Trong tay bạn là tập thứ hai của bộ sách gồm nhiều tốp, cùng mang tên gọi chung là DANH TƯỚNG VIỆT NAM. Như đã có sơ bộ trình bày trong Lời nói đầu của tập I, tập thứ hai xin được hân hạnh giới thiệu về DANH TƯỚNG LAM SƠN - Những vị anh hùng đã quả cảm sát cánh cùng Lê Lợi, “vung gươm đại định”, rửa nỗi nhục mất nước hơn hai mươi năm và góp phần làm rực rỡ thêm truyền thống bất khuất, kiên cường của dân tộc.
Để viết bộ sách này, chúng tôi đã cất công tra cứu rất nhiều thư tịch cổ khác nhau, đồng thời, cố gắng khai thác tất cả những gì mà chúng tôi có thể khai thác được. Ngoài ra, chúng tôi cũng trân trọng và thận trọng kế thừa thành tựu của các nhà nghiên cứu đi trước, tác giả của những công trình có giá trị, từng được công bố dưới nhiều dạng thức khác nhau.
Lam Sơn là cơn bão lửa quật khởi của cả dân tộc ta, bùng nổ và kết thúc toàn tháng cách đây đã hơn 500 năm. Sự khỏa lấp không thương tiếc của thời gian cộng với sự thất truyền của sử liệu, khiến cho việc tái hiện lịch sử gặp rất nhiễu khó khăn.
Bởi lẽ đó, tập sách nhỏ này nhất định sẽ không sao tránh khỏi những khiếm khuyết, mong bạn đọc rộng tình miễn thứ và vui lòng chỉ giáo cho.
Cuối cùng xin được chân thành cảm ơn Nhà xuất bản Giáo dục, cảm ơn đông đảo ban đọc gần xa đã hào hiệp cổ vũ tác giả, từ khi bắt đầu khởi thảo cho đến khi hoàn tất từng cuốn sách riềng, cũng như những bộ sách gồm nhiều tập khác nhau.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 8-8-1996.
NGUYỄN KHẮC THUẦN
“Ngày mừng 6 tháng 8 năm ất Sửu (tức là ngày 10 tháng 9 năm 1385 - NKT), Vua sinh tại làng Chủ Sơn, huyện Lôi Dương (nay là xã Xuân Thắng, huyện Thọ Xuân, tinh Thanh Hóa - NKT). Khi mới sinh, trông Vua thiên tư tuấn tú khác thường, thần sắc thật là tinh anh, kì vĩ: mắt sáng, miệng rộng, mũi cao, trên vai có một nốt rồi, dáng đi như rồng, nhịp bước như hô, tiếng nói nghe như chuông ... Bấy giờ, kẻ thức giả đều cho Vua là bậc phi thường (1) .
Tất cả các thư tịch cổ đều nói rằng, tằng tổ của Lê Lợi là Lê Hối, người thôn Như Áng, huyện Lương Giang (nay thuộc xã Kiên Thọ, huyện Ngọc Lạc, tỉnh Thanh Hóa). Ông là người : “Ngay thẳng, chất phác, hiền hậu và ít nói, nhưng hiểu biết rất sâu xa, có thề thấy việc từ khi việc chưa xảy ra” (2). Lê Hối kết duyên cùng bà Nguyễn Thị Ngọc Duyên (người sách Quần Đội, huyện Lôi Dương (nay thuộc huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa), sinh hạ ra Lê Đinh (3). Sinh thời, Lê Hối là thầy cúng nên thường có dịp đi khắp đó đây. Và trong một chuyến đi, vì quá say mê với đất Lam Sơn, ông đã quyết định dời nhà đến định cư hẳn ở đó.
Sử cũ chép :“Một hôm, Lê Hối đi chơi, thấy có đàn chim cứ bay lượn vòng trên một khu đất dưới chân núi Lam Sơn, trông tựa như một đám người đang tụ hội, liền nghĩ rằng chỗ ấy tất phải là đất lành, bèn dời nhà đến đấy mà ở hẳn, rồi khai phá ruộng vườn, tự chăm lo cày cấy, được ba năm thì thành sản nghiệp. Từ đấy, đời đời là hùng trưởng cả một phương. Vua (chỉ Lê Lợi – NKT) về sau dựng cờ mở nước, thực cũng bắt đầu từ nền tảng này” (4).
Khi Lê Lợi lên ngôi Hoàng Đế, Lê Hối được truy tôn là Cao Thượng Tổ Minh Hoàng Đế.
Lê Đinh là tổ phụ (tức ông nội) của Lê Lợi. Khi Lê lợi lên ngôi Hoàng Đế, Lê Đinh được truy tôn là Hiến Tổ Tịch Hoàng Đế. Sinh thời, Lê Đinh được khen là người đã “nối được cơ nghiệp của tiền nhân, giàu lòng thương người, cho nên, xa gần đều quy phục. Trong nhà, có đến hàng ngàn tôi tớ” (5). Ông kết hôn với bà Nguyên Thị Quách, sinh hạ được hai người con trai, con trưởng là Lê Tòng, con thứ là Lê Khoáng.
Lê Khoáng chính là thân phụ của Lê Lợi. Sử cũ cho hay, Lê Khoáng là người thường “lấy lễ nghĩa mà tiếp đãi tân khách, thương yêu dân, hay chu cấp và giúp đỡ cho người nghèo khó hoặc bện tật, vì vậy khắp vùng đều cảm phục nghĩa khí (6). Ông kết hôn với bà Trịnh Thị Ngọc Thương, sinh hạ được ba người con trai là Lê Học, Lê Trừ và Lê Lợi. Khi Lê Lợi lên ngôi Hoàng Đế, Lê Khoáng được truy tôn là Tuyên Tổ Phúc Hoàng Đế, Lê Học được truy tặng là Chiêu Hiếu Đại Vương, còn Lê Trừ thì được truy tặng là Hoàng Dụ Vương.
Về ngày sinh của Lê Lợi, sách Đại Việt thông sử còn chép thêm một câu chuyện một câu chuyện, tuy ngắn nhưng cũng khá li kì như sau:
“Nguyên xưa ở làng Như Áng, xứ Du Sơn có mót cây quế và dưới gốc cây quế này thường có một con hùm xám xuất hiện, nhưng nó hiền lành, thân cận với người mà chẳng hề làm hại ai. Từ khi Vua ra đời thì không thấy con hùm ấy ở đâu nữa. Người đương thời cho đó là một sự lạ. Ngày Vua ra dời thì trong nhà có ánh sáng chiếu đỏ rực và hương thơm bay ngào ngạt khắp làng”! (7).
Kế nghiệp cha ông, lớn lên, Lê Lợi là Phụ Đạo 8 đất Khả Lam. Cũng trong thời gian làm Phụ Đạo này, Lê Lợi “may mắn” có được một huyệt đất quý.
____________________________
(1) Đại Việt sử ký toàn thư (Bản kỷ quyển 10, tờ 1-b)
(2) Đại Việt thông sử (Đế kỷ, đệ nhất).
(3) Chữ Đinh cũng đọc là Thinh, cho nên, Lê Đinh dược nhiều người phiên âm là Lê Thinh.
(4) Đại Việt thông sử (Đế kỉ, đệ nhất). Các thư tịch cổ khác như : Đại Việt sử ký toàn thư (bản kí, quyển 10, tớ 1-a), Lam Sơn thực lục (Quyển 1) ... v.v. cũng chép tương tự.
(5) Đại Việt thông sử (Đế kỷ, đệ nhất).
(6) Đại Việt thông sử (Đế kỷ, đệ nhất).
(7) Đại Việt thông sử (Đế kỷ, đệ nhất).
8 Phụ Đạo là tên chức danh đứng đầu một khu vực địa phương dưới cấp huyện. Phụ Đạo còn có uy quyền cả về mặt tinh thần dối với dẩn trong khu vực [
Sử cũ viết rằng :
“Thuở ấy Vua sai người đến cày ruộng ở xứ Phật Hoàng thuộc động Chiêu Nghi. (Người cày) bỗng thấy một vi sư già, mình khoác áo trắng, đi từ hướng làng Đức Trai tới, vừa đi vừa than rằng:
- Đất này đẹp quá, thế mà chẳng có ai để trao cho.
Người cày thấy thế, vội chạy về báo cho Vua hay. Vua chạy gấp đến hỏi . Có người cho biết :
Nhà sư đã đi rồi.
Theo hướng chỉ, Vua đi nhanh đến sách Quần Đội, huyện Lôi Dương. (Dọc đường), Vua thấy có cái thẻ tre đề rằng:
Thiên đức thụ mệnh,
Tuế trung tứ thập ,
Số dĩ chỉ định,
Tích tai vị cập.
(Nghĩa là : Đức trời nhận mệnh, vào tuổi bốn mươi, số kia đã định, tiếc thay chẳng kịp).
Vua thấy chữ ấy mà mừng nên càng cố đi nhanh. Lúc ấy, rồng vàng hiện lên che lấy Vua. Vừa chợt thấy, vị sư già đã thưa rằng:
- Tôi từ đất Ai Lao đến, người họ Trịnh, tên tự là Bạch Thạch Sơn Tăng. Thấy Vua khí tượng khác người, đoán là có thể làm nên việc lớn.
Vua quỳ xuống tâu rằng:
- Mạch đất tôi đây sang hèn ra sao, dám xin thầy chỉ rõ cho.
Vị sư già nói:
- Xứ Phật Hoàng, động Chiêu Nghi có một thửa đạt rộng chừng nửa sào, có hình tượng như cái ấn của nước nhà. Bên tả có Thái Thất là núi Chí Linh ở mường Giao Lão. Trong núi ấy có gò Tiên Bạn và gò Chiêu Sơn ở xã An Khoái là án. Phía trước có nước Long Sơn. Phía trong có nước Long Hồ, hình xoáy như ruột ốc. Bên hữu có nước hồ bao quanh phía ngoài chân núi tựa như chuỗi hạt.
Đất ấy, đàn ông thì quý không thể nói được, nhưng đàn bà thì hẳn là sẽ phải thất tiết. Tôi e rằng con cháu ngài về sau nó không ở cùng với nhau. Ngôi bấu tất có khi trung hưng. Mệnh trời có thể biết trước được (Bây giờ) nếu có được thầy giỏi, đem hài cốt đi cải táng thì vẫn có thể phấn phát được dăm trăm năm.
Nghe lời vị sư già, Vua đem hài cốt của thân phụ táng ở xứ ấy. Vào khoảng giờ Dần (tức là khoảng 3 đến 5 giờ sáng - NKT), khi Vua về đến thôn Dao Xá Hạ thì vị sư già ấy cũng bay lên trời. Vì lẽ nay, Vua cho lập điện Tiên Du ở đấy. Trong dộng Chiêu Nghi, Vua cho dựng am nhỏ (chỗ mộ Phật Hoàng) . Đó chính là gốc cội của sự phát tích” (1).
II. ÂM THẦM CHUẨN BỊ
“Bởi biết người, biết ta,
Rõ chỗ yếu, chỗ mạnh,
Nên chờ dịp, đợi thời.
Khéo giấu sắc giấu tài,
ăn thường nếm mật,
Ngủ thường nằm gai,
Lo khôi phục đất cũ,
Rửa đại nhục cho đời" (2).
Năm Lê Lợi tròn 22 tuổi cũng là năm quân Minh tràn sang xâm lược nước ta. Cuộc kháng chiến chống quân Minh do nhà Hồ lãnh đạo đã nhanh chóng bị thất bại. Bởi đại họa này, những năm đau thương của đất nước bắt đầu. Dưới ách thống tồi tàn bạo của quân Minh, trăm họ bị đọa đày và đói khổ. Giặc đã nhẫn tâm:
Thui dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống hầm tai vạ (1) .
Hàng loạt các cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ đã bùng nổ ở khắp nơi, trong đó, nổi bật hơn cả là các cuộc khởi nghĩa của Trần Ngỗi - Trần Quý Khoáng (1407 – 1413), khơzi nghĩa Phạm Ngọc ( 1419 - 1420), khởi nghĩa Lê Ngã (1419 -1420) ...v.v. Lê Lợi rất kính trọng gương anh hùng tiết tháo của những người đã quả cảm xả thân vì nước, nhưng, Lê Lợi cũng nhìn thấy rất rõ những nguy cơ thất bại không thể nào tránh khỏi của họ.
Và, xuất phát từ nhận thức sâu sắc đó Lê Lợi đã âm thầm chuẩn bị cho một cuộc khởi nghĩa khác, có quy mô to lớn hơn, ở ngay trên chính quê hương của mình. Toàn bộ quá trình chuẩn bi công phu này có thể tạm chia làm mấy nội dung chính yếu sau đây:
Chuẩn bị về dư luận
Nếu không nhanh chóng tạo ra được một dư luận mạnh mẽ trong lòng xã hội rộng lớn, thì sẽ không thể nào tập hợp và huy động được lực lượng cho cuộc vùng dậy lật đổ ách đô hộ của quân Minh. Nhưng, trong điều kiện nghiệt ngã của hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ nếu không khôn khéo thì chính dư luận sẽ trở thành đầu mối quan trọng, khiến quân Minh có thể nhanh chóng lần mò ra mọi kế hoạch của Lê Lợi.
Trên cơ sở phân tích và cân nhắc thực tế phức tạp này, Lê Lợi chủ trương phối hợp chặt chẽ với những người bạn gần gũi và tâm đầu ý hợp nhất, tao ra sự nhất trí cao độ trong dư luận, trước hết là ở ngay trên quê hương của ông. Một trong những đặc trưng nói bật của xã hội thế kỉ thứ XV là dễ dàng tin vào những điềm lạ, và do đó, Lê Lợi đã bắt đầu tạo dư luận bằng cách tận dụng niềm tin vào những điềm lạ này.
Sử cũ chép rằng :
“Bấy giờ, Vua (chỉ Lê Lợi - NKT), kết bạn keo sơn với Lê Thận (tức Nguyễn Thận - NKT), người ở sách Mục Sơn, huyện Cổ Lôi. Thận làm nghề chài lưới ở đầm Ma Viện. Đêm ấy, dưới đáy nước (của đầm Ma Viện) bỗng có ánh sáng ngời lên như một bó đuốc. Thận quăng lưới cả đêm mà chăng được con cá nào, chỉ được một thanh sắt dài hơn một thước. Thận liền đem về để trong góc nhà. Hôm đó, Thận làm giỗ gia tiên, Vua sang chơi nhà, thấy trong góc tối của nhà Thận có ánh sáng thì nhận ra đó là một thanh sắt. Vua hỏi:
- Đó là thanh sắt nào vậy?
Thận đáp:
- Đêm trước tôi ra quăng lưới (ở đầm Ma Viện) rồi tình cờ mà bắt được.
Vua liền xin, Thận cho ngay. Thanh sắt ấy đem về mài ra thì thấy có hai chữ Thuận Thiên và chữ Lợi. Hôm khác, Vua vừa đi ra cửa thì thấy một chiếc cán kiếm mài chuốt đâu đó đã xong, liền khấn vái với trời đất rằng: Nếu quả là trời đã ban kiếm cho thì kính xin cho lưỡi kiếm và cán kiếm này vừa khít với nhau.
Xong thì ghép vào, quả vừa y với nhau, thành một cây kiếm. Một đêm trời làm mưa gió, sáng sớm hôm sau, Hoàng Hậu (chỉ một trong ba người vợ của Lê Lợi, chưa rõ là ai - NKT) ra vườn rau cải, thấy có bốn vết chân người to lớn khác thường, liền vào gọi Vua. Vua ra vườn thì bắt được chiếc bảo ấn, trên cũng có khắc hai chữ Thuận Thiên và chữ Lợi. Vua ngầm hiểu đó là (báu vật) trời ban, bèn giấu kín việc này” (2).
Những “điềm lạ” kể trên cứ thế truyền đi khắp Lam Sơn, và từ Lam Sơn, truyền dần đến’khắp bốn phương thiên hạ. Hào kiệt mọi miền lần lượt dò đường tìm đến Lam Sơn, tìm đến với Lê Lợi. Là Phụ Đạo của đất Lam Sơn, Lê Lợi có đầy đủ điều kiện để ân cần tiếp đón họ:
“Vua tuy gặp buổi rối loạn mà vẫn bền chí ẩn náu chốn núi rừng, vừa lo cày cấy, vừa lấy kinh sử làm vui, đã thế lại còn chuyên tâm học sách lược thao. Vua hậu đãi tân khách, tiếp đón những người trốn tránh và làm phản (quân Minh), ngầm nuôi người đa mưu túc trí, cho của để giúp kẻ cô đơn khó nghèo, nhún nhường dùng lễ hậu để thu nạp hào kiệt (3).
________________________
(1) Nguyễn Trãi : Bình Ngô đại cáo.
(2) Lam Sơn thực lục (Quyển 1). Trong Đại Việt thông sử Lê Quý Đôn không chép là đầm Ma Viện mà chép là sông Lam Xuyên.
(3) Lam Sơn thực lục (Quyển 1).
Tuy nhiên, thời nào và ở đâu cũng vậy, hễ có cao thượng là có thấp hèn, có anh hùng là có phản bội ... Ngay trong buổi đầu của quá trình chuẩn bì đầy gian nan, Lê Lợi cũng đâ vấp phải sự chống phá ác liệt của bọn phản bội, thấp hèn. Một trong những kẻ ấy là Đỗ Phú.
Sử cũ chép như sau: “Bấy giờ ở thôn Hào Lương (cùng huyện) có tên Đỗ Phú tranh kiện đất đai với Vua. Hắn kiện đến tận tướng của nhà Minh. Quan xét án của giặc thấy hắn đuối lí, liền xử cho Vua được thắng kiện. Đỗ Phú nhân đó mà sinh ra thù oán, liền (tố cáo) rồi dẫn đường cho quân Minh tới bắt Vua. Vua cùng với Lê Liễu bỏ chạy. Đến sông Khả Lam thì thấy xác một người đàn bà, mình mắc áo trắng, đeo xuyến vàng và cài thoa vàng. Vua và Liễu ngửa nhặt lên trời khấn rằng:
Ta bị giặc Minh đuổi, xin giúp ta thoát nạn. Sau, nếu ta giành được thiên hạ thì sẽ lập miếu thờ. Hễ có bò hay heo để cúng tế thì sẽ cúng tế trước.
Vua và Liễu đắp mồ vừa xong thì giặc sua chó ngao chạy đến, bèn vội lẩn trốn vào gốc cây đa. Giặc đâm mũi giáo đúng vào đùi bên trái của Liễu. Liễu liền lấy một nắm cát vuốt mũi giáo cho sạch máu. Đúng lúc đó, bỗng có con chồn trắng từ trong hốc cây chạy ra. Chỏ ngao liền lao theo đuổi chồn. Giặc vì thế mà hết ngờ có người trốn trong gốc cây, bèn bỏ đi. Vua nhờ vày mà được thoát. Về sau, khi đã dẹp yên thiên hạ, Vua phong cho người đàn bà áo trắng, chết ở Khả Lam là Hoằng Hựu Đại Vương, và cả đến cây đa cũng được phong làm Hộ Quốc Đại vương” (1) .
Lê Lợi tuy bị Đỗ Phú âm mưu mượn tay quân Minh để hãm hại, nhưng, chí lớn vẫn không hề vì thế mà suy giảm . Hào kiệt từ tận vùng trung du xa xôi như Lưu Nhân Chú, Trần Nguyên Hãn; từ đất kinh thành Thăng Long như Phạm Văn Xảo ; từ miền Nghệ An như Nguyễn Xí ; từ đội ngũ Nho sĩ lỗi lạc như Nguyễn Trãi, . . . v v. vẫn nườm nượp kéo về.
Từ khi có Nguyễn Trái, công cuộc chuẩn bi về dư luận chẳng những được đẩy mạnh hơn mà còn đạt tới trình đò tinh vi và sắc sảo hơn . Tương truyền, Nguyễn Trái đã lấy mỡ viết vào lá cây tám chữ Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần, khiến cho kiến ăn thủng lá rồi lấy lá ấy mà thả xuống nước sông. Lá theo dòng nước trôi mãi.
Nhiều người bắt được, mật truyền cho nhau rằng đó là mệnh trời, vì thế, đã nô nức kéo đến tụ nghĩa dưới ngọn cờ của Lê Lợi. Và quan trọng hơn, khắp nơi đã sẵn sàng để ủng hộ Lê Lợi tùy theo khả năng cũng như điều kiện cụ thể của mỗi vùng.
Chuẩn bị về lực lượng và tổ chức
Đồng thời với quá trình chuẩn bị về dư luận, Lê Lợi đã gấp rút chuẩn bị cả về lực lượng và tổ chức. Về lực lượng, ngoài các bậc anh hùng hào kiệt, Lê Lợi chủ trương phải tập hợp và huy động cho bằng được sức mạnh cũng như trí tuệ của những người bị quân Minh bức hiếp bóc lót nặng nề nhất, những người ở dưới đáy sâu nhất của xã hội. Nói theo cách nói của Nguyễn Trãi là :
Nêu hiệu gậy làm cờ ,
Tập hợp bốn phương manh lệ (2) .
