Maryam Bibi (Sinh năm: 1955 TỰ CỨU MÌNH ĐỂ GIÚP NGƯỜI
Dịch giả: Nguyễn Bích Loan
Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Ở bất cứ đâu trên đất Pakistan, dù ở thành thị hay ở nông thôn, người ta vẫn dễ dàng nhận thấy một xã hội gia trưởng tàn nhẫn, trong đó phụ nữ bị coi như những nô lệ, bị trói buộc trong những cuộc hôn nhân sắp đặt và phải sống cả đời để phục vụ hệ thống xã hội trọng nam khinh nữ của họ. Không một người phụ nữ nào thậm chí cả người phụ nữ có nghề nghiệp ổn định có thể tạo dựng gia đình của riêng mình mà không có "saya" cái bóng hay sự bảo vệ của đàn ông. Một người phụ nữ li dị hay goá chồng nếu không có con trai thì lại phải trở về sống dưới sự điều khiển của cha hoặc anh em trai của mình. Con số thống kê cho thấy tỉ lệ tử vong của phụ nữ Pakistan ở độ tuổi 15 đến 40 cao hơn 73% so với nam giới. Con số này đã nói lên tất cả những thiệt thòi của những người phụ nữ ở một đất nước không chỉ đã quá quen với chiến tranh, xung đột tôn giáo, đói nghèo mà còn chung sống với một hạ tầng giáo dục kém phát triển và những quan niệm tăm tối, ấu trĩ và bất công.
Sinh ra ở vùng biên giới Tây Bắc của Pakistan, một vùng kém phát triển nhất của đất nước, Maryam Bibi lớn lên như những bé gái khác của các bộ lạc vùng núi. Không được bỏ khăn choàng và phải phục tùng đàn ông là những gì người lớn đã dạy Maryam. Bà bị ép kết hôn sớm với một người đàn ông tính khí không bình thường. Bạ bị chồng đối xử rất tàn nhẫn và bị đánh đập rất nhiều lần. Năm mười chín tuổi, sau những trận đòn liên tiếp, Maryam không chịu đựng nổi đã quyết tâm bỏ chồng. Bà may mắn gặp được một nhóm cứu trợ người Đức và với sự giúp đỡ của nhóm này, năm 1993 bà đã thành lập tổ chức Khwendo Kor (Mái nhà của chị em) với mục tiêu giúp phụ nữ tiếp cận với giáo dục bởi bà nhận thức được rằng chỉ có giáo dục mới giúp người phụ nữ thay đổi cuộc sống của mình.
Maryam Bibi bắt đầu thực hiện mục tiêu của bà tại ngôi làng Lakaray ở Peshawar, một vùng kém phát triển nhất của đất nước. Sau đó nhóm của bà mở rộng hoạt động sang các vùng Karak, Dir, Bannu và Malakand. Không ở đâu họ không nhận được sự đồng tình của phụ nữ và không ở đâu họ không phải đối mặt với sự cản trở của đàn ông.
Maryam Bibi và những phụ nữ trong nhóm của bà đã phải đương đầu với sự phản đối cả công khai lẫn sự tấn công ngấm ngầm kho họ đến các ngôi làng, vận động các gia đình cho phép các em gái đến trường. Những người đàn ông không muốn thấy quan điểm cố hữu của họ bị thách thức, không muốn phụ nữ biết chữ và họ tìm mọi cách để ngăn cản công việc của Maryam. Tại một ngôi làng ở Bannu, một giáo sĩ trông thấy Bibi và các tình nguyện viên của bà đã nói với tín đồ của ông ta: "Đừng cho mụ đàn bà kia vào làng. Nếu các người trông thấy mụ nào vào làng thì hãy bắt mụ đó về nhà ép phải làm vợ". Maryam bị chửi rủa, bị đe doạ thậm chí bị hành hung. Năm 2001 văn phòng của bà ở Karak bị đánh bom. Tuy không có ai bị thương trong vụ đánh bom đó nhưng thủ phạm đã không bị truy cứu trách nhiệm. Cách đây không lâu, Bushra một phụ nữ trong nhóm Mái nhà của chị em đến một ngôi làng cách Bannu 43 km về phía tây, thăm một trường dành cho trẻ em gái, đã bị một toán đàn ông có trang bị súng hành hung. Bushra kể lại rằng những kẻ tấn công chĩa súng vào bà hỏi có phải bà là Maryam Bibi không, nếu đúng họ sẽ nổ súng.
Khó khăn, nguy hiểm nhường vậy nhưng Bibi và những người phụ nữ trong nhóm của bà vẫn không chịu đầu hàng. TỪ khi bắt đầu hoạt động, những người phụ nữ kiên cường đầy tâm huyết này đã mở được 43 trường học, dạy chữ cho gần 2000 em gái. Bước chân của Bibi và các đồng sự của bà in dấu trên khắp các ngôi làng từ những ngôi làng của tỉnh biên giới Banne đến những ngôi làng ở Karak và Dir. Càng ngày nhóm của bà càng vận động được nhiều trẻ em gái đến trường và liên tục nhận được các yêu cầu mở thêm lớp học. Biết rằng mình là mục tiêu số một của những kẻ quá khích và biết rằng chính phủ không làm gì để bảo vệ an toàn cho những người hoạt động xã hội như bà, Maryam Bibi vẫn tiếp tục công việc đưa đường tìm chữ của bà. Bà nói: "Cho dù có điều gì xảy ra đi nữa tôi vẫn tiếp tục công việc của mình".
Wangari Maathai (Sinh năm 1940) NGƯỜI ĐÀN BÀ XANH
Dịch giả: Nguyễn Bích Loan
Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Năm 1903, tức là chỉ hai năm sau khi giải Nobel được thành lập, ghi nhận những đóng góp của phụ nữ cho sự tiến bộ của thế giới. Thế nhưng phụ nữ châu Phi đã phải đợi tới 100 năm sau mới được chứng kiến người phụ nữ đầu tiên đại diện cho họ nhận giải thưởng danh giá này. Người phụ nữ đó chính là Wangari Maathai.
Wangari Maathai sinh ngày 1 tháng Tư năm 1940 tại Nyeri, Kenya. Sau khi tốt nghiệp trung học bà may mắn có cơ hội đi du học ở Mĩ và Đức. Năm 1964 bà được nhận bằng cử nhân sinh học của trường đại học Benedictine. Bà học thạc sĩ ở đại học Pittsburgh và sau đó tại đại học Nairobi, bà là người phụ nữ Đông Phi đầu tiên dành học vị tiến sĩ. Năm 1971 trở thành giáo sư của trường đại học Nairobi.
