28.DÂN TỘC THỔ
Tên dân tộc: Thổ (Kẹo, Mọn, Cuối, Họ, Tày Poọng, Ðan Lai, Ly Hà).
Dân số: 68.394 người (năm 1999).
Ðịa bàn cư trú: phía tây tỉnh Nghệ An.
Hái Chè
Phong tục tập quán:
Xưa ở nhà sàn, nay hầu hết là nhà trệt. Sống đoàn kết và gắn bó với nhau. Có tục "ngủ mái": Nam nữ thanh niên được nằm tâm tình với nhau, nhất là vào dịp tết, lễ hội (nhưng phải sử sự đứng đắn bởi dư luận và luật tục rất nghiêm minh). Từ đó mà chọn bạn trăm năm. Muốn cưới vợ cho con, nhà trai khá tốn kém về lễ vật, chàng trai phải năng đến làm việc cho nhà vợ tương lai. Thờ "thần", "ma" và những vị có công khai khẩn đất đai, lập làng hay đánh giặc. Các gia đình đều thờ cúng tổ tiên. Hàng năm, có lễ xuống đồng và lễ ăn cơm mới.
Ngôn ngữ: Ngôn ngữ thuộc nhóm Việt - Mường.
Văn hoá: Xưa có nhiều ca dao, tục ngữ, câu đố, truyện cổ, các điệu ca hát, đồng dao. Vốn văn nghệ dân gian đến nay đã bị thất truyền, mất mát nhiều.
Biểu diễn Khắc luông của dân tộc Thổ
Trang phục: Giống như người Kinh nông thôn nửa thế kỷ về trước, có nơi nữ mặc váy mua của người Thái, đội khăn vuông trắng. Khăn tang là khăn trắng dài.
Nhà cửa
Người Thổ quen sống trên nhà sàn, nhưng nhà của họ không có gì đặc biệt. ở vùng Lâm La nhà sàn của người Thổ giống hệt nhà người Mường... Ơở những xã phía Nam, nhà người Thổ lại giống nhà người Thái. Nay nhiều nơi người ta đã chuyển sang nhà ở đất theo kiểu nhà người Việt.
Kinh tế: Làm rẫy, trồng lúa và gai. Sử dụng cày, bừa để lấp đất sau khi gieo. Cây gai là nguyên liệu quan trọng trong đời sống, kinh tế. Rừng đóng vai trò lớn trong đời sống.
Đan vòng đay, một nghề truyền thống của người Thổ
Lễ hội đền Thi của dân tộc Thổ
Tục tế trâu trong Lễ hội đền Thi làng Trung Thành, xã Yên Lễ phản ánh tín ngưỡng cổ truyền của cộng đồng người Mường - Việt, đã thuần hóa trâu rừng thành trâu nhà phục vụ cho sản xuất của những cư dân trồng lúa nước. Đồng thời đó cũng chính là sắc thái riêng có của người Thổ nơi đây cho tới ngày nay còn rất ít tộc người bảo lưu được.
Rước kiệu Tướng quân Lê Phúc Thành trong lễ hội đền Thi
Đền Thi nằm ở trung tâm làng Trung Thành, xã Yên Lễ, huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hoá, cách thị trấn Yên Cát - lỵ sở huyện Như Xuân 3 km về phía tây bắc. Làng Trung Thành trước đây có tên là làng Sẹt, bởi trước đây vùng này có nhiều cây lim sẹt mọc thành rừng.
Với địa hình do thiên nhiên kiến tạo, làng Trung Thành có núi đồi, suối, đập nước và ruộng thấp. Từ lâu mảnh đất này là nơi tụ cư ổn định của đồng bào Thổ. Đền Thi (tên gọi cánh đồng Thi đặt tên cho đền) được xây dựng trên gò đất cao, có xóm làng và những ruộng nước bao quanh. Có thể coi đền Thi là di tích duy nhất của đồng bào dân tộc Thổ Yên Lễ. Đền Thi được Nhà nước xếp hạng là di tích cấp tỉnh.
Làng Trung Thành, xã Yên Lễ có từ thế kỷ XV. Người có công đầu tiên trong việc lập làng Sẹt là Lê Phúc Thành, ông được dân làng Trung Thành tôn thờ làm thành hoàng. Theo các tài liệu và một số chứng tích, di vật, hiện vật còn lại đến ngày nay lưu giữ tại đền và nhà thờ họ Lê cho biết: Lê Phúc Thành vốn có nguồn gốc ở vùng núi Nưa (Nông Cống - Triệu Sơn ngày nay), ông có công lớn trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Sau khi cuộc khởi nghĩa thắng lợi, ông được phong lộc điền ở làng Sẹt. Lúc đầu dân cư người bản địa ở vùng đất này chỉ ít người sống tản mát và nghèo đói, sau khi được phong lộc điền và giữ trọng trách quan lang của vùng đất này, ông đã tập hợp, chiêu mộ dân binh và những người trong vùng về đây “khai sơn phá thạch” biến rừng cây rậm rạp và đầm lầy hoang vu thành xóm làng trù phú.