Lúc đầu, số người tìm đến với Lê Lợi chưa nhiều, nhưng sau đó, đất quê hương của Lê Lợi trở thành nơi quy tụ ngày càng đông đảo nghĩa sĩ bốn phương. Để che mắt kẻ thù, cũng là để thuận tiện trong việc quản lí, Lê Lợi chia họ thành từng nhóm nhỏ, dựng trại rải rác ở nhiều khu vực quanh Lam Sơn.
Những nhóm này vừa khai khẩn đất đai và tích trữ lương thực, vừa thường xuyên luyện tập võ nghệ để sẵn sàng chờ ngày ra quân. Lê Lợi cẩn trọng chọn người giao việc cốt để phát huy hết năng lực riêng biệt của từng cá nhân, đồng thời, cũng để thông qua đó mà phát hiện thêm người hiền tài.
Đầu tháng hai năm Bính Thân (1416), Lê Lợi đã long trọng tổ chức một cuộc hội thề tại Lũng Nhai (3), sử gọi đó là Hội thể Lũng Nhai . Tham dự Hội thề này, ngoài Lê Lợi, còn có mười tám bậc hào kiệt thân tín khác.
______________________
(1) Lam Sơn thực lục (Quyển 1)
(2) Nguyễn Trái : Bình Ngô đại cáo.
(3) Lũng Nhai tức Lũng Mi hay làng Mé, nay thuộc lã Ngọc Phụng, huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa, cách Lam Sơn chừng 10 cây số.
Đó là:
1. Lê Lai (người Dựng Tú, nay là xã Kiên Thọ, huyện Ngọc Lạc, tỉnh Thanh Hóa).
2. Nguyễn Thận (người Mục Sơn, nay là xã Xuân Bái, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa).
3. Lê Văn An (Người cùng quê với Nguyễn Thận).
4. Lê Văn Linh (người Hải Lịch, nay thuộc xã Thọ Hải, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa).
5. Trịnh Khả (người Kim Bôi, nay thuộc huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa).
6. Trương Lôi (người Thu Mệnh, sau, ông trở thành gia thần của Lê Lợi. Ông và Vũ Uy là hai người được Lê Lợi sai đi cày ruộng ở xứ Phật Hoàng, động Chiêu Nghi) (1).
7. Lê Liễu (người cùng quê với Lê Lợi) (2)
8. Bùi Quốc Hưng (người Cống Khê, nay thuộc huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây)
9. Lê Hiểm (người dân tộc Mường, quê ở thôn Ngọc Châu, hương Lam Sơn, nay thuộc xã Kiên Thọ, huyện Ngọc Lạc, tỉnh Thành Hóa).
11. Vũ Uy (người cùng làng với Trương Lôi).
12. Nguyễn Trãi (tổ tiên người làng Chi Ngại nay thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Hưng, sau dời về làng Nhị Khê, nay thuộc huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây).
14. Lưu Nhân Chú (người làng Vạn Yên, nay thuộc huyện Đại Từ, tỉnh Bắc Thái).
15. Lê Bồi người làng Nguyễn Xá, huyện Lương Giang, nay thuộc Thanh Hóa.
16. Nguyễn Lý (người làng Dao Xá, nay thuộc xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa).
17. Đinh Lan (người làng Thúy Cối, cùng quê với Đinh Liệt).
18. Trương Chiến (người làng Thu Mệnh, cùng quê với Trương Lôi) (3).
Tại Hội thề Lũng Nhai , Lê Lợi cùng các bậc hào kiệt thân tín kể trên đã long trọng thề cùng hồn thiêng sông núi rằng:
“Lê Lợi cùng với Lê Lai, xuống đến Trương Chiến, cộng cả thảy 19 người, tuy họ hàng quê quán khác nhau, nhưng nguyện kết tình thân như một tò liền cành, phận vinh hiển dẫu có khác nhau, nghĩa vẫn thắm như chung một họ”.
“Quân bằng đảng xâm lấn, vượt cửa quan làm hại, cho nên, Lê Lợi cùng với Lê Lai, xuống đến Trương Chiến, cộng cả thảy 19 người, cùng chung sức chung lòng, giữ cho đất nước được yên, khiến xóm làng được ổn, thề sống chết có nhau, không dám quên lời thề son sắt”.
“Nếu như Lê Lợi cùng với Lê Lai, xuống đến Trương Chiến ai thay lòng đổi dạ, núp bóng quân thù để cầu lợi trước mắt, không bền chí hoặc quên lời thề ước, thì kính xin trời đất và các đấng thần linh, hãy giáng trăm tai ương, khiến bản thân cho tới họ hàng và con cháu đều bi tru diệt, chịu hết mọi hình phạt của trời” (4).
________________________
(1), (2) Xin vui lòng tham khảo thêm mục số 1 - Thuở hàn vi cũng trong phần viết về Lê Lợi.
(3) Danh sách cụ thể của 18 người tham dự Hội thề Lũng Nhai trong các bộ gia phả xưa, gần giống như nhau chứ chưa phải là hoàn toàn giống như vậy.
(4) Lam Sơn sự tích.
Số người tham dự Hội thề Lũng Nhai chỉ chiếm một tỉ lệ rất nhỏ so với tổng số những người đã đến Lam Sơn tụ nghĩa lúc bấy giờ. Và tuyệt đại da số những người có mặt trong cuộc Hội thề này, sau đó đều được trao những chức vụ rất quan trọng. Nói khác hơn, Hội thề Lũng Nhai thực chất là buổi lễ ra mắt được tổ chức dưới một dạng thức đặc biệt của Bộ chỉ huy Lam Sơn. Từ đây, tất cả lực lượng của Lam Sơn được quản lí và huấn luyện ngày càng quy củ. Từ đây, nhiệm vụ cụ thể của từng nghĩa sĩ Lam Sơn được quy định một cách rõ ràng.
Chuẩn bị về tư tưởng và khẩu hiệu đấu tranh
Đây chính là khâu chuẩn bi vừa có ý nghĩa quan trọng rất đặc biệt cũng vừa là chỗ đánh dấu sự khác nhau giữa Lam Sơn với tất cả các cuộc khởi nghĩa vũ trang đương thời. Người còng tác đắc lực và có hiệu quả cao nhất của Lê Lợi trong vấn đề này là Nguyễn Trãi. Hàng loạt ý kiến xuất sắc của Nguyễn Trãi được Lê Lợi tán thưởng và mau chóng biến thành tư tưởng chỉ đạo chung của Bộ chỉ huy Lam Sơn .
Tư tưởng chung của Lê Lợi và Bộ chỉ huy Lam Sơn là phát động và lãnh đạo toàn thể nhân dân vùng dậy lật nhào ách đô hộ của quân Minh, giành lại độc lập và chủ quyền cho đất nước. Để có thể huy động được sức dân, Lê Lợi và Bộ chỉ huy Lam Sơn chủ trương kết hợp chặt chẽ giữa nhiệm vụ cứu nước với nhiệm vụ cứu dân. Trong hai nhiệm vụ chiến lược này, cứu nước phải được đặt lên vị trí hàng đầu. Nói theo cách nói của Nguyễn Trãi là: “quân điếu phạt trước lo khử bạo” (1).
Muốn đánh và đánh thắng hoàn toàn lực lượng quân thù hùng hậu lại khét tiếng tàn bạo, đã và đang xiết chặt ách đô hộ trên toàn cõi nước ta, theo Lê Lợi và Nguyễn Trãi, Lam Sơn phải đồng thời tấn công trên rất nhiều mặt trận khác nhau, như : quân sự, chính trị, binh vận và đặc biệt là ngoại giao. Quân trung từ mệnh tập là tác phẩm tập hợp những văn kiện quan trọng, thể hiện những hoạt động vừa độc đáo lại vừa phong phú của Lam Sơn trên tất cả các mặt trận sôi động này (2).
Về quân sự, Lê Lợi và Nguyễn Trãi cho rằng, không nên đánh vào thành, vì đánh vào thành là hạ sách, ngược lại, phải biết khéo léo đánh vào lòng người (3) . Và, về kỷ luật, Lê Lợi cho rằng, phải xây dựng một đội quân trên dưới như cha con một nhà, Lam Sơn trước hết phải là đội quân nhân nghĩa.
_________________________
(1) Nguyễn Trãi : Bình Ngô đại cáo.
(2) Xin tham khảo thêm : Nguyễn Trãi - Quân trung từ mệnh tập (nguyên bản Hán văn hoặc bản dịch Việt văn trong Nguyễn Trãi toàn tập).
(3) Lấy ý tứ Bài từ của Ngô Thế Vinh viết cho Ức Trai di tập.
“Chính lúc nghĩa binh mới nổi,
Là khi thế giặc đang hăng” (4).
Ngày mồng 2 tết năm Mậu Tuất ( tức là ngày 7 - 2 - 1418), Lam Sơn long trọng làm lễ tế cờ xuất trận. Bấy giờ, Lê Lợi xưng là Bình Định Vương và sát cánh với Lê LợI là 35 võ tướng (5) cùng một số quan văn, 200 quân Thiết Đột, 200 nghĩa sĩ, 200 dũng sĩ, tổng cộng khoảng chừng 2000 người và 14 con voi chiến.
Đó là những con số phản ánh kết quả của một quá trình chuẩn bị rất công phu, nhưng, nếu so với quân cướp nước và bè lũ tay sai thì đó chỉ mới là một lực lượng rất bé nhỏ. Tương quan thế và lực giữa đôi bên hoàn toàn không càn xứng.
Trong hoàn cảnh cực kì khó khăn như vậy, Lam Sơn phải chiến đấu trước hết bằng ý chí phi thường của mình và bằng niềm tin sắt đá vào sự ủng hộ mãnh liệt của nhân dân cả nước. Từ khi dựng cờ xướng nghĩa cho đến tháng 5 năm 1423, nhìn chung, Lam Sơn chỉ hoạt động ở vùng rừng núi phía Tây của Thanh Hóa ngày nay.
Lợi dụng ưu thế áp đảo về quân số và trang bị quân Minh liên tiếp tổ chức các cuộc đàn áp đẫm máu, do vậy, Lê Lợi và các nghĩa sĩ Lam Sơn đã phải chiến đấu vô cùng gian khổ, thậm chí có lúc phải đứng trước nguy cơ bị tuyệt diệt. Bao phen, Lam Sơn bị tuyệt lương, phải đào củ rừng, hái lá rừng mà sống, Lê Lợi đành làm thịt cả voi chiến và ngựa chiến của mình cho quân sĩ ăn. Cuộc bao vây và đàn áp nghiệt ngã cộng với bệnh tật bởi lam chướng của núi rừng đã khiến cho nhân lực của Lam Sơn bị tổn thất rất nặng.
Tình thế quả đúng như Nguyễn Trãi mô tả:
“Khi Linh Sơn lương cạn mấy tuần,
Lúc Khôi Huyện quân không một lữ” (1).
Tháng 5 năm 1423, khi mà Lam Sơn không thể tiếp tục kéo dài cuộc đối đầu bằng vũ lực, cũng là khi mà quân Minh đã mệt mỏi bởi những cuộc động binh triền miên, hai bên đành phải thỏa thuận bước vào một thời kì tạm thời hòa hoãn.
IV. TRỞ LẠI LAM SƠN.
"Trời thử gieo gian nan trước khi trao trách nhiệm,
Nên ta càng cố chí để vượt qua” (2).
Ngay sau khi hai bên thỏa thuận bước vào một thời kì tạm thời hòa hoãn, Lê Lợi cùng các tướng lĩnh và toàn thể nghĩa sĩ liền trở lại Lam Sơn. Từ đấy, tuy quân Minh tạm ngưng các cuộc tấn công vũ trang vào Lam Sơn, nhưng bù lại, chúng tìm đủ mọi biện pháp tinh vi nhất, xảo quyệt nhất để chia rẽ, dụ dỗ và mua chuộc.
Từ đây, Lê Lợi cùng tướng si của mình gấp rút tiến hành một loạt công việc sống còn của Lam Sơn như: sản xuất và tích trữ lương thực trong các kho bí mật, tu bổ và sắm sửa thêm vũ khí, tuyển mộ và củng lực lượng, tìm cách giao hảo để đề phòng những cuộc tấn công bất ngờ của quân Minh . . . Nói theo cách nói của Nguyễn Trãi là:
“Nội tu chiến cụ,
Ngoại thác hòa thân” (3).
Chỉ trong vòng một thời gian rất ngắn, tiềm lực của Lam Sơn chẳng những được phục hồi mà còn nhanh chóng phát triển, đủ để có thể bước vào một thời kì chiến đấu lâu dài và ác liệt hơn. Ngược lại mọi âm mưu xảo quyệt của quân Minh đều không thực hiện được. Trong thử thách mới, một lần nữa, Lê Lợi lại nêu cao tấm gương tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cứu nước cứu dân:
“Đạo trong thiên hạ, không gì đáng trọng bằng trung nghĩa, không gì đáng quý bằng danh tiết. Thích sống và sợ chết, lánh nhục mà tìm vinh . . . đó là những điều rất thường tình của con người . Tôi từ khi sinh ra đã thích danh tiết và trọng trung nghĩa, bởi ghét kẻ tiểu nhân nên dám dấn mình trong hoạn nạn, tuy trong cảnh gian nan nguy hiểm vẫn không hề nhụt chí bình sinh” (4).
_____________________
(1) Nguyễn Trãi - Bình Ngô đại cáo.
(2) Nguyễn Trãi - Bình Ngô đại cáo.
(3) Nguyễn Trãi - Chí Linh sơn phú.
(4) Nguyễn Trãi : Quân trung từ mệnh tập (Thơ gửi Thái Giám Sơn Thọ).
Lê Lợi từng nói : “Chim tinh vệ lấp biền, nào há quản gian lao, kẻ oan ức trả thù, đâu kể gì sống chết” (1). Ý chí của Lê Lợi cũng là ý chí chung của nghĩa sĩ Lam Sơn. Đó chính là sức mạnh chủ yếu nhất để Lam Sơn hiên ngang bước vào một giai đoạn hoạt động mới.
V. LẬT NGƯỢC THẾ TRẬN.
“Trận Bồ Đằng : sấm vang chớp giật;
Trận Trà Lân: trúc che tro bay” (2).
Tháng 10 năm 1424, tại Lam Sơn, Lê Lợi đã triệu tập và chủ trì một cuộc hội nghị quân sự rất quan trọng. Trong cuộc hội nghị này, Lê Lợi và Bộ chỉ huy Lam Sơn đã có mấy quyết định lớn.
Một là, chủ động tấn công vào quân Minh, chấm dứt hẳn thời kì tạm thời hòa hoãn.
Hai là, bắt đầu giai đoạn chiến đấu mới bằng việc thực hiện kế hoạch chiến lược của danh tướng Nguyễn Chích : đánh vào Nghệ An để tìm “đất đứng chân” .
Ngay sau hội nghị này, Lê Lợi cùng tướng sĩ Lam Sơn bí mật hành quân vào Nghệ An. Tại đây, Lam Sơn đã thắng một loạt trận lớn ở Bồ Đằng, Trà Lân, Khả Lưu ... v.v. Chỉ trong vòng một tháng, toàn bộ vùng đất Nghệ An đã được giải phóng (ngoại trừ một vài thành trì lớn, nhưng những thành này lại bị Lam Sơn ráo riết vây hãm).
Đông bằng Nghệ An rộng lớn đã nhanh chóng cung cấp sức người và sức của cho Lam Sơn, khiến Lam Sơn đã mạnh lại càng thêm mạnh. Lê Lợi hiên ngang đặt đại ban doanh của mình ở núi Thiên Nhẫn (3).
Sau khi giải phóng xong đồng bằng Nghệ An, Lê Lợi cho quân tiến ra giải phóng Diễn Châu và Thanh Hóa. Tương tự như ở Nghệ An, chỉ trong vòng một thời gian rất ngắn, Lam Sơn đã giải phóng toàn bộ vùng đồng bằng rộng lớn của miền đất này. Giặc phải co về cố thủ trong một vài thành trì kiên cố.
Trong lúc đó, một bộ phận lực lượng khác của Lam Sơn lại bất ngờ đánh vào vùng phía Nam của Nghệ An. Lúc bấy giờ, vùng này mạng tên chung là Tân Bình và Thuận Hóa. Kết quả là, lực lượng quân Minh ở đây đã bị đánh cho tan tành.
Như vậy là, từ tháng 10 năm 1424 đến tháng 9 năm 1426, một vùng đất giải phóng rộng lớn và liên hoàn từ Thanh Hóa trở về Nam đã hình thành và không ngừng được củng cố. Quyết định táo bạo và rất đúng lúc của Bình Định Vương Lê Lợi đã đem lại kết quả rất mĩ mãn.
Từ đây, tương quan thế và lực giữa Lam Sơn với quân Minh đã hoàn toàn thay đổi . Từ đây, Lam Sơn bắt đầu chuyển hóa, phá bỏ ranh giới chật hẹp của mót cuộc khởi nghĩa vũ trang, vươn lên trơ thành một cuộc chiến tranh giải phóng có quy mô ngày càng lớn.
__________________
(1) Nguyễn Trãi : Quân trung từ mệnh tập (Tố oan thư).
(2) Nguyễn Trãi : Bình Ngô đại cáo .
(3) Tại đây, Lê Lợi cho xây thành để đặt đại bản doanh. Thành này, nhân dân địa phương gọi là thành Lục Niên. (Xem bản đồ in kèm theo trong sách này).
VI. TRẬN QUYẾT CHIẾN CHIẾN LƯỢC TỐT ĐỘNG - CHÚC ĐỘNG.
Tháng 9 năm 1426, Lê Lợi hạ lệnh cho hơn một vạn quân, chia làm ba đạo khác nhau, cùng tiến ra Bắc, mở đầu một giai đoạn hoạt động mới của Lam Sơn (2).
Các tướng thân tín của Lê Lợi như : Phạm Văn Xảo, Lý Triện, Trịnh Kha và Đỗ Bí (đạo quân thứ nhất), Bùi Bị, Lưu Nhân Chú, Lê Trương và Lê Ninh (đạo quân thứ hai), Đinh Lễ, Nguyên Xí (đạo quân thứ ba) . . . v.v. có vinh dự được chỉ huy cuộc hành quân lớn này.
Một lần nữa, Lê Lợi đã tỏ rõ niềm tin tưởng mãnh liệt và sâu sắc đối với lực lượng và tướng lĩnh của mình. Cũng một lần nữa, Lê Lợi tỏ rõ sự nhạy bén và quyết đoán rất đúng đắn của mình trước sự diễn biến vốn dĩ rất phức tạp của tình hình chung.
Đáp lại niềm tin tưởng mãnh liệt ấy của Lê Lợi, các tướng nói trên đều gắng sức lập công, đặc biệt là các tướng chỉ huy của đạo quân thứ nhất. trong vòng một tháng, họ đã thắng ba trận lớn ở Ninh Kiều (nay thuộc Hà Tây), Nhân Mục (nay thuộc ngoại thành Hà Nội) và Xa Lộc (nay thuộc Vĩnh Phú), buộc một loạt các tướng lĩnh cao cấp của quân Minh phải co về cố thủ trong thành Thăng Long và kêu cứu thảm thiết.
Tháng 11 năm 1426, nhà Minh sai Thành Sơn Hầu là Vương Thông đem năm vạn quân sang cứu nguy. Tình hình đột ngột thay đổi theo chiều hướng có lợi cho quân Minh. Nhưng, cũng ngay khi Vương Thông vừa sang, Lam Sơn đã đánh một trận quyết chiến chiến lược kiệt xuất ở Tốt Động-chúc Động (nay thuộc Hà Tây). Mười vạn quân Minh tham chiến đã bị giết và bất sống đến một nữa: Viên Tổng binh mới mẻ này của giặc, chẳng những bị trọng thương, xuýt bi bắt sống, mà còn phải cố thủ trong thành Thăng Long và liên tục kêu cứu.
Sau trận đánh có quy mô rất lớn này, Lê Lợi tiến ra, đóng đại bản doanh ngay tại khu vực ngoại vi (3) thành Thăng Long trực tiếp chỉ huy cuộc vây hãm Thăng Long và các hoạt động khác của Lam Sơn:
“Vua thân đem tướng sĩ vây hãm thành Đông Đô (tức là thành Đông Quan hay thành Thăng Long - NKT). Giặc hễ ra đánh là thua, chí nản, kế cùng, viện binh chẳng có” (4).
“Phàm sĩ nhân và quân dân, hễ đến cửa quân là Vua đều nhún nhường dùng hậu lễ mà tiếp đãi, xong thì tùy theo tài cao hay thấp mà trao chức” (5).
