Nghìn vàng gọi chút lễ thường,
Mà lòng Phiếu Mẫu, mấy vàng cho cân
Bà Phiếu Mẫu, nhànghèo khó, đã giúp Hàn Tín trong cơn đói cơm rách áo. Thuở hàn vi, Hàn Tín nghèo rớt mồng tơi, ngày ngày câu cá, nhưng cũng không kiếm đủ miếng ăn. Tuy vậy, Hàn Tín lại rất ham mê đèn sách, nghiên n cứu binh thư; lại muốn ra oai như mình là con nhà võ, đi đâu cũng lè kè mang theo cây kiếm. Bà Phiếu Mẫu ở cạnh nhà, kiếm ăn bằng nghề giặt thuệ Tuy miếng cơm vẫn thiếu trước hụt sau, nhưng thấy Hàn Tín quá đói khát, bà thường dẫn chàng dở hơi này về nhà cho cơm. Hàn Tín cảm động thưa:
- Xin cảm on bà đã quá tử tế với tôi. Sau này công thanh danh toại tôi nguyện sẽ không quên ơn bà.
Phiếu Mẫu cười hiền hậu:
- Ta thấy ngươi đói khát, nên chia sẻ miếng cơm giọt nước với ngươi, chứ đâu cần ngươi sẽ trả ơn sau này. Đàn ông gì như ngươi , tự nuôi thân không nổi thì noí chi đến quyền cao chức trọng sau này.
Hàn Tín hỗ thẹn vì lời chê trách, nên không dám tìm qua nhà Phiếu Mẫu kiếm cơm nữa. Bà già vẫn thương người cùng khổ, ngày ngày đem cơm đặt trước căn lều của Hàn Tín. Người trong làng xóm biết chuyện, gọi đó là "Bát cơm Phiếu Mẫu".
Một hôm ở ngoài chọ có gã bán thịt to lớn, trông thấy Hàn Tín bước đi xiêu vẹo nhưng vẫn lòng thòng thanh kiếm bên lưng. Gã trêu tức:
- Này tên ma đói kia, nam nhi như mày mà không kiếm ăn được, hằng bữa phải nhờ đến bát cơm Phiếu Mẫu, không biết nhục à? Có giỏi thì rút kiếm ra đấu, ta tay không. Thắng được ta thưởng cho cái đầu heo. Bằng không dám đấu, thì luồn dưới trôn của ông nội mày đây.
Sắc mặt Hàn Tín đã xanh này càng xanh hơn. Tần ngần một lúc, Hàn Tín khúm núm lòn qua trôn gã hàng thịt. Cả chợ nhốn nháo chê cười Hàn sĩ. Nhưng có một tiều phu là Hứa Phụ, tình cờ qua đó, dừng lại trước Hàn Tín:
- Huynh là người có tướng vương hầu; tuy nay khốn khổ nhưng hậu vận lại vinh hoa phú quí.
Hàn Tín trở vềtúp lều, ngày đêm vẫn miệt mài dùi mài kinh sử. Lúc Hạng Lương nước Sở khởi binh đánh Tần, Hàn Tín đứng chống gươm bên bờ sông Tứ Thủy, tự tìm cơ hội tiến thân. Trông thấy Hàn Tín ngoại hình xanh xao vàng vọt, Hạng Lương "dội" ngay. Nhưng quân sư Phạm Tăng vội khuyên:
- Tuy nhìn bề ngoài yếu đuối, nhưng chân tướng là người thao lược, ngài chớ nên bỏ
Hạng Lương miễn cưỡng nhận lời, cho Hàn Tín làm chấp kích lang, tức là vác giáo theo hầu.
Trong thơi gian này, Lưu bang đang dựng nghiệp đế ở Hán Trung, nhờ Trương Lương, giả lam lái buôn, đi chu du thiên hạ để chiêu hiền. Khi đến đất Sở, gặp được Hàn Tín, Trương Lương nhận ra ngay đây là một chân tài nhưng Sở không biết dùng người. Trương Lương bèn làm quen, và trao cho Hàn Tín một thanh kiếm báu, đề thơ tặng:
Kiếm báu lập lòe tay dũng sĩ
Non sông một giải chí hiên ngang.