Ở đất nước Kenya, Wangari Maathai được gọi bằng cái tên trìu mến "Người đàn bà xanh". Những người quan tâm đến những hoạt động vì môi trường của thế giới hẳn còn nhớ vào năm 1977 ở Kenya rộ lên một phong trào mang tên "Vành đai xanh". Đây là phong trào phi chính phủ do những người dân đứng ra tổ chức và thực hiện, chủ yếu tập trung vào các hoạt động bảo vệ môi trường và phát triển cộng đồng bền vững. Wangari Maathai là người sáng lập ra phong trào này dưới sự bảo trợ của Hội phụ nữ Kenya. Hưởng ứng phong trào này các phụ nữ nông thôn trên khắp đất nước tích cực tham gia trồng cây xanh, chống chặt phá rừng, ngăn chặn tình trạng xói mòn đất. Từ khi phong trào này được triển khai ở Kenya đã có hơn 30 triệu cây xanh được trồng mới trên khắp đất nước Kenya.
Maathai chủ trương kết hợp hoạt động bảo vệ môi trường với việc phát triển kinh tế cải thiện đời sống phụ nữ trong những vùng thuộc vành đai xanh. Hơn 300 nghìn phụ nữ nông thôn Kenya tham gia phong trào này không chỉ được dự các lớp tập huấn về bảo vệ rừng, bảo vệ tài nguyên môi trường mà còn được tập huấn kiến thức nuôi ong, kiến thức chế biến thức ăn tiết kiệm nhiên liệu, mô hình phát triển kinh tế du lịch. Những kiến thức thực tế đó đã tạo điều kiện cho phụ nữ nông thôn Kenya cải thiện đời sống của họ theo cách bền vững và hợp lí.
Năm 1989 Maathai lãnh đạo những người tham gia phong trào của bà kiên quyết phản đối việc chính quyền Daniel Arap Moi cho xây dựng cao ốc thương mại 60 tầng giữa công viên Uhuru. Kết quả là chính phủ buộc phải huỷ bỏ dự án xây dựng đó. Năm 1991 Maathai cùng các nhà hoạt động môi trường lại cứu được khu cây xanh Jeevanjee Gardens khỏi nguy cơ bị phá bỏ để xây dựng một bãi đỗ xe. Năm 1998 tổ chức của Maathai đã đấu tranh chống lại việc phân chia bất hợp pháp 2000 hecta đất rừng Karura thuộc khu vực dẫn nước sinh hoạt cho ngoại ô Nairobi.
Hoạt động vì môi trường của Wangari Maathai dường như không thể tách rời cuộc đấu tranh vì dân chủ ở nước bà. Dưới thời của tổng thống độc tài Daniel Arap Moi, những hoạt động ấy được coi là nhạy cảm và bà bị xem như cái gai trong mắt nhà cầm quyền. Đã không ít lần Wangari Maathai phải trả giá cho lí tưởng của bà. Bà đã bị bắt vào tù mấy lần và bị đánh đập dã man vì đấu tranh đòi cải cách chính sách bầu cử và chấm dứt nạn tham nhũng. Trong lần bà bị bắt giam vào năm 1991 nhờ chiến dịch viết thư vận động của Tổ chức ân xá quốc tế bà mới được thả tự do. Một năm sau bà bị cảnh sát đánh vì đấu tranh đòi thả những nhà hoạt động môi trường đang bị giam giữ. Năm 1999 trong khi đang tham gia trồng cây ở rừng Karura bà bị đánh trọng thương ở đầu. Phải đến khi tổng thống Daniel Arap Moi chấm dứt 24 năm cầm quyền, những gì Wangari Maathai đã làm mới được chính phủ Kenya nhìn nhận một cách tích cực.
Wangari được nhận giải Nobel hoà bình vì những đóng góp của bà cho sự phát triển bền vững, cho dân chủ và hoà bình. Trong lễ trao giải Nobel năm 2004, đại diện hội đồng trao giải đã phát biểu: "Wangari đã dũng cảm đấu tranh chống lại chế độ áp bức ở Kenya. Hình thức đấu tranh độc đáo của bà đã hướng sự quan tâm tới tình trạng áp bức ở các quốc gia trên thế giới. Bà đã cổ vũ nhiều người dũng cảm đấu tranh vì dân chủ, và vì sự tiến bộ của phụ nữ". Khi được hỏi bà sẽ dùng số tiền thưởng của giải Nobel như thế nào, Wangari nói rằng bà muốn dùng số tiền đó cho các hoạt động bảo vệ môi trường và thúc đẩy văn hoá, bởi bà cho rằng có mối liên quan mật thiết giữa văn hoá và môi trường. Với cương vị thứ trưởng Bộ Tài nguyên và môi trường của Kenya, Wangari Maathai chắc chắn sẽ còn làm được nhiều điều hữu ích hơn nữa cho môi trường và cho sự tiến bộ của phụ nữ Kenya.
J.K. Rowling (Sinh năm 1965) PHÉP THUẬT CỦA J.K ROWLING
Dịch giả: Nguyễn Bích Loan
Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Trong lúc ngồi đợi chuyến tàu từ Manchester đi London, Joanne Rowling, một phụ nữ người Anh, chợt nảy ra ý tưởng viết về một cậu bé phù thuỷ và những cuộc phiêu lưu của cậu ở một trường đào tạo phù thuỷ.
Cô mau chóng bắt tay vào viết. Lúc ây cô đã ly dị chồng, đang thất nghiệp và đang phải nuôi con nhỏ. Cô phải tranh thủ mọi lúc có thể để ngồi vào bàn viết. Cô viết trong lúc con gái cô ngủ, viết ngay tại bàn của một quán cà phê ở Edinburgh, Scotland.
Năm 1995, với chiếc máy chữ cô đã hoàn thành bản thảo đầu tiên mang tên Harry Potter and the Philosopher s Stone (được độc giả Việt Nam biết đến với cái tên Harry Potter và hòn đá phù thuỷ). Một độc giả nhí tên là Bryony Evans được mời đọc ba chương đầu của cuốn sách và tỏ ra vô cùng thích thú khiến nhà sách Christopher Little Literary đồng ý giới thiệu bản thảo tới các nhà xuất bản. Bản thảo được gửi tới mười hai nhà xuất bản và đều bị từ chối. Một năm sau Barry Cunningham, thuộc nhà xuất bản Bloomsbury, một nhà xuất bản nhỏ ở Anh đồng ý xuất bản cuốn sách. Mặc dù cho xuất bản sách nhưng Barry Cunningham khuyên Rowling nên kiếm một việc làm ổn định, bởi ông ta cho rằng cô ít có cơ hội có thể kiếm sống bằng việc viết sách cho thiếu nhi.
