Phần 5
Chương 1
Tưởng Giới Thạch đã rời Khê Khẩu như thế nào ?
Nguồn: Mọt sách
Thu gọn nội dung
Trước và sau chiến dịch vượt sông của quân giải phóng, Tưởng Giới Thạch đã bị hoàn toàn thất bại trên các mặt quân sự, chính trị, kinh tế, ngoại giao; nhân tâm mất hết, quần chúng chống lại, người thân xa lìa. Ông cũng như Cánh buồm cô đơn giữa đêm tối, chao đảo, nghiêng ngả trong gió vùi mưa dập và sóng đẩy nước xô ở giữa biển cả mênh mông; sống hay chết chỉ còn trong nháy mắt. Chỉ cần có tàu chiến, máy bay thì nhất định có thể chạy thoát được ra Đài Loan .
Ngày 25 tháng 4 năm 1949 đối với Tưởng Giới Thạch mà nói, đó là một ngày mang tính chất lịch sử. Bởi vì ngày hôm đó, Tưởng Giới Thạch đã vĩnh viễn rời xa quê hương Khê Khẩu, thực sự bắt đầu một cuộc sinh nhai khốn khổ giữ lấy hòn đảo cô đơn như kẻ bị đi đày. Tuy Tưởng còn lưu lại đợi chờ một thời gian ở Thượng Hải, Châu Sơn. Sau khi tới Đài Loan, Tưởng cũng đã từng nhiều lần trở lại đại lục trước cuối năm năm đó, đã nhiều ngày ở Quảng Châu, Hạ Môn, Trùng Khánh, Thành Đô, Côn Minh kéo dài sự bịn rịn, để bố trí sự chống đối ngang ngạnh cuối cùng. Thế nhưng cũng từ lúc này trở đi, Tưởng đã hiểu rõ chỉ có xây dựng sự nghiệp ở Đài Loan. Còn kiên trì giữ Đông Nam, kiên trì giữ Tây Nam, đợi thời cơ phản công chỉ là những mộng tưởng mà mình hà hơi tiếp sức cho mình. Bởi vì ngày 23 tháng 4, binh đoàn 8 của Quân giải phóng đã chiếm lĩnh được Nam Kinh, nền thống trị suốt 22 năm của Tưởng Giới Thạch đã tuyên cáo diệt vong, cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân Trung Quốc đã giành được thắng lợi trong toàn quốc. Tưởng Giới Thạch biết rằng chỉ dựa vào lực lượng của mình khó có thể xoay chuyển được trời đất, việc chờ thời cơ phản công của Tưởng chỉ là sự hy vọng nước Mỹ can thiệp vào hoặc là bùng nổ cuộc Đại chiến thé giới lần thứ ba.Tưởng Giới Thạch về đến Khê Khẩu Phụng Hóa Triết Giang vào ngày 22 tháng 1 năm 1949. Vào lúc 10 giờ sáng ngày hôm trước, Tưởng đã rút lui từ chức khỏi trách nhiệm Tổng thống của Chính phủ Quốc dân đảng Nam Kinh, 4 giờ chiều liền bay khỏi Nam Kinh, trước tiên trú ở Hàng Châu, sau chuyển về Khê Khẩu.Tưởng Giới Thạch vô cùng yêu qúy quê hương Khê Khẩu. Trong suốt hơn hai mươi năm thống trị đại lục, hầu như mỗi năm Tưởng đều trở về quê hương một hai lần, đặc biệt là mỗi lần từ chức, Tưởng đều luôn luôn trốn ở Khê Khẩu đóng vai một ẩn sĩ theo kiểu Đào Uyên Minh (ngôn ngữ Giang Nam) để tính toán việc Đông sơn tái khởi. Tưởng Giới Thạch còn viết những bài từ Ca vịnh Khê Khẩu, về sau đã được nhà đương cục Đài Loan quyết định làm giáo tài giảng văn bậc trung học. Đó là năm 1924, thời gian do Tưởng làm hiệu trưởng trường quân sự Hoàng Phố về quê tảo mộ, sau khi xây dựng xong Lạc Đình, đích thân soạn ra Lạc đình ký, bắt chước làm theo kiểu Túy ông đình ký của Âu Dương Tu. Trong bài văn, Tưởng đã viết rằng:Vũ Lĩnh nhô cao, chín khúc suối Viêm,Sừng sững ngoài riềm, ngọn cao sáng tỏ,Cột trụ hiện ngang, giữa dòng nước đổ,Vạn núi nghiêng mình, ngưỡng mộ, nổi trôi !Cổ thụ trọc trời, vách cao dựng đứngDòng suối dưới chân, lững lờ nghiêng bóngCá lượn ngẩn ngơ, trúc thắm bên dòngTùng thắm trên không, bóng soi khe biếcNgọc ngà tinh khiết ...ngọn bút lung linh ...Trong bài ghi chép nhỏ này, Tưởng Giới Thạch tự ví mình như một cột trụ hiện ngang, giữa dòng nước đổ, muốn đem Khê Khẩu miêu tả một mảnh đất anh hào giáng thế, cảnh núi cao suối trong nay chỉ có trên trời mới có, ngầm ví mình như một Thiên Tử chân Long chuyển thế.Vứt bỏ những lời bình luận khoe khoang khoác loác coi trời bằng vung và những ngôn từ quá khích trong Lạc Đình ký này của Tưởng Giới Thạch đi, nói một cách khách quan, Khê Khẩu đúng là một nơi non xanh nước biếc của Giang Nam, đích thực là Tưởng Giới Thạch yêu mến quê hương của mình. Thế nhưng tình thế trở về của lần từ chức này khác trước, tự nhiên trong tâm trạng của Tưởng rất khổ sở. Khi Tưởng bước vào phòng ngủ trong Từ am cởi bộ áo khoác ngoài ra, nhìn thấy ở bên giường không còn chiếc giá áo liền quát gào ầm ỹ:
- Chiếc giá áo đâu rồi ? - Tên nhân viên hầu cận đành phải lập tức đi tìm. Khi ăn cơm, nhìn thấy thức ăn đưa đến là cơm gạo xay sát bằng máy gia công, lập tức sa sầm nét mặt, hạ lệnh trở về, bắt phải nấu cơm bằng gạo xay gia công bằng cối đá. Tưởng Giới Thạch là hiệu trưởng trường Vũ Lĩnh ở Khê Khẩu, Tống Mỹ Linh là trưởng ban quản trị của trường này. Ngôi trường này cũng là một công trình xây dựng kiểu mới mà Tưởng Giới Thạch đã xuất vốn ra trên 30 vạn đồng để xây dựng gọi là tạo phú cho quê hương. Ngày hôm nay trưởng ban giáo vụ trường Vũ Lĩnh là Thi Qúi Ngôn đã đặc biệt mua về hai con ba ba, sau khi nấu chín bưng đến mời Tưởng Giới Thạch dùng bữa. Chẳng ngờ Tưởng lập tức biến sắc nói:
- Bây giờ là lúc nào, sao ngươi lại mua thứ quý đắt như vậy cho ta ăn ? Ngươi có biết bao nhiêu tiền một cân ba ba không?
Chẳng thế mà những nhân viên làm việc ở bên cạnh Tưởng Giới Thạch nói, lần trở về này của Tưởng Giới Thạch, tính nóng bừng như lửa cháy không thứ gì cảm thấy thuận mắt cả. Mặc dù tâm tình Tưởng Giới Thạch rất khổ sở khó chịu, thế nhưng ngoài mặt vẫn phải làm ra vẻ văn chương, trên đại thể vẫn coi là được. Thứ nhất là trước tết Xuân, với danh nghĩa là vào Tông miếu mở cửa đền tế cáo tổ tiên, sau đó mở tiệc rượu, mời các cụ phụ lão ở trong họ tới dự. Trên thực tế đây là một bữa tiệc tiễn biệt, thế nhưng trong bữa tiệc Tưởng lại bàn tới việc xây dựng một số công nghiệp cỡ nhỏ ở Khê Khẩu, lại còn lợi dụng nước suối để phát điện, phải xây dựng Khê Khẩu trở thành một thị trấn điển hình kiểu mẫu, có công nghiệp cỡ nhỏ, lấy nông nghiệp làm chính.Thứ hai là ngày 28 tháng chạp âm lịch, Tưởng Giới Thạch làm một bữa cơm đêm cuối năm ở Khê Khẩu, viên quan huyện Phụng Hóa lúc đó là Chu Linh Quân với thân phận là Quan phụ mẫu được mời đến dự, còn có trưởng ban giáo vụ trường Vũ Lĩnh Thi Qúy Ngôn, Thu Giác Dân tham mưu quân sự phủ Tổng thống và vợ chồng Tưởng Kinh Quốc tổng cộng 10 người. Trong bữa cơm, Tưởng Giới Thạch nói tới phải xây dựng một chiếc cầu lớn ở Khê Khẩu, để cho xe ô tô có thể vào thẳng tới Am Pháp Hoa. Tống Mỹ Linh cũng nói tới phải xây dựng một nhà máy dệt lụa ở Khê Khẩu, khiến cho phụ nữ Khê Khẩu đều có cơ hội làm việc, hình như họ thật sự đặt thân sống ở thôn dã, không có chút lo lắng gì. Kỳ thực trong lòng họ đã hiểu rất rõ, những ngày ở đại lục không còn bao lâu nữa. Thứ ba là buổi tối ngày mồng một tháng giêng âm lịch, Tưởng Giới Thạch và Tống Mỹ Linh tới lễ đường của trường Vũ Lĩnh cùng xem kinh kịch Tô tam khởi giải với nhân dân trong làng, với quang cảnh cùng vui vẻ với dân chúng trong lúc thái bình thịnh trị.Trên thực tế, Tưởng Giới Thạch vẫn luôn luôn chuẩn bị vĩnh biệt Khê Khẩu.Căn cứ vào hồi ức của người em họ Tưởng Giới Thạch là Vương Lương Mục (con thứ của Vương Hiền Cự), ngày 21 tháng 1 âm lịch (ngày 18-2- Dương lịch), Tưởng Giới Thạch dắt Tưởng Kinh Quốc cùng cháu trai cháu gái tới nhà bà ngoại ở Cát Trúc để tảo mộ thăm thân, trú ở đó một đêm, ngày hôm sau mới đi. Trong khi nói chuyện, Tưởng Giới Thạch nhiều lần căn dặn Vương Lương Mục: Em hãy tới Khê Khẩu, anh sẽ ở nhà chờ em !. Trước khi sắp bước lên kiệu ra đi, còn nhắc lại một lượt với Lương Mục. Vương Lương Mục nói:- Lần này anh trai đến rất khách khí, từ xưa chưa hề bao giờ bảo tôi đến chơi nhà anh ấy. Lúc đó tôi không lĩnh hội được ý tứ của anh. Mãi đến khi Tưởng rời khỏi Khê Khẩu, tôi mới biết được thì ra anh muốn tôi cùng đồng hành với anh !Sau hai ngày Tưởng Kinh Quốc cũng tới nhà bà ngoại của mình ở Nham Đầu để tảo mộ từ biệt người thân. Sau khi Tưởng Kinh Quốc tế lễ ở phần mộ ông ngoại bà ngoại xong, thì vào trong làng thăm viếng bà chị họ là Trương Định Căn, còn ở lại nhà bà ăn bữa cơm trưa. Trương Định Căn còn cho Tưởng Kinh Quốc một con gà trống lớn, một gói bánh Trường thọ và một số trứng gà, còn nói:- Kinh Quốc nè ! Mấy ngày nữa đã là ngày sinh lần thứ 40 của em. Chút quà này biểu thị một chút lòng thành của chị !Tưởng Kinh Quốc cung kính tiếp nhận món quà sinh nhật này, rồi nói với Trương Định Căn:- Chị ơi, chúng em sắp ra đi rồi, chị có thể cùng đi với chúng em đựơc không?Trương Định Căn hỏi:- Đi đâu hả em?Tưởng Kinh Quốc trả lời:- Chúng em tới đâu thì chị tới đó!Do vì Trương Định Căn không bỏ được gia đình mình, cuối cùng đã không đi theo họ.Ngày tết Thanh Minh hôm đó( ngày 5 tháng 4), Tưởng Giới Thạch đem vợ chồng Tưởng Kinh Quốc cùng cháu trai cháu gái tới núi Bạch Nham tế tảo phần mộ Tưởng mẫu. Trước phần mộ Tưởng cúi mình xuống vái, miệng lầm rầm cầu nguyện, nước mắt ngang tròng. Vái lậy xong, Tưởng luôn miệng căn dặn con cháu Hãy vái lạy nhiều hơn nữa ! Thế nhưng người vợ mang quốc tịch Nga của Tưởng Kinh Quốc không biết có phải vì nghe không rõ hay là vì sao, chỉ cúi xuống chào một lượt, Tưởng Giới Thạch nhìn thấy thế rất tức bực, trừng mắt nhìn, quở trách Người Nga không biết lễ phép. Tiếp đó, Tưởng lại bắt người em họ là Tưởng Chu Phong và người trong họ gánh đồ cúng, khiêng cả bàn cúng tới núi Đào Khanh để tế tảo phần mộ của Tưởng phụ.ở Khê Khẩu, Tưởng Giới Thạch còn làm một số việc nữa. Ngày 15 tháng 4 (tức 18 tháng 3 âm lịch) sau tết Thanh Minh là sinh nhật Tưởng Kinh Quốc 40 tuổi, Tưởng Giới Thạch vì việc này đã viết lên bốn chữ lớn Ngụ lý sư khí rồi làm thành tấm biển ngang treo ở trước hành lang Tưởng từ Báo Bản Đường. Tấm biển này có lời bạt nói rằng: Bài học đêm mỗi ngày, thầm đọc chương dưỡng khí của Mạnh Tử, suốt mười ba năm liền không gián cách, tự giác làm được điều này thì sẽ có lĩnh ngộ, thường dùng Ngụ lý sư khí tự ghi nhớ, đặc biệt dùng chữ ngụ trong ngụ lý để nhận thức sâu sắc thiết thực, sẽ dẫn tới niềm tự sung sướng, thế nhưng không dám nói cho người biết. Nay đã trải qua 40 lần sinh nhật, những chữ đặc biệt này dùng thể thay lời chúc riêng và mong muốn nó có thể xem xét thiết thực tới bản thân mình, tự cường đặc biệt, mà không phụ với lòng mong muốn. Xem ra thì Tưởng Giới Thạch cũng đang ngoảnh cổ nhìn lại và suy nghĩ về cuộc đời của mình.Những ngày ở Khê Khẩu này của Tưởng Giới Thạch, thực ra không hoàn toàn đắm chìm vào trong thương cảm của cá nhân và sự làm bộ làm tịch đối với họ hàng làng xóm quê hương cũ. Tưởng vẫn luôn luôn chú ý tới Nam Kinh, chú ý tới Trường Giang, chú ý tới tiền tuyến, vẫn chỉ huy điều động các sự vụ quân đội chính quyền ở những khu vực mà Quốc dân đảng còn khống chế. Đối với điểm này, trong ghi chép hồi ức của Lý Tông Nhân có viết:Để tiện việc khống chế mọi biện pháp quân sự chính trị ở các nơi trong toàn quốc, sau khi Tưởng tiên sinh trở về Khê Khẩu, liền cho xây dựng 7 trạm điện đài ở quê hương, để tùy ý chỉ huy. Tham mưu trưởng Cố Chúc Đồng, đối với việc điều động từng tên lính hoàn toàn phải nghe theo mệnh lệnh của Tưởng tiên sinh. Ngày 16 tháng 2, tại tổng thống phủ tôi cho sửa tiệc mời các nhân viên quân chính cao cấp còn ở lại Nam Kinh, có các vị Diêm Tích Sơn, Vu Hữu Nhiệm, Cư chính, Cố Chúc Đồng v.v.. Mọi người vừa mới ngồi vào bàn tiệc, một nhân viên hầu cận liền chạy tới báo cáo nói, Tưởng tiên sinh ở Khê Khẩu có điện thoại cho Cố tổng tham mưu trưởng. Cố Chúc Đồng đành phải đặt bát đũa xuống để đi nghe điện thoại. Lần gọi điện thoại này của Tưởng tiên sinh vốn trước tiên gọi tới Bộ quốc phòng, người trong bộ nói, hôm nay quyền tổng thống đãi khách, Tổng tham mưu trưởng hiện đang ăn cơm ở phủ Tổng thống. Tưởng tiên sinh liền ra lệnh đem điện thoại nối tới phủ tổng thống. Tối hôm ấy chúng tôi dùng bữa chưa xong mà Cố Chúc Đồng trước sau đã phải nhận ba lần điện thoại từ Khê Khẩu. Từ đây có thể nhìn thấy Tưởng tiên sinh đối với các sự việc chính trị quân sự lớn đã khống chế rất chặt chẽ, sự thực chẳng khác gì trước khi chưa từ chức. Thế nhưng tất thảy những điều mà tôi yêu cầu đối với tiên sinh, như các việc thả Trương Học Lương, Dương Hổ Thành và việc vận chuyển ngân phiếu từ Đài bắc về Kinh v.v... thì Tưởng tiên sinh thoái thác nói, người đã từ chức, không can dự vào việc quân quốc đại sự, đẩy hết trách nhiệm lên đầu Trần Thành. Thế nhưng những mệnh lệnh mà tôi trao cho Trần Thành, Tưởng lại gợi ý cho Trần Thành cứ để đó, không giải quyết.Bởi lẽ Tưởng Giới Thạch thân ở Khê Khẩu mà đã hiểu được rất rõ tình hình chính trị quân sự trong toàn quốc, sau khi Tết Thanh minh trôi qua, Tưởng biết rõ rằng những ngày lưu lại quê nhà không còn nhiều nữa. liền bắt đầu dẫn Tưởng Kinh Quốc v.v... đi thăm thú khắp mọi nơi sơn thủy của quê hương, để làm một cuộc tuần du mang tính chất cáo biệt, dấu chân của họ đã đặt khắp Am Liễu Đình, Chùa Di Đà, chùa Thiên Đồng, chùa Kim Nga ở Ninh Ba, Làng Lâu ải, Làng Sơn lĩnh ở Phụng Hóa v.v...Trong bài viết Những ngày cuối cùng ở Khê Khẩu của Tưởng Giới Thạch của Vương Thuấn Hễ đã nói: Bọn Tưởng Giới Thạch... ở Am Liễu Đình ngoại ô phía Nam Ninh Ba, đã tế tảo phần mộ tổ tiên họ Tưởng ở bên cạnh, rồi cho người quản Am Liễu Đình 500 đồng, căn dặn gìn giữ bảo quản phần mộ cho tốt. sau đó đi tới núi Tiểu Bàn ở phía đông Ninh Ba, đã tế tảo Thủy tổ họ Tưởng ở Khê Khẩu là Tưởng Ma Kha ở bên cạnh chùa Di Đà, đã cho hòa thượng Qủa Như chủ trì chùa Di Đà năm gánh gạo trắng, dặn dò hòa thượng thường xuyên cúng phụng hương hỏa. Sau đó lại tới Tam Lĩnh Phụng Hóa để vái lễ phần mộ tổ tông họ Tưởng. Căn cứ vào Tông phả họ Tưởng, họ Tưởng ở Khê Khẩu là từ Tam Lĩnh Phụng Hóa chuyển tới từ đời Nguyên. Cho nên, Tưởng Ma Kha tuy là thủy tổ phân chi này của Tưởng Giới Thạch, họ Tưởng ở Tam Lĩnh với Tưởng ở Khê Khẩu có duyên huyết rất gần. Lần này tới Tam Lĩnh, Tưởng Giới Thạch còn đem theo Tống Mỹ Lĩnh, vợ chồng Tưởng Kinh Quốc cùng với cháu trai cháu gái. Tưởng dẫn con cháu vào lạy phần mộ tổ tông, chụp ảnh cả nhà ở trước phần mộ, bước vào Từ đường lại vái lạy thần vị. Vị tộc trưởng họ Tưởng ở Tam Lĩnh so với Tưởng thì gọi ông là ông chú. Tộc trưởng nêu ra am Ma Kha ở Tam Lĩnh đã rất rách nát cũ kỹ, có nên tạo sửa lại không, ý muốn là để cho Tưởng Giới Thạch rút ví ra, lúc đó Tưởng luôn miệng đồng ý, thế nhưng còn lấy đâu ra thời gian nữa.Bước vào tháng 4, những ngày còn lại của Tưởng càng thêm khó chịu đựng, thế nhưng Tưởng vẫn đóng chốt ở Khê Khẩu, mong muốn cục thế có thể phát sinh ra những biến đổi mang tính chất hài kịch. Tưởng biết rằng quân giải phóng nhất định phải qua sông, thế nhưng lại hy vọng cuộc đàm phán Quốc Cộng do Lý Tông Nhân chủ trì có thể đạt thành hiệp nghị mỗi bên cai trị một bờ sông. Tưởng biết rằng bản thân mình đã bị người mỹ bỏ rơi rồi, thế nhưng vẫn ảo tưởng người Mỹ có thể ngăn cản được giải phóng quân vượt sông. Tối ngày 21 tháng 4, Tưởng Giới Thạch, Tưởng Kinh Quốc đang xem biểu diễn ở trong trường Vũ Lĩnh, Du Tế Thời vội vàng chạy vào báo cáo: Có điện thoại đường dài từ Nam Kinh tới. Tưởng Giới Thạch vừa nghe, liền ưỡn thẳng lưng biết là có sự việc trọng đại, ra hiệu cho Tưởng Kinh Quốc tới nhận điện thoại. Tưởng Kinh Quốc trở lại, ghé vào tai Tưởng Giới Thạch nói mấy câu, Tưởng vội vã bỏ về. Bỗng chốc hội trường trật tự hỗn loạn, cuộc biểu diễn phải ngừng lại. Thì ra qua điện thoại từ Nam Kinh, Tưởng Kinh Quốc được biết: Bắt đầu từ 20 giờ ngày 20 tháng 4 giải phóng quân bắt đầu qua sông, đột phá đoạn phòng tuyến của quân Quốc dân đảng từ Lỗ Cảng tới Đồng Lăng. Quân đội ở Tuy khu thứ 7 của Quốc dân đảng tuy nhiều lần phản kích, nhưng không thể ngăn chặn được. Ngày 21, giải phóng quân đã chiếm lĩnh Đồng Lăng, Phồn Xương, Thuận An v.v...Buổi chiều ngày 22 tháng 4, Tưởng Giới Thạch lại một lần nữa nhận được điện thoại từ Nam Kinh, phòng tuyến Trường Giang đã hoàn toàn bị phá vỡ. Ba tập đoàn lớn của Quân Giải phóng đều đã qua sông, bọn Cố Chúc Đồng đã dẫn quân đội Tổng rút lui, Tưởng Giới Thạch hạ lệnh cho Cố Chúc Đồng chỉ huy bộ đội từ phía Tây Vu Hồ rút lui theo hướng đường sắt Triết Cống; bộ đội từ phía Đông Vu Hồ và bộ đội từ phía Tây Thường Châu thì rút lui theo hướng Hàng châu; bộ đội từ phía Đông Thường Châu thì rút lui về hướng Thượng Hải, tổ chức lại phòng tuyến mới ở Đường Triết Cống và khu vực Thượng Hải. Thế nhưng, giờ cuối cùng của ngày 23, các thành phố Đôn Dương, Thường Châu, Vô Tích v.v... đều đã mất hết, đường sắt Ninh Hộ bị cắt đứt; điều quan trọng nhất là Nam Kinh, trung tâm chính trị của Quốc dân đảng đã bị quân giải phóng chiếm lĩnh. Tưởng Giới Thạch nhận được tin, lặng lẽ chẳng nói được câu nào, mãi sau, dặn dò Du Tế Thời:
- Chuẩn bị tốt thuyền bè, ngày mai rời khỏi Khê Khẩu.
Buổi sáng ngày 25 tháng 4, đầu tiên Tưởng Giới Thạch dẫn cả nhà tới từ biệt phần mộ của Tưởng mẫu, sau đó bước lên đỉnh núi Bạch Nham; Nhật ký ngày hôm đó Tưởng Kinh Quốc viết: Phóng tầm mắt nhìn khắp bốn phía, thấy suối thấy núi mà nghẹn ngào chẳng nói lên lời, tuy chưa chứa chan dòng lệ, nhưng đau đớn vô cùng, khó có lời nào tả hết. Vốn muốn lại tới Phong Cảo phòng nhìn lại một lần cuối, nhưng con tim không chịu đựng nổi; lại muốn tới từ biệt các cụ phụ lão trong làng, trong lòng lại càng không dám. Nhìn thấy họ, nhưng chẳng có cách nào dẫn họ cùng đi, lòng càng lưu luyến bịn rịn khôn nguôi. Cuối cùng đành phải chẳng từ mà biệt, không khí trĩu nặng u buồn, lòng càng tăng thêm phần đau đớn.... Khê Khẩu là nơi đặt phần mộ tổ tông, ngày này phải bỏ mà đi, lòng càng sót xa, không có ngòi bút nào có thể hình dung được một phần vạn...Từ trên núi Bạch Nham bước xuống, cha con và những người trong nhà họ Tưởng cùng bọn tùy tùng ngồi lên con thuyền qua suối Viêm tới Khê Nam. Hai cha con chậm bước đi dạo trên bờ đê Tân Thiết Khê Nam, sau đó dừng lại rất lâu nhìn lại sang bên bờ quê cũ bên kia, tựa hồ như họ vô cùng luyến tiếc cuộc ly biệt này.Như trên đã nói, trong vòng hơn hai chục năm, từ sau khi Tưởng Giới Thạch bỏ quê ra đi, mỗi năm Tưởng đều trở lại quê hương một hai lần, hoặc là Tết Thanh Minh, hoặc là sinh nhật của mình. Hai lần từ chức trước Tưởng cũng đều ở ẩn tại Khê Khẩu. Thế nhưng nhìn chung toàn bộ lịch sử, lần từ chức thứ ba trở về quê là một lần chờ đợi dài nhất ở Khê Khẩu. Trong thời gian này Tưởng đã từng dắt con cháu đi du chơi khắp các nơi danh lam thắng cảnh của Khê Khẩu, như Đình Phi Tuyết, Đài Tiêu phiền, Động Phục Hổ, Đầm Tam ẩn, còn có cảnh xem cá. Bích Đầm, sóng ấm Vũ Linh, thác nước Thiên trượng nham v.v... Ngoài mặt thì có vẻ du nhàn nhìn mây ngắm hạc, nhưng trong lòng thì tràn đầy bi lụy thống thiết. Tưởng biết rằng từ biệt lần này, trong những năm còn sống tiếp theo sẽ khó có ngày trở lại. Mặc dù có thuyết nói 30 năm ở Hà Đông, 30 năm ở Hà Tây, Tưởng đã là một ông lão tuổi quá lục tuần, thượng Đế hay bất kỳ một Đế nào khác có thể đem lại cho Tưởng đầy đủ thời gian được hay không? Cho nên lúc ly biệt Khê Khẩu, Tưởng Giới Thạch không thể không đau buồn bịn rịn.Sau khi Tưởng Giới Thạch và mọi người bước lên xe từ Vũ Lĩnh Môn Khê Nam qua thành Huyện Phụng Hóa lao về phía Ninh Hải. Hơn hai giờ chiều họ xuống biển từ làng Tây Lư huyện Ninh Hải, bước lên quân hạm mang tên Thái Khang, từ đây ra đi để không bao giờ trở lại.
Phần 5
Chương 2
Tại sao trên đường chạy trốn ra Đài Loan Tưởng Giới Thạch đã tắc nghẽn ở Bành Hồ ?
Nguồn: Mọt sách
Thu gọn nội dung
Tưởng Giới Thạch rời khỏi Phụng Hóa, ngày hôm sau đã tới Thượng Hải, tạm thời trú ở đảo Phục Hưng, cần phải đích thân đốc thúc tư lệnh cảnh vệ Tùng Hộ Hàng Thang Ân Bá tử thủ Thượng Hải. Tưởng Giới Thạch bảo cho Thang Ân Bá biết, muốn biến Thượng Hải thành một Valơtăng thứ hai, cần phải kiên trì giữ lấy nửa năm, chờ đợi cục thế thay đổi. Đầu tháng 5, Tưởng Giới Thạch bỗng nhiên nhận được tin, trong Quốc dân đảng có người đang vạch kế hoạch tiến hành vũ trang khởi nghĩa ở Thượng Hải, hơn thế còn chuẩn bị khi Tưởng Giới Thạch vào trong thành phố Thượng Hải thì sẽ bắt sống ông ta. Tưởng nghe tin vô cùng kinh ngạc, cảm thấy sâu sắc rằng vùng phụ cận Thượng Hải rất không an toàn, tức thì ngày mồng 7 tháng 5 đã ngồi lên tàu chiến quân sự chuyển tới Châu Sơn. Sau khi tới Châu Sơn Tưởng vẫn cảm thấy cách đại lục quá gần, dễ phát sinh ra điều bất trắc, quyết tâm lại chuyển đến Đài Bắc. Thế nhưng từ ngày 14 tháng 5 Tưởng rời khỏi Châu Sơn, đến ngày 24 tháng 6 mới tới được Đài Bắc, cứ trôi đi trôi lại ở trên biển, không biết nên dựa vào đâu. Đặc biệt là Tưởng không trực tiếp đến Đài Bắc mà còn quanh quẩn ở Bành Hồ, lại còn lưu lại 10 ngày ở Đảo Bành Hồ cách Đài Loan chỉ gần trong gang tấc. Khi từ Mã Công Bành Hồ bay tới Đài Loan vẫn không tới thẳng Đài Bắc, mà trước tiên tới Phong Son, rồi chuyển sang Cao Hùng, cuối cùng mới tới Đài Bắc. Cứ chùng chình kéo dài như vậy, trong đó có biết bao nhiêu trò ảo diệu. Ta hãy cùng xem thử hai đoạn nhật ký trong thời gian này của Tưởng Kinh Quốc.Ngày mồng 4 tháng 6, Tưởng Kinh quốc viết: Mưa dầm chớm nắng, tinh thần đã được phấn chấn, thế nhưng rất nhanh chóng đã cảm thấy sầu khổ - Đêm nào cũng mộng liên miên, ngủ không ngon giấc.Ngày mồng 9 tháng 6, Tưởng Kinh Quốc viết: Đêm hôm qua suốt đêm sắc trời trong sáng, ngồi yên lặng quan sát thưởng thức ở trước nhà. Biển và trời không biên giới, mây trắng gió xanh, biển ảo vô thường, lòng xốn xang nhớ quê hương, mới cảm thấy sâu sắc nỗi khổ của kẻ lưu vong.Tại sao Tưởng Kinh Quốc lại có cảm giác Sầu khổ? Tại sao lại có cảm giác lưu vong? Tưởng Giới Thạch tại sao không dám tới thẳng Đài Bắc mà lại kéo dài thời gian ở Bành Hồ ? Thì ra, Tưởng Giới Thạch muốn xem thử thái độ của người chủ thết khách Trần Thành thế nào rồi mới định được hành vi cử chỉ.Ngày 29 tháng 12 năm 1948, trước khi Tưởng Giới Thạch rút lui từ chức đã sắp xếp Trần Thành làm Chủ tịch Chính phủ tỉnh Đài Loan, về sau lại được Kiêm nhiệm chức Tổng tư lệnh cảnh vệ và Bí thư đảng bộ tỉnh Đài Loan. Trần Thành cũng là cái đinh và kẻ thân tín quan trọng nhất được Tưởng Giới Thạch cắm sâu vào trong tập đoàn Lý Tông Nhân. Thế nhưng, mây trắng gió xanh, biển ảo vô thường ! Trong ba bốn tháng trời, từ khi Tưởng Giới Thạch từ chức tới lần này ông đến Đài Loan, tình hình quốc tế và trong nước đều đã phát sinh những biến đổi quan trọng lớn lao, đặc biệt là thái độ của người Mỹ đối với Tưởng Giới Thạch đã phát sinh những biến đổi trọng đại. Người Mỹ Bội tín phụ nghĩa (ngôn ngữ của Tưởng Giới Thạch) đang kéo Vua Đài Loan Trần Thành tự lập, cần kiên quyết triệt để rũ bỏ Tưởng Giới Thạch. Chính phủ Mỹ trong ba năm chiến tranh giải phóng luôn luôn kiên quyết ủng hộ Tưởng Giới Thạch làm cuộc nội chiến phải kiên quyết ruồng bỏ Tưởng Giới Thạch, nguyên nhân cơ bản nhất là đã nhìn thấy sự thất bại không sao tránh khỏi của Tưởng Giới Thạch, đã nhìn thấy sự hủ bại và vô năng của tập đoàn phản động Tưởng Giới Thạch. Một mặt khác trong cuộc tranh cử Tổng thống Mỹ năm 1948, Tưởng Giới Thạch đã chọn sai đối tượng ủng hộ, khiến cho Truman Tổng thống liên mhiệm sau này vô cùng bực tức. Thế nhưng, từ cuối năm 1948 đến giữa năm 1949 người Mỹ không muốn để cho Đài Loan rơi vào trong tay Đảng Cộng Sản, do đó, người Mỹ có mưu đồ vận dụng ảnh hưởng, ngăn cản người Trung Quốc đại lục tiến thêm một bước đổ vào Đài Loan, còn thận trọng bảo đảm sự liên hệ với lãnh tụ Đài Loan có hy vọng, để tiện cho trong tương lai có một ngày nào đó khi phù hợp với lợi ích của nước Mỹ, sẽ lợi dụng phong trào tự trị của Đài Loan[1]. Trên thực tế là muốn đem Đài Loan tách hẳn ra, rời khỏi bản đồ Trung Quốc. ý đồ cơ bản của nước Mỹ là tìm ra một người bất tất phải nghe theo sự chỉ huy của Tưởng Giới Thạch, cũng bất tất phải phục tùng mệnh lệnh của Chính phủ liên hiệp Lý Tông Nhân, mà chỉ biết chuyên mưu phúc lợi cho Đài Loan để hoàn thành công việc tự trị của Đài Loan. Người Mỹ đã lựa chọn Trần Thành và Tôn Lập Nhân.Tháng 2 năm 1949, tham tán Đại sứ quán Mỹ trú tại Nam Kinh Mô Sen Tơ chấp hành sự sai khiến của quốc vụ khanh Akitơn đã tới Đài Loan chấp hành sứ mệnh đặc thù. Sau khi Mô Sen tơ tới Đài Loan, liền căn cứ vào dự tính của Chính phủ Mỹ đã du thuyết Trần Thành tự lập. Mô Sen tơ truyền đạt ý kiến của Chính phủ Mỹ như sau:
1- Đài Loan tách rời chính phủ Quốc dân đảng, đoạn tuyệt kinh tế mậu dịch với Trung Cộng tự lập lên Chính phủ Đài Loan, một năm nước Mỹ sẽ viện trợ cho Đài Loan 25 triệu đô la Mỹ.
2- Nước Mỹ có thể liên lạc với Philippin, Ôxtrâylia, ấn Độ, Pakixtan, Tích Lan (Xirilanca) cùng một số nước, tiến hành sự xuất quân liên hiệp mang tính chất tượng trưng, cùng chiếm lĩnh Đài Loan, rồi sẽ tiến hành Hội nghị chuyển giao chính quyền tại Đài Loan.