Máu hồng, men rượu say băng tuyết
Muông dặm sơn hà một tấc gang.
Hàn Tì'n đang còn ngỡ ngàng, thì Trương Lương đã tiếp:
- Tại hạ biết được huynh là đấng hào kiệt nên đem kiếm báu tặng chứ không bán. Nay có chút quà mọn, xin huynh chớ từ chốị Hãy cùng nhau nhấp chén rượu mừng buổi sơ kiến. Hẹn ngày hội ngô trên đất Hán.
Sau chầu rượu, Trương Lương thuyết phục Hàn Tín nên bỏ Sở, về phò Lưu Bang, là người nhân đức biết trọng lương thần, xứng danh thiên tử. Hàn Tín thuận tình, nên bỏ trốn khỏi Sở. Mấy ngày lạc trong rừng không tìm đường để lần đến Hán Trung, đói khát lả người. May thay, gặp được một lão tiều, cho ăn uống và hướng dẫn đường đi nước bước chu đáọ Hàn Tín sụp lạy cảm ơn cứu tử, rồi nhanh nhẹn lên đường. Nhưng vừa qua được một khúc quanh, Hàn Tín chợt nghĩ:
- Ta đang bị Sở Bá Vương truy nã. Nếu chẳng may quan quân Sở cũng lần ra dấu vết đến đây, hỏi lão tiều phu này, thì tính mạng ta khó thoát. Lão già suốt ngày lẫm lũi trong rừng sâu, rồi cực khổ cũng chết khô xương , còn ta, cả cơ đồ sáng lạng trước mắt. Thôi thì, ta đành làm người vong ơn bội nghĩa..
Hàn Tín quay trở lạị Kiếm vung lên, thân lão tiều phu đứt làm đôị Hàn Tín đem xác vùi bên sườn núi.
Khi đến Hán Trung, Hàn Tín được Tiêu Hà - cận thần của Hán Vương tiếp kiến, liền tiến cử với Hán Vương. Vừa nghe đến tên Hàn Tín, Hán Vương đã cười khẩy:
- Khi còn ở huyện Bái, ta đã nghe tiếng người này lòn trôn Đỗ Trung, xin cơm Phiếu Mẫu, làng nước ai cũng khinh bỉ. Con người như vậy thì làm sao mà làm được việc lớn?.
Tiêu Hà bào chữa:
- Xin Chúa công hãy suy xét, nhiều người bần tiện thuở thiếu thời nhưng sau vẫn dựng nên sự nghiệp, như Y Doãn là người sơn dã, Thái Công là kẻ đi câu ở sông Vị, Ninh Thích là gã buôn xe, Quản Trọng là kẻ tội đồ, đến lúc gặp thời đều làm nên đại sự. Hàn Tín tuy đã lòn trôn mưu sống, xin cơm cứu đói, giết ân nhân để trừ hậu hoạn..nhưng đó vẫn là người uyên bác, mưu lược; không dùng, tất hắn sẽ bỏ đi tìm nơi khác trọng dụng.
Nể lời tấu trình của cận thần, Hán Vương giữ Hàn Tín lại, cho làm thủ kho lương thực. Tiêu Hà không đồng ý vì cho rằng Hàn Tín là người trí dũng, đem dùng vào việc nhỏ không xứng với tài năng. Phần Hàn Tín cũng chán nản; nấn ná một hai hôm lại trốn đi, để lại ít câu thơ, thảo trên vách:
Anh hùng lỡ vận bước long đong
Thà chịu an thân khỏi thẹn lòng
Vó ngựa xa vời trông cố quận
Công danh chán ngắt mộng anh hùng.
Tiêu Hà hay tin Hàn Tín đã bỏ đi, dậm chân kêu trời, tiếc thay người tài không có đất dụng võ. Không nản lòng, Tiêu Hà đem theo ít quân hầu lần theo dấu tích Hàn Tín. Khi tìm gặp được, Tiê Hà cầm tay Hàn Tín ân cần:
- Cổ nhân có câu: Sĩ vị tri kỷ giả tử (kẻ sĩ có thể chết theo người tri kỷ). Tại hạ hiểu huyng là người tài, đã quyết tâm tiến cử, nhu8ng Chúc công vần chưa tin dùng. Nay nếu một lần tiến cử nữa, mà Chúa công vẫn không nhận, thì Tiêu Hà này cũng từ chức mà lui về vườn.
