Chi tử thì tương kiến
Yêu nhân vãn hứng lưu
Tế đàm chiên phát phát
Xuân thảo lộc ao ao
Đỗ tửu thiên lao khuyến
Trương lê bất ngoại cầu
Tiền thôn sơn lộ hiểm
Quy tuý mỗi vô ưu
Dịch Nghĩa
Đề nơi ở ẩn của họ Trương
Lúc gặp gỡ bác
Cơn hứng thú buổi chiều mời người ở lại
Cá mè vượt đầm nhảy lõm bõm
Hươu chạy trong đám cỏ xuân kêu tác tác
Riêng mời ép chén rượu Đỗ
Chẳng cần tìm đâu quả lê Trương
Trước xóm, đường núi cheo leo
Mỗi lần say về chẳng lo lắng gì !
lâu rồi gặp bác ở chốn đây
mong bác ở lại hứng khi này
cá nhẩy đầm kia tung tăng quẫy
hươu kêu tác chạy đạp cỏ cây
hái lê tại chỗ Trương tiếp bạn
rượu Đỗ ngon mời ép nài say
hiểm trở ,gập gềnh đường về lối
phen này tuý luý chẳng mảy may
Cẩm thủy đông bắc lưu
Ba đãng song uyên ương
Hùng sào Hán cung thụ
Thư lộng Tần thảo phương
Ninh đồng vạn tử toái ỷ dực
Bất nhẫn vân gian lưỡng phân trương
Thử thời A Kiều chính kiều đồ
Độc toạ trường môn sầu nhật mộ
Đản nguyệt quân ân cố thiếp thâm
Khởi tích hoàng kim mãi từ phú
Tương Như tác phú đắc hoàng kim
Trượng phu hiếu tan đa dị tâm
Nhất triêu tương sinh Mậu Lăng nữ
Văn quân nhân tặng Bạch đầu ngâm
Đông lưu bất tác tây quy thuỷ
Lạc hoa từ điều tu cố lâm
Thố ti cố vô tình
Tuỳ phong nhiệm khuynh đảo
Thuỳ sử nữ la chi
Nhi lai cưỡng oanh bão
Lưỡng thảo do nhất tâm
Nhân tâm bất như thảo
Mạc quyển long tu tịch
Tòng tha sinh võng ty
Thả lưu hổ phách chẩm
Hoặc hữu mộng lai thì
Phúc thuỷ tái thu khởi mãn bôi
Khí thiếp dĩ khứ nan trùng hồi
Cổ lai đắc ý bất tương phụ
Chỉ kim duy kiến Thanh Lăng đài...
Dịch Nghĩa
Sông Cẩm chảy về phía đông bắc
Sóng xô dạt đôi chim uyên ương
Con trống đậu trên cây cung Hán
Con mái đùa trong đám cỏ thơm đất Tần
Thà cùng nhau chết vạn lần nát cả lông cánh
Chứ không chịu chia lìa nhau giữa mây
Chính lúc A Kiều trong cơn ghen thủa ấy
Ngồi một mình ở cung Trường Môn buồn ngày tàn
Chỉ mong ơn vua đoái đến nàng nồng nàn hơn
Nào có tiếc chi vàng mua lấy từ phú
Tương Như làm phú mà được vàng
Đàn ông ham mới, hay sinh lòng kia khác
Một sớm toan cưới cô gái Mậu Lăng
Văn Quân nhân đó tặng bài Bạch đầu ngâm
Nước chảy về đông thì không chảy về tây
Hoa rụng lìa cành thẹn với rừng cũ
Dây thố ti vốn vô tình
Theo gió mặc nghiêng ngả
Ai khiến cành nữ la
Đến quấn quýt chặt chẽ
Hai loài cỏ ấy cùng chung một lòng
Lòng người không bằng loài cỏ
Đừng cuốn chiếc chiếu long tu
Mặc cho tơ nhện dăng đầy
Hãy để lại cái gối hổ phách
May ra có lúc về trong mơ
Nước đổ vớt lại, há chẳng đầy chén được sao
Đã bỏ vợ mà đi, khó trở lại cùng nhau
Xưa nay đắc ý không phụ rẫy nhau
Đến bây giờ chỉ thấy đài Thanh Lăng thôi.
Dịch thơ -BTB
Đông bắc Cẩm thuỷ mải miết trôi
Sóng dạt đôi uyên rạc tơi bời
Con trống cung Hán còn đậu lại
Cỏ Tần mái kia vẫn mải chơi
Thà rằng đuợc chết chung thây
Còn hơn xa cách trùng mây một mình
A kiều thủa nổi ghen tình
Trường Môn một bóng lẻ hình chiều tan
Chỉ mong vua đoái tới nàng
Dẫu là từ phú nghìn vàng cũng cam
Phú Tuơng Như được đổi nghìn vàng
Nam tử hán lòng ham của lạ
Mậu Lăng thiếp đã kiệu hoa
Bạch Đầu Ngâm , Văn Quân chắp bút.