3- Sau khi quyết định hội nghị, nước Mỹ sẽ lập tức đảm nhận hoạt động tuần tra và liên hệ trên biển và trên không đối với eo biển Đài Loan, để tránh sự tập kích của quân đội từ ngoài vào, đồng thời tống cổ những phần tử đại lục ở trên đất Đài Loan không được hoan nghênh.
4- Thông tri cho Tưởng Giới Thạch biết, nếu ông ta bằng lòng ở lại Đài Loan thì sẽ được đối đãi như thân phận một kẻ tị nạn chính trị.
5- Mời Tôn Lập Nhân tham gia chính quyền mới ở Đài Loan.
Trần Thành là một viên tướng yêu tâm phúc của Tưởng Giới Thạch, có quan hệ gắn bó nhiều tầng, là đồng hương, là thầy trò và là con rể với bố vợ (con gái nuôi của Tống Mỹ Linh là Đàm Tường sau này đã gả cho Trần Thành). ở dưới trướng của Tưởng, Trần chẳng những đã biểu hiện ra có năng lực tài cán hơn người, mà còn biểu hiện ra sự trung thành hiếm có. Cho nên suốt chăng đường đi đã được bật đèn xanh, thuận buồm xuôi gió. Cũng chính vì vậy, khi Tưởng Giới Thạch nhìn thấy tình hình đại lục nguy cấp đã cử Trần Thành tới Đài Loan để xây dựng sự nghiệp ở trên cô đảo này cho Tưởng Giới Thạch, hơn thế còn chỉnh biên, chỉnh huấn bọn tàn binh bại tướng từ đại lục chạy trốn ra Đài Loan, để đảm bảo mảnh đất Đài Loan này sẽ là chỗ dung thân cuối cùng. Lần này người Mỹ tới thuyết phục Trần Thành tự lập, Trần Thành cũng biểu hiện ra sự trung thành tuyệt đối với Tưởng. Trần Thành nói với Mô Sentơ: Bản thân mình đã đi theo Tưởng ủy viên trưởng nhiều năm, không thể chống lại Tưởng để tự lập được, cũng không thể cự tuyệt việc Tưởng Giới Thạch tới Đài Loan được. Mô Sentơ đã không thành công mà phải trở về. Trong báo cáo với Akitơn, Mô Sentơ nói:
- Chủ tịch Trần Thành là người thân tín của tổng thống trước là Tưởng, không thể hy vọng ông ta chống lại Tưởng mà tuân theo chỉ ý của nước Mỹ được.
Có người khi bình luận về Trần Thành đã dùng 6 chữ để khái quát Trung Tưởng, Chống Cộng, Yêu nước, Tưởng Giới Thạch cũng đã từng nói: Trung Chính không thể một ngày không có Từ Tu (Từ Tu là tự của Trần Thành). Thế nhưng trong thời kỳ gió to sóng lớn phi thường này, sau khi Tưởng Giới Thạch lại nghe tin người Mỹ mưu đồ lôi kéo Trần Thành tự lập, Tưởng Giới Thạch đã không dám đem mình giao phó cho người khác.Tưởng Giới Thạch rùng rình ở Bành Hồ, kỳ thực còn muốn mò thử xem thái độ của một viên chức quan trọng ở Đài Loan, đó chính là Tôn Lập Nhân. Tôn Lập Nhân ở Đông Bắc, bất hòa với các sỹ quan trường Hoàng Phố, Tưởng Giới Thạch đã điều Tôn tới Đài Loan để huấn luyện biên chế quân mới. Điều này vốn bởi vì Tôn không phải là đích hệ Hoàng Phố, được Tưởng Giới Thạch xỏ cho đôi giày nhỏ, thế mà ngày nay ở trên đảo Đài Loan, Tôn đã đủ sức tranh giành đối địch với Trần Thành.Tôn Lập Nhân từng lưu học ở Mỹ, là học sinh tốt nghiệp trường đại học Pu Tu và học viện quân sự Fouchinia ở Mỹ, trình độ nói và viết tiếng Anh rất lưu loát, đem so sánh với các sĩ quan quân đội Quốc dân đảng tốt nghiệp ở trường quân sự Hoàng Phố và trường sĩ quan quân sự Nhật Bản, đứng trước mặt người Mỹ, rõ ràng là Tôn có ưu thế lớn hơn nhiều. Thứ nữa là trong cuộc viễn chinh tới Miến Điện ở thời kỳ Đại chiến thế giới lần thứ hai, Tôn Lập Nhân đã từng chỉ huy quân đội giải cứu được 7000 quân Anh cùng các nhà báo Mỹ và các giáo sĩ truyền đạo ra khỏi vòng vây của quân đội Nhật, đã từng nhận được nhiều huân chương chiến công do Chính phủ Anh Mỹ phát cho, đã từng nhận được sự coi trọng sâu sắc của thống soái quân đội Anh là Montgomery và tư lệnh viễn chinh lúc dó là StiWell. Thứ ba là mỗi quan hệ giữa Tôn Lập Nhân và người Mỹ rất thân thiết. Sau khi kết thúc đại chiến 2, thống soái quân đồng minh châu Âu là tướng quân Aisenhao đã từng mời Tôn Lập Nhân tới thăm châu Âu. Trong cuộc viếng thăm ba tuần lễ, Tôn Lập Nhân đã trở thành ghế thượng khách của Aisenhao, Đờ gôn, Baton v.v.., đã có uy tín nhất định trong giới quân sự và giới chính trị Tây phương. Ngoài ra trong tay Tôn Lập Nhân đã có ba đội quân mới, điều này trong tình hình các cánh quân Quốc dân đảng khác vẫn còn ở đại lục tác chiến với Giải phóng quân, vẫn là một lực lượng quan trọng có thể chi phối được thế lực của Đài Loan. Những điều này đều là nguyên nhân mà người Mỹ yêu cầu Tôn Lập Nhân tham gia chính quyền mới ở Đài Loan, và cũng là nguyên nhân mà Tưởng Giới Thạch cần phải xem xét thái độ của ông ta.Khi Tưởng Giới Thạch còn ở Châu Sơn đã đánh điện báo cho Trần Thành ở Đài Bắc, nói rằng Tưởng chuẩn bị đi Đài Loan. Thế nhưng đã trôi qua một ngày vẫn chưa thấy điện trả lời của Trần Thành. Sau khi Tưởng Giới Thạch tới Mã Công ở Bành Hồ, Tôn Lập Nhân nghe tin đã tới yết kiến, còn Trần Thành thì mãi bốn hôm sau mới bước chân lên Mã Công. Liên tưởng tới việc ở Thượng Hải có người mật mưu bắt sống Tưởng Giới Thạch, việc phò Lý đánh Tưởng, kéo Trần Lập Tôn của người Mỹ, rất nhiều nhân viên quan trọng trong Chính phủ quân Quốc dân đảng yêu cầu Tưởng Giới Thạch lưu vong ra nước ngoài; đối với Trần Thành, Tưởng Giới Thạch không thể không có những điểm đáng nghi ngờ, đối với việc mình có nên hay không nên bước chân lên Đài Loan, Tưởng vẫn còn trù trừ chưa quyết, do đó đã kéo dài tới 10 ngày.Như phần trên đã đề cập đến, Tưởng Giới Thạch đã sớm có dự định xây dựng cơ nghiệp ở Đài Loan. Trong hồi ức của mình Lý Tông Nhân đã viết: Trước khi quyết định từ chức, Tưởng tiên sinh đã chuẩn bị vứt bỏ đại lục, lùi về giữ lấy Đài Loan, để quán triệt chính sách cải tạo Đảng của mình, đã trở thành tâm nguyện ba ngôi nhất thể, duy trì một vương triều nhỏ đơn thuần một màu một vẻ. Tưởng càng tin tưởng sâu sắc sau khi vứt bỏ đại lục, tình thế quốc tế tất sẽ ngày càng biến đổi xấu đi. Đại chiến thế giới lần thứ ba tất sẽ theo đó bùng nổ lập tức sẽ do con người làm nên sự nghiệp, trở về đại lục diễn lại giấc mộng đẹp tiếp thu chính quyền. Đối với địa vị của Đài Loan, Tưởng Giới Thạch luôn luôn rất coi trọng. Tháng 10 năm 1946, Tưởng Giới Thạch và Tống Mỹ Linh đã từng tuần tra Đài Loan, từ Đài Loan trở về, Tưởng Giới Thạch vui vẻ nói:- Đài Loan còn chưa bị các phần tử Cộng sản xâm nhập, có thể coi đó là mảnh đất Phật không nhuốm bụi trần. Từ nay về sau ta nên tích cực xây dựng, để cho nó trở thành một tỉnh kiểu mẫu, cho dù Nga, Cộng có xảo trá trăm lần, muốn có tâm địa thôn tính nước ta thì cũng chẳng làm gì nổi ta !Tưởng Giới Thạch còn cảm khái nói:- Thu hoạch trong chuyến tuần tra Đài Loan, còn lớn hơn thu hoạch trong chuyến tuần tra Đông Bắc ! - Rất rõ ràng tháng 10 năm 1946, Tưởng đã hình thành phương pháp suy nghĩ coi Đài Loan là hậu thuẫn cho một cuộc nội chiến. Điều mà Tưởng Giới Thạch chưa nghĩ tới được là chỉ trôi qua 3 năm Tưởng đã bị đuổi lên trên hòn đảo trơ trọi mà năm xưa Tưởng đã không ngớt lời ca tụng.Tháng 1 năm 1949, Tưởng Giới Thạch bị bức phải từ chức liền kiên định phương pháp suy nghĩ xây dựng Đài Loan thành căn cứ chống cộng. Tưởng nói:- Tôi từ chức còn có một mục đích quan trọng đó là địa vị trọng yếu của Đài Loan. Với sự xâm lược của tập đoàn đế quốc Nga, thà có thể mất toàn bộ đại lục, chứ Đài Loan thì không thể không giữ. Nếu tôi không từ chức, cứ tử thủ Nam Kinh thì Đài Loan kia không thể chú ý đến được, thì cũng không thể trở thành pháo đài kiên cường phản cộng chống Nga được. Năm 1936, sau khi tới thăm Đài Loan về, trong nhật ký tôi đã ghi một câu như thế này: Chỉ cần có Đài Loan, thì ta sẽ có thể khôi phục lại Đại lục. Chỉ cần có Đài Loan, cộng sản Đảng sẽ chẳng thể làm gì được ta. Cho dù toàn bộ đại lục có bị cộng sản Đảng cướp đi mất, chỉ cần có Đài Loan thì ta sẽ khôi phục lại được đại lục! Do đó, ta không quản ngại điều chi hết, ta kiên quyết từ chức không hề do dự ![2], Tưởng Giới Thạch đã nói như vậy, đương nhiên là vì bản thân mình bất đắc dĩ phải hạ đài để gỡ thế bí, thế nhưng cũng đã phản ánh Tưởng thực sự đã có tư tưởng xây dựng cơ nghiệp lâu dài ở Đài Loan. Đặc biệt là sau khi Giải phóng quân vượt sông, Tưởng Giới Thạch biết rằng Nửa cõi Giang Nam ...Hạc đứng gió gào, cây cỏ cũng đều là quân lính cả (Lời của Tưởng Kinh Quốc), càng thấy rõ địa vị đặc biệt độc đáo và quan trọng của Đài Loan. Tưởng Giới Thạch còn nói: Đài Loan còn cần phải dự tính những tình huống xấu nhất và sự chuẩn bị bất trắc, khiến cho Đài Loan trở thành căn cứ phục hưng dân tộc.Theo Tống Mỹ Linh truyện của Trần Khải Văn nói, Tôn Trung Sơn tiên sinh từng nói với Tưởng Giới Thạch Nội chiến không ra tới Đài Loan, ngoại chiến không ra tới Tứ Xuyên. Nếu như vậy thì khi nền thống trị ở đại lục của Tưởng Giới Thạch bị gió mưa vùi dập nguy ngập chao đảo thì lại càng thực sự nhận thức một cách sâu sắc tới ý nghĩa cực kỳ to lớn trong việc xây dựng cơ nghiệp ở Đài Loan.Thế nhưng do vì nguyên nhân mây trắng gió xanh, Tưởng đã suy nghĩ nát óc muốn coi Đài Loan ở gần trước mắt làm mảnh đất dung thân, thế nhưng lại không dám tùy tiện vội vàng bước đi, trong lòng Tưởng sao lại chẳng có nỗi khổ lưu vong ? Thế nhưng, qua sự trăn trở tính toán, Tưởng Giới Thạch đã quyết tâm bước lên đảo.Tuy quyết tâm của Tưởng Giới Thạch đã định, thế nhưng vẫn chưa dám bay thẳng tới Đài Bắc, mà là trước hết tới Cương Sơn, rồi chuyển đến Cao Hùng. Sở dĩ Tưởng Giới Thạch bước lên bờ phía nam Đảo Đài Loan, không những là bởi vì nơi đây là phạm vi thế lực của Tôn Lập Nhân, hơn thế còn bởi vì Bành Mạnh Tập cũng ở đây.Tưởng Giới Thạch vẫn không thật sự yên tâm đối với Trần Thành.Bành Mạnh Tập lúc đó là phó tư lệnh Bộ tư lệnh Bảo an Đài Loan, là người thân tín đáng tin cậy nhất của Tưởng Giới Thạch. Trong thời gian Đông chinh, Bắc phạt suốt 20 năm trời, Bành Mạnh Tập luôn luôn là vệ sĩ trong đại đội vệ sĩ của Tưởng Giới Thạch. Tháng 8 năm 1927, sau khi Tưởng Giới Thạch từ chức lần thứ nhất, Tưởng đã đích thân điểm danh cho Bành cùng 21 người khác tới Nhật Bản học tập quân sự.Cuối cùng thì Tưởng Giới Thạch đã đặt chân được lên đảo Đài Loan, thế nhưng trái tim của Tưởng không được thực sự vững vàng. Tưởng vừa nhìn thấy Tôn Lập Nhân và Bành Mạnh Tập tới ngênh tiếp, liền mở miệng hỏi ngay:- Ta ở đây có được an toàn không ?Tôn Lập Nhân nhanh mồm nhanh miệng nói:- Có chúng con bảo vệ, ai dám làm gì được cụ Tổng tài ạ ? Nghe nói, những lời này đã lọt vào tai Trần Thành, Trần rất không hài lòng. Sáu năm sau, Tôn Lập Nhân bởi Sự kiện binh biến, từ chức, nhà đương cục Đài Loan đã cử 9 nhân vien quan trọng tổ chức thành ẹy ban điều tra tiến hành trinh sát thăm dò đối với Tôn, Trần Thành là Chủ tịch ẹy ban, đâu có còn đối xử tốt với Tôn Lập Nhân được ? Có điều, đây đã là chuyện về sau.Ngày 31 tháng 5, Tưởng Giới Thạch dự thảo kế hoạch phòng thủ và cai trị Đài Loan ở Cao Hùng. Ngày mồng 2 tháng 6, bọn Trần Thành v.v...đã triệu tập các thành viên quan trọng trong Quốc dân đảng tới họp ở Cao Hùng, để nghiên cứu các vấn đề chỉnh quân phòng bị và các vấn đề chính trị quân sự khác của Đài Loan. Cuối cùng, Tưởng Giới Thạch cho rằng Trần Thành quả thực không có ý đồ hành động khác, đến ngày 26 tháng 6 mới rời tới Thảo Sơn ở Đài Bắc.
-----------------------------
[1] trích dẫn từ Đài Loan đương đạo trang 43
[2] Văn hiến cách mạng bản Đài Bắc tập 77 trang 11
Phần 5
Chương 3
Tưởng Giới Thạch đã chạy trốn khỏi đại lục như thế nào ?
Nguồn: Mọt sách
Thu gọn nội dung
ở Đài Loan, khi Tưởng Giới Thạch thực sự tin tưởng Trần Thành, Tôn Lập Nhân đối với Tưởng chưa có hai lòng, để thực sự đảm bảo cho Đài Loan, căn cứ chống cộng này, Tưởng đã phải tốn bao tâm sức. Tuy đại bộ phận đất đai Giang Nam lúc đó vẫn ở dưới ách thống trị của Chính phủ Quốc dân đảng, mặc dù Chính phủ Lý Tông Nhân đang ở Quảng Châu, Tưởng Giới Thạch đã quyết tâm xây dựng Đài Loan trở thành trung tâm của nền thống trị Quốc dân đảng. Vì vậy, Tưởng đã chủ trì việc hoạch định kế hoạch Xây dựng Đài Loan. Mân (Phúc Kiến) Việt (Quảng Đông), khống chế Lưỡng Quảng, mở mang Xuyên (Tứ Xuyên) Điền (Vân Nam), thiết lập xây dựng một hệ thống dây xích trên biển phía bắc nối liền Thanh Đảo với các đảo Trường Sơn, đoạn giữa là quần đảo Châu Sơn, nam tới đảo Đài Loan, Hải nam để phong tỏa, bao vây đại lục, làm căn cứ phản công trong tương lai. Để thực hiện kế hoạch này, Tưởng Giới Thạch đã không thể cứ chờ đợi mãi ở Đảo Đài Loan, tức thì Tưởng đã nhiều lần qua lại giữa Đài Bắc với Quảng Châu, Phúc Châu, Trùng Khánh, Thành Đô, để làm các việc sắp xếp nhân sự và điều chỉnh lực lượng. Mặc dù lúc này ở trong Chính phủ, Tưởng không có bất kỳ chức vụ gì, chỉ là một người bình dân (lời của Lý Tông Nhân), thế nhưng trái lại Tưởng có thể điều động quân đội, miễn nhiệm, phong hàm đại sứ, mặc dù Lý Tông Nhân lúc này là Nguyên thủ quốc gia trên mặt Hệ thống pháp luật. Có điều là kế hoạch của Tưởng Giới Thạch đã bị phá sản rất nhanh chóng. Trong kế hoạch của Tưởng Giới Thạch, Tưởng đã đem trọng điểm phòng thủ đặt ở duyên hải phía Đông nam, đặc biệt coi trọng việc phòng thủ Phúc Kiến. Khi đi tuần sát Phúc Kiến, Tưởng Giới Thạch đặc biệt nhấn mạnh: Đài Loan là đầu lâu, Phúc Kiến chính là chân tay, không có Phúc Kiến tức là không thể bảo vệ chắc chắn Đài Loan được. Thế nhưng đến hạ tuần tháng 8, phần đại lục của Phúc Kiến đã hoàn toàn bị Giải phóng quân chiếm lĩnh. Trung tuần tháng 10, quân chủ lực của tập đoàn Bạch Sùng Hy đã bị tiêu diệt ở biên giới Tương Quế (Hồ Nam, Quảng Tây). Đầu tháng 11, toàn tỉnh Quảng Đông, ngoài đảo Hải Nam ra, đều đã được giải phóng. Tới trung tuần tháng 12, chiến dịch Quảng Tây của Quân giải phóng cũng đã kết thúc thắng lợi. Mân Việt, Lưỡng Quảng trong kế hoạch của Tưởng Giới Thạch đã mất hết, chỉ còn Đài Loan và Xuyên Điền. Cho nên chuyên cơ của Tưởng Giới Thạch cứ đi đi về về ở giữa Đài Bắc và Bình nguyên Xuyên Tây. Lúc này Tưởng Giới Thạch vẫn còn ảo tưởng. Tưởng cho rằng chỉ cần giữ được bình nguyên Thành Đô trong vòng 6 tháng thì sẽ có thể bắt được người Mỹ xuất quân chi viện, và cũng có thể dẫn tới việc Liên Xô xuất quân chi viện Trung Cộng, như vậy thì sẽ dẫn tới Đại chiến thế giới lần thứ 3. Cho nên Tưởng không những đã phủ định kiến nghị của Hồ Tông Nam nhanh chóng rút quân về Tây Xương rồi chuyển tới biên giới Điền Việt, còn ra lệnh tổ chức cuộc đại chiến ở Xuyên Tây[1]. Tưởng Giới Thạch không nghĩ được rằng, quyết định này của Tưởng, cuối cùng đã dẫn đến bị tiêu diệt hoàn toàn của tập đoàn Hồ Tông Nam, một tập đoàn chiến lược cuối cùng hơn 40 vạn tên ở trên đại lục của Quốc dân đảng. Tưởng Giới Thạch càng không nghĩ được rằng, cuối cùng ông ta không thể không vội vàng tháo chạy từ Thành Đô, từ Thành Đô này ông ta đã vĩnh viễn phải xa rời đại lục.
Tưởng Giới Thạch đã từ Thành Đô trốn khỏi đại lục như thế nào ? Ngày 30 tháng 11 năm 1949, Tưởng Giới Thạch ngồi chuyên cơ nhãn hiệu Trung Mỹ bay tới Thành Đô. Những tùy tùng cùng đi theo có Hoàng Thiếu Cốc, Du Tế Thời, Cốc Chính Cương, Đào Hy Thánh, Tưởng Kinh Quốc, Thẩm Xương Hoán, Chu Hồng Đào v.v... Từ sau khi kháng chiến thắng lợi tới Nam Kinh Bẻ đào, có đến 5 năm Tưởng Giới Thạch vẫn chưa tới Tứ Xuyên, lẽ di nhiên cũng chưa tới Thành Đô. Thế nhưng trong hơn hai tháng từ ngày 12 tháng 9 năm 1949 tới nay, Tưởng đã tới Thành Đô lần thứ hai. Ngày 12 tháng 9, lần thứ nhất Tưởng tới Thành Đô, mục đích chủ yếu là tuần sát địa phương, lôi kéo những phái có thế lực ở địa phương Tứ Xuyên, để ổn định Tứ Xuyên, để chuẩn bị cho việc Tưởng điều binh khiển tướng bảo vệ Đại Tây Nam. Trong 5 ngày Tưởng ở Thành Đô đã nhiều lần tiếp kiến Vương Lăng Cơ, Đặng Tích Hầu, Lưu Văn Huy, Hướng Truyền Nghĩa, Vương Toản Tự, Hùng Khắc Vũ, Phương Thúc Hiên, Hoàng Quý Lục, Tăng Khoát Tình v.v.. hơn nữa còn mời họ cùng ăn bữa cơm trưa. Tưởng Giới Thạch còn mời hơn 380 vị thân sĩ các giới của Thành Đô tham dự hội nghị trà thoại của Tưởng. Tưởng nói:
- Hơn bốn năm rồi chưa được gặp mặt các cụ phụ lão Thành Đô, lòng rất nhớ nhung. Tôi muốn cảm ơn những cống hiến vĩ đại trong 8 năm kháng chiến và 4 năm dẹp loạn mà nhân dân Tứ Xuyên đã giúp đỡ. Chỉ cần mọi người đoàn kết đồng tâm, tất sẽ giành được thắng lợi cuối cùng !
Thậm chí Tưởng Giới Thạch còn tiếp kiến cả những con cháu họ hàng của những nhân vật quan trọng trong Chính quyền Tứ Xuyên mà nay đã chết rồi như Lư Tương, Lý Gia Ngọc, Hứa Quốc Chương, Nhiêu Quốc Hoa v.v..hơn thế còn tặng họ một số tiền bạc để biểu thị lòng quan tâm chăm sóc. Tưởng Giới Thạch quyết tâm xây dựng cơ nghiệp ở Tứ Xuyên, quyết tâm lôi kéo các phe phái có thực lực ở địa phương Tứ Xuyên để tiến hành cuộc quyết chiến
- ởộc vào các anh. Ngày nay, cộng phỉ ở mọi nơi, làm sao có thì giờ luận bàn đạo lý. Cần phải tiêu diệt chúng, chẳng qua cũng chỉ giống như gió thu quét sạch lá rụng mà thôi ! - Nói đến đây không hiểu vì sao, Tưởng bắt đầu có sự đau buồn từ bên trong phát ra - Tôi rất đau lòng, rất nhiều học sinh của tôi đã phản bội lại tôi ...Tôi hy vọng rằng các anh, những học sinh khóa này cần phải trung thành với Đảng quốc... tiếp đó, ngôn ngữ của Tưởng đã chẳng còn thứ tự gì, nước mắt giàn dụa, sau đó khóc nức nở, miệng cũng không điều khiển nổi nữa. Bỗng nhiên, hơn 6000 thày trò đều trợn mắt ra nhìn: Hàm răng giả của Tưởng Giới Thạch rơi ra, rụng xuống. Tưởng há hốc mồm, trau mày nhăn mặt, tỏ ra rất khó chịu. Các quan chức theo Tưởng đứng ở hai bên, đứng ở đằng sau đều rất ngượng ngùng, người nọ nhìn mặt người kia, không biết làm thế nào cho phải. Chỉ có Tưởng Kinh Quốc phản ứng nhanh nhậy, trầm lắng bình tĩnh, thản nhiên bước lại, cúi gập mình xuống nhặt bộ răng giả lên rồi liếc mắt ra hiệu cho hai tên lính thị vệ dìu Tưởng Giới Thạch về phía sau hội trường. Viên sĩ quan đảm nhiệm tổng chỉ huy cuộc duyệt binh, vội vã chạy lên đài kiểm duyệt, điều chỉnh đội hình đội ngũ, chuẩn bị tiến hành đội hình đội ngũ, chuẩn bị tiến hành đội hình diễu binh. Cuộc huấn thị của Tưởng Giới Thạch như vậy là chưa xong đã kết thúc. Chẳng ngờ, sau khi bắt đầu đội hình diễu binh lại xảy ra sự việc. Lần này tuy không phải là bản thân Tưởng Giới Thạch, nhưng lại làm cho Tưởng hoảng sợ giật bắn mình. Khi Tưởng Giới Thạch đã cắm lại được hàm răng giả, lau khô nước mắt, lại một lần nữa xuất hiện ở trên đài kiểm duyệt các đội ngũ của trường quân sự đều đã chuẩn bị hoàn tất. Tức thì từng đội ngũ bộ binh tề chỉnh bắt đầu diễu qua đài kiểm duyệt. Tưởng Giới Thạch cảm thấy hài lòng, trên mặt đã để lộ ra nụ cười. Sau khi đội ngũ bộ binh đi hết là đội ngũ pháo binh. Đây là các học viên khoa pháo của trường quân sự Hoàng phố. Năm 1907 khi Tưởng Giới Thạch sang Nhật lưu học đã học ở trường Chấn Vũ, những điều học được chính là chuyên nghiệp về pháo binh. Đối với pháo binh, địa vị ở trong gia tộc vũ khí đã có sự hiểu biết đầy đủ. Tưởng hy vọng pháo binh trong cuộc quyết chiến ở Xuyên Tây sắp tới sẽ có được những biểu hiện nổi trội, liền giơ tay mỉm cười tỏ ý với đội ngũ pháo binh. Việc giơ tay của Tưởng cũng không cấp bách, một xe chở pháo bỗng đứng sững lại ở trước đài kiểm duyệt. Tình hình đột xuất này đã khiến cho Tưởng Giới Thạch giật mình kinh sợ, cũng khiến cho các sĩ quan chỉ huy cuộc duyệt binh tinh thần hoảng loạn, họ đều sợ sẽ xảy ra sự kiện hành thích, ở trên đài chỉ huy Tưởng không biết làm thế nào, bọn lính cận vệ thì như là đứng trước quân địch, tổng chỉ huy cuộc duyệt binh tay cần súng lăm lăm vội vàng, chạy về phía chiếc xe chở pháo thấy Tưởng Giới Thạch giơ tay vẫy mình, lại cho rằng Tưởng Giới Thạch muốn nói gì, hoảng sợ quá vội hãm sững xe lại, đỗ ngay trước đài kiểm tra duyệt binh. Sau khi viên tổng chỉ huy cuộc duyệt binh hiểu rõ sự việc, liền ra lệnh cho xe chở pháo, lập tức cho xe phải chạy đi ngay. Thế nhưng máy động cơ lúc này đã tắt lửa, người lái xe lôi cả bó dây điện ra mà vẫn không tìm thấy bệnh, lo sợ quá, trên mặt mồ hôi đầm đìa mà vẫn không giải quyết được , các xe chở pháo ở phía sau cũng đều ùn tắc cả lại, cả bãi duyệt binh tràn đầy hỗn loạn. Sĩ quan chỉ huy nhìn thấy cảnh tượng này đành phải hạ lệnh tất cả xúm lại đẩy chiếc xe chở pháo này ra khỏi bãi. Cuộc duyệt binh lại tiếp tục tiến hành. Thế nhưng mãi cho đến lúc kết thúc, Tưởng Giới Thạch vẫn cứ nhăn mày chau mặt, chẳng lộ ra một nụ cười. Sau khi hoàn tất cuộc duyệt binh, Tưởng lặng lẽ không nói gì cả, ông lạnh lùng bước xuống đài duyệt binh.Tưởng Giới Thạch rời khỏi Thành Đô vào ngày 17 tháng 9, đến ngày 30 tháng 11 khi Tưởng trở lại Thành Đô, càng thêm buồn rầu ảo não. Tạm thời chưa nói tới cảnh vật đổi sao dời, nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đã tuyên bố thành lập, nước Trung Hoa Dân quốc của Tưởng cũng đã sớm tiêu vong rồi, cũng không nói tới việc giải phóng quân đã đập tan được quân đội Tống Hy Liêm canh giữ cửa ngõ phía Đông Tứ Xuyên, Trùng Khánh nguy cấp như trứng để đầu gậy, ngay cả đến tình hình khi Tưởng Giới Thạch từ Trùng Khánh chạy trốn về Thành Đô cũng đã đủ để cho ông rầu lòng.Tưởng Kinh Quốc từng nghĩ lại nói:
- Vào lúc 4 giờ chiều ngày hôm đó (ngày 29-11 - người viết chú thích) Cha tôi bỗng ra lệnh lái xe tới thăm khu vực thành phố Trùng Khánh. Lúc đó, trong thành phố Trùng Khánh rối loạn hết mức, lòng người lo sợ, đại để là không thể giữ nổi một ngày. Nhân viên các cơ quan vội vã thu xếp để chạy trốn, hầu như họ đã đi gần hết rồi. Xe của cha tôi trước hết lái tới Bộ tư lệnh bảo vệ thành phố. Nào ngờ bên trong Bộ tư lệnh to lớn đồ sộ như vậy mà chỉ còn lại có mấy tên cảnh vệ, hai tên sĩ quan phụ tá, còn những người khác thì đã chạy hết trơn. Cha tôi nói với tên sĩ quan phụ tá: Khi anh gặp Dương tư lệnh, thì báo cáo cho ông ta biết tôi đã tới đây!. Sau khi ra khỏi Bộ tư lệnh bảo vệ thành phố, cha tôi lại ra lệnh lái xe tới thăm ẹy ban quân sự của thời kỳ kháng chiến, tình hình thê lương chua xót trên đường, khó có thẻ hình dung nổi!
Cuốn nhật ký Mùa thu nguy cấp mất còn của Tưởng Kinh Quốc đã được công bố, có đoạn viết như sau:Ngày 29 - Tình hình cuộc chiến ở tiền phương rất quyết liệt, thế cuộc nguy nan, Trùng Khánh đã bị bao vây. Còn cha tôi thì cứ chần chừ không chịu rời khỏi Du (Tứ Xuyên -Trùng Khánh). Tinh thần trách nhiệm và quyết tâm đối với Cách mạng của người, đã cảm động lòng người sâu sắc, thật khó có bút mực nào hình dung nổi. Vào lúc 10 giờ đêm, tiếng súng nổ vang vọng ở phía sau vườn rừng, tôi đành phải báo cáo tình hình thực với cha tôi, hy vọng rằng người sẽ sớm rời khỏi khu vực nguy hiểm này. Đồng thời La Quảng Văn từ mặt trận chạy về báo cáo, biết được quân đội của hắn đã bị bộ đội phỉ đánh bại. Còn tiếng nổ ở trong các binh công xưởng xung quanh lại vang lên bốn phía, liên hồi không ngớt. Lúc này ở trước vườn rừng hang núi, ô tô chật ních, đường không thông xe, hỗn loạn ầm ào, từ trước tới nay chưa hề thấy. Cho nên quyết không thể nấn ná chần chừ nên phải quyết định tới sân bay đóng quân. Trên đường đi xe pháo vì tắc nghẽn ba lần, không sao tiến lên được. Bất đắc dĩ, cha tôi phải xuống xe đi bộ, sau đó ngồi lên xe Jép quân sự mới đi được, nửa đêm cha tôi tới sân bay leo lên ngủ qua đêm ở trên chiếc chuyên cơ nhãn hiệu Trung Mỹ.
Đối với vấn đề gặp biến không kinh sợ, Bình tĩnh và trấn tĩnh cùng với Tinh thần trách nhiệm cách mạng của Tưởng Giới Thạch, vị học giả Đài Loan là Lý Ngạo đã bình luận nói: Bởi vì Tưởng Giới Thạch có chuyên cơ Đã có được chuyên cơ, lẽ dĩ nhiên phương tiện cũng dễ hơn người thường, bất kỳ địa phương nào cũng đều có thể tới sớm được, cũng có thể về muộn được, khỏi phải lo nghĩ gì đến việc đi lại. Kỳ thực, khi Tưởng Giới Thạch rời khỏi Trùng Khánh còn gặp phải một số phiền phức nữa, Tưởng Kinh Quốc không nói ra. Một đại đặc công có tên là Vương Bồ Thần trong bài văn truy điệu Mao Nhân Phượng có để lộ ra một chút ít. Ông ta viết:Tháng 8 cùng năm (năm 1949 - người viết chú thích), tôi nhận được lệnh từ Đài tới Du chủ trì công tác huấn luyện. Lãnh tụ (chỉ Tưởng Giới Thạch) và Tiên sinh (chỉ Mao Nhân Phượng) đều ở đó vạch kế hoạch sắp xếp công việc. Tới đầu tháng 12 (phải là cuối tháng 11) Trùng Khánh đã vô cùng gay go căng thẳng rồi, tiên sinh nói với chúng tôi: Các anh, những người không có nhiệm vụ có thể lần lượt triệt thoái trước đi. Nếu không, sau này sẽ không đi được đâu !Tôi hỏi: -Khi nào tiên sinh ra đi ạ?Tiên sinh nói: - Lãnh tụ còn ở đây, làm sao ta có thể đi được. các anh không cần phải chờ ta. Vạn nhất thời cuộc biến hóa, đã tới lúc chẳng theo ý người thì cá nhân ta chỉ có đi theo lãnh tụ!. Tình hình ngày một khẩn trương, cảnh sát Trùng Khánh đã triệt thoái hết. Xe pháo trên mỗi con đường, đều chật ních, cho dù là xe của lãnh tụ cũng chẳng có cách gì đi được. Lúc đó tiên sinh đã vận dụng kỹ thuật đặc chủng, cuối cùng cũng đã đưa được lãnh tụ tới nới an toàn!
