã làm cho điều đó dễ chấp nhận hơn thì có lẽ tôi đã lo lắng hơn về sự nghiệp của các bạn đồng nghiệp. Nhưng một khi tôi đã quyết định rằng, tôi xác định làm công việc này thì tôi sẽ tập trung vào làm cho thật tốt.
Tôi không biết tương lai sẽ ra sao đối với tôi, hay đối với những người khác. Những người đang thực sự giúp đỡ tôi, bắt đầu với Tony và Lynda hiển nhiên là đang chịu những nguy hiểm nhưng họ đã tình nguyện làm điều đó. Tôi không nghĩ rằng mối hiểm nguy lớn đang chờ đón họ (tôi đã lầm). Họ không biết gì về nội dung của tập tài liệu đã photocopy. Ít nhất tôi khuyên họ không nên đọc tài liệu này, mặc dù điều đó không ngăn Tony. Thậm chí cả Lynda cũng đọc một ít.
Những gì tôi thực sự lo ngại là các con tôi sẽ biết về những gì tôi đã làm. Chúng đã quen với việc tôi đi xa, đến Washington hay Việt Nam. Nhưng lần này tôi sẽ ra đi mãi mãi.
Chúng có thể được vào thăm tôi trong thời gian ngắn nhưng tôi luôn hình dung ra hình ảnh những phòng thăm thân nhân trong một nhà tù an ninh nghiêm ngặt khi từ nay đến cuối đời, tôi chỉ còn được nhìn thấy chúng qua lớp kính và nói chuyện với chúng thông qua microphone luôn bị kiểm duyệt. Tôi chưa bao giờ phải ngồi tù. Khái niệm của tôi về nhà tù là có từ phim ảnh.
Tôi biết có những nhà tù giống như những câu lạc bộ ở vùng đồng quê nhưng tôi không nghĩ đó là nơi dành cho những ai đã nhân bản 7.000 trang tài liệu tối mật. Thực ra tôi cũng không nghĩ là tôi có thể trả tiền bảo lãnh để được tại ngoại trước khi tôi bị đưa ra xét xử. Do vậy trong một vài tuần nữa, tôi sẽ vĩnh viễn mất cơ hội được nói chuyện trực tiếp với các con tôi, trừ phi qua một lớp kính. Chúng sẽ nhìn thấy tôi tay bị khoá số 8, bị dẫn vào phòng thăm thân nhân, mặc quần áo tù nhân.
Ngay lập tức, vô tuyến truyền hình sẽ đưa tin rằng cha chúng là một kẻ phản bội, rằng cha chúng đã bị điên và làm chuyện kỳ quặc. Tôi muốn chúng nhớ tới những gì trái ngược hẳn lại việc làm đó. Nếu chúng ở cùng với chúng tôi một tối khi chúng tõi đang nhân bản tài liệu, chúng sẽ thấy rằng tôi không điên và công việc tôi đang làm không có gì kỳ quặc cả.
Tôi đang làm việc với các bạn của mình, làm những gì mà tôi tin rằng cần phải làm. Chúng có thể chưa đủ lớn để tự phán xét việc tôi làm là đúng hay sai, nhưng cùng với thời gian, chúng sẽ hiểu và nhớ rằng tôi đang hành động rất bình tĩnh, đang làm những gì mà tôi tin là đúng và cần thiết.
Điều cốt lõi là như vậy. Nhưng cũng còn một điều khác nữa. Từ nay đến cuối đời, tôi không còn giúp gì được cho chúng nhiều nữa, thậm chí không giúp chúng học hết được đại học; nhưng tôi có thể mang lại cho chúng một tri thức mà không dễ gì có được. Đó là những gì tôi nhận được từ Bob Eaton và Randy Keller; tôi rất biết ơn vì đã nhận được điều đó và có lẽ đó là thứ duy nhất tôi có thể dành cho các con tôi.