Miết chảy về đông ,chẳng trở lại
Lìa cành , hoa đã ngại ngùng rừng xưa
Tơ duyên theo gió phất phơ
Chẳng như đôi cỏ nữ la buộc lòng
Chiếu long tu xin người chớ cuốn
Dẫu rằng cho tơ nhện có chăng
Gối hổ phách kia giữ bên mình
May ra đêm lạnh còn mơ thấy người
Nuớc đổ rồi , vớt lên được nữa ?
Đã từ biệt , hạnh ngộ có không?
Đắc ý xưa này trời chẳng phụ
Thanh Lăng đài còn mãi thiên thu .
Bản dịch nhiều chỗ ngượng quá , ai sửa dùm được ko
Thục tướng từ đường hà xứ tầm
Cẩm Quan thành ngoại bách sâm sâm
Ánh giai bích thảo tự xuân sắc
Cách diệp hoàng ly không hảo âm
Tam cố tần phiền thiên hạ kế
Lưỡng triều khai tế lão thần tâm
Xuất sư vi tiệp thân tiên tử
Trường sử anh hùng lệ mãn khâm
Thừa tướng Tây Thục
Dịch vật: Trần Tú Quỳnh
Đền thờ Thục tướng, biết đâu trông?
Ngoài chốn Cẩm Quan, bách rợp cùng
Cỏ thắm soi thềm, khoe sắc biết
Oanh vàng bên lá, hót mông lung
Ba lần ơn chúa, bày tiên kế
Hai lượt thay triều, tận sức trung
Dẹp giặc chưa thành mà vắn số
Lệ vương đọng mãi dạ anh hùng
Cẩm Quan thành ngoại bách sâm sâm
Ánh giai bích thảo tự xuân sắc
Cách diệp hoàng ly không hảo âm
Tam cố tần phiền thiên hạ kế
Lưỡng triều khai tế lão thần tâm
Xuất sư vi tiệp thân tiên tử
Trường sử anh hùng lệ mãn khâm
Dịch Nghĩa
Tìm ở nơi nào thấy đền thờ của thừa tướng?
Chính là ở ngoài thành Cẩm Quan, nơi có hàng cây bách um tùm
Soi sáng thềm, cỏ xanh vẫn có màu vẻ xuân;
Bên kia lá cây, chim oanh vàng vẫn cất tiếng hót hay
Lưu Huyền Ðức ba lần đến thăm làm cho ngài phải bận tâm với kế sách bình định thiên hạ
Ngài đã có công mở nước và giúp rập hai triều, hết lòng bậc lão thần .
Ngài đem quân đi đánh Ngụy chưa thắng trận mà thân đã thác;
Việc này mãi mãi khiến cho các bậc anh hùng lệ rơi đầy vạt áo
Dịch Thơ
Thừa tướng nước Thục
Biết đâu tìm đến đền Thục tướng
Phía ngoài thành Cẩm bách rườm rà
Soi thềm cỏ biếc luôn tươi thắm
Bên lá oanh vàng vẫn hát ca
Ba lượt ân cần ơn chúa nặng
Hai triều giúp rập bụng tôi già
Ra quân chưa thắng thân đà thác
Mãi khiến anh hùng lệ xót xa.
Bản dịch: Trần Trọng San
Dịch thử :
Tìm đâu đây biết đền thờ thừa tướng
Ngoài Cẩm Quan nơi hàng bách um tùm
Soi sáng thềm cỏ mượt mướt màu xuân
Bên lá hót tiếng oanh vàng hay lạ
Ba lần thăm , bận kế bình thiên hạ
Bậc lão thần mở nước rập hai triều
Chưa thắng Ngụy hồn phách đã phiêu diêu
Lệ anh hùng khóc thương đầy vạt áo
( nhiều chỗ chưa trọn ý , câu 2,3 ép vần , chẳng biết làm sao )
Biệt Đổng đài - Cao Thích
Thiên lý hoàn vân bạch nhật huân
Bắc phong xuy nhạn tuyết phân phân
Mạc sầu tiền lộ vô tri kỷ
Thiên hạ hà nhân bất thức quân
Dịch Nghĩa
Ngìn dặm mây vàng, ban ngày bóng nhạt
Gió bấc khởi nhạn (bay về nam), tuyết bời bời
Chớ buồn con đường phía trước không có người tri kỷ
Sao lại có người trong thiên hạ không biết đến anh
Dịch Thơ
Chia Tay Đổng đài
Ngàn dặm mây vàng, ngày nắng nhạt
Gió mùa giục nhạn, tuyết bay quanh
Chớ buồn phía trước không tri kỷ
Thiên hạ không người quen biết anh
Bản dịch: Ngô Văn Phú
Dịch tiếp :
Mây vàng nghìn dặm nhạt bóng ngày
Nhạn xuôi gió bấc , tuyết bay bay
Lối trước , đừng buồn không tri kỷ
Danh người , thiên hạ lẽ chẳng hay
Biệt Đổng đài - Cao Thích
Thiên lý hoàn vân bạch nhật huân
Bắc phong xuy nhạn tuyết phân phân
Mạc sầu tiền lộ vô tri kỷ
Thiên hạ hà nhân bất thức quân
Dịch Nghĩa
Ngìn dặm mây vàng, ban ngày bóng nhạt
Gió bấc khởi nhạn (bay về nam), tuyết bời bời
Chớ buồn con đường phía trước không có người tri kỷ
Sao lại có người trong thiên hạ không biết đến anh
Dịch Thơ
Chia Tay Đổng đài
Ngàn dặm mây vàng, ngày nắng nhạt
Gió mùa giục nhạn, tuyết bay quanh
Chớ buồn phía trước không tri kỷ
Thiên hạ không người quen biết anh
Bản dịch: Ngô Văn Phú
dich tiếp
mây bay ngàn dặm , ngày nhạt nắng
nhạn chốn gió mùa ,tuyết bay bay
há để buồn lòng đường không bạn
lẽ nào thiên hạ không tiếng sao?