Mao Nhân Phượng đã dùng Kỹ thuật đặc chủng gì. Vương Phủ Thần không nói rõ, nói chung đều cho rằng ông đã sử dụng xe tăng hoặc xe bọc thép. Bất kể là dùng thứ gì, việc Tưởng Giới Thạch trốn khỏi Trùng Khánh khẳng định là đã vấp phải khó khăn rất lớn, dẫn đến trên đường đi đã bị lỡ mất nhiều tiếng đồng hồ. Cộng thêm việc thất thủ Trùng Khánh, thủ đô phụ này của Quốc dân đảng sao lại chẳng khiến ông buồn rầu, đau đớn? Cho nên ngày 30 tháng 11, khi tới Thành Đô, Tưởng đã nói với Trương Quần, Lưu Văn Huy v.v... rằng:
- Đã hết rồi, Trùng Khánh thất thủ, nơi đó đã trở thành bãi đất hoang tàn đổ nát. Khi bọn chúng ta rời xa nó, quốc quân đang phá hoại các binh công xưởng, những tiếng nổ dữ dội đã làm chấn động vỡ hết các cửa kính nơi ta ở rồi !
Thế thì về sau tình hình Tưởng Giới Thạch ở Thành Đô lại như thế nào ? Cuối cùng Tưởng đã từ Thành Đô chạy trốn khỏi đại lục như thế nào ? Tưởng Giới Thạch đến Thành Đô lần thứ hai, chủ yếu là bố trí cuộc đánh nhau ở Xuyên Tây. Tưởng đã nhiều lần triệu tập Cố Chúc Đồng, Hồ Tông Nam, Vương Lăng Cơ v.v..tới nghiên cứu kế hoạch tác chiến. Tuy có nhiều loại phương án, thế nhưng phương pháp tư tưởng cơ bản là cố thủ Bắc Xuyên Tây và Tây Xương, trước hết phải đánh thắng một trận giòn giã ở gần Thành Đô, làm ngừng trệ cuộc tấn công của Giải phóng quân, rồi chờ sự biến đổi của tình hình quốc tế, lấy đó để Đông Sơn tái khởi. Để đạt được mục đích này, Tưởng quyết định ổn định quân tâm và dân tâm. Trước tiên Tưởng ra lệnh cho Ngân hàng Trung ương lấy ra 500 lượng vàng để ổn định lại thị trường tiền tệ đình đốn, khiến cho tầng lớp thị dân có thể đem những tập đồng bạc trắng đã biến thành một chinh không đáng ra đổi lấy một chút vàng (Căn cứ vào ghi chép trong tủ hồ sơ: cuối cùng thì thị dân toàn thành phố đã đổi mất 135 lượng, số vàng còn lại không biết đã nhét vào trong hầu bao của ai. Tưởng Giới Thạch cũng bị mắc lừa trò bịp này). Sau đó Tưởng điểm danh một số quyến thuộc của các sĩ quan quân đội đang dẫn quân đi đánh trận, đưa hết tới Đài Loan, để ổn định quân tâm, không ngờ rằng rất nhiều sĩ quan quân đội đã cho rằng quyến thuộc của mình đã bị lôi đi làm con tin, trái lại đã khiến cho quân đội càng dao động bất an. Thứ ba là, Tưởng hạ lệnh cho Diêm Tích Sơn tổ chức Phản Cộng cứu quốc đoàn, Diêm đích thân làm đoàn trưởng, hạ lệnh cho trường quân sự Hoàng Phố tuyển chọn học sinh Hoàng Phố khóa 24 và Ban huấn luyện sĩ quan quân đội khóa 17. Thứ tư, là, Tưởng một lần nữa kiểm tra lại học sinh Hoàng Phố, để cho họ sung sướng phấn khởi. Ai ngờ lần kiểm tra này lại xảy ra một tình huống ngoài dự liệu.Chín giờ rưỡi sáng ngày mồng 3 tháng 12, Tưởng Giới Thạch được những người như Trương Quần tháp tùng, bước lên đài kiểm tra. Đầu tiên là lá quốc kỳ được kéo lên trong tiếng quốc ca của Trung Hoa dân quốc. Tiếng nhạc vang lên, là cờ thanh thiên bạch nhật bắt đầu vươn cao lên đỉnh cột cờ, tiếng hát ê a rền rĩ, tiếng ròng rọc cót két vang lên. Khi lá cờ sắp sửa kéo lên tới đỉnh ngọn cột cờ, bỗng nhiên, sợi dây thừng buộc lá cờ bị đứt ở quãng giữa, sau đó tiếng ròng rọc cót két vang lên ở đầu cột một hồi xé tai, lá cờ đó và nửa sợi dây thừng đó rơi mạnh xuống đất.Sự việc xảy ra quá bất ngờ, nhất thời không ai trốn tránh được. Tưởng Giới Thạch cũng lặng yên bất động đứng ở trên đài, ngây dại nhìn lá cờ nằm ở dưới đất. Cuối cùng, có người nghĩ tới còn phải tiến hành đội hình diễu binh, không có lá cờ này thì không được. Tức thì tên lính kéo cờ vội vàng hạ đổ cột cờ xuống, buộc lại chiếc dây thừng rồi kéo lá cờ lên cao. Sau khi đội hình diễu binh kết thúc, Tưởng Giới Thạch bước xuống đài duyệt binh, lần lượt bắt tay từng học viên vừa được duyệt binh. Nghe nói là đã dùng hết thời gian hơn một tiếng đồng hồ. Buổi tối Tưởng lại gợi ý cho nhà trường chiếu bộ phim Văn Thiên Tường cho các học viên xem, để chứng minh thực tiễn lời huấn thị không thành công thì cũng thành nhân. Lần này Tưởng Giới Thạch ở Thành Đô còn phát biểu một bài diễn thuyết dài với nhà báo Thông tấn xã Liên Mỹ. Buổi chiều ngày mồng 4 tháng 12, Tưởng Giới Thạch nói với Mu Sa, nhà báo Mỹ rằng:Lần này nhận lời mời của Quyền tổng thống Lý tôi vào Tứ Xuyên, vừa hay gặp Cộng quân xâm nhập Xuyên Đông, thủ đô phụ nguy cấp ... Tôi là một phần tử của quốc dân có trách nhiệm phải lãnh đạo cuộc cách mạng của quốc dân, duy chỉ có mang hết mọi lực lượng, không thoái thác bất kỳ gian nan nguy hiểm nào, hiệp lực giúp đỡ Chính phủ cùng phấn đấu chung với quân dân đại lục. Trùng Khánh bị xâm lăng, cục thế vùng Tây Nam càng bước vào cảnh khổ sở. Thế nhưng nhân sĩ các nước dân chủ trên thế giới nên biết rằng cuộc chiến đấu chống cộng ở đại lục Trung Quốc, không những chưa đình chỉ, trái lại, còn không tiếc bất kỳ sự trả giá nào, bất kỳ sự hy sinh nào, mà đang ngày càng có xu hướng mở rộng, khắc sâu trong quân đội tập kết ở các nơi, khiến cho cuộc chiến đấu chống cộng ở Tây Nam được giữ vững lâu dài. ở đằng sau bức màn thép, những dân chúng bị cộng phỉ áp bức tại các vùng lưu vực Trường Giang, Triết Giang, Hà Nam. Sơn Đông, Phúc Kiến và Quảng Đông v.v... đã nổi lên như ong ở mọi nơi để phản đối chủ nghĩa cực quyền. Đối với các đội du kích ở Địch hậu tôi sẽ hết lòng ủng hộ và giúp đỡ. Cộng Đảng Trung Quốc dưới sự chỉ huy của Mátxcơva, hòng dùng bạo lực để thôn tính quốc gia Trung Quốc, nô dịch 450 triệu nhân dân Trung Quốc. Thế nhưng, nhân dân Trung Quốc dưới ngọn cờ Thanh thiên bạch nhật, chiến đấu vì độc lập tự do, tuyệt đối không một bạo lực nào có thể khuất phục được. Hiện tại tôi đang chiến đấu ở khu tự do, chiến đấu ở khu phỉ, chiến đấu ở nông thôn, thành thị, trường học và nhà máy. Bài diễn thuyết dài dòng này của Tưởng Giới Thạch, một là muốn danh chính ngôn thuận bản thân vào Xuyên làm chủ Chính phủ với danh nghĩa là nhận lời mời của Lý Tông Nhân mà đến. Hai là mong muốn nhà báo Mỹ có một bài báo chính xác về cuộc chiến tranh chống cộng mà Tưởng đang tiến hành. Ba là nói tới kết cấu tư tưởng đối với cuộc chiến tranh chống Cộng từ nay về sau của Tưởng. Tưởng Giới Thạch đã kiểm thảo sâu sắc những nguyên nhân dẫn tới nhanh chóng thất bại của Quốc dân đảng. Tưởng nói: Tại sao quốc dân có thể dẫn tới mức độ mất hết niềm tin, tinh thần tan rã như ngày nay ? Cộng sản Đảng đánh bại Quốc dân đảng, chẳng phải là họ có ba đầu sáu tay, mà chính là Quốc dân đảng hủ bại vô năng, là những nhược điểm của mình đã đánh bại mình, những cảm giác tự ti của mình, đã hù họa làm mình thất bại. Lực lượng của Cộng sản Đảng, trước cuộc kháng chiến yếu ớt không đầy đủ, tiêu diệt chúng đã không thành vấn dề. Cuộc kháng chiến cố nhiên đã đem lại cơ hội phát triển của họ. Thế nhưng ngay chính bản thân họ cũng không mộng tưởng được đã có ngày hôm nay. Bởi vì những nhược điểm của chúng ta đã bị họ tóm được ...dần dần diễn biến thành cục diện đổ nát như ngày nay !Tưởng Giới Thạch còn nói: Chúng ta nếu muốn chuyển bại thành thắng, mấu chốt vẫn phải nắm chắc ở trong ta. Thất bại chỉ là do bản thân ta tạo thành. Thành công cũng phải do bản thân ta nỗ lực. Chỉ có cải tạo mình, coi trọng mình, triệt để cánh sinh, kiên trì niềm tin, mới có thể đánh bại được Cộng Sản Đảng.
Tưởng Giới Thạch còn nói với Mu Sa:- Bản thân tôi chưa hề chống lại và vứt bỏ quốc gia dân chủ. Trong đại chiến thế giới lần thứ hai, trước sau tôi vẫn đứng ở mũi nhọn của mặt trận chống xâm lược. Ngày nay bản thân tôi cũng vẫn như vậy. Tuy bản thân tôi đã gặp rất nhiều trắc trở, thế nhưng tôi không hề nản chí. Kinh Thánh đã nói: Ta đã tuyên thệ, tuy bản thân mình bị hại, cũng không thể đổi thay. Các quốc gia dân chủ nếu đánh giá thấp tầm quan trọng của cuộc chiến tranh chống cộng của Trung Quốc, tất nhiên sẽ có hại cho nền độc lập an toàn và tự do của chính nước họ. Bản thân tôi từ nay về sau sẽ tiếp tục chiến đấu vì độc lập tự do của đất nước. Trên con đường phấn đấu của tôi có thể sẽ gặp rát nhiều khó khăn trở ngại, nhưng tôi vẫn tin tưởng său sắc rằng cuộc chiến tranh chống cộng nhất định sẽ giành được thắng lợi sau này ! Lời nói này của Tưởng Giới Thạch, lẽ dĩ nhiên là nói để cho người Mỹ nghe, Tưởng hy vọng rằng có thể sẽ lại giành được sự ủng hộ mới của Chính phủ Mỹ. Lần thứ hai tới Thành Đô của Tưởng Giới Thạch, vô cùng bận rộn, dốc hết sức bảo vệ Thành Đô. Thế nhưng tình hình Thành Đô, trái lại, ngày một xấu đi. Tưởng Giới Thạch không thể không có dự tính chạy trốn. Ngày mồng 1 tháng 12, Tưởng đã triệu tập Bộ trưởng bộ tài chính Quan Cát Ngọc và Tư lệnh không quân Vương Thúc Minh tới nơi ở của Tưởng tại trường quân sự Hoàng Phố, ra nghiêm lệnh cho hai người phải phối hợp mật thiết với nhau, đem tất cả tiền mặt, vàng, ngoại tệ còn lại phải lập tức bí mật vận chuyển hết tới Đài Loan. Sự lo lắng của Tưởng Giới Thạch thực ra chẳng phải là quá buồn rầu. Khi đại binh Giải phóng quân áp sát biên giới, tổ chức bí mật của Đảng cộng sản ở Thành Đô cũng rất sôi nổi hoạt bát, đang vạch kế hoạch nã pháo vào Lầu Hoàng Phố mà Tưởng Giới Thạch ở và nghĩ cách bắt sống Tưởng Giới Thạch. Trong trường Hoàng Phố cũng luôn xảy ra các sự việc, khiến cho Tưởng Giới Thạch lo lắng sợ sệt rất không yên tâm.Sáng sớm ngày 5 tháng 12, khi một vệ sĩ của Tưởng Giới Thạch bước vào nhà xí đem một chiếc thắt lưng có gài hai khẩu súng lục kiểu Nhật Bản tiện tay vắt ở trên cửa gỗ vào trong nhà xí, trong nháy mắt đã không biết người đó đi về hướng nào. Phía hữu quan đã hoài nghi là có người muốn mưu sát Tưởng Giới Thạch, tức thì họ đã tiến hành lục soát trong phạm vi toàn trường. Thế nhưng lục soạt suốt cả ngày mà chẳng tìm được ra kết quả gì. Ngày hôm đó Tưởng Giới Thạch cứ ở lỳ không ra khỏi lầu Hoàng Phố, kế hoạch vốn dự định đi thăm khu thành phố cũng bị thủ tiêu Tưởng Giới Thạch nổi giận ầm ầm. Thế nhưng đợt sóng này chưa yên, thì đợt sóng khác đã trỗi dậy. Vào lúc trên dưới 12 giờ đêm hôm ấy, Tưởng Giới Thạch vừa nằm mơ, bỗng nhiên ở dưới lầu Hoàng phố đã vang lên tiếng súng nổ ròn rã. Trong trường Hoàng Phố phút chốc đèn lửa sáng choang những bóng qủy lố nhố, tiếng người hỗn loạn, tiếng chân chạy tiếng gào thét vang lên huyên náo. Đội cận vệ của Tưởng Giới Thạch như gặp đội qu đụng phải cò súng đã mở chốt bảo hiểm, một băng đạn bắn vung lên trời, khiến cho mọi người hoảng hốt nhẩy cả xuống hồ Hoa Thanh. Sau khi Tưởng Giới Thạch được biết rõ tình tiết, lửa bực tức ngút trời, đã quát chửi Trương Diệu Minh vừa mới được lên làm chức hiệu trưởng trường Hoàng Phố là Đồ con lợn !, nhận định trong nội bộ trường nhất định có phần tử Cộng sản tuyên truyền nổi loạn, liền hạ lệnh cho hắn triệt để điều tra, triệt để lục soát. Nghe nói sau đó có hai học sinh căn bản chẳng có quan hệ gì với Cộng Đảng đã đen đủi vấp phải tai ương.Lần này thực sự Tưởng Giới Thạch đã vấp phải nỗi kinh hoàng rất to lớn. Tại sao biết được ? Ngày mồng 7 tháng 12 khi ăn cơm trưa, Tưởng Giới Thạch bắt các học viên trường Quân sự lập tức phải được vũ trang, tăng cường huấn luyện chiến đấu. Hiệu trưởng Trương Diệu Minh lập tức chấp hành, mở niêm phong kho súng phát cho các học viên, buổi chiều tiến hành tập bắn súng đạn thật ở cửa ngoài phía bắc trường quân sự. Tiếng súng đùng đoàng chát chúa đã làm cho Tưởng Giới Thạch ở trên lầu Hoàng Phố hoảng sợ giật bắn mình, lập tức cho gọi Cố Chúc Đồng tới hỏi rõ nguyên do. Khi Tưởng biết rõ các học viên trường quân sự thử súng, Tưởng rất bực tức, quở trách Cố Chúc Đồng vì sao lại bắn đạn thật ở bên cạnh nhà trường. Cố Chúc Đồng đành phải chửi mắng mạt sát Trương Diệu Minh một trận rồi ra lệnh từ nay về sau không cho phép có tiếng súng nổ với bất kỳ lí do nào, Trái lệnh sẽ bắn bỏ !, Buổi chiều ngày hôm đó, Tưởng Giới Thạch cho gọi Vương Lăng Cơ tới ra lệnh cho Vương phải giết chết hết các tù phạm chính trị quan trọng ở trong ngục. Nửa đêm hôm đó, từ phía cầu 12 ngoại ô Thành Đô vọng lại từng tràng tiếng súng nổ, làm cho Tưởng Giới Thạch từ trên lầu Hoàng Phố thức tỉnh. Tưởng vội vàng triệu gọi viên sĩ quan trị an Thành Đô tới để thẩm xét tình hình. Khi Tưởng được biết đó là tiếng súng giết tù chính trị làm theo lệnh của Tưởng, Tưởng mới yên lòng. Tưởng Giới Thạch quả đúng là gió reo, nhạc hú, cỏ cây đều là lính địch cả.Tuy ở trong trường Hoàng Phố liên tục xảy ra các sự việc, thé nhưng sự uy hiếp thực sự đối với Tưởng Giới Thạch lại ở bên ngoài trường Hòang Phố.Việc Tưởng Giới Thạch tới Thành Đô mọi người đều biết cả, giới báo chí đã có bài đăng kể tỉ mỉ. Tức thì, Bộ công tác lưu dung của ẹy ban công tác lâm thời biên giới Xuyên Tây là tổ chức bí mật của Trung cộng liền bắt đầu vạch kế hoạch hành động quan trọng Muốn bắt giặc phải bắt tướng ngay sau khi Tưởng đến Dung. Những đảng viên bí mật như Đường Hội Xương v.v..đã cùng với quân đoàn trưởng của Quốc dân đảng là Khương Kỳ Vĩnh đã kích động làm phản, đặt một khẩu pháo ở vườn rau trong ngôi nhà cỏ phía ngoài trường Hoàng Phố. Khi viên đạn bắn trúng vào căn phòng Tưởng Giới Thạch ở, một tiếng nổ xé trời ở lầu Hoàng Phố, đã làm đổ sập bức tường ở đó. Ngày mồng 6 tháng 12, khi công tác chuẩn bị nã pháo đang được tiến hành khẩn trương, bỗng có tin tình báo nói: Tưởng Giới Thạch không cố định ở trong lầu Hoàng Phố, thời gian chính xác ở Hoàng Phố vào lúc nào, rất khó nắm vữmg. Bí thư chi bộ Đảng của Bộ công tác lưu dung là Vương Miễn Bình cảm thấy sự việc đã trở nên nghiêm trọng, lập tức triệu tập hội nghị chi bộ để tiến hành thảo luận. Mọi người nhất trí cho rằng tình hình có biến động, mạo hiểm quá lớn, sau khi nã pháo, vô luận là trúng hay không trúng sẽ dẫn đến cuộc lục soát lớn, chém giết lớn của bọn phản động. Điều này sẽ không thể phù hợp được với nhiệm vụ cơ bản Bảo vệ Thành Đô, nghênh tiếp Giải phóng, liền quyết định thủ tiêu kế hoạch nã pháo, liền bí mật rút ngay khẩu pháo truy kích đặt ở trong vườn rau.Kỳ thực, động lực quan trọng nhất trong việc thủ tiêu kế hoạch cũ là kiến nghị Bắt sống Tưởng Giới Thạch được nêu ra ở trong Hội nghị. Phương pháp tư tưởng chủ yếu của kiến nghị này là: Lợi dụng phó quân đoàn trưởng Dương Sái Hiên quân đoàn 95 Quốc dân đảng đã được tổ chức Đảng bí mật giác ngộ làm phản, mời ông ta dẫn quân đội tới khống chế sân bay mà khi Tưởng Giới Thạch rời khỏi Thành Đô tất phải đi qua, để tiến hành việc bắt sống Tưởng Giới Thạch. Tức thì kế hoạch nã pháo đã biến thành kế hoạch bắt sống. Các hạng mục công tác lại được triển khai vây quanh nhiệm vụ mới.Tình hình Tưởng Giới Thạch ở lầu Hoàng Phố như thế nào? Do vì bộ đội dã chiến quân đoàn 2 giải phóng quân sau khi giải phóng Trùng Khánh đã kéo tới tuyến đường Nội Giang, Tự Cống, Nghi Tân, đang chuẩn bị vu hồi Lạc Sơn, Hiệp Giang, bao vây Thành Đô, tình thế quân sự vô cùng nghiêm trọng, Tưởng Giới Thạch không thể không đồng thời ra lệnh giết chính trị phạm ngày mồng 7 tháng 12 và ra lệnh cho Chính phủ rời tới Đài Bắc. Buổi chiều ngày 8 tháng 12, Tưởng Giới Thạch tuần sát khu vực thành phố Thành Đô lần cuối cùng, nhìn thấy trên đường hầu như toàn là nạn dân và quân đội bị thương. Ngày 9 tháng 12, Lư Hán khởi nghĩa ở Côn Minh; Trương Quần, Lý Di v.v... bị bắt giữ, đồng thời với điều đó Đặng Tích Hầu v.v...đã điện báo khởi nghĩa ở Nhà An, Bành huyện. Bọn địch ở Thành Đô đã trở thành con ba ba ở trong vại. Đối với động hướng của bọn Lư, Lưu, Đặng v.v..tuy đã sớm nằm trong dự liệu của Tưởng Giới Thạch, nhưng khi tin tức truyền đến Tưởng vẫn bàng hoàng trấn động, kinh sợ. Để ứng phó với điều không nghĩ tới, đêm ngày 9, hiệu trưởng trường quân sự Hoàng Phố Trương Diệu Minh đích thân tới tổng đội 2 khóa 23 bố trí nhiệm vụ, tổ chức hơn 10 học viên đào một chiếc hang ở dưới chân tường thành phía sau lầu Hoàng phố, để làm giao thông hào bí mật khi nguy cấp. Sân bay Tân Tân và sân bay núi Phượng Hoàng Thành Đô, máy bay luôn luôn sẵn sàng cất cánh. Trong thành phố Thành Đô lúc này đã trở thành mớ hỗn độn loạn xạ, các cửa hiệu đóng chặt cửa, lính thua trận xích mích nhau; các quan to, người giầu có muốn chạy trốn ra Đài Loan phần lớn là muốn lên trời mà không có lối, tiếng oán trách thảm hại đầy đường. Tưởng Giới Thạch liền nghĩ ra trò lừa đảo, một lúc lại đăng tin trên báo sáng sớm ngày mồng 8 đã rời khỏi Dung, một lúc lại đăng tin 2 giờ chiều ngày mồng 10 đã bay tới Đài Bắc. Kỳ thực, mãi đến đêm ngày 13 tháng 12 Tưởng Giới Thạch mới rời khỏi Thành Đô. Vốn là, Tưởng Giới Thạch vẫn không muốn đi, thế nhưng quân giải phóng ào đến như nước triều dâng, cách Thành Đô chỉ còn một ngày đường. Sân bay rất có khả năng bị quân giải phóng khống chế, tức thì vị tín đồ Cơ Đốc này cũng chẳng kể gì tới con số 13 cát lợi hay không cát lợi, với sự hộ tống của đại binh lực quân chiến đấu phối hợp có 10 chiếc xe tăng và xe bọc thép do Hồ Tông Nam cử đi (nghe nói là có 6 trung đoàn, nhưng chưa được khảo chứng) xông vào đánh phá sự cản trở của một trung đoàn lính khởi nghĩa do Lưu Văn Huy chỉ huy ở khu vực miếu Võ hầu, xông thẳng tới sân bay Tân Tân. Năm 1988, Bồ Kiếm Hồng vốn là học viên trường quân sự, hổi tưởng lại tình cảnh lúc đó, nói: Chúng tôi ngồi trên xe ô tô vận tải, vừa đánh vừa xông lên. Xe kiệu của Tưởng Giới Thạch đi liền sau xe ô tô của chúng tôi. Quân đội vừa dừng lại đã không được dừng, xuyên qua mạng lưới hỏa lực, lái thẳng vào sân bay Tân Tân. Tại đó, Tưởng Giới Thạch đã leo lên chiếc chuyên cơ nhãn hiệu Trung Mỹ. Chiếc máy bay đó vội vã lao vút lên trên trời, rất nhanh chóng biến mất trong màn trời đêm.Tưởng Giới Thạch đã rời khỏi Thành Đô, rời khỏi Đại Lục như vậy đó.Tại đây, còn muốn nói thêm một câu nữa là, khi Đội bắt sống Tưởng của tổ chức Đảng bí mật đã chuẩn bị mọi sự đầy đủ, ngày mồng 9 bỗng nhìn thấy trên các tờ báo Thành Đô đăng tin: Đêm hôm qua Tưởng Tổng tài đã rời khỏi Dung bay tới Đài Loan, nên đành phải hủy bỏ kế hoạch bắt Tưởng. Ngày mồng 10 lại nhìn thấy báo đăng tải: Chiều mồng 8, Tưởng Giới Thạch Tuần sát thành phố Dung, chiều ngày mồng 10, đội bắt Tưởng lại nhóm họp, quyết tâm thi hành nghị quyết trước. Giữa lúc đang họp lại có tin: Tưởng Giới Thạch đã từ sân bay Phượng Hoàng Sơn bay tới Đài Loan vào buổi trưa. Tổ chức Đảng bí mật lại đành phải một lần nữa hủy bỏ kế hoạch bắt Tưởng, chuyển công tác sang bước thứ hai là bạo động ở Thành Đô.Tưởng Giới Thạch thực sự không muốn rời khỏi Thành Đô. Có lẽ là Tưởng biết rằng lần ra đi này sẽ không còn dịp quay trở lại nữa. Thế nhưng ông ta không thể không rời khỏi Thành Đô, hơn thế, ông ta cũng không bao giờ có thể trở lại Đại lục được nữa!