Barry Cunningham đã lầm. Vài tháng sau khi được Bloomsbury xuất bản với số lượng phát hành khiêm tốn là 1000 bản, trong đó 500 bản được dành cho các thư viện, cuốn Harry Potter and Philosopher’s Stone đã được trao giải thưởng Nestle Smarties Book, tiếp đến là giải British Book Awards. Năm 1997 khi cuốn sách được xuất bản ở Mĩ với cái tên Harry Potter and Secret Stone lượng phát hành của nó đã lên tới hàng triệu bản. Joanne Rowling với bút danh J.K. Rowling được nhắc đi nhắc lại trong các bảng xếp hạng các tác giả có sách bán chạy nhất thế giới.
Trong hai năm 1998 và 1999 thành công rực rỡ của hai tập Harry Potter and the Chamber of Secrets (Harry Potter và phòng chứa bí mật) và Harry Potter and the prisoner of Azkaban (Harry Potter và tên tù nhân ngục Azkaban) đã khiến J.K. Rowling trở thành người đầu tiên ba lần liên tiếp đoạt giải Smarties. Tháng bảy năm 2000 khi tập ba Harry Potter and the Goblet of Fire(Harry Potter và chiếc cốc lửa) được phát hành nó đã trở thành một lí do ăn mừng của các nhà sách bởi chỉ trong 48 tiếng đồng hồ sau khi phát hành, 3 triệu bản đã được bán hết veo.
Cho tới nay bảy tập Harry Potter đã được xuất bản. Những tập sách này đã được dịch ra 61 thứ tiếng và có mặt ở hơn 200 nước với lượng phát hành hơn 400 triệu bản. Các tập Harry Potter cũng đã được các nhà điện ảnh chuyển thể thành những bộ phim ăn khách.
Dĩ nhiên, không chỉ mang lại danh tiếng, cuốn Harry Potter còn đem đến cho tác giả của nó những khoản thu nhập khổng lồ. Nếu như với lần xuất bản đầu tiên cuốn Harry Potter and the Philosopher’s Stone, J.K. Rowling chỉ nhận được một khoản nhuận bút khiêm tốn là 1500 đô la thì chỉ ít lâu sau, tại cuộc bán đấu giá bản quyền ở Mĩ, hãng Scholastic Inc, đã trả 100 00 đô la để có được bản quyền cuốn sách của cô. Bản quyền của các tập tiếp theo của cuốn Harry Potter đều được mua với giá rất cao. Tạp chí Forbes số tháng Hai năm 2004 ước tính tài sản của Rowling lên tới 1 tỉ đô la. J. K. Rowling là người đầu tiên trên thế giới trở thành tỉ phú nhờ viết sách.
Trong khi văn hoá đọc bị thách thức một cách đáng ngại bởi các phương tiện thông tin giải trí hiện đại và đa dạng, nhờ đâu J. K. Rowling lại thu hút được một lượng độc giả lớn như vậy đến với những tập Harry Potter? Năng lực sáng tạo vượt trội là điều dễ nhận thấy ở một tác phẩm đã trở thành hiện tượng xuất bản. Song, đối với J. K. Rowling ló lễ thành công còn nằm ở khả năng nắm bắt nhanh nhạy và chính xác nhu cầu của thời đại, cụ thể là nhu cầu phát triển tinh thần của trẻ em. Sống trong thế giới công nghệ tiên tiến trẻ em ngày nay gần như có thể nhìn thấy mọi điều các em muốn thấy, từ hình ảnh của sao Thổ đến hình ảnh của những chú khủng long đã tiệt chủng từ hàng triệu năm trước. Trong khi đó các em vẫn luôn có nhu cầu nuôi dưỡng trí tưởng tượng của mình. J.K. Rowling đã đáp ứng nhu cầu đó của các em một cách thông minh và khôn khéo. Đọc Harry Potter, các em được cùng cậu bé phù thuỷ bước vào một thế giới đầy màu sắc lung linh kì ảo với những cuộc phiêu lưu vô cùng hấp dẫn và muốn đi trọn các cuộc phiêu lưu ấy các em phải đóng góp trí tưởng tượng của mình vào. Bất ngờ nối tiếp bất ngờ, trải qua bao nhiêu bất ngờ các em vẫn không thể đoán được bất ngờ nào sẽ đợi mình ở phía trước. Khi nào đọc Harry Potter trong đầu các em reo lên “không thể tưởng tượng nổi” là khi ấy trí tưởng tượng của các em được khuyến khích phát triển. Trí tưởng tượng phát triển sẽ làm cho thế giới tâm hồn của các em thêm phong phú.
Với hơn 400 triệu bản Harry Potter được bán trên khắp thế giới, J.K. Rowling đã mang đến cho các em nhỏ hàng tỉ giờ vui vẻ và bổ ích. Từ khi cô cho ra đời cuốn Harry Potter trẻ em trên thế giới có thêm một điều thú vị để mong chờ. Mỗi khi một tập Harry Potter mới được phát hành sự kiện này đều được thông báo đến toàn thế giới qua các phương tiện thông tin đại chúng. Nhiều em nhỏ háo hức đến không thể ngủ nổi và vào ngày cuốn sách được phát hành, ngay từ tờ mờ sáng, các em đã dắt tay bố mẹ đứng đợi trước các nhà sách để được cầm trong tay tập Harry Potter còn thơm mùi giấy mới, để được mê hoặc bởi phép thuật diệu kỳ của Rowling.
Catherine Phiri (1963-2003) TIẾNG NÓI GIỮA IM LẶNG
Dịch giả: Nguyễn Bích Loan
Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Con số người chết mỗi ngày vì AIDS trên toàn quốc là một trong những thông tin về quốc gia châu Phi Malawi mà bạn dễ dàng tìm kiếm được trên các trang web. Nhưng đó là chuyện của những năm gần đây, còn trước đó vào những năm đầu của thập kỉ 90, nói công khai về AIDS là một điều bị cấm và đối với chính phủ thì căn bệnh này hoàn toàn không tồn tại ở Malawi.