Chúng sẽ biết rằng tới một ngày nào đó bản thân chúng sẽ phải làm những điều giống như tôi đã làm. Nhớ lại tâm trạng hàng ngày của tôi khi chúng tôi làm việc và hồi tưởng lại toàn bộ câu chuyện khi bọn trẻ lớn lên và có lẽ tự chúng đọc lại toàn bộ nghiên cứu của McNamara, chúng sẽ biết rằng những gì tôi đang làm là đúng, là cần thiết, trong hoàn cảnh khi hành động có thể khiến chúng phải đi tù. Khi tình huống đó xuất hiện, chúng sẽ nhận ra, nhận ra nhanh hơn tôi. Chúng sẽ không cần phải gặp một Randy thứ hai nữa.
Tôi muốn điều này cho cả hai đứa con tôi, nhưng tôi biết mẹ chúng sẽ điên tiết lên nếu cô ấy biết việc làm của tôi liên luỵ tới Mary. Cô ấy cũng sẽ có cùng tâm trạng với Robert, nhưng Robert đã gần 14 tuổi rồi (trong khi Mary chưa đến 11 tuổi); và tôi quyết tâm tạo cho nó một cơ hội can dự vào việc này nếu như nó muốn. Tôi tin rằng tôi đã báo trước với vợ cũ, thu nhập của tôi và tiền cấp dưỡng nuôi con sẽ bị cắt giảm, nhưng tôi muốn nói chuyện với Robert trước.
Ngày thứ bảy, 4-10-69, ba ngày sau khi tôi bắt đầu nhân bản tài liệu, tôi đưa Robert đi ăn trưa tại chợ Brentwood.
Đó là nơi bọn trẻ con thích nhất (và là nơi mọi người ở Công ty Rand hay ra đó ăn trưa). Khi bọn trẻ con còn nhỏ, chúng tôi thường đạp xe từ San Vicente xuống đó, cách nhà chúng tôi một dặm, Robert tự lái xe, Mary ngồi sau xe tôi. Ở đó có một khoảng sân rộng, xung quanh có cửa hàng và có những chiếc bàn picnic làm bằng gỗ. Chúng tôi thường ăn thịt gà nướng, khoai tây chiến và uống nước dứa và nước dừa, nước táo và nho ở quầy bar.
Trong bữa trưa, tôi nói với Robert về nghiên cứu của McNamara. Tôi nói rằng tài liệu này công bố sự thật về những gì các vị Tổng thống dự định làm ở Việt Nam, trái ngược hoàn toàn so với những gì họ làm cho công chúng tin. Tôi nói với nó rằng điều đó sẽ lại xảy ra và cuộc chiến tranh sẽ có tiếp tục leo thang nhưng sẽ có tác dụng nếu chúng ta ngăn chặn trước không để nó xảy ra nếu như mọi người biết rằng trước đây họ đã bị lừa dối. Do vậy bằng cách nào đó ba sẽ công bố những thông tin đó. Nhưng vì là thông tin bí mật, ba sẽ phải ngồi tù, giống như những người trốn quân dịch vậy. Tôi kể cho con trai nghe về Bob Eaton và Randy Kehler. Tôi sẽ phải ngồi tù trong thời gian dài hơn.
Trước đó một tháng, tôi đã mang về từ hội nghị quốc tế của những người phản đối chiến tranh tại đại học Haverford một số truyền đơn, bao gồm cả truyền đơn "Về nghĩa vụ không tuân thủ công dân" của Thoreau và "Cách mạng và công bằng" của Barbara Deưùng. Con trai tôi đã đọc tờ truyền đơn của Thoreau và chúng tôi đã trao đổi về nội dung của tờ truyền đơn đó. Tôi nói với nó rằng đó là hành động không tuân thủ công dân. Tôi hỏi nó có muốn giúp tôi không. Nó nói nó sẽ giúp tôi. Tôi đã chọn ra một số tập tài liệu trong két sắt của Rand sáng ngày hôm đó và buổi chiều chúng tôi tới văn phòng làm việc của Lynda. Lynda đang làm việc ở đó, nhưng cô ấy nói nhân viên của cô sẽ không đến cơ quan trong hai ngày nghỉ cuối tuần. Tôi chỉ cho Robert biết cách sử dụng máy photocopy và để nó nhân bản trong khi tôi sắp xếp theo đúng thứ tự. Tất cả chúng tôi cùng đi ăn tối, sớm hơn thường lệ. Sau đó chúng tôi quay lại và làm tiếp.