-----------------------
[1] xem Tưởng Giới Thạch truyện của Vương Phủ Dân trang 387
Phần 5
Chương 4
Trước và sau việc Tưởng Giới Thạch lấy cắp vàng chuyển ra Đài Loan
Nguồn: Mọt sách
Thu gọn nội dung
Tưởng Giới Thạch từ Thành Đô chạy trốn ra Đài Loan, tuy hấp tấp vội vàng như con chó nhà chủ có tang, cập rập lo sợ như con cá lọt lưới. Thế nhưng trong sự kiện lịch sử rút khỏi đại lục này, có một việc mà Tưởng làm rất có bài bản. Đó chính là việc vận chuyển lén đi toàn bộ số vàng ở trong kho nhà nước đang còn tồn lại tại Ngân hàng Trung ương Thượng Hải. Tưởng Giới Thạch biết rằng, ông ta phải tới Đài Loan khổ công nắm giữ một tiểu vương quốc. Quân đội cố nhiên là rất quan trọng, thế nhưng tiếng đại bác vừa nổ, một vạn lượng vàng, quân đội phải dùng đến tiền mới nuôi sống được. Lại còn sự an ninh của xã hội, sự phát triển về kinh tế, về mặt nào mà không có tiền cũng đều không được cả. Do đó Tưởng Giới Thạch lão mưu đa kế, ông đã tính toán rất sâu. Trước khi từ chức lần thứ ba, ông đã tiến hành cuộc khảo sát tỷ mỷ đối với số vàng còn lại ở trong kho nhà nước. Tưởng hạ lệnh đem phần lớn số vàng vận chuyển ra Đài Loan, còn một phần thì vận chuyển tới Hạ Môn. Điều này chẳng phải là đã nói lên, từ tháng 1 năm 1949, ông Tưởng đã xác nhận sự thất bại triệt để ở đại lục của chính quyền Quốc dân đảng rồi sao ? Đầu tháng 12 năm 1949 Tưởng còn cho rằng ông còn có lực lượng chiếm giữ vùng Tây Nam, rồi đến 8 năm kháng chiến, ông ta không thể không suy nghĩ đầy đủ tới khả năng sẽ thất bại triệt để ở đại lục và tính nghiêm trọng của loại kết cục này. Thế nhưng đó chỉ là lẽ thứ nhất. Lẽ thứ hai là, lúc này Tưởng đã từ chức, Lý Tông Nhân làm Quyền tổng thống, Tưởng không thể để cho Lý Tông Nhân dùng số vàng này củng cố địa vị của hắn được. Tưởng muốn nhìn thấy trong tình trạng hoàn toàn bế tắc, Lý Tôn Nhân sẽ phải trao trả lại cho mình vị trí tổng thống này.Tưởng Giới Thạch đã vận chuyển số vàng này đi như thế nào ? Trong cuốn Tống Gia Vương triều, ông Tơrin -xicơlêfu người Mỹ đã viết:Kế hoạch cướp đoạt ngân hàng Trung Quốc của Tưởng Giới Thạch được chấp hành vô cùng cẩn thận và chu đáo. Một chiếc thuyền chở hàng nhem nhuốc bẩn thỉu đậu ở ngoài bến Thượng Hải đối mặt với quán cơm Quốc Thái. Những Culi trên thuyền ăn mặc quần áo rách rưới lam lũ, kỳ thực họ đều là những binh sĩ hải quân giỏi bậc nhất được ngụy trang. Người chủ quản nào đó của ngân hàng Trung Quốc đã mở sẵn cửa kho, bởi vì họ đã được nhận một khoản tiền hối lộ khá lớn, hơn thế được chuẩn y sẽ đi trên con thuyền chờ đợi này chạy trốn tới nơi an toàn. Quân đội Quốc dân đảng được thiết lập một hàng rào canh gác bao vây chặt mấy đường phố ở xung quanh nhà ngân hàng, bao gồm một bộ phận đường Nam Kinh và bãi ngoài. Từ trong đêm tối thỉnh thoảng lại vọng ra tiếng thở phì phó của những cu li khi vận chuyển những đồ nặng. Mỗi người đều dùng đòn gánh gánh hai bao tải to. Dưới ánh sáng đèn thủy ngân, chúng giống như những thây ma chạy ra chạy vào từ nhà ngân hàng ra tới con thuyền. Một ký giả người Anh là Gioóc-Van đang viết bài ở trong văn phòng đã lén nhìn thấy toàn bộ quá trình này, bất giác đã rùng minh ghê sợ. Khi ông ta bàng hoàng tỉnh ngộ hiểu được sự việc, đã dùng một câu triết học quái dị gọi điện thoại về tòa báo ở Luân Đôn: Tất cả số vàng của Trung Quốc đã bị những tên Culi dùng phương thức truyền thống vận chuyển đi hết!Stơrin là con người có sức tưởng tượng, thế nhưng so với ông Ban Nôrô người Nhật Bản thì lại hơi kém lẳng lơ hơn. Trong cuốn Vàng của Tưởng Giới Thạch, ông Ban nô rô đã thêu dệt thành một câu chuyện có nhiều tình tiết phức tạp. Ban nô rô nói rằng, Tưởng Giới Thạch đã đem mấy trăm vạn Aoxơ vàng vận chuyển tới Đài Loan, đã đặc biệt ra lệnh cho tên cầm đầu Đảng áo xanh là Tưởng Đại Đông đặt ra một phương án tác chiến gọi là Tín Thiên ông. Mà điều bí mật này bị tiết lộ ra thỉ các cơ quan viện trợ kinh tế đối với Trung Hoa của Mỹ, Thanh Bang Thượng Hải, các nhân viên ứ đọng ở Trung Hoa của bọn Nhật xâm lược cùng với đám giặc đen ẩn tích ở trong rừng núi, bọn phỉ cướp lưu lạc giang hồ đều tranh giành nhau kéo tới Đài Loan diễn xuất một màn kịch cướp vàng hiếm thấy.Nếu sự miêu tả của Stơrin là sự tưởng tượng hợp lý của một phóng viên nhà báo , thì câu chuyện của Ban nôrô hoàn toàn là sự biê n tạo của nhà tiểu thuyết. Vậy thì tình hình chân thực là như thế nào? Chúng ta hãy cùng nghe thử hồi ức của người đương sự. Tình hình được Tưởng Kinh Quốc bộc lộ ra trong cuốn sách Người cha của tôi là: Cuối tháng 4 năm 1949, khi quân Quốc dân đảng sắp sửa triệt thoái từ Thượng Hải, Tưởng Giới Thạch đã cử mấy người như Tưởng Kinh Quốc v.v..tới Thượng Hải, yêu cầu họ nghĩ cách đem toàn bộ số vàng còn tồn lại trong ngân hàng Trung ương vận chuyển tới Đài Loan. Khi sắp đi, Tưởng Giới Thạch nhiều lần căn dặn Tưởng Kinh Quốc Tuyệt đối phải giữ bí mật!, bởi vì Tưởng đã sớm dự liệu thấy, Lý Tông Nhân nhất định sẽ dùng số vàng ở trong kho nhà nước làm một trong những điều kiện hòa đàm, kỳ thực là sợ Lý Tông Nhân cản trở họ vận chuyển vàng đi. Bọn Tưởng Kinh Quốc bí mật chui vào Thượng Hải, đã đem khối lượng lớn vàng vận chuyển tới Đài Loan mà thần không biết qủy chẳng hay. Sau này Tưởng Kinh Quốc bình luận nói: Thời kỳ đầu Chính phủ dọn tới Đài Loan, nếu không có số vàng này để bù đắp, thì tình trạng tài chính và kinh tế, sớm đã không thể tưởng tượng nổi, làm gì có được cục diện ổn định như thế này ? Cổ ngữ nói vô lương bất tụ binh, nếu như lúc đó thiếu lương thực, việc cấp dưỡng quân đội đã trở thành vấn đề, điều đó sẽ nghiêm trọng mức nào?Bọn Tưởng Kinh Quốc tới Thượng Hải vận chuyển vàng, ngoài việc phòng bị bọn Lý Tông Nhân phát hiện gây trở ngại ra, không phải là không có những phiền toái khác. Những chi tiết nhỏ nội tình cụ thể tuy chưa biết hết, thế nhưng từ trong nhật ký của Tưởng Kinh Quốc có thể nhìn thấy rõ một phần. Ngày mồng 10 tháng 2 năm 1949, trong nhật ký Tưởng Kinh Quốc đã viết: Việc vận chuyển số vàng trong ngân hàng Trung ương tới nơi an toàn là một công tác rất quan trọng. Thế nhưng nhà đương cục chủ quản tài chính với số lượng tiền tệ ít, ban đầu đối với điều này không được rõ lắm, cho nên trải qua sự kết hợp, thuyết minh và bố trí nhiều loại, mãi tới hôm nay, đã bắt đầu có thể đem đại bộ phận số vàng vận chuyển tới để ở Đài Loan và Hạ môn, ở Thượng Hải chỉ để lại 20 vạn lượng. Tại sao có thể lưu lại 20 vạn lượng vàng mà không vận chuyển hết toàn bộ đi ? Điều này là bởi bọn Tưởng Kinh Quốc đã vấp phải một số phiền phức nhỏ. Theo hồi ức của Hà Thiện Thản: Khi Du Hồng Quân cùng Tưởng Kinh Quốc tới Thượng Hải sử lý công việc này, một buổi tối đã triệu tập các nhân viên hữu quan tiến hành một hội nghị bí mật, có người phản đối việc vận chuyển toàn bộ số vàng đi. Vì họ Du trước khi được đảm nhiệm chức vụ Bộ trưởng Bộ tài chính Chính phủ Quốc dân đảng Nam Kinh và Tổng tài ngân hàng Trung ương, đã từng làm Thị trưởng Thượng Hải, cho nên người phản đối đã nói với họ Du rằng: Trước đây ông đã từng làm Thị trưởng Thượng Hải, bây giờ ông hãy nên nghĩ cho thị dân Thượng Hải, nếu đem toàn bộ số vàng trong kho chuyển đi hết thì bộ mặt thành phố sẽ duy trì như thế nào ?. Hội nghị đã thảo luận kỹ càng, cuối cùng đã quyết định lưu lại một phần ở Thượng Hải để phòng bị việc gấp, số còn lại sẽ vận chuyển hết tới Đài Loan.Sau khi khối lượng lớn vàng của Thượng Hải vận chuyển được tới Đài Loan, Tưởng Giới Thạch lại nhớ ra hãy còn một hòm châu báu còn gửi ở Cục ký gửi Trung ương, liền ra lệnh cho bọn Tưởng Kinh Quốc lại một lần nữa tới Thượng Hải, nghĩ cách đem hòm châu báu từ trong Cục ký gửi cùng vận chuyển tới Đài Loan. Hòm châu báu này quá nửa là của bọn Hán gian vơ vét được trong thời kỳ kháng chiến, sau thắng lợi bị Chính phủ Quốc dân đảng tịch thu, giao cho Cục ký gửi Trung ương trông nom bảo quản. Bởi vì Tưởng Kinh Quốc đã từng đảm nhiệm công tác quản chế kinh tế Thượng Hải, biết được địa điểm tồn giữ hòm châu báu này, cho nên, Tưởng Giới Thạch đã ra lệnh cho Tưởng Kinh Quốc đi phụ trách chấp hành nhiệm vụ này. Thế nhưng khi Tưởng Kinh quốc tới Thượng Hải, Lý Tông Nhân đã hiểu rõ là việc gì rồi. Liền lập tức hạ lệnh: Bất kỳ người nào cũng không được phép di chuyển hòm châu báu này đi. Thế nhưng những bài học kinh nghiệm mà Lý tích lũy được trong mấy chục năm trong việc đấu pháp với lão Tưởng, Lý thừa biết chỉ một mệnh lệnh khó có thể bảo đảm chắc chắn được. Sau đó Lý đã dứt khoát hạ lệnh cho người bảo quản chiếc hòm bảo hiểm đó, bay tới Hồng Công, làm cho Tưởng Kinh Quốc vô kế khả thi. Vì vậy Tưởng Kinh Quốc đã kiến nghị với Tưởng Giới Thạch: Căn cứ vào tình hình được biết, chiếc hòm báu vật này đã dùng mất không ít, số còn lại chỉ đáng giá hai, ba chục vạn mỹ kim, hà tất chúng ta phải vì vật nhỏ bé này, mà làm thương tổn hòa khí với người ta! Chẳng ngờ được Tưởng Giới Thạch đùng đùng nổi giận, Tưởng nói:- Tới Đài Loan, khi lương bổng của quân đội phát ra không đủ thì một Mỹ kim cũng rất đáng qúy! - Tưởng Kinh Quốc nghe xong không còn biết trả lời ra sao nữa, đành phải lại ra sức nỗ lực. Kết quả vẫn là khong có cách gì đem được hòm châu báu này trở về.Tưởng Kinh Quốc cố nhiên là người phụ trạch việc vận chuyển trộm số vàng ở trong kho nhà nước, thế nhưng người chấp hành cụ thể lại là Du Hồng Quân đã được nhắc tới ở đoạn trên. Cục trưởng cục báo chí Quốc dân đảng trước là Đổng Hiển Quang từng viết:Trong tháng 2 có một cơ hội có thể đoạt trở về được số tài sản quan trọng từ trong tay Cộng Đảng sắp sửa giành thắng lợi. Tưởng tổng thống tin tưởng sâu sắc rằng đại lục không tránh khỏi bị xâm chiếm, mới dùng địa vị Tổng tài Quốc dân đảng ra lệnh cho Du Hồng Quân Tổng tài Ngân hàng Trung Ương có năng lực và đáng tin cậy bí mật vận chuyển đem số vàng dự trữ của quốc gia vận chuyển tới Đài Bắc, để tránh tương lai rơi vào tay bọn địch. Số vàng tồn tại này chuyển tới Đài Loan, khi cần thiết, sẽ có thể ủng hộ chính phủ chống cộng. Du Hồng Quân lập tức tuân lệnh thi hành. Hạng mục công việc vận chuyển vàng này được hoàn thành vào ngày 20 thángại cấm chỉ chuyển đi. Nếu Thượng Hải thất thủ, mà số vàng rơi vào trong tay Cộng phỉ thì sự tổn thất của quốc gia sẽ càng thảm hại nặng nề. Họ Du yên lặng chẳng nói năng liền gọi điện bí mật bàn bạc với phó Tổng thống Trần đang nhậm chức Chủ tịch tỉnh Đài Loan quyết định đem toàn bộ số vàng này vận chuyển tới Đài Loan. Trong một đêm khuya nào đó, tổng tư lệnh hải quân là Quế Vĩnh Thanh bí mật ra lệnh cho một chiếc quân hạm đậu ở bên cạnh bến, gần Ngân hàng Trung ương ở bãi Hoàng Phố Thượng Hải, đường phố ở gần ngân hàng Trung ương, tạm thời bị giới nghiêm, từng hòm từng hòm vàng một, lặng lẽ được vận chuyển lên chiến hạm. Trước khi trời sáng, chiến hạm này đã phóng ra khơi cửa Ngô Tùng, với tốc độ cao nhất, lao về phía Cơ Long Đài Loan.Trong Tân hội Du tiên sinh Hồng Quân sự lược nói: chiến hạm vận chuyển vàng sau khi phóng ra khỏi Thượng Hải, Du Hồng Quân lo lắng cuộc hành trình có tổn thất, trong lòng trĩu nặng, sớm tối luôn luôn đi quanh quẩn ở trong phòng. Sau hai ngày Trần Thành gọi điện cho Du, toàn bộ số vàng đã thu cất ổn thỏa. Họ Du giữ chức Tổng tài văn phòng ngân hàng Trung Ương đang ngồi ở ngoài bãi Thượng Hải lúc này mới cảm thấy gánh nặng vạn cân ở trên vai mới được giảm nhẹ?Đổng Hiển Quang nói: Du Hồng Quân lúc đó là Tổng tài ngân hàng Trung ương, kỳ thực không phải là như vậy. Trong bài Phong thái của Du Hồng Quân tiên sinh của Ngạn Viễn đăng trong Liên Hợp báo ngày 2-6-1960, có nói: Có lẽ có người cho rằng họ Du lúc đó đã làm Tổng tài Ngân hàng Trung Ương, trù hoạch vận chuyển kho vàng đến địa điểm an toàn, vốn đó chỉ là sự việc bên trong chức trách của ông ta. Kỳ thực, lúc đó họ Đu không nằm trong nhiệm vụ Tổng tài ngân hàng Trung ương. Tổng tài ngân hàng Trung ương lúc đó là Bộ trưởng tài chính Lưu Công Vân kiêm nhiệm, họ Du không những đã rời khỏi chức vụ ở ngân hàng Trung ương, hơn thế, lúc đó ông ta cũng không ở Thượng Hải, mà là sau khi nhận được mệnh lệnh của Tưởng Giới Thạch, đã từ Hồng Công bay tới Thượng Hải. Có thể nhìn thấy Tưởng Giới Thạch chẳng quản lý Quản thống. Quốc thống nào hết, chỉ cần tìm trăm phương ngàn kế đem những công việc mình muốn làm, làm xong là được.Đối với chi tiết nhỏ họ Du bay tới Hộ, Vương Khang nói, lúc đó chiến dịch Thượng Hải vừa mới bắt đầu, quân đội Quốc dân đảng canh giữ ở sân bay Long Hoa đã thực hành giới nghiêm, họ Du sau khi bước xuống máy bay lập tức bị bắt giữ. Mặc dù Du nhiều lần giải thích giới thiệu, thế nhưng Du không có bất kỳ thứ giấy tờ nào có thể chứng minh được mình là Du Hồng Quân cả, vệ binh vẫn không chịu để cho Du đi. Du đành phải nhiều lần gọi điện thoại cho Thang Ân Bá, cuối cùng điện thoại được nối thông, Thang Ân Bá cử quân tới đón, Du mới được thoát thân.Sau khi Du Hồng Quân trở về Thượng Hải, lập tức hiệp trợ với Tưởng Kinh Quốc đem tất cả số vàng, số bạc và số ngoại tệ ở trong ngân hàng Trung Ương vận chuyển đi hết. Vậy thì, với kế hoạch tuyệt mật và sự chỉ huy của Tưởng Giới Thạch, tổng cộng đã vận chuyển đi được bao nhiêu vàng? Từ trước đến nay có nhiều cách nói khác nhau. Có người nói là 11 vạn lượng, có người nói là 120 vạn lượng thậm chí còn có người nói, khi đó Tưởng Giới Thạch bắt Thang Ân Bá kiên trì giữ Thượng Hải chính là vì để cướp đoạt vận chuyển số vàng tồn giữ ở trong kho, có một chiếc chiến hạm nhà binh đã vận chuyển quá trọng tải rồi bị chìm xuống đáy biển.Căn cứ vào tư liệu tương đối đáng tin cậy, số vàng trong kho nhà nước mà Tưởng Giới Thạch vận chuyển đi đúng là hơn 2 triệu 97 vạn 3000 lượng. Ngoài ra còn có 16 triệu 40 vạn đồng bạc trắng. Toàn bộ số tiền này đều đã vận chuyển tới Đài Loan. Còn có 15 triệu 37 vạn đồng đô la Mỹ chuyển tới nước Mỹ, gửi vào tài khoản Chính phủ Quốc dân đảng ở Ngân hàng liên bang Mỹ[1]..Đối với chiếc tàu chiến bị đắm xuống biển kia, đúng là chiếc tàu mang nhãn hiệu Thái Bình vận chuyển toàn bộ hồ sơ của ngân hàng Trung ương, trên đường chạy từ Thượng Hải đi Đài Loan, nó đã bị một chiến hạm hải quân Quốc dân đảng lao phải rồi chìm xuống đáy biển.Tưởng Giới Thạch dù đem số vàng và bạc nhiều như vậy vận chuyển tới Đài Loan, trước hết đã để lại cho Lý tông Nhân một cơ đồ rách nát với hàng trăm lỗ thủng hàng ngàn vết thương. Căn cứ vào hồi ức về sau này của Lý Tông Nhân nói:- Sau khi Trần Thành nhậm chức (chỉ Trần Thành nhậm chức Chủ tịch Chính phủ tỉnh Đài Loan ngày 29 tháng 12 năm 1948) Tưởng tiên sinh liền ra mật lệnh đem toàn bộ số vàng, bạc, đô la Mỹ còn đọng ở trong kho nhà nước phải vận chuyển hết ra Đài Loan... Toàn bộ số vàng ở trong kho là 390 vạn Ao xơ, ngoại hối là 70 triệu đô la Mỹ và số bạc trắng trị giá 70 triệu đô la Mỹ.Do đó, ngày tôi lên nhận chức Quyền tổng thống, trong tay đã chẳng còn một chinh. Để duy trì lương ăn của quân đội, ổn định lòng dân đã ra lệnh cho Bộ tài chính Viện hành chính phải đem số tiền bạc của kho nhà nước đã vận chuyển tới Đài Loan phải chở về một phần để sử dụng. Thế nhưng Trần Thành chịu trách nhiệm phụ trách bảo quản tỉnh Đài Loan đã tuân theo chỉ thị mật của Tưởng, cuối cùng đã câm lặng chống lệnh, tảng lờ bưng tai không nghe thấy. Nghệ thuật cứu nghèo của Chính phủ duy chỉ có phát hành Đồng tiền quan kim vốn đã một chinh không đáng, với số lượng lớn. Giấy bạc in ra hàng loạt, dẫn tới đồng tiền mất giá, mỗi ngày ngàn dặm. Thị trường tiền tệ hoàn toàn đổ vỡ, trăm nghề đình đốn, quân tâm dân khí hoàn toàn mất hết, đã dần dần hình thành cục diện không còn cách nào có thể thu xếp lại được.
-------------------------------
[1] Tư liệu này xem trong Sóng gió 40 năm ở Đài Loan và Đại Lục do Cao Văn Các biên soạn, trang 6, NXB Văn Sử Cát Lâm tháng 7 năm 1991
Phần 6
Chương 1
Tưởng Giới Thạch đã đặt thời gian biểu cho sự phản công phục quốc như thế nào ?
Nguồn: Mọt sách
Thu gọn nội dung
Giang Nam tiên sinh nói: Lúc đầu Tưởng Giới Thạch chạy trốn ra đài Loan, tiếng gào thét Bảo vệ Đài Loan đã vang trời dậy đất. Sau khi cuộc chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, lập tức lớn tiếng hô Phản công đại lục thu phục lại đất đai đã mất. Sau đó, trong các thông báo mỗi năm ba lần (Tết Xuân, Tết thanh niên, Tế song Thập),luôn luôn nhắc lại giọng điệu Năm nay là năm quyết định của sự phản công, sang năm là năm thắng lợi của sự phản công.Vậy thì, Tưởng Giới Thạch đã phản công đại lục nhưthế nào?
Bất kể là ngày hôm nào vào trung tuần tháng 12 năm 1949 Tưởng Giới Thạch rời khỏi Thành Đô chạy trốn ra Đài Loan, từ đó trở đi, Tưởng cũng không thể trở lại đại lục được nữa, cũng không thể dạo gót ở Chung Sơn mưa gió, nhàn tản ngắm cảnh núi sông tráng lệ. Đây không thể không nói là một điều nuối tiếc lớn trong cuộc đời của Tưởng Giới Thạch. Tưởng Giới Thạch là con người rất yêu quê hương tha thiết. Đầu năm 50, trạm trưởng tình báo Kim Môn là Thẩm Chí Nhạc đã phái đặc vụ bí mật trốn về Khê Khẩu, đã đem trình lên Tưởng những bức ảnh chụp được về nhà cửa, phần mộ của họ Tưởng, rất được Tưởng tán thưởng. Chỉ từ điểm này mà nói, Tưởng Giới Thạch đã ghi xương khắc cốt hy vọng một sớm một chiều có thể trở lại đại lục, cộng thêm sự thất bại về quân sự, sự sụp đổ về chính trị, nhưng cảnh tượng bị phá hoại đòi hỏi phải xây dựng lại, cùng với tâm tư tình cảm của 2 triệu người đại lục theo Tưởng tới Đài Loan, Tưởng không thể không cao giọng hò hét phản công đại lục tới mức vang trời dậy đất. Mặc dù tới năm 1975 khi bị bệnh sắp qua đời, Tưởng vẫn không quên viết di chúc phản cộng phục quốc, giành lại hết đất đai ở đại lục.Khẩu hiệu phản công đại lục của Tưởng Giới Thạch, như mọi người đều biết đó là một câu tụng niệm đầu lưỡi của nhà đương cục Quốc dân đảng Đài Loan, đồng thời cũng là câu khôi hài gây trò cười cho thiên hạ, đó là Một năm chuẩn bị, hai năm phản công, ba năm quét sạch, năm năm thành công. Kỳ thực, đây chỉ là một tờ trong vô vàn phiếu chi vô giá trị mà Tưởng Giới Thạch liệt kê ra, dĩ nhiên đây cũng là một tờ rất nổi tiếng. Tưởng Giới Thạch còn có tờ phiếu chi vô tích sự nào nữa? Trong những tờ phiếu chi đó còn đặt cả thời gian biểu phản công đại lục như thế nào, xây dựng lại vương triều họ Tưởng ra làm sao, nói ra để cho mọi người tăng thêm kiến thức.Tờ phiếu chi phản công đại lục mà Tưởng Giới Thạch liệt kê, tờ sớm nhất phát ra vào ngày 26 tháng 6 năm 1949, trong Hội nghị quân sự khu Đông Nam tại Đài Bắc, Tưởng Giới Thạch khi nói về Quá trình cách mạng của bản Đảng với quan hệ nhân quả của thành bại, đã nói: Trong hội nghị lần này, chúng ta cần phải thảo luận một cách thiết thực. Tôi cho rằng, nói chung các tướng lĩnh cao cấp chúng ta nếu có thể không tham ô tiêu cực, không buôn lậu, không biển thủ, không nhiễu dân. Lại tích cực, có tinh thần đoàn kết, mọi việc đều công khai, thực sự cầu thị, đã tốt rồi cần tốt nữa. Đặc biệt là đối với cấp dưới có thể đồng cam cộng khổ, thưởng phạt phân minh, thế thì tinh thần và lực lượng chiến đấu của bộ đội chúng ta, chỉ trong một thời gian rất ngắn, nhất định có thể khôi phục được. Chưa đầy ba năm, nhất định chúng ta có thể tiêu diệt được cộng phỉ !Để kiên định ý chí của mọi người, cần phải vạch ra mục tiêu và tiến độ để mọi người cố gắng, ngày hôm nay tôi đặc biệt nêu ra mấy câu khẩu hiệu đơn giản, mong mọi người ghi lòng tạc dạ, cùng cố gắng, quán triệt trước sau. Mấy câu khẩu hiệu này là:
1. Rửa oan xỉ nhục, báo phục hận thù, tiêu diệt Cộng phỉ, hoàn thành Cách mệnh!
2. Tinh binh giản chính, thu hẹp đơn vị, Tự động giáng cấp, bổ xung lực lượng.
3. Chỉnh huấn nửa năm, đổi mới tinh thần! Một năm phản công, ba năm giành thắng!
Nói tóm lại, trước mắt sẽ là giai đoạn gian khổ nhất trong sự nghiệp cách mạng của chúng ta, thế nhưng cũng là cơ hội thành công lập nghiệp, ngàn năm có một của các đảng viên cách mạng chúng ta. Mong muốn mọi người hãy nhớ lấy bài học lịch sử kiên định niềm tin tất thắng, chân thành đoàn kết, dốc sức hợp tác, để chuẩn bị đầy đủ cho cuộc phản công của chúng ta, hoàn thành cuộc cách mạng của quốc dân, thực hiện sứ mệnh của Tam dân chủ nghĩa.Tại đây, Tưởng Giới Thạch nói rất rõ ràng chính xác, mục đích là chỉ thị Mục tiêu và tiến độ cố gắng, thời gian là một năm đến ba năm, một năm là khởi điểm, ba năm là điểm kết thúc, từ trong sáng ý rõ ràng, lời nói chắc chắn. Thế nhưng, sau nửa năm, Tưởng Giới Thạch lại nêu ra thời gian biểu mới, một năm phản công biến thành hai năm phản công. Ngày 13 tháng 3 năm 1950, trong bài nói chuyện Mục đích và sứ mệnh của việc phục chức, nói: Bây giờ tôi đem kế hoạch Một năm phản công, ba năm thành công đổi thành Một năm giáo huấn, hai năm phản công, quét sạch cộng phỉ, ba năm thành công. Tức là nói, từ bây giờ trở đi, ít thì ba năm, nhiều tới năm năm, cần phải đạt tới mục đích tiêu diệt Cộng phỉ, phục hưng Trung hoa dân quốc của chúng ta.Từ tháng 6 năm ngoái tới tháng 3 năm nay, thời gian trôi mất đã hơn tám tháng rồi, quân đội Quốc dân đảng đã bị đuổi toàn bộ ra khỏi đại lục, Hải Nam, Châu Sơn thì nơm nớp lo âu từng giờ từng phút, đang chuẩn bị rút lui, không thể nói một năm phản công được nữa, đành phải nói Hai năm phản công. Thế nhưng, đã đổi giọng phải nói ra một lý do. Tức thì Tưởng Giới Thạch nói: Sau khi tôi tới Đài Loan năm ngoái, tại Hội nghị quân sự khu đông nam triệu tập ở Giới Thọ Quán Đài Bắc vào tháng 6, nhằm kiểm điểm nguyên nhân thất bại về mặt quân sự trong việc tiễu phỉ trước đây, còn hoạch định kế hoạch và kỳ hạn cuộc phản công từ nay về sau của chúng ta. Khi bế mạc hội nghị, tôi đã nêu ra kết luận nửa năm chỉnh huấn, củng cố căn cứ địa, một năm phản công, ba năm thành công. Lúc đó các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Tứ Xuyên, Vân Nam, Quý Châu, Tuy Viễn, Cam túc, Ninh Hạ, Thanh Hải, Tân Cương cùng với Thiểm Nam đài còn ở trong tay quốc quân của chúng ta, cho nên tôi cho rằng trong vòng một năm khu Đông Nam bắt đầu phản công, tuyệt đối không có vấn đề. Thế nhưng sau này chiến cuộc thay đổi quá nhanh, toàn bộ Tây bắc và Tây nam, không đầy thời gian bốn tháng, toàn bộ đã rơi vào gót sát của kẻ địch. Đây là điều mà trước đây tôi không ngờ tới. Cho nên tình hình hiện tại, đã hoàn toàn không giống như lúc đó. Chúng ta phải vạch lại kế hoạch từ đầu, ung dung mưu tính việc khôi phục, quyết không thể ham làm việc cao xa, chỉ cầu hiệu quả nhanh chóng!Tưởng Giới Thạch không thể không thừa nhận sự thất bại triệt để của mình ở đại lục, thế nhưng giấc mộng phản công vẫn phải tiếp tục làm, phiếu chi vẫn phải tung ra, điều này khó tránh khỏi có chút nản chí. Tưởng đành phải muợn người đã chết để khích lệ người sống.Chúng ta biết rằng sau khi Việt Vương Câu Tiễn thất bại ở Cốc Kê, trải qua mười năm tụ tập, mười năm giáo huấn mà sau chỉ được nước Ngô bằng cái ao. Ngày nay chúng ta muốn khôi phục đất đai của toàn bộ đại lục rộng 12 triệu ki lô mét vuông, triệt để tiêu diệt Cộng phỉ quốc tế đầy âm mưu nham hiểm độc ác, đương nhiên phải đòi hỏi phấn đấu gian khổ trong suốt thời gian dài, mới có thể có hiệu quả. Thế nhưng nếu mọi người có thể dựa theo gợi ý của tôi trên đây trong ngày hôm nay, triệt để quét sạch những nguyên nhân thất bại của quá khứ, thực sự làm được: hiệp đồng nhất trí đoàn kết phấn đấu, một mặt tăng cường công tác phòng điệp bảo mật trong nội bộ, một mặt triển khai hoạt động tình báo trong khu phỉ, thế thì mục đích phục quốc của chúng ta, vẫn có thể thực hiện được nhanh chóng.ý tứ này là muốn nói, sự thất bại triệt để về mặt quân sự ở đại lục trong 8 tháng lại đây, đã khiến cho việc một năm phản công mà Tưởng dự định kỳ hạn đã trở thành nước chảy hoa trôi, thế nhưng đây không phải là sai lầm của ông ta, mà là những tướng tá quan lại tại chức không hiệp đồng nhất trí, đoàn kết phấn đấu. Bất kể trách nhiệm thuộc về ai, thì đây cũng là tờ phiếu chi thứ hai mà Tưởng Giới Thạch chi ra. Trải qua những vấp váp và biến cố cực kỳ to lớn trong quá nửa năm lại đây, theo mọi người nói, khi Tưởng Giới Thạch lại một lần nữa tung ra loại phiếu chi về thời gian phản công này, đã thận trọng lại càng thêm thận trọng, chớ để cho bản thân mình gây khó dễ cho bản thân mình. Thế rồi, sau hai tháng, phát biểu diễn văn về cuộc triệt thoái khỏi Châu Sơn, Đảo Hải Nam của quân đội Quốc dân đảng trên đài phát thanh Đài Loan, Tưởng nói: Nửa tháng trước, chúng ta đã triệt thoái quân đội của Hải Nam, hôm nay quân đội của Định Hải cũng chủ động tập trung về Đài Loan và các đảo vệ tinh... Sau khi binh lực tập trung, lẽ dĩ nhiên binh lực của Đài Loan càng thêm xung túc, sự phòng vệ của Đài Loan càng được củng cố... Tôi nghĩ rằng tất cả mọi người tới đây tất nhiên sẽ hỏi tôi, cuối cùng thì khi nào ông mới bắt đầu phản công đại lục để cứu vớt đồng bào của các ông? Tôi có thể báo cho mọi người biết một cách rất xác thực là: Trong vòng 3 tháng sau nữa, nếu cộng phỉ tới xàm phạm Đài Loan, thì đó chính là thời cơ quốc quân chúng ta ngang nhiên đánh mạnh thừa thắng phản công đại lục. Như vậy là sau 3 tháng nữa, chúng ta có thể chính thức phản công đại lục.Đây là tờ phiếu chi vô giá trị thứ ba mà Tưởng Giới Thạch đã tung ra. Cần chú ý, tờ phiếu chi này của Tưởng Giới Thạch có một đặc điểm, chính là tiền đề phản công luận sau 3 tháng của ông ta là giải phóng quân tới tấn công Đài Loan. Phản công luận của Tưởng Giới Thạch vì sao từ một năm biến thành hai năm, tiếp đó lại vội vàng chuyển thành ba tháng? Đây là một vấn đề rất khôi hài. Muốn tìm hiểu thiết thực nguyên do vội chuyển này, cần phải hiểu rõ tình thế của Đài Loan lúc đó.Năm 1949, sự thất bại của quân đội Quốc dân đảng ở đại lục, không chỉ là sự thất bại về quân sự, sự thất bại về chính trị, mà còn là sự thất bại về ngoại giao, càng là sự thất bại về nhân tâm. Đầu tháng 10 năm 1949, trong cuộc nội chiến, chính phủ Mỹ luôn luôn kiên quyết ủng hộ chính quyền Tưởng Giới Thạch đã thực sự tin chắc rằng Tưởng Giới Thạch bị vĩnh viễn đuổi ra khỏi đại lục Trung Quốc, quân đội của Đảng Cộng sản Trung Quốc không lâu sẽ đánh chiếm Đài Loan, quan hệ giữa nước Mỹ và chính quyền Tưởng Giới Thạch cũng đã được kết thúc từ đây. Vì thế, chính phủ Mỹ đã công khai tuyên bố, họ sẽ không lợi dụng vũ lực của mình để can thiệp vào cục thế hiện tại của Đài Loan, hơn thế còn đưa Mỹ kiều rút khỏi Đài Loan, kiến nghị Tưởng Giới Thạch đưa quân đội rút ra khỏi đảo Hải Nam, Đài Loan sẽ do Liên hiệp quốc tiếp quản. Ngày 12 tháng 1 năm 1950 Quốc vụ khanh nước Mỹ là Akitơn đã tuyên bố trước thế giới tại Câu lạc bộ báo chí của ông rằng: Nước Mỹ chỉ có trách nhiệm bảo hộ trực tiếp an toàn cho các quốc gia trong phòng tuyến hình cung này là quần đảo Aleutian, Nhật Bản, quần đảo Lưu Cầu, Philippin. Đài Loan bị vứt bỏ. Chính sách bỏ Đài Loan của Mỹ đã dẫn tới sự hỗn loạn cực kỳ lớn của chính cục Đài Loan, trong hòn đảo nhất thời lan truyền những tin bịa đặt vu cáo, nhân tâm hoảng loạn. Những người có sự tích lũy giầu có biến thành những kẻ ý chí bạc nhược. Vô luận là nhà buôn hay là quan chức, đều hăm hở muốn chạy ra nước ngoài. Trong tháng 5, đảo Hải Nam lại bị đánh chiếm, Châu Sơn thất thủ, khắp nơi loan truyền tin Giải phóng quân sắp sửa đánh chiếm Đài Loan, trên đảo gió gấp mây thấp, ngày tới trăng mờ. Trong tình hình này, Tưởng Giới Thạch đã vứt bỏ phản công luận trong ba tháng. Ngoài việc ban đêm thổi sáo miệng qua bãi tha ma - tự mình làm cho mình bạo dạn hơn lên ra, chính là để lừa dối công chúng trên đảo để ổn định lòng dân. Vấn đề là ở chỗ tiền đề của tờ phiếu chi này là giải phóng quân sẽ tới đánh chiếm Đài Loan. Nếu giải phóng quân không đến thì sao? Tưởng Giới Thạch biết rằng công chúng của Tưởng nhất định sẽ nêu ra câu hỏi này. Tức thì Tưởng tiếp tục nói:Nếu Cộng phỉ trước sau không dám tới xâm phạm Đài Loan, thế thì chúng ta cũng phải hoàn thành sự chuẩn bị phản công đại lục của chúng ta trong vòng một năm Chậm nhất là sau một năm, cũng cần phải thực hiện phản công đại lục... Bây giờ tôi sẽ đem kế hoạch phản công đại lục của chính phủ, tổng quát vào bốn câu nói lại một lượt với đồng bào, đó là Một năm chuẩn bị, hai năm phản cộng, ba năm quét sạch, năm năm thành công.Đầu lưỡi Tưởng Giới Thạch rực rỡ như hoa sen, từ ba tháng phản công lại chuyển thành hai năm phản công, còn cho thêm một chiếc ô dài. Điều đáng nực cười là: Tại đây trong cùng một bài diễn văn, Tưởng còn nói: Ba năm quét sạch, năm năm thành công. Và túc, Tưởng Giới Thạch vẫn tiếp tục sắp đặt thời gian biểu phản công của mình, để làm dự toán chính trị cho mình, tiêu thụ những tờ séc vô giá trị của mình, chế tạo ra những thần thoại của mình. Ngày 19 tháng 5 năm 1959, trong Đại hội 8 khóa 2 Quốc dân đảng, bản báo cáo với nhan đề Nắm vững cơ may trung hưng phục quốc Tưởng Giới Thạch lại đặt ra một thời gian phản công nữa. Tưởng nóio vì mọi người từ đại lục triệt thoái về Đài Loan, đã được 10 năm rồi. Sự bi ai thống khổ trong cảnh nước mất nhà tan lúc đó và món nợ máu ô nhục, cũng ít nhiều đã bị năm tháng xói mòn. Lại do vì sự ổn định của xã hội và sự phát triển của kinh tế cũng có một bộ phận người thực sự đã đặc biệt bận rộn lo lắng tới đời sống của mình, hơn thế còn mưu đồ lấy việc nâng cao đãi ngộ cá nhân làm mục đích chủ yếu, do đó hoặc ít hoặc nhiều đã quên mất trách nhiệm chống cộng rửa nhục của mình, làm mơ hồ mục tiêu báo thù phục quốc của mình... Những bệnh hoạn trên mặt tâm lý, trên mặt sinh hoạt, trên mặt tinh thần như đã nói trên, đích thực là chướng ngại nghiêm trọng bậc nhất trên con đường trung hưng phục quốc của chúng ta. Nếu không triệt để nhổ tận gốc, hơn thế phấn đấu cổ vũ khích lệ nhụê khí hăng say biết nhục phải rửa nhục, thì còn nói gì đến việc phản công phục quốc nữa? Nói thực tình, nếu lại trải qua 10 năm nữa, vượt quá kỳ hạn Mười năm sinh tụ, mười năm dạy dỗ mà vẫn không thể phản công phục quốc được, thế thì bất kỳ hi vọng nào cũng đều bị phá diệt hết !Từ năm 1949 quân Quốc dân đảng chạy trốn ra Đài Loan, đến nay nói chuyện này của Tưởng Giới Thạch, đã tròn trĩnh mười năm rồi. Cái gọi là lại trải qua mười năm nữa của Tưởng đương nhiên là chỉ 10 năm sau năm 1959. Đây lại có thể gọi là tờ phiếu chi thứ năm của Tưởng. Xem ra, chỉ cần Tưởng Giới Thạch còn sống thì Tưởng có thể phát hành séc không ngừng. Thế nhưng ông trời cũng không toàn mỹ, Jêsu cũng chẳng đủ đầy đến năm 1975, Tưởng Giới Thạch buông tay ở giữa nhân gian, rất nhiều tờ séc của Tưởng, chưa có tờ nào có thể đổi ra thành tiền mặt được. Mặc dù như vậy, trong di chúc của mình Tưởng Giới Thạch vẫn kiên trì viết rằng: Đại nghiệp phản cộng phục quốc đang ở thời kỳ ngày một đổi mới. Cần phải lấy việc phục quốc làm mục tiêu chung, chỉ có điểm là lần này không liệt kê ra được thời gian. Điều này cuối cùng là sự kiên cường. cương nghị của Tưởng, hay là sự cố chấp, xảo trá của ông ta?[1].