Song song với việc không ngừng đẩy mạnh và mở rộng hơn nữa cuộc chiến đấu với quân Minh, Lê Lợi cũng đã gấp rút tiến hành xây dựng và củng cố hệ thống chính quyền mới. Các biện pháp tuyển chọn quan lại khác nhau được đồng thời áp dụng. Và, đặc biệt hơn cả là, ngay khi đang tiến hành vây hãm thành Thăng Long, Lê Lợi đã cho mở khoa thi Nho học để chọn người đỗ đạt mà bổ dụng.
_____________________
(1) Nguyễn Trãi : Bình Ngô đại cáo.
(2) Về lực lượng và nhiệm vụ cụ thể của cả ba đạo quân, xin vui lòng tham khảo thêm phần viết về Phạm Văn Xảo, cũng ở trong sách này.
(3) Lúc đầu, Lê Lợi đặt đại bản doanh tại Tây Phù Liệt (nay thuộc huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội); sau, Lê Lợi dời đại bản doanh về Bồ Dề (nay thuộc huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội).
(4) Lam Sơn thực lục (quyển 2).
(5) Lam Sơn thự lục (quyển 2).
VII. TRẬN QUYẾT CHIẾN CHIẾN LƯỢC CHI LĂNG XƯƠNG GIANG
“Đánh một trận: sạch không kình ngạc,
Đánh hai trận: tan tác chim muông” (1).
Mùa thu nậm 1427, ngay sau khi nghe tin nhà Minh liều lĩnh sai 15 vạn quân sang cứu nguy cho Vương Thông, Lê Lợi tổ chức cuộc hội nghị quân sự cao cấp lần thứ hai.
Hội nghị đã bàn đến một loạt các vấn đề có ý nghĩa chiến lược quan trọng như: đánh viện binh trước hay đánh bọn giặc đang bi vây hãm trong thành Thăng Long trước; Nên đồng thời đánh cả hai đạo viện binh (một đạo 10 vạn do đích thân Tổng Binh là Liễu Thăng cầm đầu và một đạo 5 vạn do lão tướng Mộc Thạch cầm đầu) hay chọn một trong hai đạo để đánh trước, và nếu phải chọn một đạo thì nên chọn đạo nào, đánh viện binh thì đánh ở đâu và đánh bằng cách nào ...v.v.
Hội nghị cũng đã bàn đến một số các vấn đề có liên quan khác, như : Làm gì với Vương Tướng đang bị vây hãm trong thành Thăng Long ; Làm gì với các thành trì nằm trên đường tiến quân của giặc; Nhân dân các địa phương, đặc biệt là các địa phương nằm dọc đường đại binh của giặc sẽ đi qua cần phải làm gì để đối phó với chúng; Và, khi Bộ chỉ huy Lam Sơn đã quyết tập trung lực lượng để đánh đạo quân 10 vạn tên do Liễu Thăng cầm đầu, thì phải làm gì đối với đạo quân 5 vạn tên do Mộc Thạch chỉ huy ...v.v.
Những vấn đề mà Bộ chỉ huy Lam Sơn bàn luận, nhất là những quyết định lớn của Bộ chỉ huy Lam Sơn trong cuộc hội nghị quân sự quan trọng này, mót lần nữa đã tỏ rõ tài nẫng quân sự xuất sắc của Lê Lợi: lãnh tụ cao nhất, cũng là người giàu uy tin nhất của nghĩa quân Lam Sơn.
Từ đầu tháng 10 đến đầu tháng 11 năm 1427, Lam Sơn đã đánh trận quyết chiến chiến lược cuối cùng với quân Minh: trận Chi Lăng - Xương Giang (2). Trong trận đánh lịch sử này, những tướng cao cấp nhất của giặc như Liễu Thăng và Lương Minh bị chém dầu, Lý Khánh thì hoảng hốt mà thắt cổ tự tử, Thôi Tụ và Hoàng Phúc thi bị bắt sống, toàn bộ đạo viện binh 10 vạn tên tiến vào nước ta qua ngả Lạng Sơn, hoặc bị giết, hoặc bị bắt sống:
“Lạng Sơn, Lạng Giang thây chất đầy đường,
Xương Giang, Bình Than máu trôi đỏ nước” (3).
Tin đại bại của Liễu Thăng và của các tướng chỉ huy đạo quân 10 vạn tên đã khiến cho Mộc Thạnh bạt vía. Hắn muốn nhanh chóng tháo chạy khỏi ải Lê Hoa (nay thuộc Cao Bằng) nhưng không thoát. Hai trận lớn của quân Lam Sơn ở Lãnh Câu và Đan Xá đã khiến cho quá nửa số giặc bi giết hoặc bị bắt sống:
“Lãnh Câu : máu chảy thắm dòng,
nước sông ấm ức ;
Đan Xá : thây chồng thành núi,
cỏ nội nhuốm hồng” (4) .
Thảm bại của cả hai đạo viện binh buộc Vương Thông phải quỳ gối đầu hàng và nhục nhã rút hết tàn binh khỏi nước ta. Cuộc chiến tranh giải phóng vĩ đại do Lê Lợi khởi xướng và lãnh đạo đã kết thúc toàn thắng.
Đúng là:
“Càn khôn bĩ rồi lại thái,
Nhật nguyệt hối rồi lại minh .
Để mở từ đây muôn thuở thái bình
Rửa sạch từ đây ngàn thu nỗi nhục” (5).
__________________________
(1) Nguyễn Trãi : Bình Ngô đại cáo.
(2) Về diễn biến chung của trận Chi Lăng - Xương Giang, xin vui lòng tham khảo thêm phần viết về các danh tướng khác trong sách này.
(3) Nguyễn Trãi : Bình Ngô đại cáo
(4) Nguyễn Trãi : Bình Ngô đại cáo.
(5) Nguyễn Trãi : Bình Ngô đại cáo.
IX. NGƯỜI KHAI SINH MỘT TRIỀU ĐẠI MỚI.
"Trời sinh thánh (chừ) đất dựng nghiệp đế vương,
Càn khôn sáng lại (chừ) vận hội mới phi thường”
(1).
Tháng 12 năm 1426, để tạo ra danh nghĩa giao thiệp với nhà Minh, cũng là để vạch rõ hơn nữa bản chất giả dối của khẩu hiệu “phù Trần diệt Hồ” mà chúng từng rêu rao từ hai chục năm trước đó Lê Lợi quyết định đưa một người đóng vai hoàng tộc nhà Trần còn sót lại lên ngòi Hoàng Đế, lấy niên hiệu là Thiên Khánh (2), còn Lê Lợi thì chỉ nhún thình xưng là Lam Sơn Động Chủ mà thôi.
Sau trận đại thắng ở Chi Lăng - Xương Giang và nhất là sau khi quân Minh buộc phải cút khỏi nước ta, danh nghĩa nói trên chẳng những không cần thiết mà còn hoàn toàn không thể dùng. Ngày 14 tháng 4 năm Mậu Thân (1428), Lê Lợi chính thức lên ngôi Hoàng Đế, lấy lại quốc hiệu cũ là Đại Việt, đặt niên hiệu là Thuận Thiên. Triều Lê chính thức được dựng lên kể từ đó.
Để phân biệt với triều Lê mở đầu là Lê Hoàn, sử gọi triều Lê mở đầu từ Lê Lợi là Hậu Lê. Ngay sau khi lên ngôi Hoàng Đế, Lê Lợi đã tiến hành một loạt những biện pháp cấp bách khác nhau, trong đó, nổi bật nhất là các biện pháp sau đây:
Xây dựng một bộ máy chính quyền mới theo một mô thức cũng hoàn toàn mới. Nếu thời Lý và thời Trần, nhà nước là nhà nước của quý tộc, thì từ đây, nhà nước là nhà nước của quan lại. Lớp quan lại đầu tiên, phần lớn đều xuất thân từ đội ngũ những người có công lao trong sự nghiệp chiến đấu chống quân Minh, nhưng sau đó, chủ yếu là xuất thân từ khoa cử.
Thực hiện lời hứa “cứu dân” mà Lê Lợi đã nhiều lần nhấn mạnh khi lãnh đạo cả nước vùng lên đánh đuổi quân Minh đô hộ. Năm 1429, chính sách “quân điền” (3) được ban hành. Chính sách này đã làm cho tất cả mọi người trong xã hội đều có ruộng đất để cày cây, tức là làm cho tính chất giải phóng của cuộc chiến tranh giải phóng càng trở nên sâu sắc. Đất nước nhờ đó mà bắt đầu bước vào một giai đoạn bừng bừng khí thế hồi sinh.
Nhanh chóng thiết lập mối bang giao hữu hảo với nhà Minh, nhằm tránh những hiểm họa binh đao lâu dài cho đất nước. Về phương châm chung của việc thiết lập mối quan hệ bang giao hữu hảo này, nói theo cách nói của Nguyễn Trãi là:
“Đến như thần võ mà không giết,
Nêu cao đức lớn hiếu sinh.
Nghĩ kế lâu dài cho đất nước,
Tha hàng mười vạn sĩ binh .
Sửa hòa hiếu cho hai nước,
Tắt muôn đời ngọn lửa chiến tranh.
Chỉ cần vẹn đất, cốt sao an ninh” (4).
Trọng thưởng cho những người có công trong cuộc chiến đấu lâu dài và gian khổ, khiến cho tên tuổi và sự nghiệp của họ rạng rỡ mãi với non, sông.
Ngày 22 tháng 8 năm Quý Sửu (1433), Lê Lợi qua đời, hưởng thọ 48 tuổi. Một cuộc đời chỉ có 48 tuổi xuân, nhưng Lê Lợi đã có đến trên hai mươi năm chiến đấu ngoan cường vì sự nghiệp giành lại độc lập và chủ quyền cho đất nước, trên năm năm dốc sức xây dựng nền thái bình thịnh trị cho non sông. Lê Lợi xứng đáng là một trong những vị anh hùng tiêu biểu nhất của lịch sử, là niềm tự hào bất diệt của dân tộc ta:
“Lịch sử ta đã có nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại, chứng tỏ tinh thần yêu nước của nhàn dân ta. Chúng ta có quyền tự hào về những trang sử vẻ vang thời Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung . . . v.v. Chúng ta phải ghi nhớ công lao của các vị anh hùng dân tộc, vì các vi ấy là tiêu biểu của một dàn tộc anh hùng” (5).
Tổng kết những ghi chép tản mạn của thư tịch cổ, bước đầu, chúng ta có thể tạm khái quát những cống hiến của Lê Lợi đối với lịch sử nước nhà như sau:
Một là, bất chấp mọi khó khăn và nguy hiểm, Lê lợi đã quả cảm phát động và lãnh đạo thành công cuộc chiến đấu quyết liệt, nhằm lật nhào ách đô hộ của quân Minh, giành lại nền độc lập thiêng liêng cho đất nước. Lê Lợi là biểu tượng tuyệt vời của khí phách hiên ngang, của truyền thống kiên cường và bất khuất.
Hai là, bằng thực tiễn sinh động của cuộc đời mình, Lê Lợi đã để lại cho lịch sử những kinh nghiệm vô giá về nghệ thuật tập hợp và huy động sức mạnh cũng như trí tuệ của nhân dân cả nước vào sự nghiệp giành độc lập. Nếu không thực sự là bậc đại tâm thành (6) và có tài năng xuất chúng, Lê Lợi sẽ chẳng bao giờ có đủ uy tín và năng lực để tập hợp nhân tài trong khắp thiên hạ, sẵn sàng sát cánh với Lê Lợi, xả thân vì nghĩa cả. Nói khác hơn, Lê Lợi chính là danh tướng trong số các danh tướng, xứng đáng được lưu danh với thiên cổ.
Ba là, với cương vi lãnh tụ của phong trào Lam Sơn, sau thắng lợi trọn vẹn của cuộc chiến tranh giải phóng vĩ đại, Lê Lợi đã lên ngôi Hoàng Đế, sáng lập ra triều Lê là một trong những triều đại lớn của lịch sử nước nhà. Với triều Lê do Lê Lợi sáng lập nên, một bước ngoặt mới của lịch sử dân tộc bắt đầu.
_______________________
(1) Nguyễn Trãi : Chí Linh sơn phú.
(2) Người được dưa lên ngôi này, Lam Sơn thực lực nói là Hồ Ông, nhưng nhiều thư tịch cổ khác thì lại nói là Trần Cảo. Trên cơ sở kết quả phân tích sử liệu gần như nhau, phần lớn các nhà nghiên cứu hiện nay đều cho đó là Trần Cảo.
(3) Quân diễn là chính sách chia ruộng đất công của các làng xã thành từng phần bằng nhau, sau đó, đem cấp lại cho xã dân mỗi người một số phần khác nhau, tùy theo chức tước và địa vị xã hộicủa họ.
(4) Nguyễn Trãi : Chí Linh sơn phú.
(5) Hồ Chí Minh : Vì độc lập tư do, vì chủ nghĩa xã hội, Nhà Xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1970, trang 144.
(6) Là người có lòng thành, chí lớn.
Nguyễn Trai hiệu là Ức Trai, chào đời năm Canh Thân (1380) tại kinh thành Thăng Long, trong tư dinh của ông ngoại là quan Đại Tư Đồ Trần Nguyên Đán. Ông là con trai của Nguyễn Phi Khanh (tức Nguyễn Ứng Long) và Trần Thị Thái.
Tổ tiên Nguyễn Phi Khanh vốn người làng Chi Ngại, huyện Phượng Sơn (nay thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Hưng), sau dời về làng Nhị Khê (tức làng Ngọc Ổi cũ), huyện Thượng Phúc (nay thuộc huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây). Thời trai trẻ, Nguyễn Phi Khanh nòi tiếng hay chữ, nhưng vì nhà nghèo nên phải đi làm gia sư cho gia đình quan Đại Tư Đồ Trần Nguyên Đán. Khác với Nguyễn Phi Khanh, Trần Thị Thái sinh trưởng trong một gia đình đại quý tộc. Phả hệ nhà ngoại đã được chính Nguyễn Trãi dựng lại (1), theo đó thì:
- Vua đầu triều Trần là Trần Thái Tông (1226 - 1258) có người con thứ ba (em của Tĩnh Vương Trần Quốc Khang và Trần Hoảng, tức vua Trần Thánh Tông: 1258 - 1278) tên là Trần Quang Khải. Sinh thời, Trần Quang Khải được phong tới tước Chiêu Minh Đại Vương, vì thế, sử vẫn thường kị tên húy mà gọi ông là Chiêu Minh Đại Vương. Chiêu Minh Đại Vương Trần Quang Khải là một trong những danh tướng, từng lập công xuất sắc trong sự nghiệp chống quân xâm lược Mông - Nguyên (2).
- Chiêu Minh Đại Vương Trần Quang Khải có khá nhiều con, tuy nhiên, nổi bật hơn cả văn là Văn Túc Vương Trần Đạo Tái “mới mười bốn tuổi đã thi đậu Bảng Nhãn, triều (Trần) Thánh Tông đặc ân ban cho văn phục cốt tỏ ý đặc biệt yêu quý. (Ông được) khen là người có tài như Quản Trọng và Gia Cát Lượng, nên (triều đình) định dùng vào việc lớn, nhưng chưa kịp thì (Văn Túc) Vương đã qua đời sớm” (3).
- Con của Văn Túc Vương Trần Đạo Tái là Uy Túc Vương Trần Văn Bích, người có nhiều công lao trong việc giúp rập triều Trần Minh Tông (1314 - 1329) , được phong tới hàm Nhập Nội Thái Bảo .
- Một trong những người con của Uy Túc Vương Trần Văn Bích là Trần Nguyên Đán ( 1326 - 1390). Sinh thời, Trần Nguyên Đán từng làm quan, trải thờ đến bốn đời vua Trần là Trần Dụ Tông (1341- 1369), Trần Nghệ Tông ( 1370 - 1372), Trần Duệ Tông (1372 - 1 377) và Trần Phế Đế (1377 - 1388).
Trần Nguyên Đán cũng là một trong những người có công dẹp loạn Dương Nhật Lễ (cuối năm 1369 đầu năm 1370), nhờ vậy, được phong dần lên tới hàm Nhập Nội Kiểm Hiệu, Đại Tư Đồ, Bình Chương Quân Quốc Trọng Sự. Ngay từ khi mới tham gia triều chính, Trần Nguyên Đán đã nhìn thấy nguy cơ sụp đổ không thể nào tránh khỏi của triều Trần. Ông từng nhiều lần can ngăn nhà vua nhưng không được, vì thế, bèn lui về ở ẩn.
_______________________
(1) Xin tham khảo thêm Chuyện cũ về Băng Hồ tiên sinh.
(2) Xin tham khảo thêm Danh tướng Việt Nam (tập 1) Của Nguyễn Khắc Thuần, phần viết về Trần Quang Khải.
(3) Nguyễn Trãi : Chuyện cũ về Băng Hồ tiên sinh.
Nguyễn Trãi cho biết :
“Từ khi họ Hồ được tiến dụng thì giá ngầm cũng bắt đầu đông” (Ý nói rằng mưu thoán đoạt đã bắt đầu xuất hiện - NKT) . Công (chỉ Trần Nguyên Đán - NKT) nói :
- Phàm là bậc quân tử, thấy việc có thể làm là phải làm ngay, không để đến phút chót.
Thế rồi Công dựng động Thanh Hư ở núi Côn Sơn, huyện Phượng Sơn (nay thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Hưng - NKT) để làm chỗ lui về nghỉ ngơi. Động ấy làm xong, vua (Trần) Duệ Tông tự biết tâng ba chữ lớn là Thanh Hư Động vào phía trước mặt bia. Sau, (Thượng Hoàng Trần) Nghệ Tông lại còn tự chế ra bài minh, khắc vào lưng bia.
Công tuy nương náu chốn suối rừng mà chí tôn thờ xã tắc vẫn chưa một ngày nào nguôi . Việc đi, việc ở, hay việc động, việc tĩnh . . . Công đều có ý can gián, nhưng rốt cuộc (Trần) Nghệ Tông cũng không xét đến. Bởi lẽ này, uy thế của họ Hồ ngày càng thịnh, kẻ xu phụ cũng ngày càng đông, thế nước ngày một yếu, không sao cực nổi được nữa . Từ đó, ý định xin về trí sĩ của Công càng dứt khoát” (1).
Tuy “dứt khoát” nhưng cũng phải đợi đến sau năm 1380 Trần Nguyên Đán mới có thể về ở hẳn tại Thanh Hư Động (2) . . . Trần Nguyên Đán có tất cả mười một người con, kể cả trai lẫn gái, Trần Thị Thái là con gái thứ ba của ông (3).
Trần Nguyên Đán là một nhà thiên văn và lịch pháp lừng danh của lịch sử nước nhà. ông là tác giả của bộ Bách thư thông khảo và nhiều trước tác khác. Là một nhà thông thái, Trần Nguyên Đán chẳng những có nhãn quan chính trị rất sắc bén mà còn là một người có nếp sống tiến bộ hơn hẳn so với xã hội đương thời. Ông muốn các con gái của ông cũng được học hành chữ nghĩa chu đáo như con trai .
Vì lẽ này, Nguyễn Phi Khanh và Nguyễn Hán Anh được mời làm gia sư cho ông. Nguyễn Phi Khanh thì lo dạy cho Trần Thị Thái, còn Nguyễn Hán Anh thì lo dạy cho Trần Thị Thai. Cuộc gặp gỡ giữa Nguyễn Phi Khanh và Trần Thị Thái lúc đầu chỉ đơn giản là cuộc gặp gỡ giữa một gia sư trẻ tuổi và tài hoa với một cô học trò xinh đẹp thuộc dòng dõi đại quý tộc, nhưng về sau thì tình yêu của hai người nẩy nở và ngày một đằm thắm. Thế rồi Tràn Thị Thái có thai. Hay tin này, Nguyễn Phi Khanh hoảng sợ mà bỏ trốn.
Dã sử chép rằng, khi biết được chuyện này, Trần Nguyên Đán chẳng những không giận mà còn nói trắng : “Vận nước sắp mất, biết đâu đó chẳng phải là trời xui nên như thế. Không chừng đấy lại là phúc lành cho nhà ta”. Nói rồi, cho người đi tìm Nguyễn Phi Khanh về và nói : “Việc này, người xưa từng có, nay nếu có thì có gì là lạ đâu ? Hẳn là anh cũng đã biết chuyện nàng Trác Văn Quân với Tư Mã Tương Như (4). Nay nếu anh làm được như Tư Mã Tương Như, lưu danh cùng thiên cổ, thì đấy cũng chính là ý nguyện của ta”.
_________________
(1) Nguyễn Trãi : Chuyện cũ về Băng Hồ Tiên Sinh.
(2) Bằng cớ là Nguyễn Trãi chào đời trong tư dinh của Trần Nguyên Đán năm 1380, mà năm đó, tư dinh của Trần Nguyên Đán còn ở kinh thành Thăng Long.
(3) Nguyễn Trãi : Chuyện cũ về Băng Hồ Tiên Sinh.