Năm 1990 sau khi căn bệnh AIDS cướp đi người chồng của mình, Catherine Phiri đi xét nghiệm và được biết cô đã nhiễm HIV. Thế là hết, cô nghĩ và để mình rơi vào nỗi tuyệt vọng vô bờ. Bị đồng nghiệp đàm tiếu, cô bỏ công việc y tá mà cô đã gắn bó hơn mười năm và chuyển đến thủ đô Lilongwe với họ hàng như một kẻ lánh nạn. Họ hàng của Phiri biết cô bị HIV không hoan nghênh cô. Cô buộc phải chuyển đến vùng hồ Salima.
Ở Salima có không ít người đồng cảnh ngộ với Phiri và cũng như ở bất cứ đâu trên đất nước, người Salima bọc kín căn bệnh trong sự im lặng. Bởi HIV/AIDS là căn bệnh không có thuốc chữa, nên những nạn nhân của nó cho rằng đó là định mệnh mà họ phải chịu. Họ căng thẳng, sợ bị bêu xấu, và thiếu tự tin. Những nạn nhân của HIV/AIDS càng im lặng, cộng đồng càng dễ bỏ quên họ thì căn bệnh càng có cơ hội lây lan nhanh. Catherine Phiri quyết định phá vỡ sự im lặng chết người đó.
Lúc đầu khi cô nói ra với mọi người rằng cô đang mang trong người virus HIV, cô lập tức cảm thấy mình bị phân biệt đối xử. Nhưng rồi có những người cùng cảnh ngộ tìm đến cô. Cô lập ra một nhóm tư vấn tìm đến những gia đình có người nhiễm bệnh. Cô tham gia những buổi tư vấn ở trung tâm tư vấn MACRO. Những gì cô mang đến cho nạn nhân AIDS không phải là một viễn tưởng căn bệnh sẽ được xoá bỏ bởi một phương thuốc thần tiên, mà là một cái nhìn thực tế nhưng lạc quan với căn bệnh và cách đối phó với căn bệnh phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của dân nghèo. HIV/AIDS không có nghĩa là chết ngay, là chấm dứt tất cả. Những người nhiễm bệnh vẫn còn chặng đường ở phía trước và họ cần dũng cảm đi tiếp chặng đường ấy. Phiri không lãng phí thời gian diễn thuyết nhiều về cái nghèo ngăn cản những người nhiễm AIDS tiếp cận với những loại thuốc giúp họ kéo dài sự sống mà nhấn mạnh vào chế độ ăn hợp lí, chế độ tập luyện đều đặn, tình dục an toàn, và lối suy nghĩ tích cực. Không ai có thể đưa ra sự thật thuyết phục bằng chính người đã trải nghiệm nó, bởi vậy Catherine đã lấy ngay trường hợp bản thân cô làm ví dụ. Sự dũng cảm và nhiệt tình của cô đã lôi kéo được sự chú ý của cộng đồng đặc biệt là những người nhiễm HIV/AIDS.
Năm 1994, Catherine Phiri thành lập Tổ chức giúp đỡ những người nhiễm HIV/AIDS gọi tắt là SASO. Tổ chức này huy động sự giúp đỡ tình nguyện của cộng đồng đối với người nhiễm HIV/AIDS. Chăm sóc người bệnh tại nhà, đỡ đầu những trẻ em mồ côi do cha mẹ chết vì AIDS, cung cấp dịch vụ tư vấn là những chương trình thường xuyên và liên tục của SASO. Tuy nhiên hoạt động nổi bật hơn cả của tổ chức này là chương trình hướng dẫn xét nghiệm tình nguyện VCT. Phiri đặt ra mục tiêu vận động được càng nhiều người đi xét nghiệm càng tốt bởi vì làm như vậy sẽ giúp ngươi dân nâng cao ý thức đối với cuộc sống của chính mình và sức khoẻ của những người xung quanh, đồng thời thức tỉnh cộng đồng và chính phủ về thực tế của căn bệnh ở Malawi. Trong bối cảnh chỉ có các thành phố mới cung cấp các dịch vụ tư vấn và xét nghiệm HIV/AIDS miễn phí thì trong khi đó tại các vùng nông thôn nơi tỉ lệ người nhiễm HIV/AIDS không phải là nhỏ và dịch vụ này lại chưa đến được với người dân, Phiri đã dùng tiền của cá nhân để lập các trung tâm tư vấn và xét nghiệm HIV/AIDS miễn phí ở các vùng nông thôn. Con số người làm xét nghiệm có kết quả dương tính với HIV/AIDS mà SASO công bố tự nó sẽ cất lên tiếng nói cảnh tỉnh cần thiết.
Đưa các chương trình phòng chống HIV/AIDS tới 58000 gia đình, giúp đỡ 1500 trẻ mồ côi, Catherine Phiri đã điều hành SASO đi trước các nhà lãnh đạo quốc gia trong cuộc đấu tranh với căn bệnh thế kỷ mà không chờ đợi sự tài trợ. Cho đến cuối những năm 90, khi con số bệnh nhân HIV/AIDS ở Malawi được ước đoán vào khoảng 800 000 người, và khi hàng chục đại biểu quốc hội nước này đã chết vì AIDS thì chính phủ mới coi phòng chống HIV/AIDS là nhiệm vụ sống còn của cả quốc gia. Muộn còn hơn không, Catherine Phiri vui mừng vì người Malawi đã có nhiều lợi thế hơn trong cuộc chiến chống HIV/AIDS.
Vào tháng Năm năm 2003, ba năm sau khi nhận giải thưởng ghi nhận tinh thần đấu tranh chống căn bệnh thế kỷ từ Quĩ phát triển Liên hiệp quốc UNDP, Catherine Phiri đã qua đời ở tuổi bốn mươi. Một người châu Phi nghe tin Catherien Phiri qua đời đã thốt lên:
“Một cái cây lớn đã đổ và thách thức đặt ra bây giờ là giữ an toàn cho tất cả những gì đã được che chở và phát triển tốt dưới bóng cây này”.
Jerri Nielsen (Sinh năm: 1952) THỬ THÁCH Ở NAM CỰC
Dịch giả: Nguyễn Bích Loan
Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Trước khi quyết định từ bỏ công việc tại một bệnh viện ở Ohio để đến Nam Cực, Jerri Nielsen đã biết rằng Nam Cực là một nơi quanh năm băng phủ, là nơi khô cằn nhất, lạnh giá nhất, và trống vắng nhất trên địa cầu, nhưng chỉ khi đặt chân lên mặt băng ở đó cô mới hiểu thế nào là khô cằn nhất, lạnh giá nhất, và trống vắng nhất. Tuy nhiên cũng giống như khi đến văn phòng của Hội nghiên cứu Nam Cực ở Denver để đăng kí xin tới Nam Cực, Jerri không hề hối tiếc. Cô chỉ không lường hết được thử thách cam go đang chờ cô ở phía trước.