---------------------------
[1] Tưởng Giới Thạch truyện của Vương Phủ Dân trang 480
Phần 6
Chương 2
Tưởng Giới Thạch tuần sát kim môn và phong trào đừng quên ở cử của quân đội Quốc dân đảng
Nguồn: Mọt sách
Thu gọn nội dung
Ngày 18 tháng 11 năm 1964 là một ngày hửng nắng nhiều mây ở khu vực duyên hải Đông nam Trung Quốc, một loại thời tiết râm mát ẩm thấp trong mùa đông. Trên đảo Kim Môn kề gần đại lục, hơn mười vạn sĩ quan và binh lính Quốc dân đảng, mỗi người chiếm giữ một vị trí chiến đấu, phòng bị nghiêm ngặt. Các cư dân ở trên đảo với số lượng có hạn cũng được báo cho biết đóng chặt cửa ngõ, không được ra ngoài.Đúng 10 giờ sáng, một chiếc xe Jeep kiểu Mỹ bóng loáng từ Bộ tư lệnh Phòng vệ Kim Môn, lái về phía đông bắc Đảo, leo lên con đưòng núi ngoằn ngoèo, gấp khúc, lái thẳng tới đỉnh núi Thái Vũ ở phía bắc. Xé tới chùa Hải ấn, Tưởng Giới Thạch chui ra cửa xe, một mặt mỉm cười ra hiệu với mấy tên sĩ quan Quốc dân đảng đã chờ đợi từ lâu, một mặt cứ lao về phía trước, Tưởng Kinh Quốc và một số nhân viên quan trọng trong Chính quyền Quốc dân đảng đi sát theo sau. Chùa Hải ấn đặt ở trên ngọn chính nơi cao nhất trên núi Thái Vũ Sơn trên đảo Kim Môn, cách mặt biển hơn 230 mét, không những có thể từ trên cao nhìn xuống toàn đảo Kim Môn, hơn thế còn có thể phóng tầm mắt nhìn vào đại lục, và còn có thể đem bán đảo Hạ Môn, Tập Mỹ cùng với Đại Đăng, Tiểu Đăng thu hết vào trong tầm mắt. Chỉ có điều là ngày hôm nay thời tiết không đẹp lắm, phía đại lục mây phủ mịt mù, tuy đã chần chừ tiêu phí khá nhiều thời gian, mà vẫn không nhìn thấy ánh nắng, Tưởng Giới Thạch đành phải căn dặn xuống núi.Sau khi chạy trốn ra Đài Loan, Tưởng Giới Thạch đã từng nhiều lần tới quan sát ở Kim Môn. Một là vì trèo lên Thái Vũ mà nhìn đại lục có thể giải được nỗi buồn phiền sầu nhớ quê hương. Hai là tới bốt gác đầu cầu của cuộc phản công đại lục này khích lệ sĩ khí. Mấy năm gần đây, theo sự trôi qua của năm tháng, sự tăng cao của tuổi tác, Tưởng Giới Thạch đã có một loại cảm giác những ngày khổ sở trước mặt sẽ được ngắn dần. Tưởng cảm thấy tuổi mình đã già tới 77 rồi, đã dần dần bước vào những năm cuối, leo lét như ngọn nến trước cơn gió thổi, như sắp bước quan tài, thế mà cuộc phản công đại lục vẫn còn mờ xa tít tắp. Tháng 5 năm 1959, Tưởng đã nói nếu lại trôi qua 10 năm nữa mà vẫn chưa thể phản công được đại lục, thế thì bất kỳ hy vọng nào cũng đều sẽ bị phá diệt hết. Vậy mà bấm đốt ngón tay đã năm năm trôi qua rồi, còn năm năm nữa lại sẽ như thế nào đây ? Từ mùa xuân năm 1962 đến nay Tưởng đã ra lệnh cho quân đội Đài Loan đánh lén đại lục từ nhiều mặt bằng lục hải không quân. Thế nhưng đại đa số có đi mà chẳng có về. ở đại lục trước đây không lâu lại đã thí nghiệm thử thành công bom nguyên tử, càng khiến cho Tưởng buồn da diết, trời lạnh lẽo suốt cả mùa thu.Từ chùa Hải ấn men theo các bậc đá xuống núi, rất nhanh chóng, đã bước tới vách đá có khắc dòng chữ Mẹ quên ở Cử . Bốn chữ đại tự mang phong cách liễu thể này do Tưởng Giới Thạch viết tháng giêng năm 1952 còn được tính là có lực, không những có thể biểu hiện được tri thức thư pháp của Tưởng, mà còn có thể toát ra được tâm tình của Tưởng lúc đó.Ngày 25 tháng 6 năm 1950 cuộc chiến tranh ở Triều Tiên bùng nổ, nước Mỹ thay đổi chính sách bỏ Đài Loan chuyển sang bảo vệ Đài Loan, Tưởng Giới Thạch đã vượt qua được cửa ải khó khăn này. Đầu năm 1952, cuộc chiến tranh ở Triều Tiên vẫn đang tiến hành. Quân đội Quốc dân đảng Đài Loan đã thay đổi phương pháp tập kích quấy rối quy mô nhỏ của hai năm trước, chuẩn bị sử dụng chiến thuật lấy lớn nuốt bé, tốc tiến tốc thoái, mở ra cục diện mới phản công đại lục. Vì vậy, Tưởng Giới Thạch lại tới Kim Môn tuần sát, nhận lời mời đã viết ra bốn chữ Mẹ quên ở Cử, về sau bốn chữ này được khắc ở trên vách đá núi Thái Vũ.Cử là huyện Cử ở Sơn Đông ngày nay, thời kỳ chiến quốc, đó là thành trì cố thủ chật vật sau cùng của nước Tề.Tướng Tề là Điền Đang đã dùng thành trì này làm căn cứ địa phản công, kiên ttrì giữ được vài năm, sau đó đã thu phục thành công những đất đai đã mất. Tưởng Giới Thạch đã dùng Cử Thành để ví với Đài Loan, mộng tưởng câu chuyện Điền Đan thu phục nước Tề sẽ được diễn lại. Sau khi khắc đá ở Kim Môn, mỗi lần Tưởng Giới Thạch tới thăm đảo, đều phải tới chỗ này tham quan một lượt. Hôm nay lại tới đây, Tưởng Giới Thạch liền gọi mấy tên tùy tùng chủ yếu cùng với Tưởng chụp ảnh lưu niệm chung ở trước vách đá.Xuống núi Thái Vũ, Tưởng Giới Thạch lại dẫn tùy tùng tới thăm quán kỷ niệm đại thắng Cổ Ninh Đầu. Đây cũng là một nơi mỗi lần tới Tưởng Giới Thạch đều phải đến thăm. Cổ Ninh Đầu ở đầu tây bắc Đảo Đại Kim Môn, bao gồm ba làng Bắc Sơn. Nam Sơn và Lâm Thổ. Hạ tuần tháng 10 năm 1949, ba trung đoàn và bốn đại đội tổng cộng 9086 người quân giải phóng (trong đó quân đội 8736 người, dân công lái đò 350 người) tại đây đã leo lên đất liền[1], sau đó do vì các loại nguyên nhân, quyết chiến mấy ngày liền rồi bị thất lợi, liền dần dần trở thành đại thắng Cổ Ninh Đầu mà nhà đương cục Quốc dân đảng Đài Loan thổi phồng rùm beng đem ra so sánh với chiến dịch Côn Lôn Quan, chiến dịch Ngõa Lồ Ban trong cái gọi là chiến tranh kháng Nhật, nào là điểm chuyển biến. bước ngoặt v.v... Về sau. Nhà đương Cục Đài Loan đã tung ra một khoản tiền dành riêng để xây dựng quán kỷ niệm theo kiểu pháo đài.Từ Cổ Ninh Đầu trở về, theo thường lệ, Tưởng Giới Thạch đã phát biểu một bài diễn thuyết. Tưởng nói, phản công phục quốc là một trận chiến đấu thần thánh. Từ năm 1962 đến nay, các nhân viên vũ trang đã tiến hành đột kích thẩm thấu vào đại lục, đã trở thành tiếng vang đầu tiên phản công toàn diện vào đại lục, thu được kết quả to lớn. Tưởng còn nói, ngày trước đây Trung Cộng đã nỗ lực vũ khí hạt nhân tuy có thể dùng vào chiến tranh, nhưng thời gian vẫn còn rất xa. Nếu muốn tránh khỏi sự uy hiếp của bom nguyên tử, thì phải tăng cường chuẩn bị phản công đại lục, cần phải hoàn thành đại nghiệp phản công phục quốc, trước khi Trung cộng hoàn thành vũ khí hạt nhân. Trước mắt, quân dân Bành, Kim, Mã, Đài rất cần phải phát huy tinh thần kiên nhẫn dẻo dai, nhẫn nhục chịu đựng, hy sinh phấn đấu, khó khăn không sờn, đánh đuổi quân thù, khôi phục nước Tề của Đan Điền, phấn đấu vì sự nghiệp Quang phục đại lục. Tiếp đó, Tưởng lại nói, ngoảnh lại nhìn năm 1924, cái nôi của quân Cách mạng quốc dân - nơi mà trường quân sự Hoàng Phố vừa mới ra đời, chỉ có điều là dựng lên ở trên một hòn đảo nhỏ trên Châu Giang gần thành phố Quảng Châu, diện tích chưa đầy 5 kilô mét vuông, toàn trường chưa đầy 500 người, hơn thế ngày hôm nay không có lương ăn cho ngày mai, cộng thêm hoàn cảnh bốn mặt đều là địch, thế nhưng cuối cùng vẫn có thể quét sạch được bọn quân phiệt, thống nhất được Trung quốc. Ngày nay chúng ta còn có các căn cứ rộng lớn như Đài, Bành, Kim, Mã; chỉ lấy riêng tỉnh Đài Loan ra để nói, nhân khẩu và diện tích đã gấp Hoàng Phố hàng ngàn lần! Lại cộng thêm hậu thuẫn ưu việt trên những điều kiện chính trị, kinh tế, quân sự, tại sao chúng ta còn lo lắng hoảng sợ?.Sau hai ngày, ngày 20 tháng 11 năm 1964, quân đội Quốc dân đảng ở Kim Môn đã phát động phong trào Đừng quên ở Cử, Tưởng Giới Thạch nghe tin rất sung sướng. Tưởng cho rằng, thực chất tinh thần của cuộc vận động này, không những đủ để kiên định niềm tin của quân đội Quốc dân đảng Đài Loan đối với việc phản công phục quốc, hơn nữa còn có thể phát khởi tinh thần tích cực phấn đấu của họ. Tưởng Giới Thạch nói:- Gần đây sĩ quan và binh lính ở Mặt trận Kim, Mã đã học tập 2200 năm về trước, theo Đan Điền đã phát động phong trào Đừng quên ở Cử tại Cử Huyện và Túi Mặc... Điều này vào đêm trước cuộc phản công phục quốc hôm nay, phong trào dân tộc phục hưng do các sĩ quan binh lính ngoài mặt trận phát động Đừng quên ở Cử chẳng những thực sự tỏ rõ tinh thần cách mạng và chí khí cách mạng của quân dân ta ở tiền tuyến, hơn nữa, tất nhiên cũng có thể này sinh ra hành động mới và khí thế mới bước vào cuộc chiến đấu của quân đội ta. Kỳ thực đây cũng chính là ý nghĩa của tám chữ Đoàn kết phấn đấu, rửa thù phục quốc mà tôi thường khích lệ mọi người. Tưởng còn nói: Phong trào đừng quên ở Cử chính là một kỷ niệm thiên cổ không thể phai mờ, cùng chung hoạn nạn, sống chết có nhau của quân dân ở Đài, Bành, Kim, Mã ngày nay, dùng nó để giành lấy thắng lợi trong cuộc phản công phục quốc mai sau[2]..Được sự cổ vũ khích lệ của Tưởng Giới Thạch, nhà đương cục Đài Loan đã dấy lên phong trào Đừng quên ở Cử trong quân đội Quốc dân đảng. Bộ tham mưu của họ đã căn cứ vào đây vạch ra Đề cương cuộc vận động Đừng quên ở Cử trong quốc quân, sau khi trình lên Tưởng Giới Thạch thẩm tra và quyết định, lại đặt ra những biện pháp cụ thể để đẩy mạnh thực hiện trong quân đội Quốc dân đảng. Một thời gian phong trào rất rầm rộ ở trong và ngoài đảo Đài Loan. Kỳ thực, đến tháng 11 năm 1964, cao trào phản công đại lục lần thứ hai của quân đội Quốc dân đảng không những đã thoái trào mà đã tiếp cận với bụng sóng dưới đáy biển. Làm sao biết được điều đó? Cao trào phản công lần thứ hai của quân đội Quốc dân đảng bắt đầu vào tháng 10 năm 1962, đến tháng 1 năm 1965, một nhóm đặc vụ vũ trang trèo lên bờ đột kích quấy rối, vì bị tổn thất nặng nề mà không thể không vội vàng rút quân. Hoạt động quấy rối do hải quân của chúng tiến hành sau cuộc hải chiến mồng 6 tháng 8 năm 1965 và cuộc hải chiến phía đông Sùng Vũ cũng đã giảm bớt đi rất nhiều. Hoạt động quấy rối của không quân đã căn bản hạn chế ở hoạt động trinh sát trên cao của máy bay kiểu U-2 cải tiến của Mỹ, do nhiều lần bị quân giải phóng bắn rơi bắt đầu từ giữa năm 1960 đã dần dần giảm bớt những hoạt động quấy nhiễu trên không đối với đại lục.Đừng quên ở Cử, chính là giấc mộng phản công chưa được trọn vẹn của Tưởng Giới Thạch.
------------------------
[1] Cuộc chiến Kim Môn của Từ Diện, trang 82, NXB phát thanh truyền hình Trung Quốc tháng 2 năm 1992
[2] Đoạn văn này trích trong cuốn Đài Loan đương đại trang 159, NXB nhân dân An Huy tháng 5 năm 1989
Phần 6
Chương 3
Cao trào quấy rối lần thứ nhất phản công đại lục của Tưởng Giới Thạch
Nguồn: Mọt sách
Thu gọn nội dung
Đừng quên ở Cử, phản công đại lục là giấc mộng kê vàng đẹp đẽ của Tưởng Giới Thạch, thế nhưng Tưởng không phải là chàng thư sinh, tỉnh giấc mộng ở trong quán cơm Hàm Đan, mà nồi cháo kê vẫn còn chưa chín. Giấc mộng phản công của Tưởng Giới Thạch mới chợp mắt đó mà đã mấy chục năm.Mùa hè thu năm 1949, tập đoàn Tưởng Giới Thạch sau khi rút chạy về Đài Loan và các hòn đảo nhỏ miền duyên hải, lập tức bắt đầu các cuộc quấy rối quân sự và các hoạt động phá hoại đối với đại lục. Căn cứ vào sự tiết lộ của Đương đại Trung Quốc - quân sự quyển, những hành động tác chiến quấy rối đại lục của quân đội Quốc dân đảng, bắt đầu từ năm 1949, đến năm 1969 đã cơ bản kết thúc, trải qua 20 năm. Trong thời gian này, từ mùa thu năm 1949 đến năm 1966, quân đội Quốc dân đảng, trước sau đã điều động hơn 54.000 người, tiến hành hoạt động quấy rối trên bờ đại lục tới hơn 400 lần, đối với sáu tỉnh và thành phố miền duyên hải ở phía bắc bắt đầu từ Sơn Đông, phía Nam tới Quảng Đông. Đồng thời với điều này, bộ phận tàn quân Quốc dân đảng tan tác chạy qua Miến Điện cũng đã nhiều lần phản công Vân Nam. Trong đó từ năm 1950 đến năm 1953 và từ 1962 đến 1964 là hai lần của cao trào quấy rối phản công. Cao trào lần thứ nhất chủ yếu dùng quân đội vũ trang quy mô vừa và nhỏ số lượng từ vài trăm quân tới trên vạn quân tới xâm phạm quấy rối. Cao trào lần thứ hai dùng đơn vị đặc vụ võ trang cỡ nhỏ từ 10 người trở lên tới vài chục người với đặc trưng là xâm nhậm và quấy rối. Sau năm 1966, quân Quốc dân đảng dùng phương thức chủ yếu là cử bọn đặc vụ lẻ tẻ, tiến hành hoạt động phá hoại đối với đại lục. Quân giải phóng nhân dânvới sự phối hợp với đông đảo quần chúng nhân dân, dân binh và bộ đội côg an, đã đánh những đòn nặng nề vào các hoạt động phản công quấy rối của quân Quốc dân đảng và đã giành được những thắng lợi toàn diện.Đầu năm 1950, hoạt động phản công đại lục của quân đội Quốc dân đảng dùng phươmg thức chủ yếu là cử quân chính quy, phỉ biển và đặc vụ võ trang vượt biển lên bờ tiến hành phá hoại. Vào thời kỳ này tập đoàn Tưởng Giới Thạch đã lợi dụng cơ hội quân dân đại lục dốc sức vào các hạng mục công tác trọng tâm là thanh trừ tiếu phỉ đặc vụ; tiến hành cải cách ruộng đất và chống Mỹ viện Triều v.v..đã không ngừng cho quân đội Quốc dân đảng, tiến hành lên bờ hoạt động quấy rối với quy mô vừa và nhỏ đối với đại lục, đặc biệt là khu vực miền duyên hải Đông Nam. Sự phản công ở thời kỳ này cũng có thể phân làm 4 giai đoạn.Giai đoạn thứ nhất là từ mùa thu năm 1949 tới tháng 6 năm 1950, để kiềm chế phát triển thắng lợi trong cuộc chiến tranh giải phóng của quân giải phóng nhân dân, cản trở công cuộc giải phóng Trung nam, Tây Nam và các hòn đảo miền ven biển, tập đoàn Tưởng Giới Thạch đã từng cử số lượng phỉ biển, đặc vụ, xâm phạm vào khu vực duyên hải đại lục, tiến công vào các hòn đảo miền ven biển Triết Đông. Thế nhưng tất thảy các hoạt động quấy rối đó đều bị đập tan. Những cuộc tác chiến chủ yếu của giai đoạn này có:Ngày 15 tháng 1 năm 1950, hơn 200 quân Quốc dân đảng đảo Hải Nam lẻn vào xâm phạm huyện Từ Văn đoạn phía nam bán đảo Lôi Châu, đã bị quân giải phóng tiêu diệt toàn bộ, phó sư trưởng Trần Hồng Lương và 160 người bị bắt sống.Ngày 25 tháng 1 năm 1950, quân Quốc dân đảng ở đảo Kim Môn cử Đội du kích Lưỡng Long (Long Vân, Long Nham) đã bị quân giải phóng tiêu diệt toàn bộ ở khu vực Bình Hòa, Nam Tịnh, băt sống tên thiếu tướng Tư lệnh Hạ Thiếu Lương và hơn 100 tên.Ngày 15 tháng 3 năm 1950, Quốc dân đảng trên đảo Đại Trần đã cử Đại đội đột kích thứ nhất Triết Nam do Vương Trương Nghĩa dẫn dầu với hơn 900 quân, mò lên đại lục vùng ven biển Tùng Môn huyện Ôn Lĩnh Triết Giang, vấp phải sự đánh trả ngoan cường của một tiểu đoàn, sáu trung đoàn cảnh vệ quân phiên khu Ôn Châu và một đại đội huyện Ôn Lĩnh của quân giải phóng, bắn chết bắn bị thương trên 100 người, về sau lại vấp phải sự vây đánh của hai trung đoàn quân giải phóng, sau khi toàn bộ đột phá vòng vây đã hốt hoảng lao xuống biển chạy trốn.Ngày 13 tháng 5 năm 1950, tập đoàn Tưởng Giới Thạch Đài Loan đã cử trung đội 1, trung đội 2 Quân chống Cộng cứu nước nhân dân khu Sơn Đông tổng cộng 105 tên đặc vụ vũ trang, leo lên từ cửa biển phía đông Tiểu Trang núi Đại Châu huyện Giao Nam, đã bị bộ đội bảo bệ biển, công an vũ trang, nhân dân hiệp đồng bao vây tiêu diệt, đến ngày 17 tổng cộng đã bắn chết 4 tên, bắt sống 97 tên, chỉ có 4 tên không rõ dấu vết trốn ở đâu.Ngày mồng 2 tháng 6 năm 1950, bọn phỉ biển ở trên đảo Phi Sơn Triết Giang do Lã Vị Tường dẫn hơn 600 tên đánh trộm Đảo Ngọc Hoàn, bị tiêu diệt hơn 100 tên, số còn lại đều chạy trốn tháo thân.Giai đoạn thứ hai là từ tháng 7 năm 1950 đến cuối năm. Ngày 25 tháng 6 năm 1950, cuộc chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, hạm đội 7 hải quân và đội hàng không thứ 13 của không quân Mỹ đã tiến vào đóng ở Đài Loan, cục thế ở eo biển Đài Loan trở nên vô cùng căng thẳng và phức tạp. Tập đoàn Tưởng Giới Thạch được sự cổ vũ của sự can thiệp vũ trang nước Mỹ, đã tăng cường thêm một bước hoạt động xâm phạm, chúng đã điều chỉnh biên chế toàn diện quân đội Quốc dân đảng ở Đài Loan, Bành Hồ, Kim Môn, đem phiên hiệu vốn có của 20 quân đoàn, biên chế thu nhỏ thành 12 quân đoàn, lại làm thành 6 sư đoàn độc lập. Đồng thời, đem đội hải phỉ vũ trang Đông nam nhân dân Cứu quốc quân cải biên thành Trung Hoa phản Cộng cứu quốc quân. Sau khi trải qua cuộc chỉnh biên, tập đoàn Tưởng Giới Thạch đã sắp xếp hơn 7 vạn binh lực ở trên hơn hai mươi hòn đảo chưa giải phóng ở ven biển Phúc Kiến, Triết Giang, trong đó riêng hai đảo Kim Môn, Mã Tổ đã có hơn 6 vạn quân chính quy. ở ven biển Quảng Đông, lúc đó quân Quốc dân đảng còn chiếm giữ mấy hòn đảo nhỏ ở đảo Nam Bằng và quần đảo Vạn Sơn. Quân Quốc dân đảng đã dùng những hòn đảo này làm căn cứ tiến hành các loại hoạt động quấy rối và phá hoại đối với đại lục và những hòn đảo đã được giải phóng ở vùng ven biển. ở giai đoạn này, quân giải phóng nhân dân đã căn cứ vào các hòn đảo ven biển mà quân Quốc dân đảng coi làm trọng điểm xâm phạm quấy rối, hết sức mở rộng tình hình trận địa ở trên biển, dùng biện pháp kết hợp giữa công và thủ, vừa tiến hành tiễu trừ tàn dư của bọn Quốc dân đảng chạy trốn ở trên các hòn đảo, vừa đánh trả những hoạt động quấy rối ở trên các hòn đảo đã được giải phóng.Ngày 12 tháng 7 năm 1950, hai tiểu đoàn của sư đoàn 62 bộ binh giải phóng quân chia nhau ngồi trên hai chiến hạm đổ bộ lên đất liền, do bốn pháo hạm hộ tống đi biển lợi dụng thời cơ Quốc dân đảng từ Phi Sơn và Đảo Nhất Giang Sơn điều động binh lực tăng cường phòng vệ cho Đảo Đại Trần, suốt đêm vượt biển, xông tới đánh Phi Sơn, qua chiến đấu ác liệt, tổng cộng đã tiêu diệt trên 500 quân Quốc dân đảng, bắn chìm một tàu pháo hạm của Quốc dân đảng, bắt giữ 4 chiếc thuyền tàu các loại. Từ trung tuần tháng 7 đến trung tuần tháng 8, bộ đội giải phóng quân đóng ở Triết đã tiêu diệt hơn 600 tên Quốc dân đảng giữ ở đảo Bắc Kỳ. Bộ đội đóng ở Mân đã tiến đến tập kích hai đảo Tây Dương và Phù Ưng; Bộ đội đóng ở Việt đã giải phóng được đảo Nam Bằng.Sáng sớm ngày 20 tháng 11 năm 1950 tên phỉ biển ở Phi Sơn là Lữ Vệ Tường lại dẫn hơn 800 tên chia thành 3 đường từ đảo Ngọc Hoàn Triết Giang trèo lên đất liền, một độ đã chiếm lĩnh Thành huyện Ngọc Hoàn và phần lớn khu vực ở đảo này. Hai trung đội của đại đội canh gác huyện Ngọc Hoàn của Giải phóng quân, đã độc lập chặn đánh bọn phỉ biển suốt 7 giờ đồng hồ; hai đại đội của sư đoàn 61 bộ binh đóng ở Sở Môn, đã lội nước ở bãi nông eo biển hơn hai chục dặm, leo lên đảo kịch chiến 6 giờ liền, phối hợp với quân đóng trên đảo tiêu diệt 180 tên hải phỉ, đã chiếm lại đảo Ngọc Hoàn.Giai đoạn thứ ba từ đầu năm 1951 đến cuối năm. Đầu tháng giêng năm 1950, để phối hợp với quân Mỹ, tấn công toàn tuyến vào quân đội nhân dân Trung Triều ở chiến trường Triều Tiên, tập đoàn Tưởng Giới Thạch chuẩn bị dùng 25 vạn binh lực đột phá Hạ Môn và Sán Đầu, mở ra chiến trường thứ hai để kiềm chế giải phóng quân; đồng thời hạ lệnh cho tàn quân Quốc dân đảng lẩn trốn ở Bắc Miến phản công vào Vân nam để tiếp ứng cho bọn thổ phỉ ở các nơi vùng Tây Nam, nhằm khôi phục Tây Nam. Thế nhưng do vì ở khu vực Đông Nam giải phóng quân phòng giữ nghiêm mật, tập đoàn Tưởng Giới Thạch đành phải vứt bỏ ý đồ lên đất liền xâm phạm quấy rối với quy mô lớn, tiếp tục tiến hành lên đất liền xâm phạm quấy rối với quy mô vừa và nhỏ. Thế nhưng đặc điểm bọn Quốc dân đảng xâm phạm quấy rối ở khu vực ven biển Đông Nam trong giai đoạn này là chuyển hướng vào khu vực miền núi ở trong đất liền, hòng xây dựng những căn cứ địa địch hậu. Tập đoàn Tưởng Giới Thạch ở Đài Loan trước sau đã thành lập được Bộ tổng chỉ huy quân chống cộng cứu nước Phúc Kiến ở Đảo Kim Môn, thành lập được Tổng bộ chỉ huy quân chống Cộng cứu nước nhân dân Giang Triết ở đảo Đại Trần, thành lập được ẹy ban công tác địch hậu và Bộ Tổng chỉ huy du kích đại lục ở Đài Loan, đã xây dựng được Ban huấn luyện thủ lĩnh Du kích, tổng cộng đã huấn luyện được hơn một vạn tên thổ phỉ vũ trang, chuẩn bị phân nhau tiến sâu vào hoạt động trong đại lục, đợi thời cơ phối hợp với tập đoàn Tưởng Giới Thạch phản cộng đại lục.Từ tháng 6 trở đi, tập đoàn Tưởng Giới Thạch có kế hoạch tổ chức phân công bọn phỉ biển đi sâu vào quấy rối ở vùng núi đất liền, mưu đồ Xây dựng lại khu du kích, Căn cứ địa du kích. Từ tháng 6 đến tháng 8, chúng đã cử đội vũ trang lớn tổng Cộng có 6 đội lên tới hơn 800 người, từ huyện Quỳnh Hải đảo Hải Nam, huyện Tượng Sơn, huyện Lạc Thanh tỉnh Triết Giang và huyện Huệ An tỉnh Phúc Kiến, thế nhưng đại bộ phận đều bị tiêu diệt, có đến mà chẳng có về.Ngày mồng 4 tháng 9, hơn ba vạn tên Đội chống cộng cứu nước tỉnh Phúc Kiến trên đảo Ô Khâu, dưới sự lãnh đạo của Đô Sát Trưởng Cục cảnh sát huyện Tiên Du, Trần Lệnh Đức Tư lệnh Tung đội Tuyền châu và huyện trưởng huyện Đức Hóa, Tư lệnh tung đội Vĩnh An Trần Vĩnh a, đã chia làm hai cánh quân từ huyện Huệ An Phúc Kiến bước lên đất liền, vượt qua đường quốc lộ Phúc Hạ tiến về phía Tây, hòng xâm nhập quấy rối tới vùng núi Đới Vân, Dần dần thi hành nhiệm vụ phản công đại lục, thế nhưng đã bị mấy nghìn quân giải phóng và mấy vạn dân quân bao vây tiêu diệt. Tung đội Tuyền châu ỷ vào ưu thế hỏa lực súng cơ giới kiểu Mỹ đã thoát khỏi sự cản trở của dân quân. Tung đội Vĩnh An hóa trang thành quân giải phóng, mạo xưng là bộ đội tiễu phỉ thế nhưng vẫn không thể thoát ra khỏi thiên la địa võng bao vây tiễn trừ của quân giải phóng. Ngày mồng 6 và mồng 7 tháng 9, hai cánh quân thổ phỉ này đều bị bao vậy chia cắt, Trần Vĩ Bân bị bắn chết ở núi Thất Khâu, Trần Lệnh Đức hóa trang thành hòa thượng đi hóa duyên để tìm đường chạy trốn, thế nhưng cũng không thể lừa nổi những dân quân canh gác chặn giữ. Đến hạ tuần tháng 9, hai cánh quân này xưng hiệu là Tung đội vũ trang, tổ chức thành những Tình báo viên vạn năng trang bị kiểu Mỹ, ngoài 8 tên chạy thoát ra, số còn lại đã bị hoàn toàn tiêu diệt.Trong giai đoạn này, tập đoàn Tưởng Giới Thạch, đồng thời với việc tiến hành thọc sâu quấy rối vào trong lục địa ở khu vực ven biển phía đông nam, tập đoàn Tưởng Giới Thạch cũng tổ chức chỉ huy bộ đội tàn dư quân Quốc dân đảng và thổ phỉ địa chủ ác bá trốn sang Miến Điện, Việt Nam và Lào tiến hành vũ trang quấy rối ở biên giới Vân Nam.Tàn dư quân Quốc dân đảng chạy trốn chiếm giữ miền bắc Miến Điện là quân đoàn 8, quân đoàn 26 nuôi quân đoàn một trung đoàn bị tiêu diệt trong chiến dịch Điền Nam tổng cộng hơn 1400 người. Tháng 9 năm 1950, Tưởng Giới Thạch cử Lý Di (nguyên là quân đoàn trưởng quân đoàn 8, tư lệnh binh đoàn thứ 13) tới Bắc Miến Điện chủ trì đám tàn quân, đã thành lập Vân Nam nhân dân chống cộng Cứu quốc quân. Đầu năm 1951 đã phát triển tới trên 13500 quân. Tàn quân Quốc dân đảng chạy trốn sang chiếm cứ phía bắc Việt Nam có quân đội của Chu Quang Lộc, quân đội của Dương Quốc Hoa, quân đội của Hạ Quang Dung, cũng là đám tàn quân lẻ tẻ lọt lưới trong chiến dịch Điền Nam đã hỗn độn tổ chức đội thổ phỉ vũ trang của tổ chức địa chủ ác bá, tổng cộng có hơn 2 vạn tên Đoàn biên chế mới độc lập của chống Cộng cứu quốc quân chạy sang chiếm cứ miền bắc Lào ở núi Tháp Lạc, lấy vũ trang của địa chủ ác bá làm chính, tổng cộng có hơn 700 người. Chúng đều nghe lệnh của Lý Di ngồi trấn giữ ở miền bắc Miến Điện. Đầu tháng 5 năm 1951 từ phía bắc Việt Nam, Lào, Miến Điện tiến hành đợt kích quấy rối vùng biên giới Vân Nam.Trong rất nhiều hoạt động phản công tiến hành vào năm 1951 của tập đoàn Tưởng Giới Thạch, bọn tàn quân ở biên giới Trung Miến, Trung Việt, Trung Lào do Lý Di chỉ huy, điên cuồng quấy phá Vân Nam là một lần quy mô lớn nhất, thời gian dài nhất.Ngày 15 tháng 3 năm 1951, quân Mỹ xâm lược Triều Tiên đã chiếm lĩnh Hàn Thanh lần thứ hai. Tưởng Giới Thch được cổ vũ lớn lao, lại một lần nữa hạ lệnh cho Lý Di dẫn bọn tàn quân bắc tiến, lợi dụng Quân liên hiệp quốc đại thắng ở Triều Tiên liền vào uy bức Côn Minh. Thế nhưng do vì Lý Di từ Đài Loan đến thời gian không dài, việc chỉnh biên bọn tàn quân chưa hoàn thành, cho nên đã kéo dài mãi tới hạ tuần tháng 4 mới chuẩn bị được tạm xong cộng tác phản công. Lúc này Lý Di không những là tổng chỉ huy của Vân Nam nhân dân chống cộng cứu quốc quân, mà còn là chủ tịch chính phủ tỉnh Vân Nam và Chủ nhiệm cơ quan Tuy Tịnh Tỉnh Vân Nam, cho nên lần này hắn phản công Vân Nam còn chỉ huy cả các loại vũ trang phản động ở trong biên cảnh Vân Nam.Lý Di hạ lệnh cho phó tư lệnh Đàm Anh Ninh chỉ huy Quân chống cộng biên khu Điền Quế Kiềm hoạt động ở khu vực giáp giới Quý Châu, Tứ Xuyên, Vân Nam, dẫn quân tiến công các huyện La Bình, Quảng Nam, Khâu Bắc, hòng lôi kéo giải phóng quân ở Côn Minh. Điển Tịnh tới Điền Đông; Sau đó hạ lệnh cho quân đội của Hạ Quang Vinh, quân đội của Ninh Thụy Nam tiến công Văn Sơn và Cá Cựu thu hút giải phóng quân ở mặt Khai Viễn, Ngọc Khê về hướng Điền Nam, còn hạ lệnh cho bộ đội của Tung đội thứ hai là Dương Quốc Hoa Quân chống Cộng Điền Việt ở mặt Kim Bình, Lục xuân hoạt động về phía Giang Thành, Tư Mao, thu hút giải phóng quân ở khu vực Điền Tây kéo về phía đông sông Lan Thương. Mưu đồ tính toán của Lý Di là thu hút chủ lực giải phóng quân Vân Nam kéo về phía Điền Quế, Điền Kiềm, Điền Việt, Xa rời trục đường tiến công phản công lần này để tiện cho việc dẫn chủ lực tàn quân chạy trốn sang Miến Điện tiến thẳng vào, áp sát tới Côn Minh.Lý Di biết rằng để tiện cho 4 cánh quân phỉ tác chiến phải hấp dẫn khối lượng lớn giải phóng quân tới khu vực dự định, biên giới Trung Miến cũng không thể không có giải phóng quân. Để tạo thành hình thái có lợi hơn, Lý Di đã chia Vân Nam nhân dân phản Cộng cứu quốc quân ở bắc Miến ra thành 4 đường. Đường thứ nhất 400 người từ hứng Cảnh Đống, Đả Lạc tiến công Mạnh Hải, Cảnh Hông, chiếm lấy hai huyện Thành, ngăn chặn giải phóng quân ở hướng Tư Mao chi viện cho phía nam; Đường thứ hai 2000 tên, tiến công theo hướng Mạnh Liên, Lan Thương, chiếm lấy hai huyện Thành, sau đó chuyển làm quân dự bị. Đường thứ ba 2.500 tên, chủ yếu công kích về hướng Tây Ninh. Thương Nguyên, Song Giang lâm thương, đầu tiên chiến lấy 4 huyện, sau đó phát triển theo hướng Đại Lý, Côn Minh. Con đường thứ tư 1500 tên, công kích theo hướng Trấn Khang, Vĩ Đức, sau khi chiếm đoạt lấy 2 huyện thì phát triển theo hướng Xương Ninh Phượng Khánh. Phương án của Lý Di là bảo hộ hai cánh, chủ công ở giữa, trong đó lại lấy đường thứ ba làm chính. Hắn dự tính trước hết chiếm lấy các huyện Trấn Khang, Thương Nguyên, Tây Minh, v.v..xây dựng căn cứ phản công, sau đó tiến chiếm Cảnh Mã, Song Giang, Lâm Thương, làm bước đi thứ nhất của cuộc phản công.Dưới sự chỉ huy của kế hoạch Lý Di, quân đội tàn binh Quốc dân đảng ở khu vực biên giới Trung Việt trước hết đã gây rối, tiếp đó, quân đội phỉ của Đàm Anh Ninh cũng bắt đầu vây đánh các huyện thành ở Điền Đông, quân khu Vân Nam của quân giải phóng lại cử quân đội đi tiễu trừ quân phỉ ở các nơi.Lý Di nhìn thấy thời cơ để cho tàn quân phỉ chạy sang Miến Điện nhập cảnh quấy rối đã tới, liền dẫn hơn 6000 quân kéo vào Điền Tây ngông cuồng tuyên bố trong ba tháng sẽ chiếm được Côn Minh, nghênh tiếp chính phủ Trung ương rời về Tỉnh Điền, rồi lần lượt chiếm lĩnh các huyện thành Cảnh Mã, Mạnh Liên, Mãnh Hải, Trấn Khang v.v...và các khu vực bộ phận. Chính trong lúc Lý Di đắc chí mưu ý, đòi Đài Loan khen công tặng thưởng, quân khu Vân Nam của giải phóng quân đã tuyên bố mệnh lệnh tác chiến tiêu diệt quân Quốc dân đảng vào quấy rối. Bắt đầu từ thượng tuần tháng 6, các cánh quân giải phóng quân lần lượt bao vây tiêu diệt hơn 800 tên Quốc dân đảng từ Bắc Miến xâm nhập vào, số còn lại đều chạy trốn ra nước ngoài vào cuối tháng 6. Trung tuần tháng 7, do vì quân Mỹ ở Triều Tiên lại một lần nữa vượt quá Vĩ Tuyến 38, mũi nhọn đã đạt tới đường Kim Hóa, Cán Thành, cục thế bất lợi cho chí nguyện quân Trung Quốc, Tưởng Giới Thạch đã đánh điện hạ lệnh cho Lý Di lại một lần nữa phản công Vân Nam. Tức thì sau một thời gian ngắn chỉnh đốn và biên chế lại tổ chức, Lý Di lại một lần nữa xâm phạm quấy rối Vân Nam, chiếm lĩnh huyện thành Thương Nguyên và Mạnh Liên. Quân giải phóng sử dụng chiến thuật dụ địch vào sâu, khi chúng tiến sâu vào biên cảnh ở một mức độ nhất định, liền cắt đứt con đường phía sau của chúng, dùng binh lực ưu thế tiến hành bao vây tiêu diệt, truy đuổi tiêu diệt và thanh trừng tiêu diệt, lại tiêu diệt hơn 200 tên địch, Lý Di dẫn toàn quân lại một lần nữa chạy trốn sang bắc Miến vào hạ tuần tháng 7.Trước đó, bộ đội của Dương Quốc Hoa, Ninh Thụy Nam, Hạ Quang Vinh ở Điền Nam đã bị bao vây tiêu diệt vào tháng 5, bị bắn chết hơn 100 tên, bị bắt sống hơn 400 tên. Đàm Anh Ninh ở biên khu Điền Quế kiềm bị bắn chết hơn 1200 tên dưới trướng của hắn hoặc bị bắn chết, hoặc bị bắt sống hoặc chạy tẩu tán đi khắp các nơi.Giai đoạn thứ tư bắt đầu từ năm 1952 đến tháng 7 năm 1953. Sau nhiều lần vấp phải thất bại trong việc phản công mà tập đoàn Tưởng Giới Thạch cử quân đội tiến hành hoạt động quấy rối ở trong đất liền và ở biên giới Trung Miến, từ năm 1952 trở đi, chúng đã thay đổi thủ pháp, xử dụng chiến thuật lấy lớn nuốt bé, tốc tiến tốc thoái, dùng binh lực ưu thế gấp mấy lần, hoặc mười mấy lần, với sự phối hợp của hải quân và không quân, đột nhiên tập kích đánh phá bộ đội đột suất ở bờ biển hoặc các đảo ven biển có lực lượng phòng ngự mỏng và yếu, hòng tiêu diệt bộ đội phòng bị số lượng ít của giải phóng quân. Sau khi gặp thuận lợi hoặc phát hiện bộ phận quân đội lớn của giải phóng quân được tăng viện, liền nhanh chóng rút lui. Loại thủ pháp đột kích bất ngờ lấy lớn nuốt bé này mãi cho đến tháng 7 năm 1953 bị thất bại thảm hại sau khi xâm phạm đảo Đông Sơn mới bắt buộc phải thu lại.Ngày 28 tháng 3 năm 1952, hơn 1000 tên lính của Hồ Tông Nam trên đảo Đại Trần, đột nhiên tập kích vào đảo Bạch Sa Sơn huyện Lâm Hải, một trung đội quân giải phóng giữ đảo đã ngoan cường đánh lại, luôn luôn dựa vào địa hình thuận lợi và trận địa đã bày ra để đánh địch, kiên trì cho tới khi bộ đội tăng viện kéo đến. Quân đội Quốc dân đảng tiến vào xâm phạm sau khi tổn thất hơn 200 tên mới lên thuyền chạy trốn.Ngày 10 tháng 6 năm 1952, Hồ Tông Nam lại dẫn hơn 1200 tên lính tiến vào xâm phạm đảo Hoàng Tiêu huyện Ôn Lĩnh Triết Giang, một đại đội giải phóng quân giữ đảo, quyết giữ trận địa, kịch chiến suốt 18 giờ liền, sau đó lại phối hợp với quân đội tăng viện, tiêu diệt toàn bộ quân Quốc dân đảng chưa kịp lên thuyền chạy trốn. Trong trận chiến đấu này, quân giải phóng bị thương vong 46 người, đã tiêu diệt 310 tên lính của Hồ Tông Nam.Ngày 19 tháng 10 năm 1952, quân giải phóng nhân dân chủ động xuất kích, với binh lực của một tiểu đoàn bộ binh tăng cường và một tiểu đoàn pháo binh, qua 4 giờ vượt biển, đã chèo lên đảo Nam Bành mà quân Quốc dân đảng đánh chiếm. Sau 6 giờ kịch chiến, đã tiêu diệt 118 tên địch ở trên đảo, bắn chết tên thiếu tướng chỉ huy, thu hồi lại đảo Nam Bành.Ngày 14 tháng 12 năm 1952, hơn 1000 tên Quốc dân đảng đã tập kích lên bán đảo Lục Ngạo huyện Chương Phố tỉnh Phúc Kiến. Lúc đó giải phóng quân ở trấn Lục Ngạo chỉ có một trung đội biên phòng, họ đã anh dũng đánh trả sự tập kích của Quốc dân đảng đông gấp mười mấy lần, tiêu diệt chúng trên 100 tên, rồi tiến hành với viện quân truy kích chủng, đánh cho bọn lính tới xâm lược bạt vía kinh hồn phải tháo chạyThế nhưng, loại đột kích bất ngờ lấy lớn nuốt bé này của Quốc dân đảng cũng đã có mấy lần gặp may mắn. Trong năm 1952 chúng đã lần lượt tập kích đảo My Châu, đảo Nam Nhật huyện Bồ Điền tỉnh Phúc Kiến và Ô Nhạn, Vụ Thành huyện Bình Dương Triết Giang, đều đã khiến cho bộ đội chốt giữ của quân giải phóng và quần chúng nhân dân ở nơi đó vấp phải những tổn thất nhất đình, trong đó đặc biệt là đảo Nam Nhật bị xâm phạm quấy rối rất nổi tiếng.Ngày 11 tháng 10 năm 1952, sư đoàn 14 và sư đoàn 75 mỗi sư đoàn có hai trung đoàn cùng bọn phỉ biển của Quốc dân đảng đóng trên đảo Kim Môn, tổng cộng 9000 người, chia nhau ngồi trên chiến hạm, thuyền buồm máy, dưới sự yểm hộ của 8 chiếc máy bay, lần thứ ba đã xâm phạm quấy rối đảo Nam Nhật.