(4) Trác Văn Quân là con gái của Trác Vương Tôn, người Trung Quốc đời Hán, góa chồng sớm nên về ở với cha tại đất Lâm Cùng. Còn Tư Mã Tương Như là một danh sĩ nổi tiếng về thi phú và đàn ca. Một lần ông đi qua Lâm Cùng, cầm đàn gảy khúc Phượng cầu hoàng, làm cho Trác Văn Quân cảm động, bỏ nhà mà trốn theo Tư Mã Tương Như về đất Thành Đô. Hai người đã sống rất hạnh phúc đến hết đời.
Cảm động trước tấm lòng vừa bao dung lại vừa rất sáng suốt cua Trần Nguyên Đán, Nguyễn Phi Khanh đã ngày đêm dùi mài kinh sử. Năm 1374, ông đỗ Bảng Nhãn. Rất tiếc là lúc bấy giờ, Thượng Hoàng Trần Nghệ Tông (1) cho rằng NguyễnPhi Khanh chỉ là con nhà dân thường mà dám lấy con gái nhà tôn thất nên không cho ông làm quan. Bởi lẽ này, ông về làng Nhị Khê mở trường dạy học. Ông có rất nhiều học trò.
Kết duyên cùng Nguyễn Phi Khanh, Trần Thị Thái đã sinh hạ được tất cả năm người con trai, thứ tự trước sau là : Nguyễn Trãi (2), Nguyễn Phi Báo, Nguyễn Phi Ly, Nguyễn Phi Đằng và Nguyễn Phi Hùng.
Khi Nguyễn Phi Khanh đến làng Nhị Khê mở trường dạy học, Nguyễn Trãi vẫn ở lại tư dinh của ông ngoại cùng với mẹ và các em của mình. Khi Trần Nguyên Đán về ở hẳn tại Thanh Hư Động, Nguyễn Trai cùng mẹ các em cũng đi theo. Nhưng chưa được bao lâu thì mẹ ông qua đời, tới năm 1390, Trần Nguyên Đán cũng mất, Nguyễn Trai chuyển đến ở hẳn với cha tại làng Nhị Khê. Từ đó, ông được cha trực tiếp dạy dỗ .
Năm 1400, Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần và lập nên triều Hồ, Nguyễn Phi Khanh được ra làm quan với chức Đại Lý Tự Khanh, Hàn Lâm Viện Học Sĩ, kiêm Quốc Tử Giám Tư Nghiệp. Đó là chức quan đầu tiên ông nhận sau 26 năm đỗ Bảng Nhãn. Cũng ngay đầu năm này, nhà Hồ tổ chức khoa thi đầu tiên của triều đại mình. Khoa ấy Nguyễn Trai dự thi và đỗ Thái Học Sinh (tức Tiến Sĩ). Ngay sau khi đỗ, ông được nhà Hồ trao chức Ngự Sử Đài Chánh Chưởng. Từ đây hai cha con Nguyễn Phi Khanh và Nguyễn Trãi cùng làm quan cho nhà Hồ.
Cuối năm 1406, nhà Minh xua quân sang xâm lược nước ta, cuộc kháng chiến chống quân Minh do nhà Hồ lãnh đạo đã nhanh chóng bị thất bại. Giữa năm 1407, toàn bộ triều đình nhà Hồ, từ Thượng Hoàng là Hồ Quý Ly, vua là Hồ Hán Thương, đến tổng chỉ huy quân đội là Hồ Nguyên Trừng, cùng nhiều quan lại cao cấp, trong đó có Nguyễn Phi Khanh, bị quân Minh bắt giải về Trung Quốc.
Hay tin này, Nguyễn Trãi cùng em là Nguyễn Phi Hùng, bám theo đoàn xe tù đến tận ải Nam Quan (nay thuộc Lạng Sơn), mới ý định sang Trung Quốc để kiếm cách phụng dưỡng cha. Nhưng, tại ải Nam Quan, nhân lúc lính áp tải xe tù vắng mặt trong chốc lát, Nguyễn Phi Khanh đã nói riêng với Nguyễn Trãi rằng:
Con là người học rộng, tài cao, hãy tìm cách rửa nhục cho nước, trả thù cho cha, như thế mới là đại trung và đại hiếu, đâu cứ phải đi theo khóc lóc như đàn bà con gái mới là hiếu là trung. Nói xong, Nguyễn Phi Khanh bảo Nguyễn Trãi quay về, chỉ cho Nguyễn Phi Hùng theo sang Trung Quốc mà thôi.
Nguyễn Trãi vâng lời cha mà quay lại, nhưng lập tức, ông bị giặc bắt. Tướng tổng chỉ huy quân xâm lăng của nhà Minh là Trương Phụ, biết Nguyễn Trãi có tài nên tìm cách dụ dỗ ông ra làm quan. Thấy Nguyễn Trãi kiên quyết từ chối, hắn đã tính đem ông đi chém đầu, nhưng, viên Thượng Thư là Hoàng Phúc gian ngoan hơn, hắn can Trương Phụ đừng chém Nguyễn Trãi mà chỉ nên bắt Nguyễn Trại giam lỏng ở kinh thành Thăng Long, hòng thuyết phục ông một cách từ từ (3).
________________________
(1) Trần Thị Thái có thai trước khi Nguyễn Phi Khanh đỗ Bảng Nhãn, tức là trước năm 1374. Vậy thì có thể suy luạn rằng : hoặc là Nguyễn Trãi không thê sinh vào năm 1380, hoặc là con đầu lòng của Nguyễn Phi Khanh và Trần Thị Thái là con gái hay con trai mà mất sớm. Nay, chính sử thống nhất ghi năm sinh của Nguyễn Trãi là năm 1380.
(2) Trần Nghệ Tông làm Thượng Hoàng từ 1372 đến 1394.
(3) Đoạn viết về Nguyễn Trãi tứ khi cha là Nguyễn Phi Khanh bị quân Minh bắt giải về Trung Quốc, cho dện lúc ông bị giam lỏng tại kinh thành Thăng Long, chúng tôi dựa theo ghi chép của nhiều tài liệu dã sử cũng là theo cách tái hiện sự kiện này của nhiều người. Nhưng chi tiết đang bàn cãi, chúng tôi không trình bày ở đây, vì sợ gây nặng nề một cách không cần thiết.
II. VỀ TỤ NGHĨA TẠI LAM SƠN
“Rồng thiêng (chừ) bay trên Lam Kinh (1).
Hiện tại vẫn chưa rõ, Nguyễn Trãi đã thoát khỏi cảnh bị giam lỏng tại kinh thành Thăng Long bằng cách nào và vào thời điểm cụ thể nào, chỉ biết là ông đã tới gặp Lê Lợi và tham gia khởi nghĩa Lam Sơn ngay trong những ngày chuẩn bị khó khăn gian khổ nhất (2). Ông đến Lam Sơn cùng một lượt với Trần Nguyên Hãn (3).
Tháng 2 năm Bính Thân (1416), Lê Lợi long trọng tổ chức Hội thể Lũng Nhai, Nguyễn Trãi có vinh dự được tham gia và có tên trong danh sách mười chín người (4) của cuộc hội thề lịch sử này.
Bấy giờ, có bao nhiêu anh hùng hào kiệt từ khắp bốn phương tìm đến với Lam Sơn là có bấy nhiêu người bừng bừng ý chí quyết tâm xả thân vì nghĩa cả cứu nước cứu dân . Tuy nhiên, bên cạnh sự đồng nhất thiêng liêng ấy, mỗi người còn có một hành trang riêng. Với Nguyễn Trãi, hành trang riêng ấy chinh là cuốn Bình Ngô sách - tác phẩm kết tinh những suy nghĩ sâu sắc tuyệt vời của ông về kế sách đánh đuổi quân Ngô (tức giặc Minh).
Bình Ngô sách tuy đã thất truyền, nhưng, theo lời đề tựa của Ngô Thế Vinh (5) trong Ức Trai di tập thì đó là sách đã “hiến mưu chước lớn, không nói đến việc đánh vào thành mà lại khéo nói đến việc đánh vào lòng người”.
Lê Lợi đánh giá rất cao giá trị của Bình Ngô sách, do vậy, đã Phong cho Nguyễn Trãi chức Tuyên Phụng Đại Phu, Hàn Lâm Thừa Chỉ và luôn giữ Nguyên Trãi ở bên cạnh đề tiện bàn mưu tính kế. Đáp lại niềm tin cậy lớn lao của Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã không ngừng có những cống hiến ngày càng xuất sắc cho Lam Sơn.
III. CHIẾN LƯỢC GIA THIÊN TÀI, LINH HỒN CỦA NHỮNG VÕ CÔNG HIỂN HÁCH MÀ LAM SƠN ĐÃ GIÀNH ĐƯỢC
“Vua từ khi khởi binh cho đến khi dẹp được giặc Ngô và giành lại được nước nhà, bao nhiêu văn thư qua lại ở trong quân ngũ đều do Nguyễn Trãi làm cả” (6).
Với Bình Ngô sách Nguyễn Trãi đã có công xây dựng nền tảng tư tưởng vững chắc cho toàn bộ quá trình hình thành, phát triển và thắng lợi vẻ vang của Lam Sơn. Căn cứ vào những ghi chép tản mạn của thư tịch cổ, chúng ta cũng có thể bước đầu tái hiện những nội dung căn bản của Bình Ngô sách đã bị thất truyền như sau:
_________________________
(1) Nguyễn Trãi : Chí Linh sơn phú.
(2) Kết quả nghiên cứu của những nam gần đây (khoảng từ 1975 đến nay) cho phép kết luận như vậy.
(3) Chuyện li kì chung quanh việc Trần Nguyên Hãn và Nguyễn Trãi tìm đến Lam Sơn, xin vui lòng tham khảo thêm phần viết về Trần Nguyên Hãn cũng ở sách này.
(4) Mười tám người và Lê Lợi nữa là mười chín. Danh sách cụ thể. xin vui lòng tham khảo phần viết về Lê Lợi cũng ở trong sách này.
(5) Ngô Thế Vinh (1803 - 1856), người huyện Nam Chân, nay là huyện Nam Ninh, tỉnh Nam Hà, đỗ Tiến sĩ năm 1829.
(6). Lam Sơn thực lục (quyển 2)
- Về lực lượng và quy mô của khởi nghĩa lam Sơn, theo Nguyễn Trãi là phải tập hợp và huy động cho bằng được sức mạnh cũng như trí tuệ của nhân dân cả nước, bất kề giàu nghèo hay sang hèn, bất kể cư ngụ ở vùng rừng núi, trung du hay đông bằng, bất kể già trẻ trai gái... miễn là có lòng ngưỡng mộ cơ nghiệp của tổ tiên và căn thù quân đô hộ phương bắc. Đây là vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi cuối cùng của Lam sơn.
Để có thể tập hợp và huy động được sức mạnh cũng như trí tuệ của nhân dân cả nước vào sự nghiệp đánh đuổi quân Minh, theo Nguyễn Trãi, là phải thực hiện chiến lược đánh vào lòng người. Đây là một sáng tạo lớn của Nguyễn Trãi, có giá trị làm phong phú kho tàng khoa học và nghệ thuật quân sự của tổ tiên ta. Chiến lược này bao hàm mấy nội dung chủ yếu sau đây:
+ Kích động lòng yêu nước thiết tha, lòng căm thù giặc sâu sắc của tất cả mọi tầng lớp xã hội, mọi lứa tuổi và mọi thành phần dân tộc. Khi non sông bị ngoại bang dày xéo thì quả cảm vùng lên cứu nước, cứu nhà là hành động biểu thị đỉnh cao của đại nghĩa và chí nhân:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo khử bạo” (1).
+ Để nhân dân không quản ngại gian khổ, kể cả hi sinh, một lòng một dạ trung thành với ngọn cờ của Bình Định Vương Lê Lợi, việc kích động lòng yêu nước thiết tha phải bắt đầu từ hai nội dung cốt yếu nhất. Một là khơi dậy niềm tự tôn dân tộc, lòng tự hào về nền văn hiến cổ kính của nước nhà :
“Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Bắc - Nam bờ cõi đã chia,
Phong tục mỗi nơi một khác” (2)
Và nội dung thứ hai là, phải làm sao để nhân dân nhận thức được một cách đầy đủ và sâu sắc rằng, cứu nước cũng tức là cứu nhà, muốn giải phóng mình khỏi kiếp bị đọa đày thì trước hết phải đồng tâm hiệp lực giải phóng đất nước khỏi ách đô hộ của quân Minh.
+ Để phân hóa và cô lập cao độ kẻ thù của dân tộc, nghĩa quân Lam Sơn phải triệt để lợi dụng những vết rạn nứt, những mâu thuẫn và đặc biệt là những xung đột trong nội bộ chung.
- Về phương châm tiến hành, Nguyễn Trãi cho rằng, chiến lược đánh vào lòng người phai được thực hiện bằng cách phối hợp một cách nhịp nhàng giữa ba mặt trận rất lợi hại khác nhau, đó là: chính trị, binh vận và ngoại giao. Tác dụng phi thường của cả ba mặt trận này sẽ thật khó mà hình dung hết được:
“Ngã mưu phạt nhi công tâm,
bất chiến tự khuất” (3).
(Nghĩa là: Ta bày kế đánh vào lòng, không xông trận mà vẫn khuất phục được đối phương). Tất nhiên, chính trị, binh vận và ngoại giao không thề thay thế cho quân sự. Con đường đúng đắn duy nhất của dân tộc ta lúc bấy giờ là phải dũng cảm cầm lấy vũ khí mà đứng lên .
Nhưng, cùng với quân sự, mặt trận chính trị , binh vận và ngoại giao sẽ góp phần to lớn vào việc làm cho đội ngũ của kẻ thù bị rêu rã ngay từ bên trong, năng lực ứng phó sẽ dần dần bị tiêu hủy. Thất bại là điều không sao tránh khỏi.
___________________
(1) Nguyễn Trãi : Bình Ngô đại cáo.
(2) Nguyễn Trãi : Bình Ngô đại cáo.
(3) Nguyễn Trãi : Bình Ngô đại cáo.
- Nguyễn Trãi không chỉ là người vạch ra chiến lược mà còn là người trực tiếp chỉ huy thực hiện một cách tài ba. Ông là tác giả của Quân trung từ mệnh tập, tác phẩm gồm một tập hợp những vãn kiện quân sự xuất sắc, viết trong thời kì tham gia lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (1) . Đích thân Nguyên Trãi đã từng “bao phen lăn mình vào miệng cọp”, tức là dũng cảm vào tận sào huyệt của kẻ thù để đấu trí với chúng.
Thực tiễn sôi động của những năm đầu thế kí thứ XV cho thấy rằng, tiếng nói và ngòi bút tuyệt vời của Nguyễn Trải có sức mạnh chẳng kém gì “cả vạn quân thiện chiến” . Hàng chục những thành trì kiên cố của giặc, kể cả sào huyệt nguy hiểm cuối cùng của chúng là thành Đông Quan, đều phải hạ vũ khí đầu hàng bởi loại hình tấn công đặc biệt này.
Từ khi dựng cờ xướng nghĩa ở Lam Sơn cho đến ngày giành được thắng lợi trọn vẹn trên khắp cả nước, Bộ chỉ huy Lam Sơn đã có hai cuộc hội nghị quân sự rất quan trọng.
Cuộc hôi nghị quan trọng thứ nhất tổ chức vào tháng 10 năm 1424 với nội dung chủ yếu là bàn luận kế sách nhằm xoay chuyển tinh thế, đưa cuộc khởi nghĩa Lam Sơn phát triển sang một giai đoạn mới hơn và cao hơn. Trong cuộc hội nghị này, Nguyễn Trải là người đã ủng hộ một cách rất nhiệt thành đối với kế hoạch chiến lược táo bạo và thông minh của danh tướng Nguyễn Chích .
Bản thân sự ủng hộ đó cũng đã chứng tỏ tầm hiểu biết về chiến lược quân sự của Nguyễn Trải rất sâu sắc . Và, thực tiễn sinh động của cuộc tấn công vào Nghệ An đã minh chứng hùng hồn cho sự đúng đắn của Nguyễn Chích cũng như của Bộ chỉ huy Lam Sơn, trong đó có Nguyễn Trải.
Cuộc hội nghị quân sự quan trọng thứ hai tổ chức vào mùa thu năm 1427, ngay tại ngoại vi thành Đông Quan. Trong cuộc hội nghị này, Nguyễn Trải là một trong những người đề xướng kế hoạch vây thành diệt viện, và kế hoạch đó đã được Bộ chỉ huy Lam Sơn hoàn toàn nhất trí.
Bởi kế hoạch đúng đắn này, quân Minh bị dồn vào thế quẫn bách để rồi cuối cùng là bị đại bại thảm hại: Vương Thông bị vây hăm trong thành Đông Quan; Đạo viện binh hùng hậu nhất : gồm đến mười vạn tên do Liễu Thăng cầm đầu bị tiêu diệt hoàn toàn; Đạo viện binh thứ hai gồm năm vạn tên do Mộc Thạnh chỉ huy bị đánh cho tan tác; Tất cả lực lượng quân lính còn lại đều phải nhục nhã cút khỏi nước ta.
Đúng là :
“Đánh một trận sạch không kình ngạc,
Đánh hai trận tan tác chim muông” (2).
Thắng lợi trọn vẹn của cuộc chiến tranh giải phóng vĩ đại đầu thế kỉ thứ XV là thắng lợi chung cửa toàn thể nhân dân ta, của Bộ chỉ huy Lam Sơn, của các tướng lĩnh Lam Sơn tài giỏi, của những người lính Lam Sơn kiên cường. Trong số những tên tuổi sáng chói vào hàng bậc nhất của sự nghiệp lớn này, có Nguyễn Trãi. ông là nhà quân sự lỗi lạc, nhà chính trị thiên tài, nhà ngoại giao xuất sắc và cũng là nhà văn hóa lớn.
Danh thơm của Nguyễn Trãi đã vượt khỏi biên giới của nước nhà, hội nhập vào đội ngũ những người có công làm rạng rỡ cho văn hiến chung của nhân loại. Năm 1980, nhân ki niệm 600 năm sinh Nguyễn Trãi, tổ chức của Liên Hiệp Quốc về Giáo dục, Khoa học và Văn hóa (UNESCO) đã trân trọng ghi tên Nguyễn Trãi vào hàng danh nhân của nhân loại. Ông là người Việt Nam thứ hai có vinh dự lớn lao này. (3)
________________________
(2) Xin tham khảo thêm nguyên bản chữ Hán hoặc giả là bản dịch ra Việt văn, in chung trong Nguyễn Trãi toàn tập.
(2) Nguyễn Trãi : Bình Ngô đại cáo.
(3) Tính đến nay, nước ta có tất cả ba người được UNESCO trân trọng ghi tên vào hàng danh nhân của nhân loại, đó là: Nguyễn Du (1965), Nguyễn Trãi (1980) và Chủ tịch Hồ Chí Minh (1990).
IV. VUI BUỒN CHỐN THÂM CUNG
"Chỉnh đốn càn khôn tòng thử liễu,
Thế gian na cánh sổ anh hùng” (1).
Ngay sau khi vừa giành lại được độc lập, được sự ủy thác của Lê Lợi và Bộ chỉ huy Lam Sơn, Nguyễn Trãi đã viết bài Bình Ngô đại cáo và Nguyễn Trãi đã hoàn thành xuất sắc trọng trách đặc biệt này.
Bình Ngô đại cáo là một trong những áng thiên cổ hùng văn, có giá tri thiêng liêng như là bản Tuyên ngôn đọc lập lần thứ hai (2) của nước nhà.
Năm 1428, triều Lê tiến hành định công ban thưởng cho những người có công trong sự nghiệp đánh đuổi quân Minh. Bấy giờ, có tất cả 221 người được thưởng, và trong số 221 người ấy, có 93 người được ban tước vị theo thứ tự 9 bậc cao thấp khác nhau (3). Rất tiếc là Nguyễn Trãi chỉ được sắp vào số một trong 26 người của hàng thứ 7, với tước vị khiêm nhượng là Á Hầu mà thôi (4).
Một thời gian rất ngắn sau đó, Nguyễn Trãi được trao chức Hành Khiển, đứng đầu ban văn trong triều đình. Nhưng, tuùc vị ấy, chức quyền ấy không đủ để Nguyễn Trãi có thề tiếp tục bộc lộ tài năng đa dạng của mình. ông sống trong những ngày vui buồn khó tả.
Nếu như khi xông pha trận mạc, tướng lĩnh Lam Sơn gắn bó chặt chẽ với nhau, thì khi thái bình, một bộ phận rất đáng kể của họ chỉ biết lo vun vén cho cá nhân. Nguyễn Trãi đau lòng trước một loạt những sự kiện xấu diễn ra ngay trong chốn cung đình, đặc biệt là mấy sự kiện lớn sau đây:
- Sự kiện ngày 16 tháng 5 năm 1434
“Ngày 16, sai Tuyên Phủ Sứ là Nguyễn Tông Trụ, Trung Thư Hoàng Môn Thị Lang là Thái Quân Thực, cùng với Kì Lão là Đái Lương Bật, mang tờ biểu văn và phương vật sang cầu phong bên nhà Minh. Quan giữ chức Hành Khiển là Nguyễn Trãi soạn xong tờ biểu văn thì quan giữ chức Nội Mật Viện là Nguyễn Thúc Huệ và Học Sĩ là Lê Cảnh Xước muốn đổi lại mấy chữ. Nguyễn Trãi giận nói:
- Các ngươi chỉ là hạng bề tôi hay vơ vét, nạn hạn hán hiện nay đều do các ngươi gây nên cả.