Trạm nghiên cứu nằm giữa một vùng băng trắng xoá với những cái trại dựng bằng các tấm kim loại. Nhiệt độ bên trong các trại không chênh lệch bao nhiêu so với nhiệt độ ngoài trời và ngay cả trong mùa hè nhiệt độ thường là âm 37 độ còn vào mùa đông nhiệt độ thường xuống tới âm 100 độ.
Nhiệm vụ của Jerri là chăm sóc sức khoẻ cho bốn mươi người của trạm. Không có đồng nghiệp để bàn bạc, không có y tá phụ trợ, cô phải tự làm tất cả từ học sử dụng máy X-quang, đến pha chế các loại thuốc. Công việc của cô thường kéo dài từ sáng sớm đến nửa đêm và có ngày cô phải khám và điều trị cho mười lăm lượt bệnh nhân. Có lúc cô không thể tin nổi cô lại có thể giải quyết tất cả những việc ấy, không thể tin nổi cô lại có thể quen và bắt đầu yêu cuộc sống khắc nghiệt đó. Trong thư gửi gia đình cô viết: “Chúng con đến đây để tìm hiểu xem chúng con có thể dựa vào bản thân mình, vào khả năng của chính mình nhiều đến đâu. Chúng con thường xuyên phải đối mặt và thường phải đánh bại những ý nghĩ về ma quỷ, sự nhu nhược, sự ích kỷ,…”.
Không may thay, ít ngày sau khi Jerri tổ chức sinh nhật đầu tiên ở Nam Cực cô phát hiện ra mình có một khối u ở vú bên phải. Trong khi cô phải chịu trách nhiệm về sức khoẻ của bốn mươi người thì cô không thể làm gì khác hơn là đợi xem khối u của mình có tự biến mất hay không.
Hai tháng sau cô phát hiện thấy một khối u khác ở cánh tay và cô biết mình có thể đã bị u ác tính. Rời Nam Cực là cần thiết nhưng lại là điều không thể thực hiện được bởi chuyến bay tiếp tế cuối cùng vừa mới rời đi và cô phải đợi tới bốn hoặc năm tháng nữa cho qua thời kỳ lạnh nhất ở Nam Cực mới có thể hy vọng có chuyến bay tiếp theo. Chờ đợi có thể đồng nghĩa với cái chết.
Cô đến gặp người phụ trách trạm nghiên cứu và ông khuyên cô lập tức liên lạc với tiến sĩ Katz, người chịu trách nhiệm về y tế ở trung tâm Denver. Cô gửi email cho tiến sĩ Katz, đưa ra một câu hỏi mà chính cô phải thừa nhận là khó trả lời: “Ông biết về Nam Cực rồi đấy. Tôi nên ngồi đây đợi thêm năm tháng hay tự mổ cho mình để loại bỏ khối u đi?” Katz và các chuyên gia y tế khác đều nhất trí rằng Jerri phải hút dịch từ khối u ra. Từ xa tiến sĩ Katz hướng dẫn cho cô cách thức tiến hành hút dịch,. Hai ngày sau cô chọn Paul Kindh một người bạn thân của cô ở trạm giúp cô làm việc đó. Cô vừa phải cắn răng chịu đau vừa phải cùng Paul tiến hành thao tác. Sau bốn lần cố đưa kim vào khối u họ không những không lấy được chút dịch nào mà còn làm cho vú của cô sưng tấy. Một dấu hiệu không khả quan.
Ba ngày sau lần hút dịch không thành cô nhận được email của Kathy Miller, chuyên gia điều trị ung thư tại bệnh viện của trường đại học Indiana. Cô viết thư giải thích cho Kathy biết những hạn chế của phương tiện điều trị của cô. Kathy muốn cô tiến hàng sinh thiết tế bào và gửi hình ảnh về trung tâm nghiên cứu ung thư và muốn gửi thuốc làm dừng quá trình sản sinh hoóc môn sinh dục tới cho cô. Nhưng nhiệt độ ở Nam Cực lúc đó là âm 70 độ và với thời tiết lạnh như thế chắc chắn bộ phận hạ cánh của máy bay sẽ không hoạt động được.
Bạn bè cô ở trạm gửi email xin câp trên gửi phương tiện y tế đến giúp cô. Gia đình cô liên tục gửi lời động viên cô. Cô quyết định làm một việc chưa từng có: Thiết lập một đường truyền hình ảnh tới các bác sĩ ở Denver, lấy mô tế bào từ khối u, phóng mô tế bào qua kính hiển vi và gửi hình ảnh về Denver. Thật rủi, hình ảnh được gửi vể Denver không đủ rõ để các bác sĩ có thể đưa ra kết luận về khối u của cô. Những ngày ấy hàng triệu độc giả ở tờ New York Times đã lo lắng cho cô khi đọc bài báo “Mắc kẹt ở Nam Cực, bác sĩ trở thành bệnh nhân”.
Trung tâm Denver đã sẵn sàng gửi một chuyến bay mang phương tiện thuốc men tới cho Jerri từ đầu tháng Bảy, nhưng nhiệt độ ở Nam Cực luôn ở khoảng 56 độ âm trong khi máy bay chỉ có thể hoạt động an toàn ở nhiệt độ ấm hơn 50 độ âm. Ngày 7 tháng Bảy một chiếc máy bay từ căn cứ không quân McChord đã vượt qua Thái Bình Dương đến Nam Cực và thả đồ tiếp tế xuống cho trạm nghiên cứu. Jerri nhận được thuốc cô cần.
Với hoá chất nhuộm do máy bay chuyển tới, những người ở trạm giúp Jerri tiến hành lấy mô tế bào lần thứ hai. Lần này hình ảnh truyền về Denver vẫn chưa đủ rõ và họ phải làm lại lần nữa. Ngày 22 tháng Bảy, Lisa Beal chuyên gia kỹ thuật của trạm thông báo cho Jerri biết những hình ảnh gửi về Denver cho thấy cô bị ung thư vú.
Jerri cảm thấy mình ngừng thở khi biết tin đó.