Robert đang photocopy thì cảnh sát lại đến. Nó mời họ vào. Lần này có 3 cảnh sát, bất thần xuất hiện trong phòng làm việc của Lynda, nơi tôi đang ngồi trên sàn nhà cắt những dòng chữ "tối mật" khỏi phía trên và phía dưới trang giấy. Không có đủ thời gian để che đậy mọi thứ lại và đáng nhẽ ra 3 viên cảnh sát đã phải chú ý tới những mẩu giấy vụn có dòng chữ "tối mật" nằm vương vãi trên sàn nhà. Nhưng điều đó không xảy ra. Tôi đoán rằng khung cảnh lúc đó rất hợp lý: Lynda thì đang ngồi ở bàn làm việc và một đứa trẻ khoảng 12-13 tuổi gì đó đang lúi húi bên máy photocopy, một khung cảnh gia đình vào chiều thứ bảy. Ba viên cảnh sát rời đi ngay. Sau này Robert nhớ lại là hôm đó cảnh sát đến hai lần khi nó có mặt. Có thể nó nói đúng.
Tôi nhớ mang máng là có hai nhóm cảnh sát đến để hỏi về hệ thống báo động. Hai năm sau, khi Lynda xuất hiện trước bồi thẩm đoàn, uỷ viên công tố khăng khăng hỏi cô ta ngày chính xác cô ta có mặt khi tôi đang nhân bản tài liệu. Cô ta nói "Ông có thể biết được điều đó từ hồ sơ của đồn cảnh sát về số lần hệ thống báo động ngừng hoạt động". Uỷ viên công tố nói:
"Lynda, cô có nhớ là cô bật hệ thống báo động bao nhiêu lần trong năm đó?". "Khoảng 17 lần".
Chính lần đầu tiên cảnh sát đến một vài đêm trước đã khiến tôi nảy ra ý định cắt các dòng chữ tối mật trên các trang giấy.
Những dòng chữ này được in đậm bằng mực phía trên và phía dưới trang giấy. Từ phía bên kia phòng bạn cũng có thể nhìn thấy dòng chữ đó. Tôi biết đối với những ai không quen nhìn những dòng chữ đó thì hiệu quả thật đáng giật mình. Tôi còn nhớ cảm giác lần đầu tiên nhìn thấy dòng chữ "tối mật" mà đáng nhẽ ra tôi không được nhìn thấy, một bản kế hoạch chiến tranh mà một đại tá đã đưa cho tôi dưới tầng hầm của Lầu Năm Góc. Tim tôi đập nhanh, hơi thở gấp, cảm giác như có ai đang theo dõi tôi. Bây giờ, mặc dù tôi đã che dòng chữ "tuyệt mật" đi kịp thời không để cảnh sát nhìn thấy, nhưng sau khi họ đi, tôi nhìn lại nó từ nơi họ đã đứng.