(Nguyễn) Thúc Huệ đem chuyện tố cáo với quan Đại Tư Đồ là Lê Sát và Đô Đốc Vấn (tức Phạm Vấn - NKT). (Lê) Sát và (Phạm) Vấn tức lắm, trách rằng:
- Thiên tai không phải do bọn ấy gây ra, lỗi là ở Vua và Tể Tướng thôi. Sao ông nỡ trách nhau nặng lời như thế. (Nguyễn) Trãi từ tạ nói:
- (Nguyễn) Thúc Huệ chỉ nhờ chút tài vơ vét thuế má trong thiên hạ mà chiếm được địa vị then chốt trong triều đình. Mỗi khi có sổ sách tâu vào hắn đều muộn vơ của dân về cho quan, cốt hợp ý vua. Cho nên, tôi nhân có việc này mà nói ra đó thôi, đâu dám chê - bai gì đến Vua và Tể Tướng.
(Lê) Sát tuy vẫn không nguôi giận, nhưng tờ biểu văn thì vẫn giữ nguyên như cũ, không thay đổi gì (5).
_________________________
(1) Nguyễn Trãi : Đề kiếm. Hai câu trên có nghĩa là : Khi dã chỉnh đốn xong càn khôn thì thế gian mấy ai còn nghĩ tới bậc anh hùng.
(2) Ngoài Tuyên ngôn độc lập do Bác Hồ đọc ngày 2 - 9 - 1945, thì bài Nam quốc sơn hà cua Lý Thưởng Kiệt viết năm 1077 và bài Bình Ngô đại cáo do Nguyễn Trãi viết năm 1428 cũng dược coi là có ý nghĩa như Tuyên ngôn độc lập của nước nhà.
(3), (4) Đại Việt sử kí toàn thu (Bản kỉ, quyển 10, tờ 67- a).
(5) Đại việt sử kí toàn thư (Bản kí, quyển 11, tờ 9 b và tờ 10a).
- Sự kiện ngày 24 tháng 5 năm 1434
Sự kiện này tuy không trực tiếp liên quan đến Hành Khiển Nguyên Trãi, nhưng cũng đủ để khiến cho ông phải đau buồn mãi không thôi. Sử cũ chép:
“Bấy giờ, triều đình điều động đám thợ ở Cục Tất Tác đến làm chùa Báo Thiên. Công việc thổ mộc rất nặng nề. (Có người thợ là Cao) Sư Đãng nói vụng rằng:
- Thiên Tử thất đức để đến nỗi xảy ra hạn hán. Đại thần ăn của đút, lại cất cử dùng những kẻ không có công lao. Có gì đáng gọi là thiện mà làm chùa to thế.
(Lời ấy) bị người khác tố giác. Quan Đại Tư Đồ là Lê Sát giận lắm. Quan giữ chức Thẩm Hình Viên là Nguyễn Đình Lịch nói:
- Hắn dám nói càn đến việc nước, phải đem ra chém.
(Các Ngôn Quan là) Nguyễn Thiên Hựu và Bùi Cẩm Hồ đều xin tha tội chết. Vua đã sắp nghe theo, nhưng Lê Sát lại nói:
- Trước đã nghe lời bọn (Nguyễn) Thiên Hựu mà không giết Nguyễn Đức Minh (một viên Giám Sinh đọc và xé bài thơ nặc danh vào tháng 2 năm 1434 - NKT), khiến chúng bỏ thơ nặc danh vu khống cho nhau, nay lại định tha cả tên này thì biết lấy cái gì cho kẻ khác sợ?
Bọn (Nguyễn) Thiên Hựu không dám nói thêm gì nữa. Ngày hôm ấy đem chém (Cao) Sư Đãng, xong thì trời bỗng nổi cơn mưa nhỏ. Ngày hôm sau, Lê Sát vào nói ở trong triều rằng:
- Nếu nghe lời bọn Ngôn Quan thì làm gì có cơn mưa ấy.
Lê Ngân nói:
- Giết nhiều kẻ ác thì mưa nhiều, chỉ tiếc là xương người chất đầy đường mà thôi”. (1).
- Sự kiện tháng 3 năm 1435
Có bảy tên trộm tái phạm tội nhưng tất cả đều còn ít tuổi. Hình Quan chiếu luật mà nói là nên xử chém. Đại Tư Đồ là Lê Sát thấy giết người nhiều quá, lòng lấy làm ngần ngại. Vua đem việc ấy hỏi quan Thừa Chỉ Nguyễn Trãi. (Nguyễn) Trãi trả lời:
- Pháp lệnh chăng thể bằng nhân nghĩa. Điểu đó đã quá rõ. Nay một lúc mà giết những bảy người thì e rằng như thế không phải là hành vi của bậc đại đức. Kinh Thi có câu rằng “an như chi” (nghĩa là hãy yên với chỗ đứng của mình). Sách Tả Truyện cũng có câu “tri chỉ nhi hậu hữu định” (nghĩa là phải biết dừng lại rồi mới vững). Thần xin cắt nghĩa chữ chỉ để bệ hạ nghe : Chỉ có nghĩa là yên với chỗ đứng của mình. Như trong cung là chỗ đứng của bệ hạ. Thi thoảng, bệ hạ có ngự ra nơi khác thì cũng không thể ở đó mãi mà phải trở về trong cung, có thế mới yên chỗ đứng của mình được. Người làm vua đối với nhân nghĩa cũng vậy. Phải coi nhân nghĩa là chỗ đứng của mình. Tuy có lúc ra oai giận dữ, nhưng cũng không thể như thế mãi được, xin bệ hạ lưu ý những lời của thần.
Bấy giờ, bọn Lê Sát mới nói:
- Ông có nhân nghĩa, ắt có thể cảm hóa được kẻ ác nên người thiện. Xin giao chúng cho ông và phiền ông cảm hóa cho. Nói xong, bèn bảo (Nguyễn) Trãi và Phan Thiên Tước nhận những tên tù ấy.
_________________
(1) Đại việt sử kí toàn thư (bản kỉ, quyển 11, tờ 10 a-b).
(Nguyễn) Trãi nói:
- Bọn chúng đều là hạng trẻ con ranh mãnh và rất ương ngạnh. Pháp luật của triều đình còn không trừng trị được, huống hồ bọn chúng tôi đức mỏng. Cảm hóa thế nào được. Thế rồi đem xử chém hai tên, còn thì bắt đi đày” (1).
- Sự kiện tháng 5 năm 1435
“Vua ở trong cung, vui đùa suồng sã với bọn hầu cận. Các đại thần tâu xin dùng bọn Lê Trãi (tức Nguyễn Trãi) và Trình Thuần Du, cùng với vài ba đại thần nữa, thay phiên nhau vào hầu Vua học tập ở tòa Kinh Diên, nhưng Nhà vua trả lại tờ tâu, không chấp thuận” (2)
“Nhà vua cưỡi voi, cho voi chạy lồng lên khắp cả hậu cung. Khi ấy, nhân có người tiến dâng con hưu rừng, Vua liền cho voi chọi nhau với con hưu rừng ấy. Con hưu bị tấn công thì vùng lên, húc bừa vào voi. Voi sợ lùi lại phía sau rồi sa xuống giếng mà chết. Bọn (Phan) Thiên Tước và Lê Sát dáng lời can ngăn. Vua lặng im” (3).
Sự hoang chơi của Nhà vua trẻ tuổi đã tạo cơ hội cho bọn tham quan ô lại ra sức tìm cách đục khoét của dân. Những dấu hiệu nguy hiểm của sự tha hóa ngày một nhiều, khiến cho Nguyễn Trãi càng thêm buồn nản .
- Sự kiện soạn nhã nhạc cho cung đình (năm 1437)
Tháng 1 năm 1437, Nguyễn Trãi được lệnh cùng với viên hoạn quan là Lương Đăng soạn nhã nhạc cho triều đình. Sau khi vẽ xong mẫu của chiếc khánh bằng đá, Nguyễn Trãi tâu vua rằng : ‘ “Thời loạn thì trọng võ, thời bình thì chuộng văn, nay đúng là lúc (chuộng văn) nên phải chế ra lễ nhạc. Nhưng, nếu không có gốc thì không thể đứng vững, nếu chẳng có văn thì không thể lưu hành, mà thái bình là gốc của nhạc, thanh âm là văn của nhạc, thần vâng chiếu chỉ mà soạn nhạc, đâu dám không dốc hết sức để mà làm. Chỉ tiếc là sức học nòng cạn, sợ trong chỗ thanh luật không được hài hòa. Xin bệ hạ thương yêu và nuôi nấng muôn dân, để chốn xóm thôn không còn tiếng oán hận buồn than, như thế mới không mất cái gốc của nhạc.
Vua tiếp nhận và khen ngợi, xong, sai thợ đá ở huyện Giáp Sơn, lấy đá ở núi Kính Chủ để làm khách” (4).
Tháng 5 năm 1437, đến lượt Lương Đăng dâng lời tâu về nhạc. Lời tâu ấy phần nhiều là khác hẳn vơi ý kiến của Nguyễn Trãi. Nhưng Lê Thái Tông, vị vua quá trẻ (lúc này mới lên 14 tuổi) chưa đủ sức đề thẩm định sự hay dở và tốt xấu, nên đã nghe theo lời của Lương Đăng, bất chấp sự can gián của một loạt quan lại trong triều như Nguyễn Truyền, Đào Công Soạn, Nguyễn Văn Huyền, Nguyễn Liễu,. và cả Nguyễn Trãi nữa. Về sau, các sử gia của Quốc Sử Quán nhà Nguyễn đã có lời phê rất xác đáng rằng:
“Để cho hoạn quan và kẻ hầu trong cung tham dự chính sự, tất nhiên là sẽ có nguy cơ đáng lo ngại. Điều này cần ngăn chặn, không thể để cho nẩy nở ngày một lớn. Huống chi, lễ nhạc là việc trọng đại, nước nhà lúc ấy chẳng lẽ đã hết người giỏi hay sao mà lại phải dùng đến bọn hoạn quan như Lương Đăng ? “ (5).
Phải đợi đến những năm từ năm 1439 trở đi, khi mà vua Lê Thái Tông bắt đầu tới tuổi trưởng thành, kỉ cương phép nước bắt đầu được chỉnh đốn, Nguyên Trãi mới được sống những ngày hả hê. ông ở Côn Sơn, chỉ thinh thoảng mới về triều đình bàn việc. Nhưng, vui chưa trọn vẹn thì tai họa cũng đã đến gần.
__________________________
(1) Đại Việt sử kí toàn thư (Bản kỉ , quyển 11 , tờ 25 - b và tờ 26 - a .
(1) Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chỉnh biên, quyển XVI, tờ 26).
(2) Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chỉnh biên, quyển XVI, tờ 27).
(4) Đại Việt sử kí toàn thư (Bản kỉ, quyển 11, to 36-a).
(5) Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 27, tư 26).
V. VỤ ÁN LỆ CHI VIÊN
“Nhất sinh sự nghiệp thù kham tiếu,
Doanh đắc phù sinh lạc thế gian” (1)
Hai câu trên có nghĩa là : Sự nghiệp một đời thật là dáng cười, Chỉ thu được một kiếp trôi nổi giữa thế gian mà thồi.Tháng 7 năm Nhâm Tuất (1442), vua Lê Thái Tông đi duyệt binh ở thành Chí Linh (nay thuộc Hải Hưng). Lúc ấy, đất nước đang hồi thái bình, Nhà vua thì đang ở độ tuổi thanh xuân sung sức, cho nên, không ai nghĩ rằng đó là cuộc tuần du cuối cùng của Nhà vua, nhưng tiếc thay, sự thực lại là như vậy.
Vua Lê Thái Tông đã đột ngột qua đời tại Lệ Chi Viên (nay thuộc huyện Gia Hương, tỉnh Hà Bắc) vào đêm mồng 4 tháng 8 năm 1442, khi đang trên đường trở về kinh đô, hưởng dương 19 tuổi . Sau cái chết đột ngột cửa Nhà vua, một vụ án lớn đã xảy ra và kết quả là cả ba họ của Nguyễn Trãi đã bị tru di một cách thảm khốc. Sử thường gọi đó là vụ án Lệ Chi Viên.
Sử cũ viết:
“Ngày 27 (tháng 7 nậm 1442 - NKT), Vua tuần du về phía đông, đến thành Chí Linh để thân duyệt quân đội. Nguyễn Trãi mời Vua về ngự ở chùa Côn Sơn (tức chùa Tư Quốc cũ, do thiền sư Pháp Loa, người đời Trần dựng lên - NKT). Chùa nay nhằm trong làng của Nguyễn Trãi.
Vua đi thuyền từ bến Đông, vào sông Thiên Đức, đến khu mộ Bạch Sư thuộc Cầu Bông, xã Đại Toán, huyện Quế Dương thì thuyền ngự không sao đi được nữa. Quan quân lấy hết sức mà kéo, thuyền vẫn nằm yên, cứ y như có người đang níu thuyền lại. Vua bèn sai Trung sứ đi hỏi khắp các vị bô lão quanh vùng, xem đất này có vị thần nào không. Các vị bô lão thưa rằng:
- Xưa có người là Bạch Sư rất tinh thông pháp thuật, khi mất chôn ở bờ sông, thường rất linh hiển, người xứ này vẫn tế thần long trọng lắm .
Trung sứ hỏi :
- Tế thần bằng gì ?
Các vị bỏ lão trả lời:
- Tế bằng bê con.
Trung sứ về tâu Vua. Vua sai đem bê con đến tế thần. Tế xong thuyền mới đi được.
Tháng 8, ngày mồng 4, Vua về đến Lệ Chi Viên (tên Nôm là Trại Vải, - NKT), thuộc huyện Gia Định (nay thuộc huyện Gia Lương, tỉnh Hà Bắc - NKT) thì bỗng bị bạo bệnh rồi mất. Trước, Vua vẫn thích vợ của quan Thừa Chỉ Nguyên Trãi, tên là Nguyễn Thị Lộ. Thị Lộ đẹp người lại có tài văn chương, Vua gọi vào cung, cho làm Lễ Nghi Học Sĩ, ngày đêm hầu cận.
Khi đi tuần du miền Đông về, qua Lệ Chi Viên (xã Đại Lại, ven sông Thiên Đức), Vua thức suốt đêm với Nguyễn Thị Lộ rồi mất . Các quan bí mật đưa linh cữu về. Ngày mồng 6 thì đến kinh sư, vào đến cung là nửa đêm, lúc ấy mới phát tang. Ai cũng nói là Nguyễn Thị Lộ giết Vua” (2).
____________________
(1) Nguyễn Trãi : Hải khẩu dạ bạc hữu cảm.
(2) Đại việt sử kí toàn thư (Bản kí, quyển 11, tờ 55 a-b và tờ 56-a).
“Ngày 16 (tháng 8 năm 1442 - NKT) giết quan Hành Khiển là Nguyễn Trãi và vợ là Nguyễn Thị Lộ, bắt tội đến ba họ. Trước kia Nguyễn Thị Lộ ra vào cung cấm, (vua Lê) Thái Tông trông thấy thì lấy làm thích, liền cợt nhã với thị. Nay, Vua đi tuần miền Đông, lại ghé nhà Nguyễn Trãi chơi rồi sau mới bị bạo bệnh mà mất, cho nên, khép Nguyễn Trãi vào tội ấy” (1) .
Vì sao Nguyễn Trãi lại phải chết một cách oan khuất và thảm khóc như thế ? Có lẽ không một ai dễ dàng chấp nhận rằng đó là sự thật chua chát của chính loài người, cho nên, người đời mới có càu chuyện rắn báo oán rất li kì, đổ hết mọi sự xấu xa cho hồn ma của rắn.
Chuyện này được dã sử chép như sau :
“Tương truyền, khi chưa hiển đạt (đúng ra là khi chưa ra làm quan - NKT), ông (đây chỉ Nguyễn Phi Khanh, thân sinh của Nguyễn Trãi - NKT) dạy học trò ở làng Nhị Khê. Một hôm, ông trỏ cái gò nhỏ ngoài đồng và bảo học trò rằng:
- Ngày mai các anh phải ra phạt cỏ cái gò ấy để lấy đất dựng nhà mà học.
Học trò vâng lời. Tảng sáng hôm sau, ông mơ thấy một người đàn bà tới nói với ông rằng:
Tôi còn yếu người mà con thì còn nhỏ, xin ông hãy thư thư cho vài ba bữa nữa để tôi còn kịp dọn đi nơi khác. Tỉnh dậy, ông vội chạy ra đồng xem thì học trò đã dọn gò đất xong rồi. Họ bắt được hai quả trứng. ông hỏi thì họ nói :
- Vừa rồi thấy có con rắn, chúng con đánh nó cụt đuôi và nó đã chạy mất. ông cầm hai quả trứng đem về cất giữ. Đến đêm ông chong đèn đọc sách thì có con rắn trắng bò trên xà nhà. Máu từ đuôi nó chảy xuống, rơi đúng chữ đại (nghĩa là đời), thấm ướt đến ba tờ giấy liền ông tự hiểu và than rằng:
- Nó sẽ báo oán ta đến ba đời.
Hai trứng rắn nở ra được hai con, một dài, một ngắn. ông sai đem thả xuống sông Tô Lịch ở làng bên. Nay, những rắn ấy đều được tôn làm thần sông.
Sau khi đã hiển đạt, hàng ngày từ triều đình trở về, đi qua phố Hàng Chiếu, ông vẫn thường gặp một người con gái nhan sắc rất mặn mà. Hai bên dùng thơ vui đùa rồi yêu mến nhau. ông cưới cô ấy về lành thiếp (chỗ này dã sử nhầm chuyện của Nguyễn Phi Khanh ra chuyện Nguyễn Trãi – NKT).
Trong năm Thiệu Bình (niên hiệu của vua Lê Thái Tông, dùng từ năm 1434 đến năm 1439 - NKT), người con gái ấy được ra vào nơi cung cấm, được vua Lê Thái Tông cho làm Nữ Học Sĩ. Khi Vua băng, triều đình đem cô ra để tra khảo thì cô khai là Nguyễn Trãi sai cô giết vua. bởi lẽ này mà ông mới bị trị tội. Khi đem hành hình, người con gái ấy liền hóa thành con rắn, bò xuống nước rồi đi đâu mất” (2).
Đâu là lõi lịch sử của câu chuyện li kì đượm màu dị đoan nói trên. Trở lại ghi chép tản mạn của sử cũ về hành trạng của Nguyễn Trãi những năm làm quan dưới thời Lê và về những chi tiết phản ánh “bí sử” của hậu cung, chúng ta có thể dựng lại sự kiện này như sau:
_______________________
(1) Đại Việt sử kí toàn thư (Bản kí, quyển 11, tờ 56-b).
(2) Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án : Tang thương ngẫu lục
Năm mới 16 tuổi, vua Lê Thái Tông đã chính thức làm lễ sắc phong lần lượt trước sau cho năm người phụ nữ trong hậu cung. Năm người đó là:
- Dương Thị Bí : Hoàng Hậu. Hiện chưa rõ gốc tích của bà.
Tháng 6 năm 1489, bà sinh hạ Lê Nghi Dân. Tháng 1 năm 1440, Lê Nghi Dân được lập làm Thái Tử, vì lẽ này, bà kiêu hãnh và có phần ngạo mạn . Tháng 1 năm 1441 , vua Lê Thái Tông giáng ngôi Hoàng Hậu của bà, truất luôn ngôi Thái Tử của Lê Nghi Dân.
- Nguyễn Thị Anh : Hoàng Hậu (được lập sau khi bà Dương Thi Bí bị giáng). Bà người xã Bố Vệ, huyện Đông Sơn (nay thuộc Thanh Hóa). Tháng 6 năm 1441 , bà sinh hạ ra Lê Bang Cơ ( người về sau là vua Lê Nhân Tông). Tháng 11 năm 1441 , Lê Bang Cơ được lập làm Thái Tử (thay cho Lê Nghi Dân) và bà cũng được sách lập làm Hoàng Hậu.
- Ngô Thị Ngọc Dao : Tiệp Dư. Bà người xã Động Bàng. huyện Yên Định (nay thuộc Thanh Hóa), con gái của Thái Bảo Ngô Từ. Tháng 7 năm Nhâm Tuất (1442), bà sinh hạ ra Lê Tư Thành. Suốt 18 năm trời, từ năm 1442 đến năm 1460, hai mẹ con bà phải sống rất gian nan bởi sự hiềm nghi thù ghét của bà Hoàng Hậu Nguyễn Thị Anh. Năm 1460, sau khi Lê Nghi Dân bị triều thần giết chết, Lê Tư Thành được tôn lên ngôi, đó là vua Lê Thánh Tông. Bà Ngô Thị Ngọc Dao cũng được tôn lành Hoàng Thái Hậu.