Đảo Nam Nhật là một hòn đảo tương đối lớn của huyện Bồ Điền ở miền đông tỉnh Phúc Kiến, từ đông sang tây dài ước 14 ki lô mét, hai đầu chỗ rộng nhất trên dưới 7 kilô mét, trong đó chỗ hẹp nhất chỉ có 700 mét. Phía đông đảo Nam Nhật gỗ ghề tương đối lớn, có các núi Đại Kiều, Cửu Trùng, Bút Giá, Chủ Mẫu đều cao hơn mặt biển tới 130 mét. Thế núi dốc đứng địa hình hiểm yếu, dễ giữ khó đánh. Phía tây đảo là những núi gò đèo đất bằng phẳng, bình quân cao hơn mặt biển trên 40 mét, ngọn núi ở sau làng ven núi nơi cao nhất mới trên 80 mét. Diện tích của đảo Nam Nhật ước khoảng 80 kilô mét vuông có hơn 60 làng, dân cư trên vạn. Đảo Nam Nhật là khu thứ 9 của huyện Bồ Điền, chính phủ khu đặt tại làng Nam Nhật thuộc phía tây Đảo.Ngày mồng 10 tháng 10, quân Quốc dân đảng Kim Môn gọi là Tiến hành cuộc đại diễn tập Lục Hải Không quân để chúc mừng quốc khánh.Sáng sớm ngày 11 tháng 10, hơn mười chiếc tầu đổ bộ và mười mấy chiếc xuồng máy lái khỏi eo biển Liệu La Kim Môn trong màn đêm, biên đội lái về phía nam. Khi trời sáng thì tiếp cận mặt biển Nam Nhật, phát hiện một chiếc thuyền đánh cá, ba chiếc tầu đổ bộ tập trung hỏa lực bắn phá. Chiếc thuyền đánh cá bị bắn trúng, cột buồm bị đổ xuống, có người bị bắn lên không trung. Một chiếc tàu đổ bộ của Quốc dân đảng lại lao về phía chiếc thuyền đánh cá, làm cho chiếc thuyền vỡ tan ra từng mảnh. Mấy ngư dân rơi xuống biển cũng bị lao chết.Hơn 9 giờ sáng, quân Quốc dân đảng rải thành một tuyến Vạn Hồ, Thổ địa bình, làng Nham Hạ cùng Đông Hộ, Tây Hộ leo lên đất liền. Một đại đội quân giải phóng dựa vào địa hình có lợi ngoan cường đánh trả, kịch chiến suốt ngày, đại bộ phận đã hy sinh oanh liệt. Sau 2 giờ chiều ngày 11, quân đội đại lục tăng viện hai tiểu đoàn lần lượt tới, cấp tốc trèo lên đảo, người trước ngã người sau kế tiếp. Một số binh sĩ của tiểu đoàn muốn leo lên từ phía sau đảo, vấp phải sự phong tỏa của hỏa lực địch, bắt buộc phải rút về. Chỉ có một trung đội trôi tới cửa eo, leo được lên bờ, lại gặp phải bọn phỉ biển. Bị kẹp trong vòng vây dày đặc của bọn địch, ngoài 8 người bị bắt sống ra, còn lại toàn bộ đều hy sinh. Đại đội 2 của tiểu đoàn lục chiến vội vã leo lên đất liền từ cửa eo Bạch Sa Dương. Sau khi lên bờ chỉ còn lại binh lực của một đại đội. Quân địch trước hết dùng sự triệt thoái để dụ cho quân giải phóng vào sâu, sau đó chúng đã bao vây chặt ở khu vực làng Thảo Bồ, Xạ thủ súng máy Lý Trung Chí đứng trước tình hình các chiến sĩ toàn trung đội đều bị tử vong hết đã xông thẳng vào đám quân địch, kéo chốt nổ một quả lựu đạn. Đại đội phó đại đội 5 Kinh Ngọc Châm, trong tình trạng các chiến hữu đều bị hy sinh hết, bản thân mình đã bị thương hai chỗ, đã quyết chiến đấu trong hai giờ liền, đánh lùi năm đợt xung phong của địch, cuối cùng đã hy sinh anh dũng.9 giờ tối ngày 12, phó tham mưu trưởng một đơn vị đã dẫn binh lực một tiểu đoàn leo lên đất liền, ngay lập tức đã gặp binh lực ưu thế của quốc dân đảng bao vây chặn đánh. Sáng sớm ngày 13 hai bên triển khai trận đánh giáp lá cà, khi trời sáng rõ, toàn bộ các chiến sĩ phần lớn đều bị hy sinh.ở trên đảo Nam Nhật đồng thời với cuộc chiến đấu đẫm máu giữa giải phóng quân và Quốc dân đảng, trên đại lục phía từ Bờ Điền tới Thạch Thành đang tranh thủ làm con đường vận chuyển quân lính, mấy vạn người ngày đêm phấn đấu, chỉ trong ba ngày đã làm xong con đường dài 60 kilômét, thế nhưng quân đội tăng viện vượt biển thì vẫn vấp phải chặn đánh của hỏa lực máy bay và đại bác Quốc dân đảng, rất nhiều thuyền gỗ bị bắn chìm, binh lực được tăng viện ở trên đảo đã ít lại phân tán, đều bị các cánh quân quốc dân đảng đánh phá.Quân Quốc dân đảng tập kích đảo Nam Nhật, đồng thời với việc bao vây tiến đánh bộ đội viện binh và bộ đội giữ đảo của quân giải phóng, chúng còn cướp bóc hãm hiếp các cư dân trên đảo, phá hoại tổ chức chính quyền địa phương. Bọn đặc vụ địch và những phần tử quản chế ác bá ở trên đảo cũng nhẩy ra, dẫn đường cho Quốc dân đảng, chỉ điểm các cán bộ đảng viên, bao vây tiến đánh các phần tử quần chúng tích cực. Trên đảo Nam Nhật gà bay chó chạy, hỗn loạn vô cùng.Thống kê sau cuộc chiến đấu, các cán bộ khu Nam Nhật chết 5 người, bị bắt 15 người; đội công an chết 3 người; tổn thất súng pạc khoọc 6 khẩu, súng lục 12 khẩu, gạo 800 cân, khoản thuế 160 vạn đồng (tiền nhân dân tệ lúc đầu xây dựng nước, 100 đồng tương đương với 1 đồng). Các con dấu của khu ủy, ủy ban khu, hội phụ nữ, 500 tờ giấy thông hành của công an Huyện cùng với các bản thống kê danh sách dân quân Đảng viên Đoàn viên đều bị cướp đi mất. Quần chúng nhân dân tổn thất mất gà 633 con, vịt 11 con, lợn 324 con, bò 3 con, quần áo 660 bộ lương thực 2835 kilô gam, cánh cửa 75 bộ, quan tài 12 chiếc, dê 10 con, còn có 11 quần chúng nhân dân bị giết hại, 43 người bị thương, 5 người bị bắt làm tù binh đẩy tới Đài Loan.Trong cuộc chiến đấu này, tổng cộng quân giải phóng tổn thất mất hơn 1300 người.Trong đêm ngày 13 toàn bộ quân Quốc dân đảng đã rút lui.Bọn Quốc dân đảng đã mấy lần hoạt động xâm phạm quấy rối theo kiểu lấy lớn nuốt bé đạt kết quả, đã khiến cho tập đoàn Tưởng Giới Thạch vênh vang tự đắc. Trên Hội nghị chiến lược bọn chúng triệu tập tháng 12 năm 1952 có tư lệnh hạm đội 7 của Mỹ tham dự, đã tuyên bố năm 1953 sẽ là năm phản công của bọn chúng, chúng sẽ tiếp tục tiến hành tác chiến phản công với quy mô đồ sộ. Thế nhưng giải phóng quân nhân dân ở các quân khu ven biển đã căn cứ vào chỉ thị của bộ tham mưu, thực sự thu hút những bài học kinh nghiệm, theo dõi chặt chẽ tình hình địch, thực sự làm tốt công tác chuẩn bị chống tập kích quấy rối, khiến cho năm phản công của tập đoàn Tưởng Giới Thạch đã biến thành năm thất bại!Ngày 29 tháng 5 năm 1953, một đơn vị quân giải phóng đã tiến hành công kích chiếm luôn bốn hòn đảo như đảo Đê, núi Gà, núi Hươu lớn, Hươu bé, đã tiêu diệt hơn 230 quân Quốc dân đảng chiếm giữ Đảo, bắt sống tên thiếu tướng tư lệnh quân đoàn 42 Triết Giang nhân dân chống Cộng đột kích quân là Hà Trác Quyền. Bốn hòn đảo này nằm ở cửa biển Ôn Châu Loan, vị trí vô cùng quan trọng, trong ba năm sau khi giải phóng đại lục ở Triết Giang, giải phóng quân và bọn Quốc dân đảng từng nhiều lần tranh giành nhau 4 hòn đảo này. Sau khi quân giải phóng chiếm được 4 đảo, Tưởng Giới Thạch vô cùng tức giận, đã ra lệnh cho Hồ Tông Nam Cần phải chiếm lại ngay! Đêm khuya ngày 19 tháng 6, Hồ Tông Nam dẫn hơn 1600 quân, ngồi lên hơn 50 thuyền buồm và xuồng máy, dưới sự yểm hộ của hạm đội chiến đấu số 9 tiến hành phản công chiếm lại. Trước hết chúng dùng hỏa lực pháo tập kích khẩn cấp, tiếp đó quân chia hai đường tấn công lên đảo Dê và núi Hươu nhỏ, chúng còn muốn phát triển theo hướng núi lớn, sau cùng hợp lại đánh núi Gà. Các sĩ quan và binh lính quân giải phóng trấn giữ bảo vệ đảo dê, đã liên tục đánh tan 8 đợt xung kích của quân Quốc dân đảng, lại còn tổ chức 6 đợt phản kích, giữ chắc trận địa. Một đại đội bảo vệ núi Hươu nhỏ, đã liên tục đánh lui 7 lần xung phong của quân Quốc dân đảng. Đúng 9 giờ ngày 21, quân giải phóng bảo vệ núi Hươu lớn, bắt đầu phản công, quân Quốc dân đảng đã để mất hai trung đội có nhiệm vụ yểm hộ, chúng đã hốt hoảng tháo chạy. Trong cuộc chiến đấu gần hai ngày, quân giải phóng đã đánh tan sự phản công của quân quốc dân đảng, tiêu diệt 736 tên của chúng, bắn bị thương 5 tàu chiến địch, bắn chìm 12 thuyền địch, cả bốn hòn đảo đều được khống chế chặt chẽ trong tay giải phóng quân.Thế nhưng, Tưởng Giới Thạch không cam tâm với thất bại ở Ôn Châu Loan, đã ra lệnh cho quân đội Quốc dân đảng tiếp tục chấp hành phương châm lấy lớn nuốt bé, tăng cường các cuộc xâm phạm đối với ven bờ đại lục và hải đảo. Cuộc chiến ở đảo Đông Sơn chính đã phát sinh trong bối cảnh như vậy.Ngày 16 tháng 7 năm 1953, quân Quốc dân đảng xâm phạm đảo Đông Sơn, đây là một lần hoạt động xâm phạm quấy rối lớn nhất từ sau khi tập đoàn Tưởng Giới Thạch tháo chạy ra Đài Loan, chúng đã nếm đòn đả kích và thất bại cũng nặng nề và thảm hại nhất.Đảo Đông Sơn là hòn đảo lớn thứ hai của Phúc Kiến, diện tích 165 kilô mét vuông, nhân khẩu ước khoảng 83000 người là tấm bình phong che mặt biển của Mân Nam. Số quân đội đóng giữ đảo Đông Sơn là hai tiểu đoàn của Trung đoàn 80 (thiếu một đại đội) công an giải phóng quân. 21 giờ ngày 15 tháng 7, thượng tướng tư lệnh trưởng Hồ Liên quân đội phòng vệ Kim Môn của Quốc dân đảng, đã dẫn sư đoàn 45 (thiếu 2 tiểu đoàn của trung đoàn 133) trung đoàn 53 sư đoàn 18 và đại đội đột kích 1,2 của phỉ biển v.v... ngồi trên 13 chiếc tàu chiến, xuất phát từ Kim Môn lái ra ngoài biển. Những động hướng khác thường của quân quốc dân đảng ở Kim Môn đều được cơ quan chỉ huy quân khu Hoa Đông đặt ở trên biển lúc đó nắm biết hết. Vào lúc 23 giờ ngày hôm đó quân khu Hoa đông thông báo: Tên tướng phỉ Kim Môn Hồ Liên đã đích thân dẫn 4 trung đoàn quân chính quy, 4 đại đội phỉ biển, phối hợp với Hải quân và không quân, xuất phát từ đảo Kim Môn và lúc 9 giờ tối ngày 15. Thủ trưởng quân khu Phúc kiến phán đoán, nếu bọn địch đi về phía bắc, có khả năng sẽ tập kích đảo Nam Nhật, hoặc đảo Bình Đàm; đi về phía nam có khả năng sẽ tập kích đảo Đông Sơn, bởi vì cự ly của chúng đều cách Kim Môn khoảng trên dưới 150 kilô mét vừa đúng là hành trình một đêm trên biển. Trong đó bọn địch rất có khả năng sẽ tiến đánh đảo Đông Sơn, thứ nữa mới là đảo Bình Đàm, Đại Đăng và Hạ Môn. 1 giờ ngày 16, thủ trưởng quân khu Phúc Kiến quyết tâm. Nếu bọn địch tiến vào xâm phạm Bình Đàm, Nam Nhật Đại Đăng, Hạ Môn, quân đóng ở đó sẽ kiên quyết giữ, sau đó sẽ tiếp tục viện trợ dần. Nếu bọn địch xâm phạm Đông Sơn, quân đội giữ đảo sau khi đánh trả sẽ rút lui, bởi vì diện tích của đảo Đông Sơn lớn mà binh lực lại quá ít. Thủ trưởng quân khu Phúc Kiến đặc biệt chỉ rõ cho bộ đội giữ đảo Đông Sơn biết: Lưu lại một tiểu đoàn tinh nhuệ tiến hành phòng ngự cơ động. Những nhân viên không phải chiến đấu, phải yểm hộ cho các nhân viên Đảng và chính quyền huyện Đông Sơn rời khỏi đảo trước khi trời sáng. Bộ đội giữ đảo nếu vấp phải binh lực ưu thế của địch tấn công, thì có thể tìm cơ hội di chuyển.Giữa lúc quân khu Hoa Đông và quân khu Phúc Kiến của quân giải phóng đang khẩn trương tiến hành chuẩn bị tác chiến, trên sân bay Tân Trúc ở phía bắc Đài Loan, có 487 lính nhảy dù của dù đội đảo Lăng Hình đang chuẩn bị lên máy bay bay đi, để tiến hành một cuộc diễn tập. Đúng 4 giờ, 16 chiếc máy bay quân dụng vận tải cất cánh từ Tân Trúc, bay thẳng tới đảo Đông Nam ở phía Tây nam. Trước khi lên máy bay, tổng đội trưởng lính dù Cố Bảo Dụ tuyên bố đi chấp nhành nhiệm vụ tác chiến, yêu cầu không thành công, thì thành nhân.Tại sân bay Tân Trúc, khi bọn lính dù bước lên máy bay, hơn một vạn quân Quốc dân đảng do Hồ Liên soái lĩnh đã tới gần mặt biển Đảo Đông Sơn. Hồ Liên là thượng tướng lục quân Quốc dân đảng, cuối tháng 10 năm 1949 sau khi giải phóng quân đánh đảo Kim Môn gặp thế thất lợi, hắn đã phát đường quan vận. Trong quân giới Quốc dân đảng, hắn tuy bị châm biếm là đứa thất phu, thế nhưng sau trận đánh ở Kim Môn, hầu như hắn đã nổi lên như một ngôi sao chói lọi nhất trong quân đội Quốc dân đảng. Cho nên. Trận phản công ở tiền tiêu đại lục của quân đội Quốc dân đảng này, đột kích vào đảo Đông Sơn đã giao cho Hồ Liên chỉ huy.Hồ Liên đã dạn dày với chiến trận, rất chú ý thận trọng. Hắn cho rằng quân giải phóng ở Tuyền châu muốn tăng viện cho đảo Đông Sơn, ít nhất phải mất ba ngày. Trong đó, điều mấu chốt nhất là chiếc cầu lớn Cứu Long Giang ở gần Chương Châu đã bị máy bay Quốc dân đảng bỏ bom phá hủy. Bởi vì trên con đường dài 270 kilô mét từ Tuyền châu tới Đảo Đông Sơn, chiếc cầu lớn Cửu Long Giang ở vào nơi hiểm yếu, chiếc cầu này chưa khôi phục được, viện binh Tuyền Châu liền không thể đi xuống phía nam Đông Sơn đựoc. Viện binh không tới, hắn sẽ đảm bảo chỉ trong ba hôm sẽ lấy được Đông Sơn. Buổi trưa ngày 14 tháng 7, sau khi hắn nhận được báo cáo cầu Cửu Long Giang vẫn chưa khôi phục được, hắn liền hạ lệnh bắt đầu hành động. 4 giờ 40 phút ngày 16, máy bay vận tải và máy bay tiêm kích cất cánh từ Đài Loan vụt qua trên đầu của biên đội Hồ Liên, bộ đội địch lên bờ đã đổi chỗ ngồi hoàn tất, Hồ Liên liền ra lệnh cướp bãi.4 giờ 50 phút ngày 16, trung đoàn trưởng trung đoàn 80 Công An đóng ở đảo Đông Sơn của quân giải phóng là Du Mai Diệu, đang tổ chức rút lui khỏi đảo Đông Sơn, bỗng nhiên nhận được báo cáo bọn địch đã nhẩy dù ở bến đò Bát Xích Môn về phía Bắc đảo. Trung đoàn trưởng Du liền hạ lệnh cho một đại đội lính thủy ở địa phương này: Kiên quyết giữ chắc bến đò, ông sẽ lập tức cử viện binh tới. Lời nói vừa buông, lại báo cáo số quân của địch từ thôn Doanh lên đất liền ở phía nam đảo, đông tới hàng ngàn người. Du Mai Diệu thoáng nghĩ đã biết ngay là tình thế xấu, bởi vì bọn địch dùng lính nhẩy dù từ xưa chưa hề có, hơn nữa lính nhẩy dù đã bao vậy chặt bến đò Bắt Xích Môn, dựa theo kế hoạch trước rút lui về Đông Sơn đã không thể được nữa. Các nhân viên ở trên đảo chỉ có kiên trì giữ để đợi viện trợ, tức thì Du liền hạ lệnh cho trung đoàn hậu cần của Trần Đại đối diện với bến đò Bát Xích Khẩu cử quân vượt biển về phía nam, chi viện cho đại đội lính thủy đánh lại bọn lính nhẩy dù. Chiêu này đã có tác dụng quan trọng. Cấp trên đã đồng ý cho trung đoàn trưởng Du gắng sức giữ vững để chờ viện binh, hơn thế còn hạ lệnh cho trung đoàn 272 tiếp cận viện trợ cho Đông Sơn, ra lệnh cho sư đoàn 82 ở gần Tuyền Châu hỏa tốc tăng viện. Quân ủy trung ương cũng ra lệnh cho sư đoàn 122 của quân khu Quảng Đông cấp tốc đông tiến phối hợp tác chiến.Chỉ huy các cấp đánh điện qua lại, trong khi điều binh khiển tướng, trên đảo Đông Sơn đã là một biển lửa. 4 giờ 45 phút, một đại đội lính thủy đang chuẩn bị rút lui, phần lớn các sĩ quan và binh lính đã lên thuyền, trên bờ chỉ có đại đội trưởng và 6 người lính thủy. Khi phát hiện lính dù địch đã nhẩy dù xuống núi Tây làng Hậu Lâm, đại đội trưởng một mặt hạ lệnh cho các lính thủy ở trên bờ quay lại kho lấy súng máy, một mặt báo cáo tình hình với trung đoàn trưởng Du Mai Diệu, hơn nữa còn cử người đi gọi các binh sĩ đã lên thuyền quay trở lại. Sau năm ba phút, 4 khẩu súng máy ở trong tay 7 người đại đội lính thủy cùng nổ súng lên trời. Đội hình của máy bay địch bị đánh liền rối loạn, độ cao nhẩy dù cũng từ 200 mét lên tới 1000 mét, trật tự nhẩy dù hỗn loạn, có nhiều tên nhẩy dù xuống biển. Đúng 6 giờ, dân quân ở làng Hậu Lâm cũng gia nhập tác chiến, họ đã dựa vào kiểu cấu trúc vườn không nhà trống mà trước đây 300 năm các anh hùng dân tộc đã dùng để đánh giặc, giành từng tấc đất triển khai cuộc chiến đấu đẫm máu với bọn lính dù. Đúng 8 giờ một trung đội của trung đoàn hậu cần 80 Công An cử đến đã lên đất liền tại bến đò Bát Xích Môn, kết hợp cùng tác chiến với các lính thủy, cuối cùng đã khống chế được bến đò.Trong lúc quyết chiến ở bến đò Bát Xích Môn quân đội Quốc dân đảng lần lượt lên đất liền vào làng Thân Doanh, làng Hồ Vĩ, chúng đã dùng 21 chiếc xe tăng dẫn đầu, đi nhanh vào thẳng đã chiếm lĩnh rất nhanh thành huyện Đông Sơn. Du Mai Diệu đã căn cứ vào số bộ đội thu thập được quyết tâm cố giữ làm chủ trận địa, ra lệnh cho các đơn vị bộ đội tiền duyên nhanh chóng thu hẹp lại, phối hợp với chủ lực. Thế nhưng do vì bọn địch tiến triển tương đối nhanh, trung đội 1 đại đội bị vây khốn ở khu vức Mã yên sơn, toàn bộ đã bị hy sinh, trung đội 2 của đại đội 1 bị vây khốn ở Quan Lộ Vĩ, cũng không một người sống sót. Đại đội của huyện Công An cũng chưa kịp di chuyển đã bị vây khốn thương vong mất quá nửa. Thế nhưng quân đội đã tìm trăm phương ngàn kế rút về tới vị trí kiên quyết giữ vững trận địa, đã đánh lui bọn địch hết đợt tấn công này tới đợt tấn công khác.Trong khi quân giải phóng bị vây, bị chia cắt, chiến đấu đẫm máu ở đảo Đông Sơn, trên các đường giao thông chủ chốt từ Phúc Kiến, Quảng Đông đi về hướng đảo Đông Sơn chiến xa rầm rộ, các đơn vị tăng viện hăng hái đổ về chiến khu. Các xe ôtô vận chuyển hàng hóa hành khách men theo tuyến Tuyền châu, Chương Châu sôi nổi tập kết về Tuyền châu và Chương Châu. Hành khách ở trên xe xuống xe, hàng hóa xếp dọn ở bên đường, lập tức vận chuyển bộ đội, ngày đêm tấp nập. Những xe ôtô bị máy bay địch bỏ bom phá đổ nằm ở bên đường, các xe ở phía sau vẫn tiếp tục tiến lên. Lại nói tới chiếc cầu lớn Cửu Long Giang ở gần Chương Châu, buổi trưa ngày 14 khi máy bay địch trinh sát thấy vẫn chưa được sửa chữa, thế nhưng buổi tối ván cầu đã được lắp xong, cho nên cuộc chiến đấu vừa mở màn, xe ôtô của quân giải phóng đã tấp nập đi qua, rất nhanh chóng tập trung ở Đông Sơn.Bộ đội viện binh lên đảo trước nhất là tiểu đoàn 3 trung đoàn 272. Sau khi họ lên đảo lúc 10 giờ 30 phút, đã đập tan ngay bọn lính dù khống chế chắc chắn bến đò Bát Xích Môn. Thế nhưng so sánh lực lượng đôi bên vẫn là bên mười bên một, cuộc chiến đấu càng thêm căng thẳng khẩn trương.Buổi chiều ngày 16, Đảo Đông Sơn trừ ba ngọn núi chính là núi Công Vân, núi Ngưu Độc, núi Vương Da và bến đò Bát Xích Môn đất đai rộng khoảng ba bốn kilô mét vuông vẫn ở trong tay quân giải phóng ra, tất cả đều nằm trong tay địch. Lúc này Hồ Liên báo cáo về Đài Loan, hắn đã chiếm đoạt được đảo Đông Sơn. Đài Loan bắt đầu chúc mừng, thổi phồng Màn mở đầu phản công đại lục đã kéo lên, Đảo Đông Sơn đã giành được thắng lợi mang tính quyết định v.v.. Lúc này, Đại đội 2 trung đoàn 80 Công An kiên trì giữ núi Công Vân, chẳng sợ kẻ thù bao vậy ba mặt, chỉ dựa vào 7 chiếc lô cốt xây, hơn 200 mét chiến hào và đoạn rãnh đất dài chưa đầy trăm mét, đã đánh lui được 18 đợt xung phong của quân đội Quốc dân đảng. Đại đội 12 trung đoàn 272 sau khi được tăng viện, họ lại cùng đánh lui 13 đợt xung phong của Quốc dân đảng. Khi trời tồi ở trước trận địa núi Công Vân đã nằm ngổn ngang 413 xác chết của địch. Đại đội 5, đại đội 6 của trung đoàn 80 Công An đã kết hợp với nhau kiên trì giữ chắc làm chủ trận địa núi Ngưu Độc, sau khi chiến đấu với địch đã giành lại được bộ phận trận địa phía ngoài tiền duyên, họ lại tổ chức lực lượng phản kích, giành lại trận địa, đã đánh lùi năm đợt xung phong của một tiểu đoàn địch, bắn chết hơn 200 tên. Quân quốc dân đảng tấn công vào trận địa chính núi Vương Da, trước sau cũng không thể đột phá được trận địa chính.Trong đêm khuya ngày 16, cuộc chiến đấu vẫn rất ác liệt. Bởi vì quân đội tăng viện của giải phóng quân chỉ có tiểu đoàn 3 trung đoàn 272 lên đảo, số còn lại vẫn đang trên đường kéo đến. Binh lực quân giải phóng ở trên đảo càng ngày càng ít. Vào lúc 22 giờ, Hồ Liên điều chỉnh sắp xếp, quyết tâm phát khởi cuộc công kích toàn diện trước lúc 24 giờ, cần phải chiếm được toàn đảo trước khi trời sáng. Bởi lẽ hắn dự đoán buổi sáng ngày mai, bộ đội phía sau của giải phóng quân sẽ tới bờ bên kia. Đúng 23 giờ, Hồ Liên đã đem quân đội dự bị cuối cùng ném vào cuộc chiến đấu, đánh mạnh vào ba trận địa chính. Thế nhưng 23 giờ 30 phút, sư đoàn 82 và sư đoàn 122 dẫn đầu của đại quân viện binh cùng với chủ lực trung đoàn 272 đều bắt đầu lên đảo. Tư lệnh viên quân khu Phúc Kiến là Diệp Phi quyết tâm đợi toàn bộ quân đội tăng viện sau khi lên đảo hết, chập tối ngày 17 đã phát khởi cuộc phản kích.Sáng sớm ngày 17, ba trận địa chính của đảo Đông Sơn Vân ở trong tay quân giải phóng. Bọn địch lại phát giác, đại bộ phận quân giải phóng đã lên đảo. Hồ Liên biết rằng đánh phá Đông Sơn đã vô vọng, quyết tâm rút về. Đúng 7 giờ, quân giải phóng phát hiện địch có dấu hiệu rút chạy, tư lệnh viên Diệp Phi quyết định lập tức phát khởi cuộc phản kích toàn diện. 10 giờ 30 phút, cuộc phản kích của giải phóng quân đã bắt đầu, cả ba đường đều chỉ hướng về thôn Hồ Vĩ.18 giờ ngày 17 các đội quân phản kích của Giải phóng quân đều bức tới gần thôn Hồ Vĩ, quân Quốc dân đảng chen chúc nhau đổ về ven biển, cướp thuyền chạy trốn. Tàu chiến chẳng đợi xếp đầy đã vội vã tháo chạy, quân Quốc dân đảng còn lại đành phải nộp súng đầu hàng. 19 giờ, cuộc chiến đấu kết thúc thắng lợi, tổng cộng giải phóng quân đã tiêu diệt 3379 tên quốc dân đảng, phá hủy hai chiếc xe tăng, bắn chìm 3 tàu chiến đổ bộ cỡ nhỏ, bắn rơi hai máy bay. Quân giải phóng cũng đã phải trả giá thương vong và mất tích 1250 người.Cuộc chiến đấu ở Đảo Đông Sơn là một lần giành thắng lợi lớn nhất trong hoạt động đánh trả bọn quốc dân đảng tới xâm phạm quấy rối của quân dân đại lục. Câu chuyện thần thoại của tập đoàn Tưởng Giới Thạch rùm beng phản công đại lúc đã bị phá diệt. Cuộc chiến đấu vừa kết thúc, chủ tịch Mao Trạch Đông đã chỉ thị: Cuộc chiến đấu ở Đông Sơn không chỉ là thắng lợi của Đông Sơn, cũng không phải chỉ là thắng lợi của Phúc Kiến mà là thắng lợi của cả nước!Trong giai đoạn từ đầu năm 1952 đến tháng 7 năm 1953 này, ngoài việc phái cử quân đội tới xâm phạm quấy rối khu vực ven biển vùng Đông Nam, tập đoàn Tưởng Giới Thạch còn tích cực tăng cường lực lượng cho bọn tàn binh Quốc dân đảng chạy trốn sang Miến, chỉ đạo chúng cử quân đội vào đất liền quấy rối. Tháng 2 năm 1952 phía Đài Loan đã phái cử ba viên chức quan trọng tới Bắc Miến đảm nhận chức phó tổng chỉ huy, Quân đoàn trưởng v.v.. bọn tàn binh. Ngoài ra chúng còn cử hơn 700 tên sĩ quan cơ sở và đặc công tới Miến, chỉnh đốn tổ chức tàn quân huấn luyện tác chiến mạnh mẽ thêm. Tức thì, đồng thời với lấy lớn nuốt bé của quân Quốc dân đảng ở khu vực ven biển vùng Đông nam, bọn tàn quân chạy sang Miến đã tiến hành bừa bãi các cuộc quấy rối cỡ nhỏ. Chỉ nửa đầu năm 1952, các đội vũ trang cỡ nhỏ của chúng đã tiến hành quấy rối tới hơn 60 lần ở ba huyện Đằng Xung, Long Lăng, Trấn Khang tỉnh Vân Nam, sát hại trên 100 người cán bộ khu, xã và quần chúng nhân dân. Trong đó riêng đêm ngày 22 tháng 3 chúng đã giết hại tới 82 người ở trong biên giới huyện Long Lăng.Tại khu vực ven biển Đông Nam, từ mùa thu năm 1949 tới năm 1953, tập đoàn Tưởng Giới Thạch ngoài việc tiến hành lên bờ xâm phạm quấy rối với quy mô vừa và nhỏ tới trên 100 lần đối với đại lục, chúng còn không ngừng phái quân đội dùng máy bay tiến hành các hoạt động phá hoại như bỏ bom bắn phá, càn quét, trinh sát, thả dù, đổ bộ đường không v.v...Từ tháng 11 năm 1949 đến tháng 2 năm 1950, máy bay Quốc dân đảng đã tiến hành 26 lần bỏ bom bắn phá và quấy rối đối với Thượng Hải Đặc biệt là ngày 6 tháng 2 năm 1950, 17 chiếc máy bay không quân Quốc dân đảng đã bỏ bom bắn phá điên cuồng đối với các mục tiêu như công ty điện lực và nhà máy đóng thuyền Thượng Hải, phá hủy hơn 2000 căn nhà, bắn chết và bắn bị thương hơn 1400 người, các nhà máy bị phá hoại nghiêm trọng.Miền ven biển Triết Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông là khu vực thường xuyên bắn phá quấy rối của máy bay không quân Quốc dân đảng, chủ yếu tập trung ở giữa Sán Đầu của Quảng Đông và Tùng Môn của Triết Giang. Lúc đó không quân của quân giải phóng còn rất yếu và nhỏ, Phúc Kiến và Việt Đông còn chưa có sân bay, số lượng bộ đội cao xạ pháo ít, trang bị cũ kỹ, không có sự bảo vệ che chở của tình báo Ra đa. Do đó máy bay địch hoạt động rất điên cuồng, mãi tới năm 1952, sau khi liên tục bắn rơi hai chiếc máy bay địch, khí thế của không quân Quốc dân đảng mới co cụm lại.Đồng thời với thời gian này, sự quấy rối trên biển của hải quân Quốc dân đảng cũng rất hung hăng. Chúng đã dựa vào ưu thế sức mạnh trên biển, dùng những hòn đảo ven biển đông nam đại lục mà chúng chiếm cứ để làm căn cứ, rất nhiều lần thềm lục địa và ngư trường ven biển đại lục, cướp bóc và bắt giữ các thuyền buôn qua lại, bắt giữ ngư dân, phá hoại nghiêm trọng việc vận chuyển đường biển và sản xuất nghề cá của đại lục. Chỉ riêng hai tỉnh Mân Triết từ mùa thu năm 1949 tới mùa đông năm 1953, số thuyền đánh cá bị hải quân Quốc dân đảng pháo kích, cướp bóc đã lên tới hơn 2000 chiếc, số ngư dân bị bắt đi đã có tới hơn 1 vạn người, đã khiến cho hơn 50 vạn ngư dân trực tiếp tham gia công việc sản xuất nghề cá đã không thể ra biển bắt đánh cá bình thường được. Nhằm thẳng vào tình hình này, quân ủy Trung ương và quốc vụ viện đã phát ra mệnh lệnh đối với việc vũ trang bảo vệ đường biển, bảo đảm an toàn trên biển, yêu cầu hải quân của giải phóng quân tăng cường tuần tra, đánh trả sự quấy rối trên biển của bọn Quốc dân đảng, đảm bảo an toàn việc vận chuyển đường biển. Các thuyền buôn cũng phải thành lập đội vũ trang của mình, để cùng đấu tranh chống lại các cuộc quấy rối của quân địch. Sau đó đã nhiều lần giành được thắng lợi trong cuộc đánh trả sự tập kích quấy rối của hải quân Quốc dân đảng.Cao trào phản công đại lục lần thứ nhất của tập đoàn Tưởng Giới Thạch là thời gian từ 1950 đến năm 1953, thế nhưng thực sự rủ cờ im trống là từ sau khi quân giải phóng chiếm được Đảo Nhất Giang Sơn, quân quốc dân đảng đã triệt thoái ra khỏi đảo Đại Trần.Ngày 18 tháng 1 năm 1955, quân giải phóng đã chỉ huy 3 đạo quân Lục, Hải, Không quân thuộc quân khu Hoa Đông, phát động cuộc tác chiến liên hợp đối với bọn Quốc dân đảng chiếm đảo Nhất Giang Sơn, trải qua 10 giờ liền chiến đấu ác liệt, đã tiêu diệt toàn bộ quân giữ đảo là 1086 tên, bắn chìm 3 tàu chiến địch, bắn bị thương 4 chiếc tỏ rõ năng lực tác chiến hùng mạnh của quân giải phóng. Tập đoàn Tưởng Giới Thạch đã không thể không đem quân quốc đảng ở trên các đảo Đài Châu lấy đảo Đại Trần làm trung tâm rút lui ra Đài Loan. Tới hạ tuần tháng 2 năm 1955, các hòn đảo ở ven biển Triết Đông đã toàn bộ trở về trong lòng nhân dân.