Hàn Tín cảm kích lòng thành của Tiêu Hà, nên lại lên ngựa quay trở về Hán Trung. Nghĩ đến số phận mình còn long đong, Hàn Tín đề thơ:
Mây gió phôi pha bóng nguyệt tà
Vận thời chưa gặp khó bôn ba
Nghèo hèn phận bạc đơì dang dở
Con tạo trêu ngươi mãi thế à!
Chợt, Hàn Tín nhớ mấy câu thơ của "anh lái buôn " Trương Lương đã đề tặng mình. Lúc đó, Trương Lương vẫn còn chu du chiêu hiền chưa về đến. Hàn Tín đưa thơ cho Tiêu Hà xem. Tiêu Hà mừng rỡ:
- Trời đất, thư giới thiệu của Tử Phòng, sao tướng công đã không trình cho Chúa công.
Khi xem thơ của Trương Lương, Hán Vương giật mình:
- Ôi chao, thì ra người của Trương Tử Phòng tiến cử. Ta thật không biết nhìn người.
Theo đề cử của Tiêu Hà, Hán vương phong Hàn Tín làm Đại Nguyên Soáị Hàn Tín đã đem tài năng mình phò Lưu Bang, tóm thâu thiên hạ, dựng nên nhà Hán.
Trong khi danh vọng ngất trời, Hàn Tín vẫn hãnh diện vì cái quá khứ bát cơm Phiếu Mẫu của mình và cũng từ đó, lưu truyền trong dân gian điển tích này.
Chỉ tiếc khi tài - danh lên tột đỉnh, Hàn Tín vẫn không hượm chân, nên đã chết thảm dưới tay Lữ Hậu.
Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Tích quạt nồng ấp lạnh có trong sách "Nhị thập tứ hiếu" của Quách Cự Nghiệp đời nhà Nguyên.
Đời Hậu Hán có đứa trẻ lên 9 tên là Hoàng Hương. Mẹ mất quá sớm, Hoàng Hương ở vơi cha; cậu bé thờ cha một mực hiếu đễ.
Vào muà hạ, thời tiết về đêm nóng nực oi bức, Hoàng Hương thường xuyên quạt màn chiếu, chăn đệm cho thoáng mát trước khi cha ngủ. Muà đông, tiết trời lạnh lẽo, đêm đêm trước khi cha đi ngủ, Hoàng Hương vào giường cha nằm lăn qua trở lại rất lâu, để mền chiếu ấm hơi người cho cha già được ngon giấc.
Nàng rằng: Nghĩa trọng nghìn non
Lâm Truy người cũ chàng còn nhớ không?
Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng
Tại ai, há dám phụ lòng cố nhân
Sâm Thương, tên gọi trong dân gian là sao Hôm, sao Mai, là hai vì sao chẳng bao giờ trông thấy nhau, một đằng Đông buổi tối, một phía Tây ban sáng.. Truyện Thần tiên kể rằng:
Hàng năm, tại Thiên đình có hội Bàn Đào, tiên ông tiên nữ tề tựu dâng lễ vật, hái đào tiên chúc tụng Ngọc Hoàng. Tiên đồng Bảo Sâm theo hầu một tiên ông, ngọc nữ Thanh Thương theo hầu một tiên cô. Hai trẻ tình cờ, gặp gỡ , quen biết nhau rồi sinh tình. Trước ngày mở hội, đôi trẻ có chút thời gian bên nhau tình tự.
Một nhân vật thứ ba, tiểu đồng Trường Quang, cũng tình cờ gặp gỡ Thanh Thương, nhưng tình chỉ sinh một hướng, Thanh Thương đã yêu đậm Bảo Sâm mất rồi. Bị tình lờ, Trường Quang sầu thảm.