- Lê Ngọc Dao : Nguyên Phi. Bà là con gái của Đại Tư Đồ Lê Sát. Tháng 7 năm 1437, khi Lê Sát bi giết, bà cũng bị phế xuống làm dân thường.
- Lê Nhật Lệ : Huệ Phi. Bà là con gái của Tể Tướng Lê Ngân. Tháng 12 năm 1437, khi Lê Ngân bi giết, bà cũng bị giáng xuống hàng Tu Dung.
Như vậy, có năm bà được sách phong thì ba bà đã bị phế hoặc bị giáng. Hai người còn lại là Hoàng Hậu Nguyễn Thị Anh và Tiệp Dư Ngò Tiij Ngọc Dao. Để bảo vệ ngôi Thái Tử cho con và địa vị Hoàng hậu cho chính mình, bà Nguyễn Thị Anh đã không ngừng tìm đủ mọi cách để hãm hại bà Ngô Thi Ngọc Dao.
Biết được việc làm thất đức này, Nguyễn Trãi đã thông qua người thiếp của mình được Vua yêu là Nguyễn Thị Lộ, ra sức ngăn cản, không để Nhà vua mắc mưu gian mà giết hại bà Ngô Thị Ngọc Dao. Chuyện ấy đến tai bà Hoàng Hậu Nguyễn Thị Anh, khiến bà rất căm tức, chỉ trông có dịp thuận lợi để trả thù mà thôi. Và dịp may hiếm có ấy đã đến.
Ngay sau khi Lê Thái Tông qua đời, Hoàng Hậu Nguyễn Thị Anh hạ lệnh bắt giam Nguyễn Thị Lộ rồi tra khảo rất dã man. Trước sau, những kẻ tra khảo chỉ hỏi NguyễnThi Lộ có mỗi một câu, rằng có phải chính Nguyễn Trãi đã đưa thuốc độc cho Nguyễn Thị Lộ giết Nhà vua hay không. Không chịu nổi đòn roi, Nguyễn Thị Lộ dành nhận là phải .
Dựa vào lời khai này, Nguyễn Thị Anh đã hạ lệnh chém đầu Nguyễn Thị Lộ và tru di dòng họ Nguyễn Trãi. Ngày mười sáu tháng tám năm Nhâm Tuất (nhằm ngày 19 – 9 - 1442) là ngày oan nghiệt của gia tộc Nguyễn Trãi, cũng là ngày u ám của lịch sử thế kỉ thứ XV: Ngày án tru di đối với gia tộc Nguyễn Trãi được thi hành. Hôm đó chỉ có một người hầu thiếp của Nguyễn Trãi, gốc họ Phạm, đang mang thai ba tháng, đã may mắn chạy thoát được. Bà đã trốn vào tận vùng rừng núi phía tây Thanh Hóa và ở đó, bà đã sinh hạ một người con trai, đặt tên là Nguyễn Anh Vũ.
Tháng 7 năm Giáp Thân (1464), vua Lê Thánh Tông (con của vua Lê Thái Tông, do bà Ngô Thị Ngọc Dao sinh hạ) đã xuống chiếu minh oan cho Nguyễn Trãi, truy tặng NguyễnTrãi tước Tán Trù Bá và phong cho Nguyễn Anh Vũ chức Đồng Tri Châu.
Hiện nay, ở Côn Sơn (Chí Linh, Hai Hưng) có khu lưu niệm Nguyễn Trãi và gia tộc của ông. Các thế hệ giàu lòng ngưỡng mộ đối với tổ tiên, từ khắp mọi miền của đất nước, đã không ngớt kéo về Côn Sơn để tưởng nhớ Nguyễn Trãi - người con quang vinh của lịch sử nước nhà .
Quyển 02: Danh tướng Lam Sơn.
Chương 03
LÊ VĂN AN (? - 1437)
Nguồn: quansuvn.net
Thu gọn nội dung
Hiện tại vẫn chưa rõ Lê Văn An sinh vào năm nào, chỉ biết rằng ông đến Lam Sơn với Lê Lợi trước khi Lê Lợi tổ chức Hôi thề Lũng Nhai (tức là trước năm 1416) và lúc ấy, con trai ông là Lê Biếm cũng đã là một thanh niên khỏe mạnh, được Lê Lợi thu nhận, cho tham gia lực lượng nghĩa binh của Lam Sơn. Sinh thời, Lê Văn An là bậc dũng tướng đa mưu, từng “trải hơn một trăm trận lớn nhỏ” nên rất dày dạn kinh nghiệm trận mạc. Sự nghiệp của Lê Văn An thể hiện tập trung nhất qua mấy trận đánh quan trọng sau đây.
Trận Khả Lưu và trận Tân Bình - Thuận Hóa (1424):
Cuối năm 1424, trên cơ sở chấp thuận và tán đồng mạnh mẽ đối với kế hoạch xuất sắc của Nguyễn Chích, Lam Sơn đã ồ ạt tấn công vào Nghệ An. Tại Nghệ An, một trong những trận đánh quan trọng nhất của nghĩa quân lam Sơn chính là trận Khả Lưu. Và, Lê Văn An đã có vinh dự được tham gia chỉ huy trận đánh quan trọng này.
Trận Khả Lưu là một trong những trận lớn nhất của Lam Sơn tại Nghệ An, trận đã buộc quân Minh phải lâm vào thế bị dồn ép để rồi mất khả năng cứu nguy cho nhau. Kể từ đây, tương quan thế và lực giữa đôi bên nhanh chóng thay đổi theo chiều hướng ngày càng có lợi cho Lam Sơn.
Đây là trận được Lam Sơn thực lục mô tả khá tỉ mỉ (1). Trong trận này, Lê Văn An vừa là tướng chỉ huy, cũng là người đã lập công lớn, “Ông xông lên trước, hãm thế trận của giặc và đánh lui chúng (2).
Sau thắng lợi ở Khả Lưu, Lê Lợi cho quân vây hãm thành Nghệ An. Bấy giờ, để đề phòng tướng giặc có thể từ vùng Tân Bình và Thuận Hóa, bất ngờ đem quân ra ứng cứu, Lê Lợi liền sai các tướng như Trần Nguyên Hãn, Lê Nỗ, Lê Đa Bồ, đem hơn một ngàn bộ binh cùng với một thớt voi, ồ ạt tấn công vào phía Nam.
Lực lượng này xuất tràn chưa được bao lâu thì Lê Lợi lại sai Lê Văn An, Lê Ngân, Lý Triện và Lê Bôi, lãnh hơn 70 chiến thuyền, tiến gấp theo để tiếp ứng. Sự phối hợp nhịp nhàng và mãnh liệt của quân thủy bộ Lam Sơn đã khiến cho giác rất hốt hoảng.
Chỉ trong một thời gian ngắn, toàn bộ vùng Tân Bình và Thuận Hóa đã được Lam Sơn giải phóng. Trong chiến công chung rất vang dội này, Lê Văn An là một trong những tướng lĩnh có công lớn.
Tướng chỉ huy cuộc vây hãm và dụ hàng thành Nghệ An
Sau trận thắng lớn ở Tân Bình và Thuận Hóa, Lê Văn An và các tướng được lệnh đem quân tiến gấp ra Nghệ An. Tại đây, kế hoạch tấn công ra giải phóng vùng đồng bằng Thanh Hóa đã được Bộ chỉ huy Lam Sơn thông qua.
Đây là một kế hoạch rất táo bạo, bởi lẽ, giặc ở Thanh Hóa mạnh hơn hấn giặc ở Nghệ An. Và, nếu sơ hở trong cuộc vây hãm đối với thành Nghệ An, thì rất có thể, giặc sẽ từ hai hướng nam, bắc khác nhau là Nghệ An và Thanh Hóa, sẽ phối hợp để tiêu diệt lực lượng của Lam Sơn ngay trên đường hành quân.
Để ngăn chặn khả năng này, Lê Lợi đã tin cậy mà cử Lê Văn An ở lại, chỉ huy toàn bộ lực lượng vây hãm thành Nghệ An. Lê Văn An xiết chặt vòng vây, thẳng tay trừng trị những kẻ ngoan cố, cả gan dám đánh lén vào hàng ngũ của ông, đồng thời, liên tiếp kêu gọi giặc dầu hàng.
Trước tình thế ngày một bức bách, tướng chỉ huy cao cấp của giấc trong thành Nghệ An là Thái Phúc đã xin đầu hàng. Sự kiện này khiến cho tinh thần của giặc bị khủng hoảng nghiêm trọng, ngược lại làm cho ý chí chiến đấu của Lam Sơn được khích lệ mạnh mẽ.
______________________-
(1) Về diễn biến chung của trận Khả Lưu, xin vui lòng tham khảo thêm phần viết về Lê Sát cũng ở trong tập II này.
(2) Đại Việt thông sử (Chư phần truyện).
Tướng lập công lớn ở trận Xương Giang (1427)
Sau khi Thái Phúc ra đầu hàng, Lê Văn An được lệnh tiến ra - Đông Quan. Bấy giờ, Lam Sơn đã thắng trận quyết chiến chiến lược vang dội ở Tốt Động-chúc Động, đẩy Tổng Binh của giặc là Vương Thông, từ vị trí của một viên tướng đi cứu ngay, trở thành một kẻ kêu cứu thảm thiết.
Cũng lúc bấy giờ, Lê Lợi và Bộ chỉ huy Lam Sơn đã quyết định đánh trận quyết chiến chiến lược cuối cùng với quân Minh ở Chi Lăng - Xương Giang. Đại bộ phận lực lượng tinh nhuệ nhất của Lam Sơn đã được điều động vào trận đánh lịch sử này. Ngoài ra, một bộ phận khác dã được điều lên ải Lê Hoa để đánh chặn đạo quân của Mộc Thạnh, và một bộ phận khác nữa cũng được bố trí ở lại để tiếp tục bao vây, tiếp tục dụ hàng thành Đông Quan.
Lê Văn An có vinh dự được cùng với tướng Nguyên Lý đem ba vạn quân tiếp ứng cho các tướng sĩ Lam Sơn ở trận Chi lăng - Xương Giang.
Ông là một trong những tướng đã lập công to lớn trong trận tập kích vào Xương Giang (tháng 11 năm 1427). Sử cũ chép:
“vua đại sai ông cùng Lê Lý (tức Nguyễn Lý - NKT) đem ba vạn quân lên hỗ trợ cho tướng Lê Sát làm thế ỷ giốc (1) ông liên tục đánh phá quân của Thôi Tụ và Hoàng Phúc, vây hãm chúng ở Xương Giang. Kế đến, ông cùng các tướng hợp sức đánh phá giặc, bắt sống được Thôi Tụ và Hoàng Phúc cùng ba vạn quân địch Thiên hạ từ đó đại định” (2).
Nhờ những công lao nói trên, năm 1428, Lê Văn An được phong là Nhập Nội Tư Mã, dự triều chính, hàm Suy Trung Bảo Chính Công Thần. Năm 1429, nhà Lê dựng biển khắc tên công thần, Lê Văn An cũng có tên ở trong số đó.
Cũng năm này, ông được ban tước Đình Hầu, được gia hàm Tán Trị Hiệp Mưu Công Thần, Nhập Nội Kiểm Hiệu Tư Không, Bình Chương Quân Quốc Trọng Sự. Tháng 2 năm 1434, Lê Văn An được cử làm Tư Mã Bắc Đạo và nhờ có công trấn trị ở vùng này, ông được gia phong làm Nhập Nội Đại Tư Mã, Đô Đốc Đồng Tổng Quản Bắc Đạo.
Tháng 6 năm 1437, Lê Văn An qua đời vì bệnh . Vì chưa rõ năm sinh nên cũng chưa rõ là khi mất, ông đã được hưởng thọ bao nhiêu. Sinh thời, "trong số võ tướng, ông là người hòa nhã và giản dị, thường dùng lễ để tiếp đãi các bậc sĩ đại phu” (3).
________________________
(1) Là một thuật ngữ quân sự cổ, có nghĩa là trên dưới sau trước phải tơasi và trong ngoài cùng dựa vào nhau.
(2) và (3) Đại Việt thông sử (Chư thần truyện).
Hiện vẫn chưa rõ Bùi Bị sinh và mất năm nào. Lí lịch cuộc đời của Bùi Bị chỉ bắt đầu được biết tới kể từ khi ông tham gia khởi nghĩa Lam Sơn. Ông không có tên trong danh sách những người tham dự Hội thề Lũng Nhai, cũng không có tên trong số các vị tướng linh thường được nhắc tới nhiều trong những ngày đầu gian khổ nhất.
Có lẽ sự nghiệp của Bùi Bị bắt đầu từ vị trí khiêm nhượng của một nghĩa sĩ Lam Sơn. Chí lớn và lòng dũng cảm của bản thân, cộng với kinh nghiệm thực tiễn sôi động của cuộc chiến đấu đương thời đã nâng Bùi Bị lên hàng các bậc danh tướng. Công lao và tài năng của Bùi Bị được ghi nhận chủ yếu qua mấy tràn đánh tiêu biểu sau đây :
- Cùng Trịnh Khả, dùng mưu lừa giặc để giành lại hài cất của tổ tiên Lê Lợi (1418)
Ngay khi Lê Lợi vừa làm lễ tế cờ xuất trận, mở đầu cuộc chiến đấu một mất một còn với quân Minh đô hộ, giặc đã dồn sức tổ chức những cuộc tấn công đàn áp rất khóc liệt vào lực lượng của Lam Sơn.
Mặc dù tương quan thế và lực hết sức chênh lệch, Lam Sơn cũng đã dũng cảm chiến đau, gây cho địch những tổn thất khá lớn, trong đó, đặc biệt hơn cả là trận mai phục ở Lạc Thủy 1.
Sau trận Lạc Thủy, giặc hèn hạ trả thù bằng cách khai quật mồ mả và lấy hài cốt của tổ tiên Lê Lợi, đặt trên thuyền và neo thuyền ở giữa sông, hòng buộc Lê Lợi phải ra hàng. Trước tình huống phức tạp này, tướng Trịnh Khả được lệnh cùng với Bùi Bị dùng mưu giành lại bộ hài cốt ấy. Và, hai ỏng đã bí mật đội cỏ lội sông, rồi nhân lúc giặc ngủ say, nhẹ nhàng lên thuyền, lấy hài cốt của tổ tiên Lê Lợi mang về 2.
Chiến công của Trịnh Khả và Bùi Bi đã có tác dụng rát to lớn trong việc cùng cố niềm tin của nhân dân và binh sĩ lúc bấy giờ đối với tương lai tất thắng của Lam Sơn. Bùi Bị và Trịnh Khả được Lê Lợi trọng thưởng.
- Trận Mỹ Canh (1418)
Ngày 17 tháng giêng năm Mật Tuất (1418), nhờ có tên Việt gian là Ái (chưa rõ họ) dẫn đường, quân Minh lại ồ ạt tấn công vào Lam Sơn. “Chúng bắt được gia thuộc của Vua (tức Lê Lợi - NKT) cùng vợ con rất đông’ 3. Lê Lợi cùng với các tướng lớn nhỏ và lực lượng nghĩa sĩ còn lại (trong đó có Bùi Bị), rút lên ấn náu trên Linh Sơn, chờ giặc lui quân mới về đắp lũy ở quê cũ là Lam Sơn” 4.
Chỉ một thời gian ngắn sau khi trở lại Lam Sơn, Lê lợi đã “phủ dụ” sĩ tốt, ước thúc 5 đội ngũ, chỉnh đốn khí giới, khiến cho tinh thần quân sĩ lại hăng, thề không đội trời chung với giặc. Vua biết quân sĩ đã có thể dùng được, liền cho người n khiêu chiến. Giặc cậy mạnh, vào hết nơi đất hiểm để đánh Vua.
Vua đặt phục binh ở xứ Mường Một, dùng tên có tẩm thuốc độc, từ hai bên bắn ra, giặc phải tan chạy. Vua tiến quân đến xứ “Mương Nanh, đêm ngày đánh nhau với giặc không nghỉ. Giặc lại thua, phải lui về Nga Lạc Thượng. Vua đánh sách Hà Đả, ngày ngày khiêu chiến mà giặc không ra. Hôm sau, giặc đánh nhau với Vua ở xứ Mỹ Canh. Ta bắt được tướng giặc là Nguyễn Sao, chém được hơn một ngàn tên nữa”
Trong các trận liên tiếp ở Mường Một, Mường Nanh, Nga Lạc Thượng, Hà Đả và Mỹ Canh, thì Mỹ Canh là trận tương đối lớn. Lần đầu tiên, tướng giặc bị bắt sống và cũng lần đầu tiên, số quân giặc bị tiêu hao khá nhiều. Một trong những người có công lớn tại trận Mỹ Canh chính là Bùi Bị. Từ đấy, Bùi Bi trở thành một trong những bề tôi thân cận của Bình Định Vương Lê Lợi.
______________________________
1. Về trận Lạc thủy, xin xem thêm phần viết về Nguyễn Lý cũng ở trong sách này.
2. Xin vui lòng tham khảo thêm phàn viết về Trịnh Khả cũng ở trong sách này.
3. Lam Sơn thực lục (quyển 1)
4. Lam Sơn thực lục (quyển 1) Xin tham khảo thẽm phần viết về Nguyễn Lý cũng ở trong sách này.
5. Có nghĩa là quân sĩ dưới quyền phải theo lệnh mà làm cho đến nơi đến chốn.
- Cầm quân thẳng tiến ra Tây Đô
Đầu năm 1425, Lam Sơn đã giải phóng được toàn bộ đất đồng bằng Nghệ An, tạo được chỗ dửng vung chắc để có thể đối đầu với quân Minh trên một tư thế hoàn toàn mới. Lúc này, Bùi Bị đã là một trong những vị tướng giàu uy tín và năng lực của Lam Sơn.
Tháng 4 năm 1425, sau khi đánh tan đạo viện binh của giặc do Lý An chỉ huy, từ Tây Đô tiến vào cứu nguy cho thành Nghệ An, Lê Lợi chủ trương cho quân bất ngờ tấn công thẳng ra Tây Đô. Các tướng Đinh Lễ, Lê Sát, Bùi Bị, Lý Triện và Lưu Nhân Chú được lệnh đem hai ngàn tinh binh và hai thớt voi, gấp rút đi thực hiện nhiệm vụ này. Chỉ ba ngày sau khi nhận lệnh, các tướng đã sắp đặt đội ngũ chỉnh tề.
Với một cuộc hành quân kiên quyết, táo bạo và cấp tốc, Bùi Bị và các tướng nói trên đã giải phóng được hầu hết đất Thanh Hóa, buộc giấc phải co về cố thủ trong hành Tây Đô. Từ đây, miến đất rộng lớn và liên hoàn từ Thanh Hóa trờ vào Nam thuộc về Lam Sơn. Chiến công này của Bùi Bị cùng các tướng Đinh Lễ, Lê Sát, Lý Triện và Lưu Nhân Chú, có ý nghĩa rất lớn lao đối với toàn bộ quá trình phát triển và những thắng lợi rất vang dội của Lam Sơn sau đó. Cơ hội để đưa Lam Sơn từ một cuộc khởi nghĩa vũ trang phát triển thành một cuộc chiến tranh giải phóng có quy mô cả nước đã bắt đầu mở ra.
- Một trong những vị tướng chỉ huy xuất sắc đạo quân thứ hai của Lam Sơn ở vùng ngoại vi Đông Quan.
Tháng 9 năm 1426, Lê Lợi và Bộ chỉ huy Lam Sơn quyết định đưa hơn một vạn quân, luồn sâu vào vùng còn tạm bị quân Minh chiếm đóng, tiến ra khu vực ngoại vi của thành Đông Quan, vừa ráo riết hoạt động, vừa trực tiếp uy hiếp sào huyệt lớn nhất của chúng là thành Đông Quan .
Hơn một vạn quân này được chia làm ba đạo khác nhau và được giao cho một loạt tướng lĩnh xuất sắc của Lam Sơn chỉ huy. Bấy giờ, Bùi Bị có vinh dự được cùng với các tướng Lưu Nhân Chú, Lê Trương và Lê Ninh chỉ huy đạo quân thứ hai 2.
Nhiệm vụ của đạo quân này là :
+ Băng qua đất Nam Hà ngày nay, tiến xuống vùng Thái Bình và Hải Hưng ngày nay, giải phóng vùng hạ lưu sông Hồng, hỗ trợ đắc lực cho đạo quân thứ nhất và đạo quân thứ ba hoạt động.
+ Sẵn sàng đợi đánh lực lượng của giặc, nhất định sẽ từ Nghệ An và Tây Đô tháo chạy ra.