Phần 6
Chương 4
Cao trào quấy rối lần thứ hai phản công Đại lục của Tưởng Giới Thạch
Nguồn: Mọt sách
Thu gọn nội dung
Từ mùa thu năm 1949 đến tháng 7 năm 1953, tập đoàn Tưởng Giới Thạch đã tiến hành 71 lần hoạt động xâm phạm quấy rối đại lục với quy mô vừa và nhỏ từ trên 100 tên đến trên 1 vạn tên địch, tổng binh lực đã điều động đạt tới trên 47700 tên, đã bị quân dân đại lục tiêu diệt trên 7900 tên. Sau cuộc chiến đấu ở đảo Đông Sơn và cuộc chiến đấu ở đảo Nhất Giang Sơn, tập đoàn Tưởng Giới Thạch bị bức phải thay đổi chiến lược, chủ yếu là dùng đội vũ trang nhỏ, lẻ tẻ tiến hành tập kích quấy rối đại lục.Mùa Xuân năm 1962, tập đoàn Tưởng Giới Thạch đã đánh giá tình hình một cách sai lầm, chúng cho rằng đại lục đang ở vào thời kỳ khó khăn về kinh tế, đó là thời cơ tốt để chúng thực thi việc phản công, liền tích cực chuẩn bị tiến hành xâm phạm quân sự với quy mô lớn đối với khu vực ven biển đông nam đại lục, chúng gào thét om xòm phản công đại lục. Ngày mồng 10 tháng 6, Trung ương đảng Cộng sản Trung quốc phát ra bản chỉ thị chuẩn bị đập tan cuộc xâm phạm quấy rối của quân Quốc dân đảng vào khu vực ven biển đông nam, yêu cầu toàn Đảng, toàn quân, nhân dân toàn quốc nâng cao cảnh giác, chuẩn bị tốt về mọi phương diện, nếu quân đội Quốc dân đảng cả gan dám tới xâm phạm, thì sẽ kiên quyết, triệt để, tiêu diệt chúng toàn bộ và sạch sẽ. Giải phóng quân tuân theo tinh thần chỉ thị của Trung ương đảng Cộng sản Trung Quốc, lập tức lao vào công tác chuẩn bị khẩn trương, nhanh chóng điều chỉnh sự bố trí sắp xếp, tăng cường binh lực vùng ven biển Đông Nam, dấy lên cao trào luyện binh trước khi tác chiến mang tính chất quần chúng, hơn thế, về mặt trang bị vật tư cũng đã có sự chuẩn bị đầy đủ. Quần chúng nhân dân và dân quân vùng ven biển Đông Nam cũng đã tích cực tiến hành, chuẩn bị sẵn sàng chi viện và phối hợp tác chiến với quân giải phóng. Ngày 23 tháng 6, Tân Hoa Xã đã công khai vạch trần mưu đồ của nhà đương cục Đài Loan. Do vì nghiêm trận đang chờ đợi của quân dân đại lục và sự vạch trần công khai của Tân Hoa Xã, tập đoàn Tưởng Giới Thạch bị bức phải vứt bỏ kế hoạch mạo hiểm quân sự với quy mô lớn đó. Thế nhưng xuất phát từ yêu cầu nội chính và ngoại giao, nhà đương cục Quốc dân đảng Đài Loan đã nêu ra Đường lối chung phục hưng đại lục trong giai đoạn hiện tại là dấy lên một cao trào chống cộng của nhân dân đại lục, cần phải vạch kế hoạch tiến hành hành động thực tế trong cuộc cách mạng chống cộng ở đại lục làm cuộc tác chiến trước tiên của cuộc phản công quân sự ở trong Hội nghị toàn thể Trung ương khóa 8 của chúng. Xuất phát từ loại sách lược này, tập đoàn Tưởng Giới Thạch đã thay đổi phương thức phản công quấy rối tập kích đối với đại lục, không thể tiến hành biến động lớn mà phải biến động nhỏ, tiến hành xâm phạm quy mô lớn không được nữa mà phải lén vượt biển leo lên đất liền. Xuất phát từ nhu cầu trên mặt chiến lược và sách lược, nước Mỹ đối với nhà đương cục Đài Loan cũng biểu thị sự ủng hộ đối với kế hoạch dùng đội đặc vụ vũ trang nhỏ thẩm thấu và tập kích quấy rối vào đại lục.Sau đó, cơ quan tình báo tối cao của Đài Loan đã thành lập Tổ hành động đặc chủng, tăng cường huấn luyện đặc vụ vũ trang, tích cực vạch kế hoạch thực thi đội vũ trang cỡ nhỏ hoạt động thẩm thấu đối với đại lục. Kỳ thực, quân đội Quốc dân đảng dùng hoạt động đội vũ trang cỡ nhỏ tập kích quấy rối đại lục, từ ngay sau khi tập đoàn Tưởng Giới Thạch chạy trốn ra chiếm đảo Đài Loan cũng đã bắt đầu rồi.Trong thời gian chúng tiến hành hoạt động xâm phạm quấy rối đại lục với quy mô vừa và nhỏ cũng chưa bao giờ ngừng trệ. Thế nhưng từ cuối năm 1962 đến tháng 8 năm 1965 tập đoàn Tưởng Giới Thạch đã liên tục cử hàng loạt các đội đặc vụ võ trang cỡ nhỏ, có kế hoạch, có tổ chức thẩm thấu và tập kích quấy rối đại lục.Thoạt đầu, những đội đặc vụ vũ trang cỡ nhỏ được tập đoàn Tưởng Giới Thạch cử đi thường lợi dụng đêm tối từ trên biển lẻn trộm lên đất liền hoặc từ trên trời nhẩy xuống, hòng ẩn trốn vào vùng núi nội địa, xây dựng Căn cứ du kích, phát triển vũ trang phản động, chờ thời cơ phối hợp phản công. Chiêu này không thành, chúng lại thay đổi thủ pháp, tiến hành tập kích quấy nhiễu đối với đại lục, hòng bắt bớ những sĩ quan và binh lính giải phóng, cán bộ địa phương và dân quân làm nhiệm vụ phân tán, phá hoại những công trình xây dựng về quân sự, kinh tế và giao thông quan trọng, cướp đoạt súng ống đạn dược cùng những văn kiện cơ mật, tập kích vào những chiếc thuyền của đại lục đang đánh cá ở trên biển và những con tàu đang neo đậu ở bờ biển, để khuyếch trương ảnh hưởng chính trị của nó, từ đó đã hình thành cao trào quấy rối lần thứ hai phản công đại lục của tập đoàn Tưởng Giới Thạch.Mùa thu năm 1962, Trung tâm tình báo liên hợp Trung Mỹ cơ quan đặc vụ của nước Mỹ và nhà đương Cục Đài Loan với Cục tình báo Bộ quốc phòng của nhà đương cục Đài Loan, cùng đặt ra kế hoạch tập kích quấy rối mang tên là Oai biển và Siêu ban, mưu đồ dùng các đội đặc vụ vũ trang cỡ nhỏ tập kích quấy rối Quảng Đông, mở ra Hành lang du kích. Chúng tuyển lựa các sĩ quan đặc vụ chuyên nghiệp, phản động, thu thập những thủ lĩnh thổ phỉ, những tên địa chủ chạy trốn và những phần tử phản cách mạng, biên chế thành chống cộng cứu quốc quân, còn ra lệnh cho chúng tăng cường tốc độ tiến hành huấn luyện đặc vụ, nhằm thời cơ cử chúng làm quân tiên phong trong việc phản công đại lục. Những cuộc quấy rối cỡ nhỏ trong thời kỳ này có thể chia làm ba giai đoạn.Giai đoạn thứ nhất từ mồng 1 tháng 10 năm 1962 đến 6 tháng 12, 9 đội đặc vụ vũ trang là loạt đầu tiên chấp hành kế hoạch Oai biển và Siêu ban, ngồi thuyền xuất phát từ Cao Hùng và Đông Sa Đài Loan, trong đó 8 đội lần lượt trốn lên đại lục thuộc khu vực ven biển các huyện Hải Phong, Huệ Dương, Huệ Lai, Điện Bạch, Đài Sơn v.v... tỉnh Quảng Đông; còn một đội vốn kế hoạch là lên bờ đại lục ở Huệ Dương, thế nhưng sau khi đến mặt biển Huệ Dương chúng không dám lên bờ mà lại chạy trốn lên Đảo Hỏa Đầu bồn Hồng Công. Ngày mồng 4 tháng 12 Trung tâm thông tấn phụ trợ hải quân cơ quan đặc vụ của nước Mỹ, còn cử một chiếc máy bay gián điệp P-2V xâm nhập bầu trời khu vực Dương Giang tỉnh Quảng Đông, thả dù xuống đại lục một toán đặc vụ vũ trang quốc dân đảng đã được huấn luyện chuyên môn ở trên đảo Xung Thằng.Toán đặc vụ vũ trang này trước khi xuất phát, cơ quan đặc vụ Đài Loan đã lần lượt phong quân hàm trao ấn tín, thăng quan ủy chức cho chúng, hy vọng rằng chúng sẽ có thể trở thành tiền đồ phát triển. Thế nhưng, sau khi chúng hóa trang thành giải phóng quân bước lên đại lục hoặc chạm chân xuống mặt đất đều không thể chạy thoát vận mệnh bị quân dân đại lục tiêu diệt.Vào lúc 0 giờ ngày mồng 1 tháng 10 đội quân độc lập thứ hai gồm 14 người của Quân cứu quốc chống cộng tỉnh Quảng Đông, tại đảo Triết Lãng huyện Hải Phong lẻn trộm lên bờ. Sau hai giờ, lập tức bị các dân quân đi tuần tra phát hiện. Trời vừa sáng tên tư lệnh Trần Chính Quang cùng ba tên đặc vụ võ trang, đã bị các dân quân bao vây truy kích phải bó tay chịu trói, đã trở thành tù binh. Tiếp đó, giải phóng quân và dân quân đã căn cứ vào khẩu cung của chúng tiến hành lùng bắt, đúng 7 giờ sáng lại bắt thêm được 11 tên khác. Cánh quân thứ hai đã bị tiêu diệt.0 giờ 5 phút ngày 28 tháng 10, hai cánh quân độc lập thứ 5 và thứ 6 tổng cộng 22 tên của Chống Cộng cứu quốc quân Tỉnh Quảng Đông đã lẻn trốn lên trên đất liền ở làng Công xã hạ Tước Sơn huyện Điện Bạch, lập tức dã bị đội Canh gác trên biển phát hiện. Trong sự bao vây lùng sục của hai đại đội bộ binh giải phóng quân và dân quân, chúng đã phải kéo cờ trắng, toàn bộ ra đầu hàng vào lúc 18 giờ ngày hôm đó.Vào lúc 23 giờ ngày mồng 6 tháng 12, 10 tên đặc vụ vũ trang của cánh quân độc lập thứ 23 Chống cộng cứu quốc quân tỉnh Quảng Đông đã lên bờ công xã Tiền Chiêm huyện Huệ lâm. Trên thân chúng mặc phục trang giải phóng quân, trong tay cầm giấy giới thiệu của bộ đội, hỏi thăm đường trước quần chúng nơi đó, được dẫn tới nghỉ ở tiểu đoàn bộ tiểu đoàn dân quân. Thế nhưng khi chúng vừa bưng tách trà lên uống thì phát hiện thấy xung quanh dày đặc dân quân. Dưới sự uy hiếp của hơn 50 khẩu súng trong tay dân quân, 10 tên đặc vụ vũ trang này đành phải hạ vũ khí. 29 tên đặc vụ vũ trang khác của cánh quân này đang lướt nhanh trên mặt biển trên chiếc thuyền Tường Thuận số 1 cũng chuẩn bị lên đất liền tại xã Tiền chiêm Công. Thế nhưng vào lúc 23 giờ 56 phút ngày hôm đó đã bị chiến hạm hộ vệ của quân giải phóng bắn chìm. Số đặc vụ vũ trang ở trên thuyền có 19 tên đều bị bắt sống, 10 tên đã chôn thân dưới đáy biển.Ngoài ba toán đặc vụ vũ trang kể trên, cánh quân số 3 có 12 tên là Chống cộng cứu quốc quân tỉnh Quảng Đông đã lên bờ vào núi Tiểu Tinh huyện Huệ Dương; cánh quân số 1 có 14 tên Chống Cộng Cứu quốc quân tỉnh Quảng Đông lên bờ vào Thần Tuyên huyện Huệ Lai; Đội tiên phong 33 người Chống Cộng cứu quốc quân tỉnh Quảng Đông lên bờ vào Xà Tí Loan Xích Khê Công xã huyện Đài Sơn; Cánh quân thứ bẩy 35 người Chống Cộng cứu quốc quân tỉnh Quảng Đông đã lên bờ vào đảo Hà Bao huyện Đài Sơn, Đội đặc vụ vũ trang 3 tên đã thả dù xuống đại lục vào ở núi Thạch Lối huyện Dương Giang đều lần lượt nhanh chóng bị tiêu diệt sau khi bước chân lên đại lục hoặc thả dù xuống chỉ trong vòng 4, 5 giờ hoặc 2, 3 ngày. Quân và dân ven biển Quảng Đông trải qua 8 trận chiến đấu, 9 đội đặc vụ vũ trang vào xâm phạm quấy rối đại lục đều hoàn toàn bị tiêu diệt, tổng cộng 172 tên (Trong đó có 7 tên tư lệnh đặc vụ, 14 tên phó tư lệnh).Giai đoạn thứ 2 từ tháng 6 năm 1963 đến tháng 10. Sau khi 9 toán đặc vụ vũ trang hoàn toàn bị tiêu diệt vào mùa đông năm 1962, tập đoàn Tưởng Giới Thạch đã thay đổi cách làm, chúng đã thực thi các cuộc tập kích quấy rối đại lục từ nhiều hướng, nhiều khu vực. Chúng đã cho các toán đặc vụ vũ trang hóa trang thành dân đánh cá, trà trộn vào trong các thuyền đánh cá, chờ thời cơ xâm nhập đại lục. Chúng đã ra lệnh cho bọn đặc vụ lén vượt biển trong đêm sau khi lên bờ phải xóa mọi dấu tích, che khuất hành động, cho nên đã có mấy lần đạt được kết quả. Vì vậy tập đoàn Tưởng Giới Thạch đã đưa phạm vi lén vượt biển và thẩm thấu vào đại lục của các đội đặc vụ vũ trang cỡ nhỏ, dần dần từ một tỉnh Quảng Đông mở rộng ra các tỉnh ở Hoa Đông như Sơn Đông, Giang Tô, Triết Giang, Phúc Kiến v.v...Từ ngày 21 đến 28 tháng 6 năm 1963, cơ quan đặc vụ của nhà đương cục Đài Loan liên tục phái cử 6 đội đặc vụ vũ trang tổng cộng 69 người lần lượt lén lên đại lục khu vực ven biển các huyện Trung Sơn, Hải Phong, Điện Bạch tỉnh Quảng Đông; huyện Chương Phố, Chiếu An tỉnh Phúc Kiến; huyện Bình Dương tỉnh Triết Giang v.v.. Số tên đặc vụ vũ trang này ngoài 12 tên trước khi lên đất liền đã chuyển hướng chạy về áo Môn ra, số còn lại đều hoàn toàn bị tiêu diệt.Từ ngày 23 tháng 6 đến 24 tháng 10, nhà đương cục Đài Loan lại cử 15 toán đặc vụ vũ trang ngầm trốn lên đại lục. Trong đó có 6 toán 47 tên, chuẩn bị lẩn trốn tới hoạt động ở khu vực Thập Vạn đại sơn phía tây tỉnh Quảng Đông, kết quả là chúng đã lầm lỡ lên bờ vùng ven biển tỉnh Hải Ninh cũ của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, kết quả đã bị nhân dân Việt Nam tiêu diệt hết. 9 tốp khác tổng cộng 90 tên lần lượt lên đất liền hoặc thả dù xuống đất liền ở vùng ven biển Sơn Đông, Giang Tô, Triết Giang, Phúc Kiến và Quảng Đông.Sáng sớm ngày 24 tháng 7, chi đội số 11 Quân xung kích chống Cộng gồm 12 tên đã lên đất liền leo tới Lão Hổ Nham huyện Vĩ Hạ tỉnh Triết Giang, đúng 8 giờ sáng thì bị một đại đội quân giải phóng và dân quân tổng cộng hơn 1000 người bao vây chặt nhiều vòng, đúng 11 giờ thì bị tiêu diệt hoàn toàn.Đêm ngày mồng 6 tháng 10, cánh quân độc lập số 12 chống cộng cứu quốc quân tỉnh Sơn Đông gồm 16 tên, đã leo lên bờ tại Công xã Đại Tân Gia huyện Hải Dương tỉnh Sơn Đông. Trước khi chúng xuất phát, Tưởng Kinh Quốc vừa đi thăm nước Mỹ trở về Đài Loan đã đích thân huấn thị và tiễn biệt, còn chúc chúng thắng lợi thành công. Toán đặc vụ này xuất phát từ Đài Loan, vòng qua đảo Hươu ở phía nam Triều Tiên. Sau ba ngày nghỉ ngơi chỉnh đốn chúng đã lẻn vào vùng ven biển Sơn Đông. Buổi chiều ngày mồng 7 tháng 10, toàn bộ số đặc vụ của cánh quân độc lập số 12 đã bị 8 đại đội quân giải phóng và hơn 5000 dân quân bao vây chặt 8 tàu chiến hải quân của quân giải phóng cũng đã phong tỏa mặt biển. Vào lúc hoàng hôn, hai tên đặc vụ vũ trang đã bị bắn chết, số còn lại bị bức phải nộp khí giới đầu hàng.Sáng sớm ngày mồng 8 tháng 10, tốp đặc vụ vũ trang độc lập số 18 Chống cộng cứu quốc quân tỉnh Giang Tô gồm 10 tên đã lên bờ vào huyện Xạ Dương tỉnh Giang Tô, buổi trưa đã bị quân và dân Xạ Dương bao vây, chúng hoàn toàn bị tiêu diệt ngay trong ngày hôm đó.Sáu toán đặc vụ vũ trang còn lại cũng không một tên nào lọt lưới!Sau khi các đội đặc vụ vũ trang tập kích quấy rối đại lục đã liên tục bị tiêu diệt, tập đoàn Tưởng Giới Thạch đã đem vượt biển trộm thẩm thấu vào đại lục đổi thành tập kích quấy rối. Chúng tăng cường huấn luyện Bộ đội đột kích thủy lục , sử dụng cách đánh đi nhanh về nhanh, vồ một miếng liền đi ngay, tiến hành tập kích quấy rối phá hoại đối với đại lục. Do đó đã bắt đầu giai đoạn thứ ba.Từ tháng 11 năm 1963 đến tháng 6 năm 1964, tập đoàn Tưởng Giới Thạch lại liên tục phái cử 14 tốp đặc vụ vũ trang, đột kích quấy rối miền duyên hải Quảng Đông, Phúc Kiến, Triết Giang. Giải phóng quân và dân quân đã căn cứ vào phương châm đánh nhanh thắng nhanh và Cố gắng tiêu diệt địch ngay trên mặt biển hoặc ở bãi biển do bộ Tổng tham mưu đề ra, giáng cho các tốp đặc vụ vũ trang nhỏ tới tập kích phá rối những đòn chí mạng. Mười bốn tốp đặc vụ vũ trang này có hai tốp lần lượt bị tiêu diệt ở trên bờ Đảo Hạ Đại Trần Tỉnh Triết Giang và khu vực ven biển huyện Vạn Ninh đảo Hải Nam, có 7 tốp bị tiêu diệt ở trên biển, 5 tốp còn lại do hoảng sợ uy lực của quân giải phóng và dân quân nên giữa đường đã phải rút về. Từ tháng 7 năm 1964 đến tháng 1 năm 1965, nhà đương cục Đài Loan lại phải cử 7 tốp đặc vụ vũ trang, kết quả là 2 tốp đã bị tiêu diệt toàn bộ ở trên bãi biển 5 tốp đã bị tiêu diệt toàn bộ ở trên biển. Với những đòn đả kích mạnh mẽ và sự canh phòng nghiêm mật của quân và dân đại lục, sự đột kích quấy phá của các tốp đặc vụ vũ trang cỡ nhỏ do bọn Quốc dân đảng Đài Loan cử đi, đã nhiều lần gặp thảm bại, chúng đã bị bức phải chấm dứt.Từ tháng 10 năm 1962 đến tháng 1 năm 1965, quân giải phóng và dân quân đã tiêu diệt ở khu vực ven biển Đông nam 40 tốp đặc vụ vũ trang Quốc dân đảng, tổng Cộng 594 tên, bắn chìm và thu giữ 24 chiếc thuyền tàu các loại, thu giữ hơn 400 khẩu súng trường và súng ngắn, đạn dược nhiều vô kể.Trong cao trào phản công đại lục lần thứ hai, ngoài việc tiến hành sự đột kích quấy phá cỡ nhỏ ở khu vực ven biển Đông Nam ra, tập đoàn Tưởng Giới Thạch còn khích động bọn tàn quân Quốc dân đảng chạy sang Miến điện tiến hành các hoạt động quấy rối phá hoại ở biên giới tỉnh Vân Nam.Bọn tàn quân Quốc dân đảng chạy sang Miến sau khi bị thất bại trong các cuộc quấy rối mùa hạ năm 1951, chúng đã chiếm cứ miền bắc Miến, làm nguy hại tới sự an toàn của Miến Điện và quan hệ Trung Miến. Dưới áp lực bởi những đòn đả kích quân sự của chính phủ Miến Điện và dư luận quốc tế, bắt buộc chúng phải rút về Đài Loan trong hai lần tháng 11 năm 1953 và tháng 3 năm 1961, trên 5000 tên còn lưu lại ở biên giới Miến Điện, Thái Lan và Lào. Năm 1962 tập đoàn Tưởng Giới Thạch ở Đài Loan đã cử những phái viên quan trọng tới thị sát, an ủi khích lệ bọn tàn quân ở Miến, Thái, Lào, động viên bọn tàn quân trở lại biên giới Trung Miến nhằm mục đích phản công đại lục, tiến hành hoạt động quấy rối phá hoại đối với Vân Nam. Cho nên, từ tháng 3 năm 1963 đến tháng 9 năm 1966, quân đội Quốc dân đảng chạy trốn ở Miến đã lần lượt tiến hành 8 lượt quấy rối quy mô nhỏ ở khu vực biên giới các huyện Lộ Tây, Trấn khang Thương Nguyên, Mạnh Liên của Điền Tây, trong đó có bốn lần vấp phải sự đánh trả của quân giải phóng, bị tiêu diệt 38 tên. Sau đó, do vì ảnh hưởng của tình hình chính trị trong nước Miến Điện, quân Quốc dân đảng chạy sang Miến bị bức phải rút sang khu vực biên giới Thái Miến, đã phải đình chỉ những hoạt động quấy rối vũ trang đối với vùng biên giới Vân Nam.Trong Cao trào quấy rối phá hoại phản công đại lục lần thứ hai, hải quân và bọn đặc vụ vũ trang trên biển của Quốc dân đảng cũng vấp phải sự đả kích nặng nề của hải quân quân giải phóng, khiến cho chính sách Vũ trang thẩm thấu. Lên đại lục vì mục đích chính trị của tập đoàn Tưởng Giới Thạch đã bị thất bại. Những hoạt động quấy phá của hải quân và đặc vụ vũ trang trên biển của Quốc dân đảng, từ tháng 10 năm 1962 đến cuối năm 1965 có thể phân ra làm hai giai đoạn.Giai đoạn thứ nhất, từ tháng 10 năm 1962 đến tháng 7 năm 1965.Ngày mồng 2, ngày 29 tháng 11 năm 1962 và ngày mồng 6 tháng 12, những chiếc thuyền đặc vụ vũ trang trên biển của Quốc dân đảng mang số hiệu M1545F, Hiệp tiến số 8 và Tường Thuận số 1 v.v... chấp hành kế hoạch tập kích quấy rối Siêu ban. Hải Uy, Trường Phong, phối hợp với hoạt động của đặc vụ lên đất liền, xông lên quần đảo Vạn Sơn, khu vực hải phận Thậm Giang. Hạm đội Nam Hải của hải quân quân giải phóng nhanh chóng xuất kích đã bắn chìm 3 chiếc thuyền địch kể trên, bắn chết chìm 49 tên đặc vụ vũ trang, bắt sống tên thương tá đội trưởng Châu Văn Kiệt và 42 tên.Ngày 21 tháng 6 năm 1963, một chiếc thuyền đặc vụ vũ trang Quốc dân đảng chấp hành Kế hoạch Nhất Đức đã lẻn vào mặt biển Đảo Đại Hoành Cầm ngoài bến Châu Giang. Một chi đôi hải quân quân giải phóng vừa hay đang phục kích tại đây, sau khi phát hiện tình hình địch lập tức xuất kích, đã bắn chìm ngay ở mặt biển phía nam đảo Đại Hoành Cầm.Sau khi hải quân Quốc dân đảng vấp phải sự đả kích mang tính chất bị tiêu diệt ở ven biển tỉnh Quảng Đông, chúng đã phải thay đổi sách lược, tiến hành Thủy lục đột kích, lập tức cử những toán đặc vụ trên biển cỡ nhỏ, tiến hành tập kích bất ngờ, lùng sục, bắt bớ, cướp của, phá hoại công trình thi công, đến nhanh rút nhanh đối với những hòn đảo cô độc, những doi đất nhô ra ngoài bờ biển đại lục và những thuyền đánh cá.Ngày 24 tháng 10 năm 1963, con thuyền đặc vụ vũ trang mang tên Thành công số 1 lao vào tiến hành phá hoại đoàn thuyền đánh cá ở khu vực Đông Hải Nam Lộc Sơn Ôn châu. Quân canh giữ Ôn Châu thuộc hạm đội Đông Hải của quân giải phóng đã cử ba chiến hạm hộ vệ cao tốc, truy tìm thuyền đặc vụ Thành công số 1. Trong tình trạng con thuyền này lẩn vào trong các con thuyền đánh cá, đã phải thực thi ba lần đột kích với nó, cuối cùng cũng đã bắn chìm được nó.Ngày 22 tháng 11 năm 1963, con thuyền đặc vụ T3166M của quân đội Quốc dân đảng ngụy trang thành thuyền đánh cá lẩn vào khu vực Nam hải Kiệt Thạch Loan tỉnh Quảng Đông. Tàu hộ vệ hạm đội 4 Nam Hải của quân giải phóng lao tới bao vây chặt, vận dụng phương pháp kết hợp giữa áp lực quân sự với tiến công chính trị, quyết không buông súng, đã bức chiếc thuyền này phải treo cờ đầu hàng.Ngày mồng 5 tháng 3 năm 1964, con thuyền đặc vụ Thành công số 4 của quân đội Quốc dân đảng đã tiến vào hải vực Bình Đàm Phúc Kiến, chuẩn bị nhằm thời cơ tập kích đảo Bình Đàm. Nhưng con tàu hộ vệ hạm đội 3 Đông Hải vội vã xông ra khu vực chiến đấu, bắt sống con thuyền đó.Đội đột kích Thủy lục của quân Quốc dân đảng liên tục húc vào tường, lại tổ chức Đội đột kích trên biển để tiến hành hoạt đồng Đột kích trên biển.Ngày mồng 1 tháng 5 năm 1964, cục tình báo Đài Loan phái cử 7 chiếc Tàu Sói biển của Đội đột kích trên biển, xuất phát từ đảo Đông Dẫn, hòng lần lượt tập kích những thuyền tàu qua lại trên đường biển từ Đảo ứng nổi tới Đảo Rồng bay và những con tàu hộ vệ của giải phóng quân neo đậu ở Đảo Bắc Sương. Chúng đã trà trộn vào trong đoàn thuyền đánh cá của ngư dân, chờ thời cơ phát động tập kích bất ngờ. Sau khi hạm đội Đông Hải của giải phóng quân trinh sát rõ tình hình, đã dùng 9 chiếc tàu hộ vệ lao vào giao chiến. Đúng 7 giờ, hai chiếc tàu hộ vệ của quân giải phóng làm nhiệm vụ cảnh giới đã triển khai cuộc đánh nhau trên biển với bốn chiếc Tàu Sói biển địch, bắn bị thương và bắt giữ một chiếc, số còn lại tháo chạy. Ba chiếc tàu hộ vệ khác của quân giải phóng biết tin vội vàng tới trợ chiến, khi truy kích ba chiếc Tàu Sói biển họ đã triển khai pháo chiến với khu trục hạm Số hiệu Đơn Dương và tàu săn ngầm số hiệu Bắc Giang của bọn Quốc dân đảng. ít lâu sau tàu hộ vệ của quân giải phóng lại bắn chìm hai chiếc Tàu sói biển ở gần đảo Đông Dẫn.Ngày 18 tháng 11 năm 1964, ba chiếc Tàu sói biển của Quốc dân đảng kéo một chiếc tàu bộc phá đựng trên dưới 200 ki lô gam thuốc nổ, lái từ hướng bán đảo Hoàng Kỳ đi Mã Tổ, ý đồ khi gặp phải chiến hạm của giải phóng quân, thì sẽ cho nổ tàu bộc phá, hấp dẫn hỏa lực quân giải phóng, sau đó sẽ thừa cơ tiến hành công kích. Điều mà bọn địch không thể ngờ được là, sau khi đụng độ với quân giải phóng, hai chiếc tàu hộ vệ của hạm đội Đông Hải đã lao thẳng vào bọn địch, cắt đứt đường rút lui của Tàu sói biển. Hải quân Quốc dân đảng kinh hoàng hỗn loạn, vội vàng cho nổ Tàu bộc phá rồi cho hạm đội chạy trốn ra ngoài với tốc độ cao. Hai chiếc tàu bảo hộ của giải phóng quân không hề để ý tới mục tiêu bộc phá, dốc toàn lực truy kích Tàu sói biển, cuối cùng đã bắn chìm một chiếc của chúng.Ngày mồng 8 tháng 7 năm 1964, 5 tên đặc vụ của Cục tình báo bộ quốc phòng nhà đương Cục Đài Loan, chia nhau ngồi trên hai con thuyền đặc vụ nhân hiệu Mãn Khánh Thịnh và Nhãn hiệu Mãn Khánh Thăng ngụy trang thành thuyền đánh cá Nhật Bản, xuất phát từ Cảng nước ngọt Đài Loan, âm mưu thực thi việc đột kích Cảng Lữ Tứ Tỉnh Giang Tô, ngoạm một miếng rồi chuồn thẳng. Hạm đội Đông Hải của quân giải phóng cử ra tàu bảo vệ, tàu quét mìn mỗi loại hai chiếc vội vã tới vùng biển Lữ Tứ đón bắt. 23 giờ ngày 11, tàu hộ vệ mang số hiệu Hoành Dương của quân giải phóng phát hiện thuyền đặc vụ mang số hiệu Mãn Khánh Thịnh ngụy trang thành thuyền đánh cá mang Số hiệu Khánh Thịnh Hoàn của Nhật Bản, đã nã pháo bắn trọng thương, bức nó phải đầu hàng. Tiếp theo đó, tàu quét mìn mang số hiệu Sa Gia Điếm phát hiện mạn thuyền của một chiếc thuyền đánh cá dấu hiệu Khánh Thăng Hoàn mà ở đuôi thuyền lại đánh dấu Mãn Khánh Thăng, do đó đã nhận định đó chính là thuyền đặc vụ mang số hiệu Mãn Khánh Thăng, sau khi khuyên nó đầu hàng vô hiệu đã bắn chìm nó. Trong lần chiến đấu này, hải quân quân giải phóng đã bắn chết tên thiếu tá đại đội trưởng Quốc dân đảng cùng 8 tên lính, bắt sống tên phó đại đội trưởng và 72 tên.Buổi tối ngày 11 tháng 7 năm 1964, những thuyền đặc vụ mang số hiệu Đại Kim số 1, Đại Kim số 2 của cục tình báo Đài Loan, treo quốc kỳ nước Anh, lần lượt đổi tên là Âu Ngư số 1 và Âu Ngư số 2 chở 45 tên đặc vụ vũ trang và 29 thuyền viên, từ Cảng Nghiến Nam Việt Nam lái về Đài Loan, ba chiến hạm xung kích từ căn cứ Du Lâm của Hạm đội Nam Hải quân giải phóng đã nhận lệnh lao ra chiến khu. Chiều ngày 12 đã bắn chìm một chiếc tàu đặc vụ ngụy trang, bắn chết chìm 14 tên, bắt làm tù binh 60 tên.Từ năm 1962 đến tháng 7 năm 1965, hải quân quân giải phóng trước sau đã lần lượt tiêu diệt 47 toán đặc vụ vũ trang trên biển của bọn Quốc dân đảng, tiêu diệt một bộ phận của 13 toán, bắn chết 100 tên Quốc dân đảng bắt sống 316 tên.Giai đoạn thứ hai là từ tháng 8 năm 1965 đến cuối năm. Trong giai đoạn này đã phát sinh hai lần hải chiến quan trọng - Cuộc hải chiến 6-8 và cuộc hải chiến về phía đông Sùng Vũ. Hải quân giải phóng quân trong hai lần hải chiến này lấy tàu nhỏ đánh hạm lớn, đã giành được những chiến tích huy hoàng, đả kích trầm trọng vào hải quân Quốc dân đảng, bắt buộc những hoạt động gây rối trên biển của địch phải dần dần giảm bớt thậm chí có xu hướng đình chỉ.Sau khi những hoạt động tập kích quấy rối quy mô nhỏ do tập đoàn Tưởng Giới Thạch lợi dụng thuyền tàu Cỡ nhỏ tiến hành bị thất bại chúng đã quyết định điều động tàu hạm cỡ trung bình và lớn của hải quân, đảm nhận nhiệm vụ vận chuyển những tốp đặc vụ vũ trang cỡ nhỏ. Chúng nhận định rằng những tàu hạm cỡ lớn và trung bình trọng tải lớn, hỏa lực mạnh, tốc độ nhanh, có thể đánh có thể chạy, có thể đánh đòn bất ngờ để thắng địch, hai lần hải chiến quan trọng chính là đã phát sinh trong bối cảnh như vậy.5 giờ ngày 5 tháng 8 năm 1965, Kỳ hạm của hạm đội 2 tuần phòng trên biển của Quốc dân đảng - Nhãn hiệu Kiếm Môn tàu săn ngầm cỡ lớn và nhãn hiệu Chương Giang tàu săn ngầm cỡ nhỏ, vận chuyển một tốp đặc vụ vũ trang chấp hành kế hoạch biển gào của Cục tình báo bộ quốc phòng Đài Loan, từ Tả doanh Đài Loan bí mật ra biển, lái tới vùng ven biển Quảng Đông, chuẩn bị thẩm thấu vào Phúc Kiến. Nhãn hiệu Kiếm Môn vốn là hạm quét mìn do Mỹ chế mớn nước là 1250 tấn, tốc độ chạy là 20 tiết, đặt 10 khẩu hỏa pháo có đường kính 76,2 milimét. Nhãn hiệu Chương Giang là tàu săn ngầm cỡ nhỏ do Mỹ chế tạo, lượng mớn nước lày đặc tăng tốc tiếp cận mục tiêu, mãi cho đến khi nhìn rõ cột buồn của tàu địch mới cùng nổ súng. Dưới hỏa lực mạnh bắn gần của hạm đội hải quân giải phóng quân, Nhãn hiệu Kiếm Môn vội vàng chạy trốn, Nhãn hiệu Chương Giang đã bị bốn tàu hộ vệ của quân giải phóng bám chặt trúng đạn liên tục. Khi nó có ý đồ chạy trốn, liền bị công kích mạnh ở cự ly từ 30 đến 50 mét, rất nhanh chóng đã bốc lửa, nổ tung, cuối cùng đã chết rũ chìm xuống đáy biển ở phía đông nam đảo Đông Sơn.