Đến ngày Bàn Đào khai hội, đàn ca xướng hát rộn ràng. Các tiểu đồng, ngọc nữ nhịp nhàng như vũ điệu, tay bưng khay, tay nâng chén ngọc hầu rượu các tiên ông tiên bà.
Thanh Thương, là ngọc nữ hát hay múa đẹp nhất, nên được chọn dâng chén cho Ngọc Hoàng. Nhưng tâm hồn nàng để lạc đâu đâu, đôi mắt cứ dõi tìm Bảo Sâm, nên sẩy tay đánh rơi cả khay ngà chén ngọc. Thanh âm ngọc vỡ tan hoang. Từ bàn dưới nhìn lên, Bảo Sâm thấy tai hoạ đang giáng xuống cho người yêu cũng sửng hồn, khay chén trên tay cũng đánh xoảng rơi xuống đất. Đàn ca xướng hát thanh thoát, bỗng nín bặt.,
Ngọc Hoàng xử tội ngay đôi trẻ:
- Đôi tiên đồng, ngọc nữ còn non tuổi mà lại dám bày trò yêu đương nơi cõi, tội đáng đày xuống trần gian cho làm một kiếp thú, sống trong núi thẳm rừng sâu, kiếp sau mới được đầu thai làm người ở luôn dưới cõi trầ.n...
Trường Quang không phạm lỗi chi cũng run lập cập khi Ngọc Hoàng đang xử tội người yêụ. một chiều; khi vưa nghe lơì kết tội đày xuống trần gian làm thú, không nén được đau thương, Trường Quang đã thét lớn: "Thanh Thương ơi, Thanh Thương ơi, ta nguyện theo nàng xuống trần gian. Ngọc Hoàng thêm giận, ừ thì muốn theo thì ta cho thỏa ước mơ, truyền cho đày tiểu đồng tình dại này đi chung một chuyến.
Các tiên ông tiên bà, thương cho ba trẻ tình si, chỉ vì thương yêu mà chuốc họạ Họ đồng thanh xin Ngọc Hoàng nương tay, chớ đày xuống trần gian, mà hãy cho ở lưu lạc đâu đó trên trời.
Lời câu xin của các tiên, Ngọc Hoàng nguôi ngoai cơn giận, phán lại lần cuối cho chúng làm hai ngôi sao, tuy ở chung cùng trời, nhưng không bao giờ được gặp nhau.
Nàng Thanh Thương làm sao Thương, là sao hôm, chỉ mọc lên ở hướng đông lúc về đêm; Bảo Sâm trở thành sao Sâm, là sao mai, mọc ở phía tây lúc trời hửng sáng.
Còn Trường Quang, sẽ được như ý, suốt đời tìm kiếm tình yêu, thì biến thành sao "vượt", bay đi xẹt lại trọn kiêp mà kiếm tìm.
Ca dao Việt Nam ta có câu:
Sao hôm chờ đợi sao mai
Trách lòng sao vượt nhớ ai băng chừng.
Sao vượt (sao băng) muôn đời vẫn mang theo điều mơ ước.
Ngày nay, có ai mong mỏi điều gì, hãy ngước nhìn lên trời đón ánh sao băng, điều ước mơ sẽ được toại nguyện. Nhưng còn sao Sâm, sao Thương, theo phán xử của Ngọc Hoàng phải ngàn nghìn trùng xa cách, đông tây, đêm ngày đuổi bắt nhau mà không gặp được.
Sân hòe đôi chút thơ ngây
Trân cam ai kẻ đỡ thay việc mình
Sân hòe đôi chút thơ ngây. Cây hòe, loại cây gỗ quí, được trồng trước mặt các vị Tam công (Thái Sư, Thái Phó và Thái Bảo) đứng chầu, trong sân Ngoại triều của vuạ Tam triều của vua: Yến triều, Nội triều và Ngoại triều.
Đời nhà Tống, có Vương Hựu, tự tay trồng ba cây Hòe trong sân nhà và nói rằng:
- Con cháu ta sau này sẽ có đứa làm đến chức Tam công.
Quả đúng về sau, con của Vương Hựu là Vương Đán làm đến Tam Công
Trân cam, ai kẻ đỡ thay việc mình. Trân cam là vị ngon vị ngọt, ý nói sớm tối chiều hôm trông nom thức ăn hầu cha mẹ.