Bùi Bị và các tướng đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giải phóng vùng hạ lưu sông Hồng. Nhiệm vụ thứ hai tuy đã hết sức cố gắng, nhưng Bùi Bị và các tướng cũng không sao hoàn thành nổi. Hai vạn quân Minh từ Nghệ An và Tây Đô vào được và hội nhập được với lực lượng của chúng ở Đông Quan.
Khi đạo quân thứ hai đang tích cực hoạt động ở vùng hạ lưu sông Hồng, thì từ Thanh Hóa, Lê Lợi quyết định đưa quân ra thêm. Bùi Bị cùng Lưu Nhân Chú được lệnh đem hơn hai ngàn quân và hai thớt voi tiến sang dành phá vùng Đông và Đông Bắc thành Đông Quan, đồng thời, sẵn sàng đánh chặn viện binh của giặc rất có thể sẽ từ Khâu Ôn (Trung Quốc) tràn sang.
Hoạt động của lực lượng Lam Sơn do Bùi Bị chỉ huy đã có tác dụng làm cho quân Minh bị lúng túng vì phải phân tán để đối phó với nhiều hướng khác nhau. Đây chính là cơ hội thuận tiện để các tướng chỉ huy đạo quân thứ nhất có thể thắng liên tiếp ở Ninh Kiều, Nhân Mục và Xa Lộc, để rồi sau đó là thắng vang dội ở Tốt Động - Chúc Động.
Sau trận Tốt Động- Chúc Động, Lê Lợi và Bộ chỉ huy Lam Sơn đã chuyển đại bản doanh từ Thanh Hóa ra Bắc. Nơi đặt đại bản doanh đầu tiên là Tây Phù Liệt (nay thuộc Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội). Tại đây, Lê Lợi quyết định đánh trận phủ đầu, uy hiếp mạnh mẽ đối với thành Đông Quan .
Hai tướng Bùi Bị và Trần Nguyên Hãn được lệnh đem hơn một trăm chiến thuyền, đánh mạnh vào khu vực Hát Môn. Đây là cuộc tấn công khiến cho Tổng Binh của giặc là Vương Thông hết sức hốt hoảng. Tất cả lực lượng của chúng buộc phải co về cố thủ trong thành Đông Quan. Cuộc vây hãm Đông Quan bắt đầu. Lê lợi và Bộ chỉ huy Lam Sơn bố trí lực lượng như sau:
- Vây hãm cửa Bắc: Các tướng Lý Tan và Lê Văn An.
- Vây hãm cửa Tây: Các tướng Bùi Bị, Lê Nguyễn và Lê Chửng.
- Vây hãm cửa Nam: Các tướng Đinh Lễ, Lê Sát, Nguyễn Lý và Nguyễn Chích.
- Vây hãm cửa Đông : tướng Phạm Vấn.
Cuộc vây hãm này đã khiến cho Vương Thông lâm vào thế ngày một cùng quẫn. Hi vọng mong manh và duy nhất của hắn chỉ là chờ đợi viện binh.
Cuối năm 1427, nhà Minh điều mười lăm vạn quân sang cứu nguy cho Vương Thông. Đấy là cố gắng cao nhất, cũng là cố gắng cuòí cùng của nhà Minh. Lê Lợi và Bộ chỉ huy Lam Sơn quyết định: vừa tiếp tục bao vây và dụ hàng Vương Thông, vừa nhanh chóng điều quân lên biên giới, đập tan hoàn toàn cuồng vọng của quân xâm lăng. Bấy giờ, tướng Bùi Bị được cử ở lại để chỉ huy lực lượng vây hãm Đông Quan. Một lần nữa, ông đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, không cho phép Vương Thông có thể lợi dụng cơ hội để phản công.
_____________________
1. Lam Sơn thực lục (quyển l).
2. Về các đạo quân, xin tham khảo thêm phần viết về Phẩm Văn Xảo, cũng ở trong sách này.
- Thành viên phái đoàn đại diện của Lam Sơn tại cuộc Hội thề Đông Quan (1427).
Sau khi các đạo viện binh của Liễu Thăng và của Mộc Thạnh lần lượt bị đánh cho tan tành, Vương Thông buộc phải đầu hàng và rút hết quân về nước. Nhưng, thay vì tiến vào Đông Quan tiếp nhận sự đau hàng vô điều kiện của Vương Thông, để xoa dịu bớt nỗi nhục của quân xâm lăng và cũng là để mở ra cơ hội tốt cho việc thiết lập mối quan hệ bang giao hữu hảo sau này, Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã tổ chức Hội thề Đông Quan, tức là lễ tiếp nhận sự đầu hàng dưới một dạng thức đặc biệt .
Vương Thông buộc phải ra tận đại bản doanh của Lê Lợi để thề là sẽ rút quân. khỏi nước ta. Tham dự cuộc Hội thề Đông Quan, về phía Lam Sơn, ngoài Lê Lợi còn có các tướng lĩnh sau đây : Trần Nguyên Hãn, Lưu Nhân Chú, Phạm Vấn, Lê Ngân, Phạm Văn Xảo, Bùi Bị, Trịnh Khả, Nguyễn Chích, Nguyễn Ly, Phạm Bối, Lê Văn An, Bế Khắc Thiệu và Ma Luân.
Về phía quân Minh, ngoài Vương Thông, còn có : Mã Anh, Sơn Thọ, Mã Kỳ, Trần Trí, Lý An, Phương Chính, Trần Tuấn, Trần Hựu, Chu Kỳ Hân, Quách Vĩnh Thanh, Dực Khiêm, Lục Quảng Bình, Hồng Bỉnh Lương, Lục Trinh, Dương Thời Tập và Quách Đoan.
Cũng như các tướng lĩnh khác, Bùi Bị đã tỏ ra rất xứng đáng với niềm tin cậy lớn lao của Lê Lợi và của Bộ chỉ huy Lam Sơn . Ông vừa tỏ được oai phong lẫm liệt của một vị tướng quân dày dạn kinh nghiệm trận mạc, tỏ được tư thế hiên ngang của những người đại diện cho cả một dân tộc bất khuất, lại cũng vừa tỏ được thiện chí thực sự muốn tránh họa binh đao lâu dài cho cả hai nước.
Năm 1428, triều Lê định công ban thưởng cho các tướng lĩnh lập được nhiều công lao. Bùi Bị được ban quốc tính là họ Lê, vì thế, sử vẫn thường chép họ tên ông là Lê Bị . Ông là một trong số các Công Thần Khai Quốc, được ban tước Huyện Hầu . (Bấy giờ có 14 người được ban tước này, và người đứng hàng đầu tiên trong số 14 người này là ông) .
Sau, chưa rõ ông mất vào năm nào, chỉ biết năm 1453, triều đình truy tặng tước vị cho một số Công Thần Khai Quốc, thì ông và Đinh Lễ, Lý Triện cùng được hưởng lệ này. Nói khác hơn, ông phải mất trước năm 1453.
Đỗ Bí đến với Lê Lợi từ rất sớm, nhưng có lẽ ông cũng bắt đầu sự nghiệp của mình từ vi trí của một nghĩa sĩ bình thường. Sử cũ nhắc đến tên của Đỗ Bí lần đầu tiên vào tháng 4 năm Mậu Tuất (1418) :
“Vua (chỉ Lê Lợi - NKT) bèn thu quân, cùng với Lê Lễ (tức Đinh Lễ - NKT), Phạm Vấn, Đỗ Bí, Nguyễn Xí và Lê Đạp tạm náu ở Linh Sơn . Hơn ba tháng trời chỉ dùng măng tre và rễ cỏ để ăn cho qua bữa” (1).
Nhưng, từ khi Lam Sơn bắt đầu tấn công ồ ạt vào Nghệ An, tên tuổi của Đỗ Bí lại nhanh chóng nổi lên. Ông thực sự là một vị tướng có tài. Binh nghiệp của ông được hi nhận chủ yếu qua mấy sự kiện lớn sau đây :
Tham gia chỉ huy trận Khả Lưu (1424)
Bấy giờ, quân Lam Sơn đã chiếm được Trà Lân - mộ vị trí hết sức quan trọng, nằm án ngữ ngay trên mạch lưu thông phía tâ của Nghệ An. Giặc tức tối điều quân lên Trà Lân, quyết bóp nát lực lượng chủ lực của Lam Sơn tại đấy.
Muốn đến Trà Lân, giặc phai đi qua ải Khả Lưu, mà Khả Lưu là một vùng đất hiểm, chiếm được Khả Lưu là chiếm được lợi thế, từ đó, có thể thống khống chế và dễ dàng vào Trà Lân.
Nhạy bén trước thực tế này, Lê Lợi và Bộ chỉ huy Lam Sơn đã quyết định điều quân đến chiếm giữ trước ở vùng Khả Lưu, bám lấy đất hiểm để chặn đứng cuộc hành quân đàn áp nguy hiểm này. Hơn một chục các tướng lĩnh được huy động đến để phối hợp cầm quân đánh giặc ở Khả Lưu, trong sỏ đó có Đỗ Bí.
Và, tất các tướng đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Trận Khả Lưu (2) là một trong những trận thắng vang dội nhất của nghĩa quân Lam Sơn tại Nghệ An . Từ trận thắng này, tình hình ngày càng thay đổi theo chiều hướng có lợi cho Lam Sơn .
_____________________________
(1) Việt thông sử (Đế kỉ, đệ nhất).
(2) Chi tiết của Trận Khả Lưu, xin vui lòng tham khảo thêm phần viết về Lưu Nhân Chú và Lê Ngân cũng ở trong sách này
Một trong những vị tướng chỉ huy xuất sắc đạo quân thứ nhất của Lam Sơn ở vùng ngoại vi Đông Quan.
Tháng 9 năm 1426, Lê Lợi và Bộ chỉ huy Lam Sơn quyết định cho hơn một vạn quân, táo bạo luồn sâu vào vùng còn bị quân Minh tạm chiếm, vừa tấn công quân Minh ở vùng đồng bằng, vừa phối hợp uy hiếp thành Đông Quan (1).
Bấy giờ, Đỗ Bí có vinh dự được cùng với các tướng Phạm trăn Xảo, Trịnh Khả và Lý Triện chỉ huy đạo thứ nhất . Đạo này gồm có trên ba ngàn quân và một thớt voi . Nhiệm vụ cụ thể là : uy hiếp mặt Nam của thành Đông Quan và sẵn sàng chặn đánh viện binh của giặc rất có thể sẽ tràn từ hướng Vân Nam (Trung Quốc) sang.
Ngay khi vừa tiến ra khu vực phía Nam của thành Đông Quan, đạo quàn này đã liên tiếp lập được ba chiến công vang dội, đó là :thắng trận Ninh Kiều (9-1426) ; thắng trận Nhân Mục (9-1426) và thắng trận Xa Lộc (10-1428). Trong ba trận lớn này, Đỗ Bí có vinh dự trực tiếp chỉ huy hai trận, ấy là trận Ninh Kiều và trận Nhân Mục.
Tháng 11 năm 1426, nhà Minh sai Vương Thông đem năm vạn quân sang cứu nguy. Tình hình địch trong thành Đông Quan đã nhanh chóng thay đổi theo chiều hướng bất lợi cho Lam Sơn .
Mặc dù quân số ít Đỗ Bí và các tướng chỉ huy của đạo quân thứ nhất cũng hạ quyết tâm chủ động đánh giặc. Trận quyết chiến chiến lược Tốt Động Chúc Động (2) đã được tổ chức trước hết là dựa trên cơ sở của quyết tâm lớn đó.
Đỗ Bí đã góp phần hết sức quan trọng vào việc làm thay đổi hẳn mối tương quan thế và lực giữa Lam Sơn với quân Minh. Từ đây tương lai toàn thắng của Lam Sơn đã xuất hiện ngày càng rõ. Cũng từ đây, Lê Lợi và Bộ chỉ huy Lam Sơn bắt đầu dời đại bản doanh ra ngay vùng ngoại vi Đông Quan để trực tiếp chỉ huy mọi hoạt động của Lam Sơn .
Tham gia chỉ huy cuộc vây hãm thành Đông Quan
Sau trận đại bại ở Tốt Động - Chúc Động, Vương Thông buộc phải rút quân về cố thủ ở trong thành Đông Quan và ra sức kêu cứu một cách thảm thiết. Ngược lại, phần lớn lực lượng của Lam Sơn đã được điều động đến để vây hãm thành Đông Quan.
Đỗ Bí được Lê Lợi điều đến để tăng cường cho lực lượng của các tướng Lý Triện và Lê Văn An ở khu vực cửa Bắc. Ông cùng với Lý Triện đóng quân ở Cảo Động (nay thuộc huyện Từ Liêm, ngoại thành Hà Nội) .
Bị vây hãm nghiêm ngặt, Vương Thông rất lấy làm tức tối và hoang mang. Nhiều binh sĩ và cả tướng lĩnh của giặc đã trốn ra đầu hàng. Để cứu vãn tình thế, Vương Thông đã lợi dụng mọi cơ hội để đánh trả, hòng lấy thắng lợi nhỏ để kích động tinh thần binh sĩ dưới quyền .
Ngày 7 tháng 2 năm Đinh Mùi (nhầm ngày 4-3-1427, Vương Thông bất ngờ cho quân đánh mạnh vào khu vực đóng quân của Đỗ Bí và Lý Triện ở Cảo Động. Trong trận đánh bất ngờ này, danh tướng Lý Triện đã anh dũng hi sinh còn Đỗ Bí thì bi gịăc bắt, mãi đến khi Vương Thông đầu hàng và rút hết quân về nước, ông mới được cứu thoát .
Năm 1428, triều Lê đinh công ban thưởng cho các tướng lĩnh, Đỗ Bí được ban quốc tính là họ Lê, vì thế, sử sách vẫn thường chép họ tên ông là Lê Bí. Ông là một trong số mười bốn người được ban tước Huyện Hầu .
Mùa xuân năm 1448, bà Hoàng Thái Hậu Nguyễn Tại Anh và vua Lê Nhân Tông cùng đông đảo quan lại, tướng lĩnh về bái yết Lam Kinh. Đỗ Bí có vinh dự được cùng với Nguyễn Thận ở lại coi giữ kinh thành Thăng Long. Sau, ông mất vào năm nào, không thấy sử chép
______________________________
(1) Quân số và nhiệm vụ của từng dạo quân, xin vui lòng tham kháo thêm phần viết về Phạm Văn Xảo cũng ở trong sách này.
(1) Chi bết về trận Tốt Động, - Chúc Động, xin vui lòng tham khảo thêm phần viết về Phạm Văn Xảo và Trịnh Khả cũng ở trong sách này.
Nguyễn Chích người thôn Mạc, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa, sinh năm Nhâm Tuất (1382), mất năm Mậu Thìn (1448), thọ 66 tuổi . Ông sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo khổ, cho nên, thuở ấu thơ đã phải đi ở đợ làm nghề chăn trâu ở vùng Hoàng Sơn và Nghiêu Sơn.
Khi quân Minh xâm lược nước ta, cuộc kháng chiến do nhà Hồ (1400 - 1407) lãnh đạo bị thất bại, Nguyễn Chích đã phát động và lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa khá lớn ở ngay vùng Hoàng Sơn và Nghiêu Sơn . Ông đã lập nên một khu căn cứ rất lợi hại tại vùng này sử gọi là khu căn cứ Hoàng - Nghiêu.
Ở đấy, lực lượng của Nguyễn Chích đã có lúc lên tới hơn một ngàn người và ông đã từng cho quân đi đánh phá khắp các vùng Đông Sơn, Nông Cống, Ngọc Sơn . . . khiến cho quân Minh phải nhiều phen chống đỡ rất vất vả.
Khi Lê Lợi xướng nghĩa ở Lam Sơn, Nguyễn Chích rất lấy làm hồ hởi. Nghĩa quân Lê Lợi và nghĩa quân Nguyễn Chích đã nhanh chóng phối hợp với nhau để cùng chống kẻ thù chung.
Cuối năm 1420, khi Lê Lợi đóng quân tại Mường Nhanh, Nguyễn Chích đã đem toàn bò lực lượng của mình về với Lê Lợi và tự nguyện đặt dưới quyền chỉ huy chung của Lê Lợi. ông được Lê Lợi phong làm Thiết Đột hữu Vệ, Đồng Tổng Đốc Chư Quân và trực tiếp chỉ huy một đạo quân quan trọng của Lam Sơn.
Sau đó chẳng bao lâu, ông được thăng chức Nhập Nội Thiếu úy là một trong những chức võ quan cao cấp nhất lúc bấy giờ. Sự hội nhập của lực lượng Nguyễn Chích với lực lượng của Lê Lợi là một bước tiến quan trọng cua phong trào Lam Sơn nói riêng và của sự nghiệp chống quân Minh đô hộ nói chung.
Đối với Bộ chỉ huy Lam Sơn, thêm Nguyễn Chích không phải chỉ đơn giản là thêm một người giàu nghĩa khí, mà thực là thêm một dũng tướng dày dạn kinh nghiệm trận mạc, thêm một bộ óc chiến lược tài ba. Chính Nguyễn Chích là người đã có công tạo ra bước ngoặt lịch sử cho phong trào Lam Sơn vào cuối năm 1424 .
Tháng 10 năm 1424, Bộ chỉ huy Lam Sơn đã có một cuộc hội nghi quân sự rất quan trọng. Hội nghị đã quyết định chấm dứt thời kì hòa hoãn với quân Minh và chủ động tấn công để từng bước làm thay đổi tương quan thế và lực của đôi bên.
Tại hội nghị này, Nguyễn Chích đã trình bày một ý kiến rất xuất sắc, được Bộ chỉ huy Lam Sơn nhiệt liệt tán thành. Sử gọi đó là chiến lược Nguyễn Chích. Nội dung ý kiến của Nguyễn Chích là : Lam Sơn phải nhanh chóng mở rộng địa bàn hoạt động, phải chiếm cho kì được một vùng đồng bằng rộng lớn mới có thể huy động được sức người và sức của cho cuộc chiến đau lâu dài. Vùng đồng bằng rộng lớn mà Nguyễn Chích đề nghị chính là Nghệ An.
Về mặt lí luận, Nguyễn Chích cho rằng Nghệ An là nơi xa, lực lượng của quân Minh vừa ít lại vừa yếu, khả năng chiến thắng của nghlă quân Lam Sơn rất rõ ràng. Nghệ An là nơi tiếp giáp với Thanh Hóa, rất tiện lợi cho cuộc tấn công của Lam Sơn Lam Sơn.
Về mặt thực tiễn, Nguyễn Chích cũng nói rõ, ông từng có dịp qua lại vùng này, nắm vững đường đi lối lại, và do đó, có thể làm người dẫn đường và làm tướng tiên phong cho Lam Sơn. Trên cơ sở ý kiến của Nguyễn Chích, cuối năm 1424, cuộc tấn công bất ngờ của Lam Sơn vào Nghệ An bắt đầu .
Trong vòng một thời gian rất ngắn, Lam Sơn đã liên tiếp giành được nhiều thắng lợi vang dội. Nguyễn Trãi đã viết về cuộc tấn công này với những lời rất hùng tráng :
“Trận Bồ Đằng : Sấm vang chớp giật,
Trận Trà Lân : Trúc chẻ tro bay”.
Chiếm được Nghệ An, nói theo cách nói của Nguyễn Chích là tìm được đất đứng chân, và từ đất đứng chân đặc biệt này, nghĩa quân Lam Sơn đã liên tiếp làm nên những kì tích:
- Buộc thành Nghệ An phải tồn tại chơ vơ như một óc đảo giữa một vùng giải phóng rộng lớn. Trong lúc đó, Bộ chỉ huy Lam Sơn lại đường đường đóng ngay ở núi Thiên Nhẫn - một vị trí cách thành Nghệ An không xa. Tại đây, Lê Lợi cho xây thành để đặt đại bản doanh. Thành ấy, dân gian thường gọi là thành Lục Niên.
- Mùa thu năm 1425, Lam Sơn tiến quân ra giải phóng vùng dông bằng Diễn Châu. Và, cũng chỉ sau một vài trận giao tranh, Lam Sơn đã hoàn toàn giành được ưu thế. Thành Diễn Châu cũng lâm vào hình trạng bị cò lập, khang khác gì thành Nghệ An.
- Cũng ngay trong mùa thu năm 1425, nghĩa quân lam Sơn đã nhân đà thắng lợi, tiến gấp ra giải phóng đất Thanh Hóa. Giặc phải hốt hoảng co về cò thủ trong thành Tây Đô.
- Đầu mùa đông năm 1425, quân Lam Sơn tấn công vào Tân Bình và Thuận Hóa (bấy giờ, vùng này tương ứng với miền đất từ phía Nam tỉnh Hà Tĩnh vào đến Quảng Ngãi ngày nay).
Từ đây, Lam Sơn thực sự là chủ nhân của một vùng đất giải phóng rộng lớn và liên hoàn từ Thanh Hóa trở vào Nam. Tương quan thế và lực giữa Lam Sơn với quân Minh đã thay đổi một cách thật nhanh chóng. Ở một chừng mực nhất định nào đó, chúng ta cùng có thể nói rằng, những thắng lợi nói trêu đều nảy sinh từ sự đúng đắn của chiến lược Nguyễn Chích.