Sự cố này khiến tôi nhận thức được một điều rằng toàn bộ quá trình nhân bản tài liệu có thể bị cảnh sát hay FBI phát hiện bất kỳ lúc nào trước khi tôi kịp công bố tài liệu. Họ sẽ tịch thu tất cả các trang tài liệu mà họ tìm thấy với tôi và bất kỳ trang tài liệu nào mà họ tìm thấy. Do vậy điều quan trọng là phải sao chụp đủ số bản cần thiết và giấu chúng tại những nơi khác nhau, để cho họ không thể tìm thấy tất cả các bản. Sau đó từ trong tù, bằng cách nào đó tôi sẽ nhắn tin ra. Người này sẽ thu thập đủ các bản tài liệu và đem đi xuất bản. Nhưng điều đó có nghĩa là đến một lúc nào tôi sẽ phải nhân bản tài liệu theo kiểu chuyên nghiệp; tôi không thể sao chụp đủ số bản bằng máy photocopy chậm như thế này được. Và tôi cũng không thể ra ngoài phố và đưa tập tài liệu có dấu "tuyệt mật" cho một nhân viên ở đó để nhân bản. Tôi phải làm cho nó giống như một tập tài liệu bình thường. Đó là lý do tại sao tôi muốn làm cho tập tài liệu không còn dấu "tối mật" nữa.
Tất nhiên những trang giấy bị cắt ngắn ở phần trên và dưới thì trông cũng không ổn lắm. Do đó tôi photocopy lại toàn bộ trang giấy để trông cho bình thường. Có lúc Tony Russo gợi ý với tôi cải tiến quy trình. Anh ta đo những mẩu các tông để khớp vào phần phía trên và phía dưới của trang giấy nơi dòng chữ "tối mật" bị đóng dấu vào. Anh ta dán những miếng các tông đó lên trên mặt kính của máy photocopy vào đúng vị trí và tôi chỉ việc đặt trang giấy của bản gốc lên trên, bấm nút và… xong! Ngay lập tức tài liệu không còn bí mật nữa. Đó là một tiến bộ lớn. Tôi sẽ không phải dùng kéo cắt nữa. Đó là công đoạn lâu nhất trong cả quy trình. Không phải là người khéo tay, tôi rất ấn tượng với tiến bộ này.
Nhưng thật không may, làm theo cách này không ổn. Một lúc lâu tôi không để ý nhưng hoá ra là những dấu "tối mật" vốn dĩ được đóng bằng tay, không phải lúc nào cũng nằm ở cùng một vị trí như nhau trên các trang giấy. Một số nằm ngang hoặc nằm dưới số trang. Trên một số trang, tấm bìa các tông của Tony bị chệch mất. Nếu nhân viên tại cửa hàng photocopy tinh ý - ngày đó, các máy photocopy chưa có ngăn nạp giấy tự động - anh ta sẽ phát hiện ra là cứ khoảng 20 đến 30 trang lại thấy có một trang có dòng chữ "tuyệt mật". Không ổn rồi. Lại phải quay lại cách dùng kéo cắt.
Đêm đầu tiên nhân bản, tôi mang các bản photocopy về nhà, nhưng tôi muốn thay đổi điều đó nhanh chóng. Nhà của tôi có thể là nơi đầu tiên mà FBI sẽ lục soát, cùng với nhà của Tony và Linda. Tôi qua nhà một người bạn có một căn hộ cách chỗ tôi ở một dặm về phía nam trên đường cao tốc Pacific Coast. (Đã lâu lắm tôi không gọi điện cho cô bạn này và sau đó tôi cũng không gọi lại). Tôi nói với cô ấy tôi có một số tài liệu cần cất giữ, không để ở nhà tôi được và sẽ có thêm các tài liệu khác nữa. Những tài liệu này có liên quan đến chiến tranh, liên quan đến làm thế nào để chấm dứt chiến tranh và sẽ có những nguy hiểm nhất định nếu cô ấy định cất giữ tài liệu dùm tôi. Cô ấy vốn dĩ không phải là người quan tâm đến chính trị nhưng khi tôi nói đến chấm dứt chiến tranh thì cô ấy tỏ ra khá quan tâm.
Điều đó cũng đúng đối với nhiều người thời bấy giờ, đúng với hầu như tất cả những ai tôi nhờ giúp đỡ. Cô ấy đồng ý giúp tôi ngay. Cô ấy có chỗ trống trên giá sách trong phòng ngủ, cạnh cửa sổ nhìn ra biển. Hàng sáng, trên đường lái xe về, tôi sẽ mang theo một ít tài liệu cho cô ấy cất giữ hộ.