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm
Tích Sân Lai cũng có trong "Nhị thập tứ hiếu".
Lai Tử người nước Sở thời Đông Châu liệt quốc, bảy mươi tuổi vẫn con cha mẹ già.
Để làm trò cho cha mẹ vui, ông thường mặc áo ngũ sắc sặc sỡ, giả làm trẻ nhỏ, múa may đùa giỡn. Có khi làm bộ vấp bực thềm, té lăn ra đất rồi nhại tiếng khóc con nít cho cha mẹ cười.
Có khi nhìn đứa trẻ thơ 70 tuổi, cha mẹ tuổi đã tròn thế kỷ bỗng quay về thuở trung niên.
Kim Kiều chỉ cách nhau bức tường hoa, nhưng chàng nàng đã cho rằng lễ giáo như thành lũy đã chia loan rẽ phượng:
Từ phen đá biết tuổi vàng
Tình càng thắm thiết, dạ càng ngẩn ngơ
Sông Tương một giải nông sờ
Bên trông đầu nọ, bên chờ cuối kia.
Sông Tương hay Tương Giang, còn gọi là Tiêu Tương, thuộc tỉnh Ninh Lăng, tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc.
Sử viết, khi vua Thuấn mất, hai bà phi là Nga Hoàng và Nữ Anh thương tiếc không nguôi, hết vật vã thảm thiết trong cung, lại ra bờ sông Tương khóc than đêm ngày. Nước mắt hai bà nhỏ xuống bờ trúc, làm cho trúc ở đây nổi lên những đường vân đẹp như mây sóng ẩn hiện. Người đơì sau thường tìm đến bờ sông Tương mua loại trúc này về làm mành. Nước mắt của cuộc tình vắn số đã nhỏ xuống để tạo nê n những đường vân tản mạc, nên mành tương là một tượng trưng cho một số phận đoạn nỗi. Chuyện tình của Kiều cũng tang tác, nên có câu: Mành tương phảng phất gió đàn.
Trúc Tiêu Tương không những làm mành đẹp mà sáo trúc Tương giang cũng mang một âm thanh có sức truyền cảm lạ lùng. Chuyện hai bà Phi khóc chồng bên bờ sông Tương thuộc đời Nghiêu Thuấn; đến đời nhà Châu, sông Tương lại chứng minh một tình buồn nữạ Chàng là nho sĩ Lý Sanh; nàng thôn nữ Lương Ý Nương. Đôi trẻ yêu nhau tha thiết đã nặng lời hẹn ước. Sau khoa thi sẽ làm hôn lễ; nàng quay tơ dệt vải đờ.i chờ; đêm đêm nàng cũng chịu khó chong đèn, chút chữ nghĩa có văn thơ với người yêu. Nhưng rồi giặc giã nổi lên khắp nước, thân trai phải xếp bút nghiên lên đường đao binh. Chén rượu ngày hợp cẩn xin là chén ly bôi bên bờ sông Tương. Đây sầu ly biệt của nàng chinh phụ trong Chinh phụ ngâm :
Bến Tiêu Tương cách Hàm Dương
Nơi Hàm Dương cách Tiêu Dương mấy trùng
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xa xa những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai.
Nhà Ý Nương ở mạn hạ lưụ Chiều chiều lại nhớ chiều chiều, nàng ra đứng bên bờ sông trông về phía thượng lưu ngóng đợị Vừng kim ô lặn xuống trời tây, mặt nước sông Tương còn vương lại chút nắng vàng rồi trở bạc; đàn chim trong khóm trúc xạc xào bay về tổ ấm. Chinh phụ chinh phu, như đầu sông cuối sông. Nàng đã viết bài thơ cho môi tình mòn mỏi bao năm đơi chờ:
Nhân đạo Tương giang thâm
Vị để Tương giang bạn
Giang thâm chung hữu để
Tương tư vô biên ngạn
Quân tại Tương giang đầu
Thiếp tại Tương giang vĩ
Tương tư bất tương kiến
Cộng ẩm Tương giang thủy
(Tương giang người bảo sâu
Chẳng bằng lòng thương nhớ
Sông sâu còn có đáy
Tương tư không bến bờ
Chàng ở đầu sông Tương
Thiếp ở cuối sông Tương
Nhớ nhau mà không thấy
Cùng uống nước sông Tương)
Một lời gắn bó tất giao
Mái sau dường có xôn xao tiếng người.