Jerri bắt đầu dùng hoá chất Taxol với sự hướng dẫn và theo dõi sát sao từ Denver. Bác sĩ Kathy động viên Jerri bằng mọi cách có thể. Bác sĩ kể cho cô biết thành công của hoá trị liệu đối với trường hợp của nhà vô địch đua xe đạp vòng quanh nước Pháp Lance Amstrong. Với sự động viên của Kathy, của bạn bè ở trạm và gia đình, Jerri quyết tâm vượt qua đau đớn.
Điều trị hoá chất khiến Jerri cảm thấy người rất mệt mỏi. Cô bị chóng mặt, bị nổi u ở bàn tay, và bị rụng tóc. Tuy nhiên cho tới lần điều trị hoá chất thứ ba cô vẫn cố gắng đảm đương nhiệm vụ của mình ở trạm.
Mặc dù đã dùng hoá chất được vài tuần nhưng khối u của cô vẫn ngày một phát triển. Cô bắt đầu bị đau lưng, bị ho kéo dài, và có hiện tượng thần kinh không ổn định. Bác sĩ Kathy bảo cô ngừng hoá chất Taxol và chuyển sang một phương pháp dùng hoá chất hỗn hợp.
Đầu tháng Mười, Jerri bắt đầu áp dụng phương pháp trị liệu mới. John, người bạn của cô ở trạm, đã viết cho bác sĩ Kathy như sau: “Tôi viết cho bác sĩ bởi vì cô ấy không dậy được. Cô ấy mệt lắm. Tôi cảm thấy có vẻ như có gì nhầm lẫn thì phải”. Kathy an ủi rằng tác dụng phụ của việc điều trị bằng hoá chất là không thể tránh khỏi.
Một mặt tiếp tục theo dõi và động viên Jerri điều trị bằng hoá chất, mặt khác Kathy thúc giục trung tâm ở Denver đưa Jerri rời khỏi Nam Cực để cô có cơ hội được phẫu thuật cắt bỏ khối u. Vậy là trong khi điều trị hoá chất, Jerri chuẩn bị gói gém hành lý đợi thời tiết cho phép máy bay đến đón cô.
Ngày 16 tháng Mười chiếc máy bay cứu hộ LC-130 đã bay tới Nam Cực. Thời tiết chỉ cho phép máy bay có khoảng ba phút dừng sát mặt băng để Jerri lên khoang. Các bạn của Jerri ở trạm làm hết sức mình để Jerri có thể rời Nam Cực.
Cuối cùng Jerri đã trở về Mĩ và mau chóng được phẫu thuật. Sau cuộc phẫu thuật cô nhận được những tin tuyệt vời: Ung thư không tấn công vào bạch cầu của cô. Tháng Tư năm 2000, Kathy thông báo cho cô biết cô đã chiến thắng căn bệnh ung thư. Jerri vô cùng sung sướng khi biết tin này. Cô muốn làm tất cả để được trở lại Nam Cực.
Sau khi đọc câu chuyện của Jerri trên tạp chí Reader’s Digest, một cô gái mắc bệnh ung thư đã nói: “Tôi cảm thấy mình như vừa được biết một phương pháp trị liệu mới. Tôi sẽ chiến đấu và sẽ chiến thắng như cô ấy”.
Judit Polgar (Sinh năm 1976) NỮ HOÀNG CỦA LÀNG CỜ VUA THẾ GIỚI
Dịch giả: Nguyễn Bích Loan
Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Những ai quan tâm đến lịch sử môn cờ vua có thể nhận thấy rằng từ năm 2003 trở về trước, trong bảng xếp hạng mười kiện tướng cờ vua hàng đầu thế giới không hề có một cái tên của phái yếu. Phải chăng chỉ có nam giới mới có thể đạt vị trí đỉnh cao của môn thể thao trí tuệ này? Không phải như vậy, Judit Polgar một cô gái Hungary đã trả lời một cách thuyết phục bằng những thành tích cực kỳ xuất sắc tại các giải đấu quốc tế.
Judit Polgar sinh ngày 23 tháng Bảy năm 1976 trong một gia đình gốc Do Thái ở Budapest. Cha của Judit, ông László Polgár tin rằng tài năng không phải do bẩm sinh mà do rèn luyện mà có.
Ông tin rằng nếu trẻ em sớm được rèn luyện tập trung vào một môn nào đó thì sẽ đạt được những thành tích xuất sắc ở môn ấy. Theo quan điểm đó, ông đã dạy ba cô con gái của mình chơi cờ vua từ khi các cô còn rất bé.
Cả ba cô con gái nhà Polgar đều là những nữ sát thủ trên bàn cờ, nhưng cô con gái út Judit lại là đấu thủ đáng gờm nhất. Bắt đầu thi quốc tế từ năm 1984, năm 1991 khi Judit mới chỉ mười lăm tuổi bốn tháng cô đã giành danh hiệu Grandmaster- danh hiệu đại kiện tướng. Với danh hiệu này, cô đã phá vỡ kỉ lục nhà vô địch môn cờ vua trẻ nhất thuộc về Robert James Fischer trong suốt ba mươi năm. Năm 1994 Judit tham dự giải vô địch cờ nhanh thế giới do Intel tổ chức. Ở giải đấu này cô là trở ngại lớn đối với những tay cờ đang giành giật danh hiệu vô địch thế giới. Năm 1997 tại giải Grand Master ở Limares, Tây Ban Nha, Judit lần lượt vượt qua sáu vòng đấu, lần lượt đánh bại các nhà vô địch cờ vua đến Bosnia- Herzegovina, Ukraina, và chỉ chấp nhận thất bại ở trận đấu trực tiếp với đại kiện tướng người Nga Kasparov.
Tháng Tư năm 2003, Judit Polgar phá vỡ rào cản về giới và ghi tên mình vào danh sách mười kiện tượng cờ vua xuất sắc nhất thế giới. Cùng năm này cô giành chiến thắng lớn nhất của mình tại giải Corus ở Wijk aan Zee, Hà Lan với thành tích đứng thứ hai trong bảng xếp hạng những kì thủ bất bại và hơn hẳn nhà vô địch thế giới Vladimir Kramnik một điểm. Sau khi nghỉ sinh con, năm 205 cô lại trở lại thi đấu ở các giải Corus, giải cờ vua quốc tế ở Sofia, Bulgaria và đều đạt thành tích đáng nể. Những thành tích này đã đưa cô tới vị trí thứ tám trong bảng xếp hạng các kì thủ xuất sắc nhất thế giới.