Tôi phải đối diện với người vợ cũ. Tôi nghĩ tôi phải báo trước với cô ta càng nhiều càng tốt - có lẽ không lâu, chỉ vài ngày hay vài tuần - rằng thu nhập của cô ta sẽ đột ngột bị cắt giảm. Như tôi đã nhận định, bàn bạc việc này với vợ tôi thật khó khăn Chúng tôi đã rất hoà thuận với nhau kể từ sau khi tôi từ Việt Nam trở về. Ngay từ đầu cô ta đã tỏ ra nghi ngờ về cuộc chiến tranh này. Robert chưa kể cho cô ta nghe những gì tôi và nó làm vào hôm thứ bảy. Nhưng vào chiều chủ nhật, tôi đã kể và nói rõ lý do tại sao tôi lại làm như vậy và hậu quả có thể xảy ra. Cô ta hỏi tôi ngay là những việc tôi đang làm sẽ có ý nghĩa gì đối với nghĩa vụ của tôi trước gia đình. Tôi nói tôi sẽ bị tống giam ngay khi tài liệu này được công bố rộng rãi và tôi hy vọng tài liệu sẽ được công bố sau một vài tuần nữa. Tôi sẽ không có thu nhập ngay khi tôi bị truy tố và có thể sẽ không có thu nhập đến hết đời. Và cũng có thể tôi sẽ không bị truy tố. Tôi nói với cô ấy rằng tôi biết có trường hợp để rò rỉ thông tin nhưng không bị truy tố, mặc dù điều đó không chắc chắn sẽ xảy ra đối với trường hợp của tôi. Ngay cả khi không bị truy tố đi chăng nữa, hoặc sau khi tôi hết hạn ra tù thì thu nhập của tôi từ việc đi dạy học cũng không nhiều. Tôi có thể đưa cho cô ta tiền tiết kiệm của tôi, nhưng chỉ được vài ngàn đô la. Cô ấy và hai đứa con tôi sẽ không có tiền cấp dưỡng hay khoản trợ cấp nào khác.
Cô ấy nói thẳng: "Anh không thể làm như vậy. Anh phải có nghĩa vụ làm theo phán quyết của toà án?". Tôi nói tôi không thể tuân thủ theo phán quyết của toà án được. Tôi sẽ vào tù. Tôi không muốn điều đó, đây là những vấn đề lớn, lớn hơn bản thân tôi, lớn hơn gia đình tôi. Đơn giản là tôi thấy mình không thể làm gì cho họ được. Cô ấy cũng hỏi về việc học hành của con cái. Tôi nói chúng sẽ tự lo việc đó. Rất may là hai đứa con tôi đều rất thông minh và tôi tin rằng chúng sẽ giành được học bổng. Có lẽ họ sẽ phải chuyển đến sống ở nơi khác, trong một ngôi nhà thuê rẻ hơn. Có lẽ cô ấy nên nghĩ về điều đó ngay bay giờ; đó là lý do tại sao tôi cần nói chuyện với cô ấy. Tôi hy vọng hai đứa con tôi sẽ hiểu việc làm này. Tôi nói cho cô ấy biết Robert đã giúp tôi nhân bản tài liệu và tôi đã bảo nó đừng nói gì cho đến khi tôi có cơ hội nói chuyện riêng với cô ấy. Cô ấy rất tức giận khi biết tôi đã lôi kéo nó vào việc sao chụp tài liệu và không thèm nghe lời giải thích của tôi. Cô ấy không muốn nó làm điều đó nữa.
Rồi tôi tới Công ty Rand để lấy thêm tài liệu và lái xe tới Melrose. Nhưng buổi tối tôi không làm việc muộn. Nhóm viết thư cho tờ Thời báo New York sẽ gặp nhau vào đầu giờ sáng ngày thứ hai để xem xét bản thảo đầu tiên của bức thư.