Tất giao nghĩa là sơn và keo, dính chặt vào nhaụ
Theo truyện Truyền kỳ Trung Quốc, xưa có hai người bạn học tên là Lôi Nghĩa và Trần Trọng chơi thân với nhau. Cả hai cùng ứng thí. Lôi Nghĩa thi đậu, nhưng Trần Trọng lại trượt.
Lôi Nghĩa thương bạn còn gia cảnh ngặt nghèo, muốn nhường tên bảng vàng cho Trần Trọng, nhưng không được quan trường chấp thuận. Lôi Nghĩa bèn giả điên để khỏi bị bổ làm quan.
Đến khoa thi sau, cả hai lại cùng đi thi và đều đỗ. Bấy giờ cả hai mới nhận áo mão triều đình cùng ra làm quan.
Người đời đã có câu ca ngợi tình bạn Lôi Nghĩa và Trần Trọng :
Tất giao vi kiên, bất như Lôi dữ Trần
(Keo sơn bảo là bền, chẳng bằng Lôi với Trần).
Thang mây dón bước ngọn tường,
Phải người hâm mộ rõ ràng, chăng nhe
Thang bằng mây dùng để leo thành cao.
Theo điển tích thời Chiến Quốc, lúc Sở Kinh Vương chuẩn bị đánh Tống, bèn cho lệnh Công Thâu Ban, người thợ mộc giỏi nhất nước, chế tạo loại thang mây để công hãm thành trì nước Tống.
Mặc Tử biết sắp có chuyện đao binh, vội đến ngăn vua Sở:
- Nước Sở lớn, nước Tống nhỏ. Nay Chúa công lấy lớn hiếp nhỏ thì phỏng hay ho gì?.
Sở Kinh Vương chưa kịp trả lời thì Mặc Tử đã tiếp:
- Nước Sở giàu, nước Tống nghèo. Chúa công đánh nước Tống thì được lợi lộc gì.
Vua Sở hăm hở:
- Nhưng ta đã chế tạo được thang mây thì phải đi công phá thành chứ.
Mặc Tử cười khẩy:
- Có thang mây đâu phải là chiếm được nước Tống.
Vua Sở bực tức:
- Công Thâu Ban là thợ giỏi nhất thiên hạ, chiến cụ của ông ta chế tạo ra há không công phá được thành nước Tống ư?
Mặc Tử đáp:
- Vậy hãy thử để tôi thủ thành, cho quân dùng thang mây của Công Thâu Ban tấn công, thử xem có thể phá thành được không?
Vua Sở đồng ý cho thử trận.
Đúng như lời Mặc Tử, quân lính đã dùng thang mây, khí cụ mới sáng chế, nhưng không sao công phá được thành.
Sở Kinh Vương cả giận, nói vo('i Mặc Tử:
- Dù vậy, ta đây vẫn có cách để thắng được.
Mặc Tử hiểu ý vua Sở, trả lời:
- Cách của nhà vua là giết chết tôi chứ gì? Nhưng cũng chẳng có lợi gì đâu. Tôi chết đi còn có đám học trò, chúng đã học được cách thủ thành của tôi và làm vô hiệu hoá cái thang mây sáng chế của nhà vua rồi.
Sở Kinh Vương đành phải nghe theo lời của Mặc Tử, bỏ ý định đánh Tống.
Gẫm duyên kỳ ngộ xưa nay
Lứa đôi ai lại đẹp tày Thôi, Trương
Thôi, Trương tên của Thôi Oanh Oanh và Trương Quân Thụy. Theo chuyện "Hội Chân ký " đời Đường, Trương Quân Thụy gặp Thôi Oanh Oanh ở chùa Phổ Cứu đang lúc nàng thọ tang cho cha. Vậy mà tình yêu cũng nẩy lộc, đêm đêm hai người hẹn nhau ra mái phía Tây của chùa mà tình tự.