Hiện nay, làng Trung Thành có 110 hộ với 438 người, chủ yếu là người Thổ. Cả làng chỉ có một họ duy nhất là họ Lê. Trước đây một số họ như: họ Nguyễn, họ Phạm... người Kinh hoặc người Thái ở các nơi khác đến đều tự nguyện đổi thành họ Lê và tự nhận là tộc người Thổ.
Đền Thi là nơi thờ ông tổ của dòng họ Lê làng Trung Thành. Bởi vậy đền Thi được xem như nhà thờ của tộc người Thổ nơi đây.
Trước kia, đền Thi được xây dựng trên một gò đất, xung quanh là những ruộng nước và xóm làng. Mặt bằng kiến trúc ngôi đền theo kiểu chuôi vồ, bên trong là hậu cung, mặt nền được tôn cao so với sân 50cm, kết cấu vật liệu xây dựng chủ yếu bằng gỗ lim. Ngôi đền hiện nay là một ngôi nhà gỗ 3 gian làm tiền đường và hậu cung, thay cho thưng ván bằng gỗ trước đây nay được xây gạch bao quanh.
Nhân vật được thờ trong đền gồm có: Dương Cảnh Bạch Y thượng đẳng tối linh thần, truyền thuyết địa phương cho là thần nhà trời và Dương Cảnh thành hoàng Lê Phúc Thành, nhưng thờ tướng quân Lê Phúc Thành vẫn được coi là chính. Trải qua các triều đại, triều đình đều có sắc phong cho thần. Hiện còn lưu giữ được hai sắc phong thời Nguyễn do vua Khải Định và Bảo Đại ban vào năm 1922 và 1934.
Ngày giỗ của tướng quân Lê Phúc Thành được tổ chức vào ngày 16 tháng 3 âm lịch hàng năm. Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lễ hội ở làng Trung Thành diễn ra từ ngày 10 đến 16 tháng 3 âm lịch, theo nghi thức tế lễ, hội hè truyền thống. Thông thường, cứ 3 năm tổ chức đại lễ (có tế trâu), còn những năm khác thì tế lễ thường niên.
Theo các cụ già kể lại, trước đây tế lễ ở đền Thi có tế trâu là đặc biệt hơn cả. Thường thì trước lễ hội sáu tháng người tộc trưởng họ Lê phân công cho một số người đi đến các làng trong vùng tìm chọn một con trâu tơ đực (trâu đen hoặc trâu trắng) mua hoặc trao đổi bằng các sản phẩm nông nghiệp. Khi trâu được đưa về, ông tộc trưởng giao cho những thanh niên chưa vợ, có đạo đức, có sức khỏe luân phiên nhau chăn dắt cẩn thận. Thức ăn dành cho trâu ngoài cỏ và lá non còn có cám, mía.
Trước hôm vào đại lễ người ta dắt trâu ra đình, ông Từ cáo với Thành hoàng về việc dâng trâu tế thần linh. Người chủ lễ tay cầm 3 nén hương và một chén rượu vái thần linh xin phép làm lễ tế trâu, sau đó đi vòng quanh con trâu chín vòng rồi hắt rượu và hương vào đầu trâu, gọi là làm lễ tỉnh sinh. Trong khi làm lễ ông chủ tế khấn: “Hỡi trâu! đừng có buồn, lát nữa thôi là trâu về với tổ tiên ông bà, dân làng đã chọn vinh dự này cho mày chứ không phải là con trâu nào cũng được chọn. Trâu về bên kia ngọn núi, về với thần linh, phù hộ cho dân làng khỏe mạnh, mùa màng tốt tươi”.
Trâu hiến tế được trói chân, không được đập mà chỉ được cắt tiết. Tiết trâu được đựng trong ống nứa. Sau khi con vật đã hóa kiếp, dân làng thui trâu và xẻ thịt làm cỗ để dâng cúng thành hoàng...
Sau khi tế thần những đồ lễ vật này được chia cho dân làng thụ hưởng, số thịt và lòng trâu còn lại người ta nấu xáo để mọi người từ nam, phụ, lão, ấu đều được thụ lộc, cùng ăn một bữa ăn cộng cảm giữa chốn đình trung. Đối với những người ở nơi khác đến dự lễ, ngoài việc được thụ lộc họ còn được chia phần để mang về cho người nhà, cho người thân.
Về phần rước: Trước ngày đại lễ, người ở các làng rước kiệu từ làng mình về đình làng Sẹt để làm lễ tế thần. Đi đầu đám rước là đội cờ ngũ sắc với các trai làng ăn mặc trong sắc phục dân binh, tiếp theo là rước 5 kiệu thờ sơn son thiếp vàng do những thanh niên trẻ khỏe đảm nhiệm, tiếp đến là đội bát âm với trống cái, trống con, chiêng, thanh la, nhị, sáo... tấu lên những khúc nhạc hùng tráng làm vang động cả một vùng “sơn thâm cùng cốc”, tiếp đến là các chức dịch, quan viên, dân làng... đi sau đám rước. Kiệu được rước từ đình đến đền rồi ngược lại từ đền đến đình để tế lễ.