Đồng thời với điều này, 8 tàu hộ vệ và 1 chiếc pháo hạm của hải quân giải phóng đã dốc toàn lực truy đuổi Nhãn hiệu Kiếm Môn. Khi cự ly còn cách chiến hạm địch trên dưới một ngàn mét, các tàu cùng nổ súng. Bốn phút kịch chiến, Nhãn hiệu Kiếm Môn trúng đạn bốc cháy, lúc này hạm đội ngư lôi tăng tốc lao tới phân thành 2 tổ, phóng 10 quả ngư lôi vào chiến hạm địch. Con tàu nhãn hiệu Kiếm Môn rất nhanh chóng đã bốc khói mù mịt, vào lúc 5 giờ 22 phút đã chìm xuống phía đông nam đảo Đông Sơn. Trong cuộc chiến này, tên thiếu tướng Quốc dân đảng Hồ Hạ Hằng cùng hơn 170 tên sĩ quan và binh lính địch đã toi mạng, 33 tên bị bắt.Sau Cuộc hải chiên 6-8 không lâu, Kỳ Hạm - tàu săn ngầm cỡ lớn Nhãn hiệu Vĩnh Thái - đội bạn đi tuần tra khu nam của hải quân Quốc dân đảng, đã dẫn hộ vệ hạm đội pháo Nhãn hiệu Vĩnh Xương ngụy trang ra biển từ Cảng Mã Công Bành Hồ vào lúc 13 giờ ngày 13 tháng 11, lái về hướng Ô khâu, dự định kế hoạch sẽ tới Ô Khâu vào lúc 23 giờ ngày hôm ấy.Để giáng trả những hoạt động tập kích quấy rối của hải quân Quốc dân đảng, hạm đội Đông Hải của hải quân giải phóng quân đã quyết định dùng 6 tàu hộ vệ, 6 tàu ngư lôi tổ chức thành biên đội xung kích trên biển để tiêu diệt biên đội Nhãn hiệu Vĩnh Thái trên mặt biển phía nam Ô Khâu.Đúng 23 giờ ngày hôm đó, hai bên đã gặp nhau ở trên mặt biển phía nam Ô Khâu. Bốn chiếc tàu hộ vệ quân giải phóng đã lao vào đánh chiến hạm Vĩnh Thái, hai chiếc tàu hộ vệ lao vào đánh chiến hạm Vĩnh Xương, còn tàu ngư lôi đang đợi thời cơ. Khi hai bên có cự ly cách nhau 1000 mét đã triển khai cuộc pháo chiến ác liệt. Không lâu, người chỉ huy chính của biên đội quân giải phóng là Ngụy Viên Vũ bị thương nặng hôn mê, rất nhiều người trên chiến hạm chỉ huy đã bị thương, cuộc chiến đấu mất chỉ huy, tình thế đã đảo ngược Vĩnh Thái chạy trốn về hướng Ô Khâu. Sau khi Ngụy Viên Vũ tỉnh lại, đã khôi phục lại sự chỉ huy, đã ra lệnh cho đội tàu ngư lôi công kích. Tàu phóng ngư lôi của quân giải phóng đã ba lần phóng ngư lôi vào Vĩnh Xương của địch, nhưng vì chiến hạm địch né tránh chuyển hướng nên chưa tiêu diệt được, vào lúc 0 giờ 30 phút ngày 14, hạm đội số 145 hải quân giải phóng đã gội làn pháo hỏa dày đặc, bình tĩnh tới gần Vĩnh xương cự ly còn 350 mét, đồng thời phóng hai quả ngư lôi, phần đuôi của nó bị bắn trúng, mất hết năng lực cơ động, bắt đầu chìm xuống đáy biển. Sau khi biên đội xung kích lao vào bắt sống 9 tên địch vào lúc 3 giờ 5 phút ngày 14 họ đã rút về.Trong cao trào tấn công quấy rối lần thứ hai phản công đại lục của tập đoàn Tưởng Giới Thạch, không quân quốc dân đảng cũng rất lồng lộn. Chúng dựa vào những chiếc máy bay có tính năng ưu việt do Mỹ cung cấp, nhiều lần bay sâu vào vùng đất quân giải phóng, chủ yếu là tiến hành chụp ảnh trinh sát. Lính hàng không của không quân giải phóng quân và bộ đội phòng không mặt đất cũng như nhau đều đã đánh trả những đòn nặng nề vào không quân Quốc dân đảng. Do đó, từ trên tổng thể đã đập tan được những hoạt động phản công của tập đoàn Tưởng Giới Thạch.Sau khi tập đoàn Tưởng Giới Thạch chạy trốn ra chiếm cứ Đài Loan, liền sau đó không quân Quốc dân đảng đã tiến hành trinh sát từ trên không đối với đại lục. Từ năm 1951 đến năm 1966, máy bay quân đội Quốc dân đảng đã mò sâu vào đại lục 862 lần.Năm 1959, chúng bắt đầu trang bị máy bay kiểu RF-101 có tính năng tiên tiến. Đây là loại máy bay trinh sát chiến đấu có tốc độ siêu âm, thiết bị trinh sát cũng rất hoàn mỹ. Từ tháng 1 năm 1960 đến tháng 7 năm 1961, không quân Quốc dân đảng trước sau đã 9 lần điều động loại máy bay này tiến hành trinh sát đối với các vùng Sán Đầu, Tấn Giang, Chương châu, Long Điền, Lộ Kiều v.v... Đồng thời với cái đó, tập đoàn Tưởng Giới Thạch cũng bắt đầu sử dụng máy bay trinh sát trên cao kiểu U-2, đi sâu vào khu vực tung thâm của đại lục. Đến năm 1962, không quân Quốc dân đảng quấy phá đại lục vẫn dùng hai loại máy bay này là chủ yếu. Không quân và bộ đội phòng không giải phóng quân đánh trả sự tập kích quấy rối trên không của Quốc dân đảng chủ yếu vẫn nhằm vào loại máy bay trinh sát trên cao kiểu U-2 là chính.Máy bay kiểu U-2 là một loại máy bay gián điệp có sứ mệnh đánh cắp tình báo quân sự của nước khác, cánh nó dài, trọng lượng nhẹ, tốc độ nhanh, thời gian bay được dài, thiết bị trinh sát tiên tiến. Từ tháng 1 đến tháng 8 năm 1962, tập đoàn Tưởng Giới Thạch đã điều động 15 lần chiếc máy bay kiểu U - 2 tiến hành trinh sát đối với đại lục, phạm vi hoạt động ở hầu khắp các tỉnh, thành phố trong toàn quốc. Do vì máy bay kiểu U-2 bay với tốc độ rất cao khả năng bay từ hai vạn mét trở lên, lúc đó máy bay tiêm kích Míc - 19 của không quân giải phóng chỉ có thể bay được trên dưới 18000 mét, nên khó có thể ngăn cản có hiệu quả đối với loại Máy bay U-2 này. Không quân giải phóng quân nhân dân đã quyết định sử dụng mấy tiểu đoàn tên lửa đất đối không hữu hạn để đánh máy bay kiểu U-2.Ngày 27 tháng 6 năm 1962, tiểu đoàn 2 tên lửa đất đối không của quân giải phóng đã đều bí mật rời khỏi Bắc Kinh, dùng phương thức vận chuyển bằng đường sắt cơ động tới lắp đặt mai phục ở Trường Sa Hồ Nam, thế nhưng suốt hai tháng không gặp máy bay địch. Cơ quan không quân của quân giải phóng qua phân tích tỉ mỉ đường bay đi sâu vào đại lục của máy bay U-2, phát hiện máy bay địch thường xuyên bay qua bầu trời Nam Xương, hơn thế, hễ phía quân giải phóng có sự điều động quân sự tương đối lớn, máy bay U-2 tất sẽ tới trinh sát, tức thì quyết định đưa hai tiểu đoàn điều tới Nam Xương. Ngày 28 tháng 8, tiểu đoàn 2 tên lửa đất đối không của quân giải phóng từ Trường Sa cơ động tới Nam xương tỉnh Giang Tây, rồi dùng phương thức di chuyển sân bay của binh chủng hàng không để nhử cho máy bay U-2 xuất hiện Khoảng trên dưới 6 giờ ngày 9 tháng 9, một chiếc máy bay trinh sát tầm cao U-2, với tốc độ cao 2 vạn mét qua đảo Bình Đàm Phúc Kiến tiến sâu vào bầu trời đại lục, bay về phía Nam Xương - Tiểu đoàn 2 Rađa với cự ly 379 kilô mét đã phát hiện mục tiêu, thế nhưng máy bay địch đã rẽ quẹo từ một địa phương cách 75 kilômét đã bay xa. Lúc 8 giờ 29 phút, sau khi máy bay địch bay qua Cửu Giang, bỗng nhiên quẹo trái vòng trở lại, bay thẳng tới Nam Xương. Khi cự ly cách máy bay địch 70 kilô mét, ba quả tên lửa của quân giải phóng vọt lẹ lên trời, hai quả đã trúng đích. Xác máy bay địch rơi xuống gần chợ La Gia về phía đông nam thị trấn Nam Xương 15 kilômét, tên thiếu tá phi công Trần Hoài thân trúng mảnh đạn, sau khi nhẩy dù xuống mặt đất qua cấp cứu cũng vô hiệu, hắn đã chết!Sau khi máy bay U-2 của không quân Quốc dân đảng bị bắn rơi một chiếc, chúng đã vội vàng cải tiến thiết bị quấy nhiễu điện tử và hệ thống báo động né tránh của máy bay, tiếp tục sử dụng loại máy bay này quay trở lại quấy rối trinh sát. Từ tháng 3 đến tháng 9 năm 1963, máy bay U-2 khi tiến sâu vào quấy nhiễu Lan châu, Tân An v.v.. đã 3 lần tới gần địa điểm mai phục của quân giải phóng. Sau khi quân giải phóng mở ăng ten điều khiển ra đa, bọn địch liền dựa vào hệ thống báo động nhanh chóng lẩn trốn, đã tránh khỏi đòn đả kích. Sau khi các cuộc mai phục luôn gặp thế bất lợi, qua nghiên cứu bộ đội không quân giải phóng phát hiện, thông thường máy bay U-2 sau khi mở ăng ten điều khiển ra đa dẫn tên lửa đất đối không bay lên 20 giây, chúng mới bắt đầu cơ động. Điều này nói rõ rằng nếu thu ngắn cự ly điều khiển Rađa mở ăng ten, giảm bớt thời gian chuẩn bị phóng tên lửa, thì sẽ có khả năng bắn rơi được máy bay địch.Ngày mồng 1 tháng 11 năm 1963, một chiếc máy bay U-2 của địch cất cánh bay từ căn cứ Đào viên Đài Loan, 7 giờ 43 phút bay qua Ôn châu thọc sâu vào đại lục. Sau 11 giờ máy bay địch lại bay trở lại quấy rối qua Ngô Trung, Tam môn Hiệp Tín Dương, Cửu Giang tiến vào bầu trời Tiểu đoàn 2 tên lửa đất đối không bố trí trận địa mai phục. Tiểu đoàn 2 đã phát hiện ra mục tiêu từ một nơi cách xa 180 kilô mét. Tại chỗ còn cách 35 kilô mét họ đã mở dây ăng ten điều khiển ra đa, sau đó chỉ dùng thời gian 8 giây phóng lên ba quả tên lửa, có một quả bắt trúng mục tiêu, xác máy bay địch rơi xuống vùng núi Vạn La huyện Quảng Phong tỉnh Giang Tây, tên thiếu tá phi công Diệp Thường Đệ bị bắt sống.Ngày 16 tháng 10 năm 1964, Trung quốc đã cho nổ thành công quả bom nguyên tử đầu tiên. Quân giải phóng phán đoán nhất định bọn địch sẽ cử máy bay tiến hành hoạt động trinh sát, quấy p tục chiến đấu với máy bay địch vào quấy rối.19 giờ 56 phút ngày mồng 10 tháng 1 năm 1965, một chiếc máy bay trinh sát trên cao U-2 của không quân Quốc dân đảng từ căn cứ địa không quân Đào Nguyên Đài Loan cất cánh, từ Khải Đông Tô Bắc tiến vào Đại Lục, tiểu đoàn 14 tên lửa đất đối không của quân giải phóng, sau khi đã bài trừ được sự quấy nhiễu mang tính chất trả lời của máy bay địch phát ra, đã liên tục phóng lên 3 quả tên lửa, có 1 quả trúng mục tiêu, tên lái máy bay địch bị bắn chết ở trong khoang lái.Với sự đả kích của bộ đội tên lửa đất đối không quân giải phóng từ năm 1962 đến năm 1967, tập đoàn Tưởng Giới Thạch đã liên tục tổn thất mất 5 chiếc máy bay U-2.Đồng thời với việc đánh máy bay U-2 địch của bộ đội tên lửa đất đối không, bộ đội hàng không hải quân và bộ đội hàng không không quân cũng đã nhiều lần bắn rơi các máy bay địch khác tiến vào xâm phạm đại lục.14 giờ ngày 18 tháng 12 năm 1964, một chiếc máy bay kiểu RF-101 của Quốc dân đảng từ tầm thấp lẻn vào vùng Lộ Kiều Triết Giang, bộ đội hàng không hải quân quân giải phóng tại căn cứ Lộ kiều lập tức bay lên hai chiếc máy bay Tiêm kích - 5 ẩn mình bay vào chiến khu, cuối cùng đã bắn cháy được chiếc máy bay RF - 101 của chúng, rơi xuống đáy biển, bắt sống tên giặc lái.Ngày 18 tháng 3 năm 1965, bộ đội hàng không của không quân giải phóng quân đã bắn rơi một chiếc máy bay kiểu RF - 101 ở khu vực Sán Đầu.Ngày 13 tháng 1 năm 1967, một chiếc máy bay kiểu RF - 104G, được sự yểm hộ của 4 máy bay chiến đấu âm mưu trinh sát sân bay Tấn Giang. Tám chiếc máy bay Tiêm kích - 6 của quân giải phóng đã bay lên nghênh chiến cuối cùng đã bắn rơi một chiếc máy bay chiến đấu kiểu F - 104 của địch.Do vì máy bay vào quấy rối đại lục của không quân Quốc dân đảng nhiều lần bị đả kích trầm trọng, bắt đầu từ cuối năm 1960, chúng liền dần dần giảm bớt những hoạt động quấy rối bằng không quân đối với đại lục.Từ đầu năm 1950 đến cuối năm 1960, trong việc tập kích quấy rối của hai cao trào phản công lục địa, tập đoàn Tưởng Giới Thạch đã tổn thất hơn 44400 tên sĩ quan và binh lính, tổn thất 348 chiếc tàu, xuồng, thuyền các loại, bị bắn rơi 46 chiếc máy bay, mà lại chẳng hề giành được một tấc đất nào của đại lục hoặc trên các hòn đảo ven biển. Giấc mộng phản công phục quốc của Tưởng Giới Thạch đã bị hủy diệt triệt để. Cho nên, sau khi bước vào năm 1970, vô luận là ở lục địa, trên biển hay trên không, những hoạt động tập kích quấy rối quân sự của tập đoàn Tưởng Giới Thạch đều đã đình chỉ về cơ bản.
Phần 7
Chương 1
Trò nấp trong vại của Tưởng Giới Thạch
Nguồn: Mọt sách
Thu gọn nội dung
Tưởng Giới Thạch là một yếu nhân quân sự, chính trị. Trong mấy chục năm Tưởng đã ra sống vào chết, trải qua biết bao gian nan nguy hiểm, trong đó có bọn quân phiệt truy giết, có sự bắn giết ở chiến trường, cũngcó sự binh gián của các tướng lĩnh chống Nhật yêu nước và sự đụng chạm va vấp trong chiến đấu với giặc Nhật. Giữa lúc gian nguy như bão tuyết gào thét bên thân mình trong đêm đông, Tưởng Giới Thạch đã dùng tâm thái như thế nào để xử trí, lại làm thế nào để hóa nguy hiểm thành an lành?Giữa cái sống và cái chết, Tưởng Giới Thạch đã vung tay múa chân, đều là Cánh cửa sổ quan trọng nhìn lén nhân sinh quan, vinh nhục quan của Tưởng Giới Thạch cả.
Trong Sa gia Bang Tuồng bản mẫu của Kinh kịch có một điệu hát hay tuyệt vời, nói rằng Hồ tư lệnh Cứu quốc quân trung nghĩa bị giặc Nhật truy đuổi không còn lối thoát thân, đã được bà chủ quán trà Xuân Lai là A Khánh Tẩu thông minh cơ trí giấu kín vào trong vại nước, ẩn nấp qua được sự lục soát của bọn lính Nhật, đại nạn mà không chết, thật đúng có thể nói là trong Tuồng có tuồng. Vào thời kỳ trai trẻ của Tưởng Giới Thạch cũng đã từng được một người đàn bà giấu vào trong vại nước, thoát khỏi được sự truy xét của địch đã bảo đảm được mạng sống. Đó là năm 1918, Tưởng Giới Thạch vừa qua tuổi 30, đúng vào dịp đi theo Tôn Trung Sơn tiên sinh, bắt đầu hăng hái sôi nổi muốn làm nên sự nghiệp. Lúc đó, Trung Quốc đang ở vào thời kỳ hỗn chiến của quân phiệt, Tưởng Giới Thạch rất muốn thể hiện rõ thâm thủ của mình ở trong cuộc đấu tranh của quân phiệt cũ mới. Khi Tôn Trung Sơn tổ chức lực lượng Cách mạng đánh bọn quân phiệt phản động cũng đã nghĩ tới con người Tưởng Giới Thạch này. Ngày 12 tháng 3 theo điện triệu gọi của Tôn Trung Sơn, Tưởng Giới Thạch rời Thượng Hải, vội vàng tới Quảng Đông. Lúc đó, cuộc chiến đấu ở xung quanh Quảng Đông rất ác liệt. Trương Kính Nghiêu dẫn một cánh quân tiến công Quế Lâm, Tào Côn dẫn một cánh quân tiến công Thiền Quan, Trương Hoài Chi dẫn một cánh quân tấn công Công châu. Trương Hoài Chi còn có ý đồ sau khi cướp đoạt Huệ Châu sẽ cùng tấn công Quảng Châu với Trung lộ quân. Sau khi Tưởng Giới Thạch tới Quảng Châu lập tức đảm nhận chức vụ chủ nhiệm khoa tác chiến của Tổng bộ Trần Quýnh Minh quân đội Việt, hiệp trợ với Trần Quýnh Minh vạch ra kế hoạch tác chiến. Sau mấy ngày, Tưởng Giới Thạch lại tới mặt trận Hoàng Cương, Triều An, Tam Hà Bá, Tùng Khẩu, Tiêu Sầm để thị sát. Lúc đó tính tích cực của Tưởng Giới Thạch rất cao, rất mong muốn thể hiện thân thủ của mình ở trên chiến trường. Thế nhưng do vì trong chính phủ bảo vệ Phật Pháp Quảng châu còn tồn tại mâu thuẫn, một số người như Đường Kế Nghiêm, Lục Vinh Đĩnh v.v.. lại phản đối Tôn Trung Sơn nhậm chức Đại nguyên soái, đã ảnh hưởng tới sức chiến đấu của quân đội, một số suy nghĩ của Tưởng Giới Thạch vẫn chưa thể thực hiện được.Theo sự phát triển của chiến tranh, vào đầu tháng 7 Tưởng Giới Thạch từng kiến nghị với Trần Quýnh Minh, cử bộ đội chủ lực đi qua đường biển tới Chương Châu của Phúc Kiến, rồi chờ thời cơ cướp lấy Phúc Châu; hoặc giả cử một đơn vị bộ đội có sức chiến đấu mạnh tiến thẳng tới Long Nham Phúc Kiến, tiến sát Chương châu, Phúc Châu. Đối với kiến nghị này của Tưởng Giới Thạch, Trần Quýnh Minh tương đối tán thưởng. Thế nhưng quân đội của cánh quân thứ nhất do tư lệnh Lý Bính Vinh chỉ huy đã để mất Đại Phố vào ngày 19, kế hoạch này cũng không thể thực hiện được. Thế nhưng đối với tình hình chiến sự ở Phúc Kiến, Tưởng Giới Thạch đã đặc biệt chú ý, ngày 30 tháng 7, khi Trần Quýnh Minh ra lệnh cho Tưởng Giới Thạch chỉ huy quân đội cướp lại Sư Tử Khẩu, phản công Đại Phố, Tưởng Giới Thạch đã chiến đầu ác liệt ba ngày ba đêm ở trên trận địa, cuối cùng đã thu phục lại được Đại Phố. Thế nhưng, do vì nguyên nhân những thất bại ở trên các chiến trường khác, Tưởng Giới Thạch đã phát sinh ra mâu thuẫn với các đồng liêu, trong lúc bực tức đã từ bỏ chức vụ chủ nhiệm khoa tác chiến, quay trở về Thượng Hải. Lần bỏ đi này đã lưu lại những tai nạn ở Phúc Kiến những ngày sau.Tưởng Giới Thạch chỉ sống ở Thượng Hải hơn hai chục ngày đã liên tiếp nhận được điện báo của Tôn Trung Sơn và Trần Quýnh Minh yêu cầu Tưởng phải trở về Quảng Châu nhận chức. Mặc dù trong lòng Tưởng đã có hàng trăm điều không hài lòng, nhưng cũng không dám bỏ mặc không đếm xỉa gì đến các bức điện báo của Tôn Trung Sơn và Định Uy tướng quân Trần Quýnh Minh. Lúc đó, Trần Quýnh Minh bản thân là tổng tư lệnh ở Chương châu Phúc Kiến, Tưởng Giới Thạch lại vội vã chạy tới Chương châu, Trần Quýnh Minh bổ nhiệm Tưởng Giới Thạch đảm nhiệm chức sĩ quan tư lệnh chi đội thứ hai, bộ tư lệnh của chi đội này đặt tại Trường Thái Phúc Kiến. Lúc này Tưởng Giới Thạch có thể trực tiếp chỉ huy trên một ngàn người, ngày thành lập bộ tư lệnh hôm đó, Tưởng Giới Thạch đọc bài diễn văn tế cáo Đã chiến tất phải thắng, đã đánh tất phải thắng, thống nhất Trung Hoa, bình định toàn giang sơn cơ nghiệp... hoàn thành sự nghiệp vĩ đại của cuộc cách mạng, đều do thần linh ban cho cả. Tưởng Giới Thạch tuyệt đối không thể ngờ được tráng trí chưa báo đáp, nguy hiểm đã gặp họa sát thân.Trong thành luyện Trường Thái vốn có một chi đội đóng giữ do Lã Công Dực chỉ huy. Lã Công Dực là người Vĩnh Khang tỉnh Triết Giang, từ những năm trước đã được gửi đến học tập ở khoa cấp tốc trường quân sự Bảo định, năm 1911 đảm nhận sĩ quan chỉ huy tiểu đoàn 2 trung đoàn 82. Sau cuộc khởi nghĩa Vũ xương bùng nổ, Lã hưởng ứng cách mạng, chỉ huy quân đội đánh chiếm Nam Kinh, về sau đảm nhiệm chức sư trưởng sư đoàn 6 quân Triết Giang, đô đốc kiêm tỉnh trưởng tỉnh Triết Giang. Tháng 7 năm 1917 khi Tôn Trung Sơn phát động phong trào bảo vệ Phật pháp, Lã Công Dực ra sức ngăn cản quân đội Triết Giang tiến công Quảng Đông. Không lâu, Lã lại đảm nhiệm tổng tư lệnh quân đội Viện Mân Triết của quân bảo hộ Phật pháp. Khi Tưởng Giới Thạch tới Trường Thái nhận chức sĩ quan tư lệnh chi đội, Lã Công Dực vừa hay cũng ở Trường Thái.Tưởng Giới Thạch và Lã Công Dực đã vừa là đồng hương lại đều là hai viên chiến tướng dưới đại kỳ Phong trào bảo vệ Phật pháp, vốn không nên có sự xung đột lợi hại to lớn. Tình yêu quê hương của con người Tưởng Giới Thạch này rất nặng, sau khi Tưởng đắc tg lòng đã thực sự không vui, cũng chẳng coi bộ tư lệnh này của Tưởng Giới Thạch ra cái thứ gì.Một hôm, chi đội hai này với quân đội Viện Mân Triết chỉ vì một sự việc nhẹ như lông gà, mỏng như vỏ hẹ mà đã phát sinh ra xung đột, hai bên đã đánh nhau. Lã Công Dực vốn trong lòng có bực bội, sau khi nghe tin đã chẳng phân đỏ xanh vàng tím, đã hạ lệnh cho quân đội bao vây bộ tư lệnh của chi đội. Để bảo vệ uy tín của bản thân mình là sĩ quan tư lệnh, Tưởng Giới Thạch đã va chạm nẩy lửa với đối phương. ở địa phương Trường Thái này, Tưởng Giới Thạch còn xa mới là đối thủ của Lã Công Dực, chẳng bao lâu, những binh lính ở bên cạnh Tưởng Giới Thạch đã bị Lã Công Dực đánh chết mấy tên. Tưởng Giới Thạch nhìn thấy tình hình nguy cấp trong sớm tối, cũng chẳng kể gì tới bộ tư lệnh, vội vàng vượt tường chạy thoát thân.Trong thành huyện Trường Thái, tiếng đại bác càng kịch liệt, những tiếng súng này giống như những con qủy đòi mạng, hoảng sợ quá, Tưởng Giới Thạch đã chẳng quản gì liền chạy trốn. Khi trốn ra khỏi thành huyện, Tưởng Giới Thạch ngoảnh cổ lại nhìn đằng sau lưng mình chẳng còn một sĩ quan và binh lính nào của chi đội 2 nữa, quân đội Triết Giang do Lã Công Dực chỉ huy vẫn còn đang liều mạng đuổi theo. Tưởng Giới Thạch sải cẳng chạy bước dài trốn vào trong nhà một người nông dân.Bà chủ nhà của hộ nông dân này là người Giang Tây. Mấy hôm trước đã từng có một lần giao tiếp gặp mặt Tưởng Giới Thạch. Bà ta nhìn thấy vẻ mặt sợ hãi ngượng ngùng của ngài sĩ quan tư lệnh họ Tưởng, đang muốn hỏi cho rõ lẽ, lại nhìn thấy quân Triết từ xa đang đuổi tới, cũng chẳng kể gì tới an nguy của bản thân vội vàng kéo tay Tưởng Giới Thạch đẩy vào trong một chiếc vại lớn, rồi dùng chiếc lồng hấp đậy lên trên chiếc vại lớn đó, trên chiếc lồng hấp đó còn đặt rải rác một số áo quần. Vừa thu xếp xong, một viên sĩ quan dẫn một toán lính thở hổn hển xông vào trong nhà. Họ lật tung mọi thứ ở trong nhà, còn giận dữ quát tháo truy hỏi bà chủ nhà. Kết quả họ chẳng thu được gì lại vội vàng chạy sang nhà khác tìm kiếm, lục soát.Tưởng Giới Thạch bị nhốt ở trong vại, lòng buồn rười rượi, nhưng không dám phát ra nửa tiếng kêu. Người phụ nữ nông dân kia nhìn thấy binh lính đã đi xa, mới lo lắng sợ hãi nâng chiếc vung lồng hấp đậy vại kia lên. Tưởng Giới Thạch đã quỳ ở trong chiếc vại này hơn một giờ đồng hồ mới bảo toàn được tính mạng.Sau sự việc, Tưởng Giới Thạch đã đem sự việc vất vả nhọc nhằn này quy vì bản thân mình bị ốm, không cử nhiều người đi trinh thám. Tướng sĩ không có ý chí chiến đấu, binh sĩ vào thành cướp bóc hãm hiếp. Các bộ thuộc như Lương Hồng Khải v.v... đều đam mê tửu sắc, không nghe lệnh chỉ huy v.v... Điều khiến cho Tưởng Giới Thạch cảm thấy thương tâm nhất đó là, vì để thoát chết, Tưởng đã đánh mất cuốn nhật ký của 6 năm qua và hai bộ binh thư. Hai bộ binh thư này, một cuốn là Chiến thuật ben Cơ do một người Đức bình thường viết ra, chí ít Tưởng Giới Thạch đã xem được sáu lượt. Còn một cuốn nữa là cuốn Chiến tranh luận nổi tiếng cũng do người Đức viết ra. Hai bộ sách này trong nhiều năm nay Tưởng Giới Thạch luôn đem theo nó ở bên mình, thường xuyên mở ra đọc. Lần này để mất, Tưởng Giới Thạch hối hận vô cùng.So với mạng sống, Chiến thuật Ben Cơ và Chiến tranh luận có đáng kể gì ? Tưởng Giới Thạch đã lấy điều đó để tự an ủi mình.