Tình yêu đã thắm đậm, nhưng sau đó hôn nhân không thành, chàng lấy vợ và nàng cũng đi lấy chồng...
"Hội Chân ký" kết thúc khi mối tình tan vỡ.
Đến đời Nguyên, nhà văn Vương Thực Phủ đã phóng tác, viết thành tuồng Tây Sương ký. Theo đánh giá của Kim Thánh Thán, nhà phê bình văn học lừng danh cuối đời Minh, đầu đời Thanh, thì Tây Sương ký là một trong " Lục tài tử thư " của Trung Quốc, gồm có:
1. Nam Hoa kinh của Trang Tử
2. Sử ký của Tư Mã Thiên.
3. Thơ Đỗ Phủ đời Đường
4. Ly Tao của Khuất Nguyên
5. Thủy Hử của Thi Nại Am
6. Tây Sương ký của Vương Thực Phủ.
Tóm tắc tuồng "Tây Sương ký":
Góa phụ Thôi tướng quốc cùng ái nữ là Thôi Oanh Oanh xin trú ngụ mái Tây chùa Phổ Cứu để cư tang cho Thôi Tướng quốc.
Trên đường về kinh đô thi Hội, thư sinh Trương Quân Thụy ghé lại tham quan cảnh chùa và gặp gỡ Thôi Oanh Oanh. Diện kiến nhan sắc tuyệt trần , chàng Trương bèn xin trọ lại chùa để có dịp tỏ tình với giai nhân.
Gặp lúc có giặc Tôn Phi Hổ vây chùa và bắt nàng Thôi Oanh Oanh đem đi. Mẹ nàng không biết cầu cứu ai, chỉ biết hứa là ai cứu nguy được cho gia đình thì gả con gái. Trương Quân Thụy cấp tốc gởi thư cho một người bạn học cũ là tướng quân Đỗ Quân Thực đem binh đuổi giặc, cứu nạn cho gia đình Thôi Oanh Oanh.
Nhưng sau khi tai qua nạn khỏi, bà mẹ Oanh Oanh thất hứa, không cho đôi trẻ kết hôn mà chỉ cho kết nghĩa anh em. Trương Quân Thụy phẫn uất, buồn bã rồi sinh trọng bệnh. Thị nữ của Thôi Oanh Oanh là Hồng Nương hay tin, về báo cho cô chủ. Thôi Oanh Oanh đang đêm, cùng Hồng Nương tìm đến thăm chàng. Thị nữ đứng trông chừng bên ngoài, trong thư phòng đôi lứa đã ..gẫm duyên kỳ ngộ, đẹp tày Thôi Trương.
Chuyện " tiết trăm năm, nỡ bỏ đi một ngày " của nàng Thôi bị đổ bể. Mẹ nàng đành phải chấp thuận cho đôi trẻ se duyên, nhưng buộc Trương Quân Thụy phải lên đường về kinh ngay cho kịp kỳ thi Hội, khi bảng vàng có tên rồi hãy quay về làm lễ thành hôn. Trên đường tiến kinh, chàng Trương ghé lại một quán trọ qua đêm. Trong giấc ngủ, chàng mơ thấy Thôi Oanh Oanh...
Theo Hội Chân ký, thì khi giấc mơ qua rồi cũng là lúc cuộc tình ra đi. Nửa đường đứt gánh, chàng theo đường chàng lấy vợ, nàng theo đường nàng lấy chồng.
Nhưng trong tuồng Tây Sương ký thì tình duyên hai người không đứt đoạn, Trương Quân Thụy thi đỗ Thám Hoa, vinh qui trở về cưới nàng Thôi Oanh Oanh. Kim Thánh Thán đã đặt nghi vấn, cho rằng 4 hồi sau của Tây Sương ký không phải do Vương Thực Phủ viết, mà có thể do Quan Hán Khanh, một nhà văn cùng thời với Vương Thực Phủ. Bản dịch của Nhượng Tống cùng chỉ dịch 16 hồi, đến lúc tan vỡ mối tình Thôi Trương thì kết thúc.