Cẩm Quan thành ngoại bách sâm sâm
Ánh giai bích thảo tự xuân sắc
Cách diệp hoàng ly không hảo âm
Tam cố tần phiền thiên hạ kế
Lưỡng triều khai tế lão thần tâm
Xuất sư vi tiệp thân tiên tử
Trường sử anh hùng lệ mãn khâm
Dịch Nghĩa
Tìm ở nơi nào thấy đền thờ của thừa tướng?
Chính là ở ngoài thành Cẩm Quan, nơi có hàng cây bách um tùm
Soi sáng thềm, cỏ xanh vẫn có màu vẻ xuân;
Bên kia lá cây, chim oanh vàng vẫn cất tiếng hót hay
Lưu Huyền Ðức ba lần đến thăm làm cho ngài phải bận tâm với kế sách bình định thiên hạ
Ngài đã có công mở nước và giúp rập hai triều, hết lòng bậc lão thần .
Ngài đem quân đi đánh Ngụy chưa thắng trận mà thân đã thác;
Việc này mãi mãi khiến cho các bậc anh hùng lệ rơi đầy vạt áo
Dịch Thơ
Thừa tướng nước Thục
Biết đâu tìm đến đền Thục tướng
Phía ngoài thành Cẩm bách rườm rà
Soi thềm cỏ biếc luôn tươi thắm
Bên lá oanh vàng vẫn hát ca
Ba lượt ân cần ơn chúa nặng
Hai triều giúp rập bụng tôi già
Ra quân chưa thắng thân đà thác
Mãi khiến anh hùng lệ xót xa.
Bản dịch: Trần Trọng San
dich thơ
thục tướng khổng minh
đền thờ Thục Tướng ở nơi nao
chính ở Cẩm Quan , bách mọc cao
cỏ tốt tựa xuân thềm dọi sáng
bên cây oanh hót thật hay sao
ba lần lưu bị nhờ phò giúp
quyết diệt hai nước ..tâm nguyện trao
đánh ngụy chưa thắng mà đã thác
anh hùng mãi mãi lệ tuôn trào
HÒA TỬ DO THẰNG TRÌ HOÀI CỰU Tô Thức (Đông Pha cư sĩ)
Nhân sinh đáo xứ tri hà tự
Ưng tự phi hồng đạp tuyết nê
Nê thượng ngẫu nhiên lưu trảo tích
Hồng phi na phục kế đông tê
Lão tăng dĩ tử thành tân tháp
Hoại bích vô do kiến cựu đề
Vãng nhật khi khu hoàn kí phủ
Lộ trường nhân khốn kiển lư tê.
Dịch nghĩa:
Đời người biết sau này sẽ về đâu
Như chim hồng dẫm trên tuyết mềm
Tuyết ngẫu nhiên còn lưu lại dấu chân
Mà bóng dáng chim hồng biết ở phương nao
Lão hòa thượng chết rồi, thân xây thành tháp mới
Vách tường đổ nát nào đâu thấy bút tích xưa
Nhớ chăng trời về chiều đường núi gập ghềnh
Đường dài, người mệt nhọc, lừa tập tễnh kêu
Dịch thơ:
Nhớ Thăng Trì cảnh cũ
Nhân sinh sống chết biết ai hay
Tựa cánh chim hồng đạp tuyết bay
Dấu vết còn lưu nền tuyết trắng
Bóng hình chẳng biết ngã đông tây
Lão tăng tháp mới thân an gởi
Tường đổ tích xưa nét nhạt phai
Nhớ cảnh chiều tà đường núi dốc
Lộ xa, lừa hí, người buông tay.