Judit Polgar có những trận đấu cân não lịch sử tại những giải đấu quốc tế và trong hầu hết các trận đấu đó cô đều chứng tỏ được bản lĩnh và tài năng xuất chúng của mình. Cô đã từng đánh bại hầu hết những tên tuổi lớn của làng cờ vua thế giới như Predrag Nikolic, Vassily Ivanchuk, Nigel Short, Kasimdzhanov, Angelova, Anand, H. Nowotny, v.v… Đặc biệt năm 2002 và năm 2003, cô đã có ba trận đấu giành thắng lợi sát nút trước Garry Kasparov, người được coi là tay cờ xuất sắc nhất của mọi thời đại.
Judit Polgar luôn muốn cạnh tranh ở những giải đấu dành cho nam giới bởi cô muốn mình là nhà vô địch thật sự. Năm 2005 cô đã trở thành người phụ nữ đầu tiên giành giật chức vô địch cờ vua thế giới với các tay cờ nam. Tuy ở giải đấu này cô không đạt được thành tích mong muốn, nhưng người ta có thể thấy rõ tài năng và khát vọng chiến thắng của cô sẽ đưa cô đi xa hơn nữa tại các giải đấu trong tương lai.
Trương Thụ Cầm (Sinh năm 1949) NGƯỜI ĐÀN BÀ TRONG HOẠN NẠN
Dịch giả: Nguyễn Bích Loan
Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Khi Trương Thụ Cầm đến gặp một vị giám đốc để vận động ông ta quyên góp cho những đứa trẻ bà đang cưu mang, ông ta đã nói: “Nếu tôi có tiền, tôi sẽ cho bất cứ ai chứ không cho những đứa trẻ đó”. Những đứa trẻ mà ông ta nói đến đều là con của những kẻ phạm tội đang phải ở tù. Bố mẹ của những đứa trẻ ấy là những kẻ giết người, những kẻ trộm cướp, những kẻ buôn bán ma tuý v.v… Khi bố mẹ chúng bắt đầu những ngày tháng của họ sau song sắt nhà tù để trả giá cho những hành động phạm tội thì những đứa trẻ ấy cũng bắt đầu cuộc sống bơ vơ với tương lai mù tịt và sự ghẻ lạnh của người đời. Chúng lang thang trên những bãi rác, nhặt được gì ăn nấy, chúng hái trộm những trái cây non, chúng ngồi bệt bên bờ ruộng cắn chắt những con cừu. Chúng đói, Chúng rét. Và chúng tuyệt vọng.
Thái độ của vị giám đốc ấy không làm Trương Thụ Cầm nản lòng bởi vì bà biết đó chỉ là trường hợp hiếm gặp. Từ khi thành lập các làng trẻ bà đã nhận được rất nhiều sự ủng hộ cả về vật chất lẫn tinh thần của các cá nhân, các tổ chức trong và ngoài nước. Trương Thụ Cầm cho biết mỗi năm các làng trẻ của bà nhận được số tiền ủng hộ vào khoảng hơn 48 nghìn đô la cùng nhiều trang thiết bị cần thiết. Có công ty của Mĩ đã tài trợ cho làng trẻ của bà 20 nghìn đô la. Một công ty dược của Thuỵ Sĩ đã tặng làng trẻ các thiết bị tạo nước nóng. Nhà tù Baojing ở Bắc Kinh gửi tặng hai mươi chiếc giường. Và còn rất nhiều những tấm lòng hảo tâm khác mà bà không thể kể hết được. Chưa bao giờ bà nghĩ mình đơn độc trong hành trình đi tìm niềm vui và hạnh phúc cho những đứa trẻ thiếu may mắn của bà.
Ý tưởng tạo mái nhà cho những đứa trẻ có bố mẹ ở tù được nhen nhóm trong Trương Thụ Cầm từ trước năm 1995 khi bà còn làm việc cho một tờ báo của ngành tư pháp Thiểm Tây. Trong thời gian đó bà có dịp tiếp xúc với những tù nhân, thấu hiểu nỗi lo lắng của họ về những đứa con không người chăm sóc. Những đứa trẻ ấy sống ra sao? Tình cảm của người phụ nữ trong bà thôi thúc bà tìm câu trả lời. Câu trả lời khiến bà đau lòng. Không chỉ tận mắt chứng kiến cảnh cơ cực của những mảnh đời bé bỏng mà còn lường trước được viễn cảnh tăm tối của chúng cũng như những hậu quả mà xã hội phải gánh chịu nếu chúng tiếp tục bị bỏ rơi, bị ghẻ lạnh, bị buộc phải vật lộn tìm kế sinh nhai khi mà chúng hoàn toàn vô tội và thực sự chưa đủ khả năng tự lập, bà quyết tâm cưu mang những đứa trẻ ấy. Bắt tay vào thực hiện, Trương Thụ Cầm một mặt lo cơ sở vật chất để thành lập làng trẻ, mặt khác đến các nhà tù gặp các phạm nhân đề nghị họ cho phép bà bảo trợ con họ cho tới khi họ mãn hạn tù.
Từ năm 1996 đến năm 1998 Trương Thụ Cầm đã thành lập được ba làng trẻ ở Thiểm Tây. Năm 2001 được nhà nước hỗ trợ kinh phí bà đã thành lập thêm một làng trẻ ở thủ đô Bắc Kinh. Tính đến nay các làng trẻ của Trương Thụ Cầm đã nhận nuôi dưỡng tới 2000 trẻ em trong đó có những em vào làng trẻ từ khi mới biết đi và có những em đã sống ở đó nhiều năm bởi bố mẹ các em phải lĩnh án chung thân.
Dù khó khăn thế nào Trương Thụ Cầm cũng cố gắng dành tất cả những gì bà có thể để những đứa trẻ có được điều kiện ăn ở và học hành tốt nhất. Con cái của các tù nhân sống trong làng trẻ của bà không những được đến trường như những đứa trẻ của các gia đình bình thường mà còn được tham gia các lớp học ngoại khoá như các lớp học vẽ, học võ, học nghề. Mỗi năm chúng được khám sức khoẻ định kì hai lần. Những đứa trẻ bị tổn thương về tâm lí do chứng kiến những hành động phạm tội của bố mẹ hoặc bị ngược đãi đều được bà gần gũi chăm sóc để dần lấy lại sự vui vẻ và hồn nhiên của trẻ thơ. Các em đủ tuổi lao động đều được bà giúp tìm việc làm để tự lập. Tất cả những đứa trẻ đã và đang được sống trong tình yêu thương và sự chăm sóc của Trương Thụ Cầm đều coi bà như người bà thực sự của mình. Một phụ nữ ở tỉnh Thiểm Tây phải ở tù vị tội tòng phạm giết chồng đã không ngăn nổi dòng lệ xúc động khi lần đầu gặp lại hai con của mình tại trung tâm nuôi dưỡng trẻ của bà Trương. Chị tâm sự rằng thời gian đầu ở trong tù chị không thể sống nổi với ý nghĩ các con chị bơ vơ không người chăm sóc. Chị không thể tưởng tượng các con chị không những được nuôi ăn uống đầy đủ mà còn được giáo dục chu đáo để trưởng thành như thế.