Và, tất cả những thắng lợi sau đó của phong trào Lam Sơn đều không thể tách rời ảnh hơởng to lớn của chiến lược Nguyễn Chích. Nhiều nhà nghiên cứu đã xếp vị trí và tầm vóc của Nguyễn Chích trong khởi nghĩa Lam Sơn chỉ sau Lê Lợi và Nguyễn Trãi mà thôi.
Từ tháng 10 năm 1424 trở đi, Nguyễn Chích thường luôn được hầu cận bên cạnh Lê Lợi và đóng góp cho Lê Lợi cũng như Bộ chỉ huy Lam Sơn nhiều ý kiến xuất sắc. Vì lẽ này, hầu như ông không trực tiếp cầm quân tham gia các trận đánh nữa.
Tuy nhiên, vai trò của ông cũng không hề vì thế mà trở nên mờ nhạt. ông có mặt thường xuyên trong Bộ chỉ huy Lam Sơn và tham gia quyết định những vấn đề quan trọng, góp phần không nhỏ vào thắng lợi chung của phong trào Lam Sơn .
Khi Lê Lợi lên ngôi, Nguyễn Chích được phong tước Đình Thượng Hầu. Suốt thời Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông và những năm đầu đời Lê Nhân Tông, Nguyễn Chích là tướng cầm quân trấn giữ vùng phía Nam của đất nước ta.
Tháng 12 năm 1448, Nguyễn Chích qua đời vì bệnh, khi đang còn giữ chức Nhập Nội Đô Đốc. Triều đình truy tặng ông là Nhập Nội Tư Không, Bình Chương Sự, đồng thời, ban cho ông tên thụy là Trinh Vũ.
Lưu Nhân Chú (1) người xã An Thuận Thượng, huyện Đại Từ, nay Là xã Vân Yên, huyện Đại Từ, tỉnh Bắc Thái. hiện nay vẫn chưa ai rõ, Lưu Nhân Chú sinh vào năm nào. Lí lịch xuất thân của Lưu Nhân Chú chi được sử cũ ghi chép rất vắn tắt.
Đại để, tuổi trẻ của ông rất nghèo khó. Ông phải buôn bán lặt vặt để kiếm sống (2) . Gia phả nhà họ Lưu cho biết thêm vài chi tiết nữa, theo đó thì họ Lưu đã ba đời nối nhau làm quan ở Thái Nguyên, từng được nhà Trần phong tới tước Hầu. Khi Lê Lợi chuẩn bị dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, Lưu Nhân Chú cùng cha là Lưu Trung đã hăng hái đến hưởng ứng (3) .
Năm 1416, Lưu Nhân Chú là một trong số 19 người tham dự Hội thề Lũng Nhai, là thành viên đầu tiên của Bộ chỉ huy Lam Sơn, chức vụ cụ thể lúc bấy giờ là Phó Chỉ huy vệ kị binh trong đội quân Thiết Đột. Lưu Nhân Chú đã liên tục có nhiều cống hiến lớn cho nghĩa quân Lam Sơn nói riêng và cho sự nghiệp cứu nước ưu dân ở đầu thế kí thứ XV nói chung.
Tên tuổi của ông gắn liền với mấy sự kiện lớn sau đây:
- Tham gia chỉ huy trận Khả Lưu - Bồ Ải (1424)
Tháng 10 năm 1 424, Lam Sơn đã táo bạo đánh vào Nghệ An để ‘tìm đất đứng chân” (4). Cuộc tấn công này đã khiến cho quân Minh lạt bói rối. Tướng giặc là bọn Trần Trí và Phương Chỉnh đã lập tức cho quân đuổi theo.
Chúng dự kiến sẽ bất ngờ đánh vào Trà Lân, tiêu diệt bộ phận quan trọng nhất của lực lượng Lam Sơn tại đây Nhưng, mưu toan đánh bất ngờ của chúng đã sụp đổ, bơi trước đó Lê lợi đã cho các tướng đem quân tới chiếm lĩnh Khả Lưu là “vùng đất hiểm”, nằm án ngữ ngay dọc đường tiến vào Trà Lân.
_______________________
(1) Chữ Chú còn có âm khác là Thụ, cho nên, có nhiều người dọc là Lưu Nhân Thụ. Lại cũng vì ông được ban quốc tính là họ Lê, nên cũng nhiều người đọc họ tên ông là Lê Nhân Thụ.
(2) Đại Việt thông sử (Chư thần truyện). Sách dã dẫn.
(3) Dẫn theo Phan Huy Lê - Phan Đại Doãn: Khởi nghĩa Lam Sơn, Nhân Xuất bản Khoa học Xã hội. Hà Nội 1977. Trang 142.
(4) Về diễn biến chung của cuộc tấn công vào Nghệ An, xin vui lòng tham khảo thêm phần viết về Nguyễn Chích cũng ở trong tập II này.
Lê Lợi và Bộ chỉ huy Lam Sơn đã khôn khéo tổ chức thành công hai trận mai phục liền (1).Trận thứ nhất khiến cho Trần Trí và Phương Chính phải vội vã lui quân, để lại đến “hàng vạn xác chết” (2). Trận thứ hai, Trần Trí và Phương Chính đại bại, phải bỏ chạy về tận Tây Đô Trận này, “Ta chém được nhiều không kể xiết, chiến thuyền của chúng ngổn ngang, xác chết nghẽn cả nước, khí giới vất như núi, như gò.
Trong trận này, ta bắt sống được tướng giặc là Chu Kiệt và giết được tướng giặc là Hoàng Thành, bắt sống được hơn một vạn quân Minh” (3). Chỉ huy quân Lam Sơn trong cả hai trận mai phục này là 11 vị tướng khác nhau. Trong số 11 vị tướng đó, có Lưu Nhân Chú.
Lê Quý Đôn đánh giá về công lao của Lưu Nhân Chú trong trận Khả Lưu- Bồ Ải như sau :
“Năm Giáp Thìn (tức năm 1424 - NKT), trong trận đánh ở Khả Lưu, công hăng hái xông lên phía trước để hãm trận giặc, góp phần thu toàn thắng, tên ông nổi bật lên cả một thời” (4).
- Cùng cầm quân vây hãm thành Tây Đô (1425)
Mùa hè năm 1425, sau khi đã giải phóng vùng đồng bằng Nghệ An, Tân binh và Thuận Hóa, Lam Sơn liền cử một loạt tướng lĩnh cầm quân tiến ra giải phóng vùng đồng bằng Thanh Hóa.
Hai vị tướng đi tên phong trong trận tấn công này là Lê Sát và Đinh Lễ. Hai vị tướng này đem quân đi đánh Diễn Châu và sau khi thắng lớn ở Diễn Châu, họ liền cho quân tiến thẳng ra Thanh Hóa.
Nghe tin này, Lê Lợi và Bộ chủ huy Lam Sơn liền cử tiếp các tướng Lý Triện, Lưu Nhân Chú và Bùi Bị đem 2000 quân tinh nhuệ cùng ba thớt voi, theo đường tắt tiến gấp ra Thanh Hóa để tiếp ứng.
Chỉ trong vòng một thời gian rất ngắn, nghĩa quân Lam Sơn đã giải phóng toàn bộ vùng đồng bằng Thanh Hóa rộng lớn và buộc lực lượng quân Minh ở đây phải rút vào cô thử trong thành Tây Đô. Bấy giờ, chỉ huy quân Minh ở Thanh Hóa là các tướng Đả Trung, La Thông và viên ngụy quan tay sai là Lương Nhữ Hốt.
Thành Tây Đô mà chúng cố thủ là một trong số những thành lớn và kiên cố lúc bấy giờ. Thành có hai lớp. Lớp ngoài gọi là thành ngoài, chu vi 18 km, đắp bằng đất. Lớp trong gọi là thành nội, chu vi khoảng 3 km, xây bằng đá tảng cỡ lớn, rất chắc chắn.
Thành được xây theo lối nội thành ngoại hào (một lớp hào sâu rồi đến một lớp thành cao). Sau khi cùng các tướng nói trên ồ ạt tấn công và giải phóng được vùng đồng bằng Thanh Hóa, Lưu Nhân Chú ngày đêm cho quân vây hãm ráo riết đối với thành Tây Đô.
Cuộc vây hãm này đã buộc thành Tây Đô gần như hoàn toàn bi cô lập và càng ngày càng trở nên khốn quẫn. Những cuộc tập kích liều lĩnh của quân Minh hòng phá thế bị bao vây đều bị Lưu Nhân Chú và các tướng của Lam Sơn đập tan. Nhờ những công lao này, cuối năm 1425, Lưu Nhân Chú được phong tới tước Hầu.
______________________
(1) Xin tham khảo thêm phần viết về Lê Suất, Lê Ngân, Đinh Lễ, Lê Văn An ... trong cùng tập II này.
(2) Lam Sơn thực lục (Quyển 1).
(3) Lam Sơn thực lục (Quyển 1).
(4) Đại Việt thông sử (Chư thần truyện).
- Tung hoành ở khu vực hạ lưu sông Hồng (1426)
Sau khi cầm quân tham gia các trận đánh giải phóng Thanh Hóa và vây hãm thành Tây Đô, Lưu Nhân Chú lại được Lê Lợi và Bộ chỉ huy Lam Sơn tin cậy giao thêm nhiệm vụ mới, đó là : cùng với các tướng như Bùi Bị, Lê Trương và Lê Ninh, chỉ huy một trong số ba đạo quân của Lam Sơn, tấn công ra vùng còn tạm bị quân Minh chiếm đóng để hoạt động và tìm cách uy hiếp thành Đông Quan bằng nhiều biện pháp khác nhau.
Theo kế hoạch ban đầu của Bình Định Vương Lê Lợi thì đây chính là đạo quân thứ hai (1). Đạo quân này lúc đầu chỉ có hơn 2000 quân và một thớt voi, nhưng về sau, Lê Lợi còn phái thêm hơn 2000 quân và một thớt voi nữa, giao cho các tướng Lê Bồi và Lê Vi Canh chỉ huy, gấp rút tiến ra để tiếp ứng. Nhơ vậy, đạo quân thứ hai chính là đạo có lực lượng hùng hậu nhất. Đạo này có hai nhiệm vụ quan trọng.
Một là ráo riết hoạt động ở vùng hạ lưu sông Hồng và tham gia uy hiếp thành Đông Quan như đã nói ở trên. Hai là sẵn sàng chặn đánh bọn giặc rất có thể sẽ bỏ các thành Nghệ An, Diễn Châu và Tây Đô để chạy ra Bắc.
Sự có mặt của Lưu Nhân Chú và các tướng Lam Sơn cùng với hơn 4000 quân sĩ đã khiến cho giấc Minh thực sự bối rối. Chúng ứng phó một cách lúng túng và kém hiệu quả. Đấy chính là cơ hội thuận tiện để đạo quân thứ nhất có thể tổ chức thành công những trận đánh lớn, buộc viên tướng đi cứu viện của giặc là Vương Thông phải rút hết lực lượng về cố thủ trong thành Đông Quan.
Tương quan thế và lực giữa đôi bên thay đổi nhanh chóng theo xu hướng ngày càng có lợi cho Lam Sơn. Nhờ công lao này, tháng 3 năm 1427, Lưu Nhân Chú được phong là Hành Quân Đô Đốc Tổng Quản, Nhập Nội Đại Tư Mã, quản lĩnh cả bốn vệ là Tiền, Hậu, Tả và Hữu. Ba tháng sau, Ông lại được thăng là Tư Không.
Sử cũ chép rằng: “Vua (chỉ Lê Lợi - NKT) dặn ông rằng : Chức tước đã cao thì sớm hôm phải chăm chỉ, không nên trễ nãi, biếng nhác, khiến uổng phí cả công lao. Nói rồi, liền ban cho ông một cái tán” (2).
_________________________
(1) Về các đạo quân của Lam Sơn tấn công ra Bắc, xin tham khảo thêm phần viết về Phạm Văn Xảo cũng ở trong tập II này.
(2) Đại Việt thông sử (Chư thần truyện).
- Tướng lập công xuất sắc trong trận quyết chiến chiến lược Chi Lăng - Xương Giang (1427)
Gần cuối nam 1427, Lê Lợi và Bộ chỉ huy Lam Sơn quyết định đánh trận quyết chiến chiến lược cuối cùng với quân Minh và mục tiêu quan trọng nhất là đạo viện binh hùng hậu do Liễu Thăng cầm đầu tiến vào nước ta qua ngả Chi Lăng (Lạng Sơn).
Tướng Lưu Nhân Chú được lệnh cùng với mời số tướng lĩnh khác, đem một vạn tinh binh và năm thớt voi chiến lên ải Chi Lăng. Tại đây, nhờ khéo kết hợp với lực lượng của Trần Lựu, Lưu Nhân Chú và các tướng đã dồn Liễu Thăng vào ổ mai phục ở núi Mã Yên và giết chết viên chủ tướng hung hăng này cùng với khoảng một vạn quân lính của hắn. Sự kiện này diễn ra vào ngày 10 - 10 - 1427.
Tuy bị tổn thất rất nặng nề, nhưng ỷ có quân số còn rất đông, các tướng cao cấp và dày dạn kinh nghiệm trận mạc của nhà Minh quyết định tiếp tục hành quân và tiếp tục thực hiện kế hoạch đi cứu nguy cho Vương Thông. Viên Phó Tổng Binh, tước Bảo Định Bá là Lương Minh, thay thế cho Liễu Thăng, chỉ huy lực lượng quân Minh còn lại.
Ngày 15-10-1427, ngót 9 vạn quân Minh đã lọt vào ổ mai phục thứ hai của Lam Sơn tại Cần Trạm (Lạng Sơn. Bấy giờ, Lưu Nhân Chú là một trong các tướng chỉ huy trận đánh thứ hai này. Các tướng Nguyễn Lý và Lê Văn An cũng được lệnh đem ba vạn quân lên tiếp ứng. Chỉ trong vòng chưa đầy một ngày, Lam Sơn đã tiêu diệt gần hai vạn quân Minh. Tướng cao cấp nhất của giặc là Lương Minh vừa mới lên nắm quyền đã bị chém đầu .
Sau trận thắng này, Lưu Nhân Chú cùng với các vi tướng lĩnh khác, gấp rút kéo quân về Xương Giang để kịp thời chuẩn bị cho cuộc tập kích mới. Cũng sau trận thua đau ở Cần Trạm, về phía giặc, Đô Đốc là Thôi Tụ cùng Binh Bộ Thượng Thư là Lý Khánh và Công Bộ Thượng Thư là Hoàng Phúc lên nắm quyền chỉ huy.
Chúng vội vã hành quân với hi vọng là đến Xương Giang sẽ bám vào thành mà tính kế sách mới. Nhưng, khi chúng đến nơi thì thành Xương Giang đã bị san bằng trước đó mười ngày. Thôi Tụ buộc phải cho quân hạ trại ở ngay giữa cánh đồng Xương Giang.
Khi đến Xương Giang, bộ chỉ huy cao cấp của giặc chỉ còn có Đô Đốc Thôi Tụ và Công Bộ Thượng Thư Hoàng Phúc mà thôi. Trước đó vào ngày 15-10-1427, Binh Bộ Thượng Thư Lý Khánh, vì hoảng sợ, đã thất cổ tự tử ở Phố Cát (Lạng Sơn).
Lực lượng quản Minh ở Xương Giang lúc bấy giờ chỉ còn khoảng bảy vạn. Chúng bị quân Lam Sơn bao vây khắp cả bốn mặt và liên tiếp gửi thư dụ hàng.
Ngày 3 - 11 - 1427, cuộc tập kích có quy mô lớn chưa từng thấy của Lam Sơn vào Xương Giang bắt đầu. Lưu Nhân Chú có vinh dự được tham gia chi huy cuộc tập kích đó. Minh sử chép rằng :
“Giặc (chỉ quân ta - NKT) cho voi chiến xông bừa vào rồi cùng nhau hô to rằng ai hàng thì sống, ai chống thì chết. Thế trận quân ta (chỉ quân Minh - NKT) rối loạn, bị giết hoặc bị đuổi chạy dài. Toàn quân tan vỡ cả”
Tất cả tướng lĩnh chỉ huy của quân Minh tại đây, từ Đô Đốc Thôi Tụ và Thượng Thư Hoàng Phúc trở xuống, đều bị bắt sống hoặc bị giết. Toàn bộ quân Minh bị giết và bị bắt sống, chỉ một tên duy nhất sống sót và chạy về được Trung Quốc mà thôi (1) .
Thắng lợi của trận quyết chiến chiến lược Chi Lăng - Xương Giang là thắng lợi chung của Bộ chỉ huy và toàn thể nghĩa sĩ Lam Sơn, nhưng trong đó, đóng góp của Lưu Nhân Chú là rất đáng kể. Ông là một trong số không nhiều các tướng của Lam Sơn dã có vinh dự tham gia chỉ huy hầu như tất cá các cuộc tập kích suốt từ Chi Lăng đến Xương Giang và trận nào ông cũng đều lập công xuất sắc.
- Làm con tin giữa sào huyệt giặc (1427)
Sau trận đại thắng ở Chi Lăng - Xương Giang, tư thế của Lam Sơn là tơ thế hiên ngang ở trên đầu thù. Với tư thế đó, Lam Sơn hoàn toàn có thê tiêu diệt toàn bộ lực lượng của Vương Thông đang cố thủ trong thành Đông Quan bằng một trận đánh chớp nhoáng. Nhưng, Lam Sơn đã không làm như vậy.
Trước sau như một, Lê Lợi Nguyễn Trãi và đa số các tướng lĩnh trong Bộ chỉ huy Lam Sơn vẫn kiên trì thực hiện chủ trương “thương lượng”, nhằm buộc quân Minh phải rút khỏi nước ta. Nói theo cách nói của Nguyễn Trãi là :
"Chỉ cần vẹn đất,
cốt sao an ninh” (2).
Để thuyết phục kẻ thù, Lê Lợi và Bộ chỉ huy Lam Sơn đã đồng ý trao đổi con tin với Vương Thông. Giặc cho hai viên tướng khét tiếng của chúng là Sơn Thọ và Mã Kỳ sang đại bản doanh của Lê Lợi để làm con tin. Ngược lại, Lê Lợi cũng cho tướng Lưu Nhân Chú cùng với con trai của Lê Lợi là Tư Tề (lúc này đang ở hàm Đại Tư Đồ) vào Đông Quan để làm con tin .
Vào Đông Quan tức là vào tận sào huyệt nguy hiểm nhất, giáp mặt với những viên tướng tàn bạo và xảo quyệt nhất của kẻ thù. Vào Đông Quan, ngoài dũng khí của một vị tướng trực tiếp cầm quân xông pha trận mạc, điều mới mẻ mà Lưu Nhân Chú phải có là bản lĩnh và năng lực ứng đói với kẻ thù. Lúc này, một sơ suất nhỏ cũng có thể dẫn tới những tác hại khó lường trước được . Và, một lần nữa, Lưu Nhân chú hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Vì những công lao nói trên, năm 1428, Lưu Nhân Chú được phong là Suy Trung Tán Tri, Hiệp Mưu Dương Vũ Công Thần, Nhập Nội Kiểm Hiệu, Bình Chương Quân Quốc Trọng Sự.
Tháng 5 năm 1429, triều Lê dựng biển khắc tên 93 vị khai Quốc Công Thần, tên của Lưu Nhân Chú đứng ở hàng thứ năm. Và, đến năm 1431, ông được phong là Nhập Nội Tư Khấu.
Thời đánh Nam dẹp Bắc, xông pha trận mạc trăm trận có thừa, binh hùng tướng mạnh của giặc chẳng thể làm cho Lưu Nhân Chú ngã gục, nhưng, thời thái bình thịnh trị chỉ vì bị bạn đồng liêu, cũng là người từng vào sinh ra tử với mình là Lê Sát ghen ghét, Lưu Nhân Chú đành phải tức tưởi mà chết.
Sử cũ chép: “Năm thứ sáu (tức năm Thuận Thiên thứ sáu : 1433-NKT) vua Lê Thái Tổ (tức Lê Lợi - NKT) mất, (vua Lê) Thái Tông còn nhỏ, quan Đại Tư Đồ Lê Sát ghen ghét ông, ngầm bỏ thuốc độc để giết hại ông”.
Năm Hồng Đức thứ 15 (tức là năm 1484), vua Lê Thánh Tông truy tặng Lưu Nhân Chú hàm Thái Phó, tước Vinh Quốc Công.
_____________________________
(1) Về kẻ chạy thoát này, Hòang Minh thực lục ghi là Chủ Sự Phan Hậu, nhưng Minh triều bản kỉ sự (Quyển 22) thì ghi là Phan Nguyên Đại. Rất có thế là Phan Hậu và Phan Nguyên Đại cung chỉ là một người mà thôi.
(2) Nguyễn Trãi : Chí Linh sơn Phú.