Từ ngày mùng 10 đến ngày 16 luôn diễn ra tế lễ tuần tự từ làng này đến làng khác. Cùng với việc tế lễ, trong những ngày này hội hè cũng được mở ra với nhiều trò chơi, trò diễn phong phú và sôi động mang đậm sắc thái văn hóa của tộc người Thổ. Vào các buổi tối trai gái thường tụ tập ở sân đình, ngoài bãi cỏ rộng dưới ánh trăng ngàn, từng tốp, từng tốp trai thanh nữ tú rủ nhau hát giao duyên, giao tình với miếng trầu, một chiếc đàn môi và những lời ca đằm thắm, trong sáng, trữ tình được cất lên:
Nam: Có trầu mà chẳng có vôi
Có em mà chẳng có tôi cũng buồn
Nữ: Trầu đây, thuốc vẫn ở đây
Nhân duyên chưa định trầu này chưa trao
Nam: Gặp nhau ăn miếng trầu này
Ăn rồi ta sẽ tâm bày khúc nhôi
Nữ: Có trầu anh dọc, anh têm
Miếng cau em bửa làm nên vợ chồng...
Cùng với hát giao duyên họ còn đánh trống tăng, hát ru, hát trống chiêng, hát “chậm đò ho” và các điệu múa diễn theo tích truyện “Mụ chầy”, “Làm vía”...
Về trò chơi: Nam nữ chia nhau làm hai nhóm cùng nhau chơi tung còn (tiếng Thổ gọi là tày đủm), dụng cụ gồm có quả còn ngũ sắc làm bằng vải, cây nêu làm bằng tre dựng trên một khoảng đất rộng trên đó có 3 vòng tròn có đường kính to nhỏ khác nhau. Lần lượt hai bên nam nữ cùng thi tài, ai ném được quả cầu qua các vòng tròn nhiều lần ở bên nam và ngược lại ở bên nữ người ném được nhiều, cả hai không ai nói với ai nhưng sau buổi chơi họ đều ưng thuận trao cả trái tim cho nhau để rồi nên chồng nên vợ.
Từ sau những năm 1990, cùng với việc phục dựng lại đền, lễ hội đền Thi cũng được khôi phục, ngoài những nghi thức tế lễ, đồ vật dân cúng, trò chơi, trò diễn cũng được sưu tầm và phục dựng lại, song được giản tiện hơn so với trước đây. Thời gian lễ hội chỉ còn lại hai ngày là vào ngày 15 - 16 tháng 3 âm lịch, phần rước kiệu do không còn đình nên dân làng nay chỉ rước kiệu từ đền đến khu mộ thành hoàng và ngược trở lại. Về phần hội có đưa thêm một số hoạt động mới như: Hội trại các làng văn hóa, hội diễn văn nghệ quần chúng, thi thiếu nữ trong sắc phục dân tộc Thổ và các hoạt động thể dục thể thao.
Lễ hội đền Thi tổ chức hàng năm và đã thành lệ cứ 3 năm một lần đại lễ, đó là dịp để đồng bào dân tộc Thổ tri ân, tưởng nhớ công đức, thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn đối với tướng quân Lê Phúc Thành, người đã có công khai khẩn đất đai, dựng làng, lập ấp mang lại cuộc sống no ấm cho dân làng và qua đó gửi gắm ước mong cầu thần và các vị thần linh phù hộ độ trì, chở che cho dân làng có cuộc sống bình yên, hạnh phúc, dân khang vật thịnh...
Tục tế trâu trong lễ hội đền Thi phản ánh tín ngưỡng cổ truyền của cộng đồng người Mường - Việt, đã thuần hóa trâu rừng thành trâu nhà phục vụ cho sản xuất của những cư dân trồng lúa nước. Tín ngưỡng đó đã được người Thổ làng Trung Thành tiếp thu một cách tự nguyện, đồng thời đó cũng chính là sắc thái riêng có của người Thổ nơi đây cho tới ngày nay còn rất ít tộc người bảo lưu được.
Lễ hội đền Thi làng Trung Thành, xã Yên Lễ là lễ hội đặc sắc và hầu như duy nhất còn lưu giữ được của dân tộc Thổ. Lễ hội hàm chứa nhiều giá trị văn hóa độc đáo này cần phải được tiếp tục nghiên cứu, giải mã, phát huy để không ngừng đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng tâm linh và hưởng thụ văn hóa ngày càng cao không chỉ riêng của đồng bào dân tộc Thổ mà còn là của đại đa số quần chúng nhân dân.
(Sở văn hóa - Thông tin Thanh Hóa)