Mỗi năm ở Trung Quốc có khoảng 400 000 trường hợp phạm tội. Trong số những người bị kết án có tới 70% là người có gia đình. Mỗi năm nước này có khoảng 280 000 trẻ em phải gánh chịu những ảnh hưởng do việc bố mẹ chúng ở tù. Bao nhiêu trẻ trong số này sẽ trở thành những đứa trẻ lang thang? Và bao nhiêu trẻ lang thang sẽ bị cuộc đời xô đẩy vào vết xe đổ của những người sinh ra chúng? Con số 2000 trẻ em ở các làng trẻ do Trương Thụ Cầm thành lập chỉ là một chấm nhỏ trong bức tranh toàn cảnh. Nhưng cái chấm nhỏ ấy có sức khơi gợi trách nhiệm và lòng nhân ái của bất cứ con người nào quan tâm đến sự tiến bộ của xã hội.
Julia Hill (Sinh năm: 1974) THẦN HỘ MỆNH CỦA RỪNG
Dịch giả: Nguyễn Bích Loan
Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Tháng Tám năm 1996, Julia Hill, cô gái 22 tuổi ở Arkansas bị một tai nạn ô tô nghiêm trọng. Cô phải nằm trên giường bệnh hơn một năm. Khi có thể đi lại và nói chuyện bình thường cô quyết định sẽ sống một cuộc đời mới thật ý nghĩa.
Trong một chuyến đi tới California, Julia gặp một tình nguyện viên của trung tâm Thông tin bảo vệ môi trường gọi tắt là EPIC. Cô thăm văn phòng của EPIC và bắt đầu quan tâm đến những khu rừng đầu nguồn, những khu rừng đang bị con người tàn phá với tốc độ đáng ngại.
Lần đầu tiên vào khu rừng gỗ đỏ Grizzly Creek, Julia Hill quỳ xuống khóc nức nở. Cô cảm thấy hồn thiêng của khu rừng đang kêu cứu. Cô quyết định trở về Arkansas bán hết mọi thứ có giá trị của mình để lấy tiền quay lại California.
Cô tìm đến trại của Earth First, một nhóm bảo vệ môi trường đã đấu tranh quyết liệt gần mười năm để bảo vệ rừng đầu nguồn. Những tình nguyên viên của Earth First đang bàn chiến lược đấu tranh chống lại việc khai thác gỗ ồ ạt trong khu rừng gỗ đỏ ở Humboldt và khi người lãnh đạo của Earth First nói: “Tôi cần ai dó ở trên cây Luna. Ai có thể ở trên cây Luna?” Ngay lập tức Julia Hill trả lời: “Tôi”. Và thế là một chiến dịch bảo vệ môi trường có một không hai bắt đầu.
Luna là cây gỗ đỏ 1000 tuổi cao gần 60 mét. Năm mươi năm trước cây Luna bị gãy ngọn và từ điểm gãy đó những cành cây mọc lên toả ra các hướng. Chỗ đó được chọn để dựng một cái lều nhỏ cho Julia.
Julia leo lên cây Luna bằng mọt sợi dây thừng. Phải mất 45 phút cô mới tới được chạc cây đầu tiên và từ đó theo các cành cây cô leo thêm 10 mét nữa tới chỗ ở của cô.
Nhóm Earth First dự định để Julia sống trên cây Luna sáu ngày. Sau sáu ngày Julia xuống đất để tắm rửa rồi cô lại tiếp tục một đợt sống trên cây mới. Cuối tháng Mười một trời mưa nhiều, ẩm và lạnh khiến Julia bị ốm buộc phải xuống đất. Trong lúc cô đang cùng các tình nguyện viên khác chuẩn bị các khẩu hiệu cho chiến dịch thì cây Luna bị những người khai thác gỗ xâm phạm. Julia quyết định sẽ bám trụ trên cây để bảo vệ Luna dù có bất cứ điều gì xẩy ra.
Những người đốn gỗ của công ty khai thác gỗ Pacific tìm mọi cách để cô phải từ bỏ chiến dịch. Họ cắt dây thừng, chặt những cây gần Luna, thậm chí dùng rìu bổ gốc cây Luna để uy hiếp tinh thần Julia. Rồi đến lượt những người bảo vệ mặc đồng phục vào cuộc. Ban ngày họ kêu gọi, la mắng, chửi rủa cô. Ban đêm họ thổi còi, rọi đèn pha lên cây không cho cô ngủ. Họ ngăn không cho người của Earth First tiếp tế lương thực cho cô. Họ muốn gây sức ép buộc cô phải xuống đất.
Nhưng Julia không đầu hàng. Từ khi lên sống trên cây Luna, cô đã thấy rõ rừng bị tàn phá đến mức nào. Hàng ngày cô chứng kiến những cây cổ thụ bị đốn gục, nhìn thấy người ta kéo những xúc gỗ xéo nát biết bao nhiêu những cây non. Trong giấc ngủ cô cũng nghe thấy tiếng máy cưa và tiếng rừng rên xiết. Cô không thể bỏ cuộc khi mà sự khai thác mù quáng chưa chấm dứt.
Với chiếc radio và chiếc điện thoại di động sử dụng năng lượng mặt trời, Julia từ trên cây Luna truyền đi những thông điệp bảo vệ môi trường. Cô muốn cho thế giới biết rằng tàn phá môi trường chính là trực tiếp phá hoại cuộc sống của chúng ta. Cô muốn mọi người ý thức được rằng chúng ta đang phải dùng đồng tiền kiếm được bằng mồ hôi nước mắt để mua lại những gì mà thiên nhiên cho không chúng ta; chúng ta gây ô nhiễm nguồn nước rồi phải bỏ tiền ra để xử lý nước có hoá chất độc hại, bỏ tiền ra mua rau sạch v.v… Không còn môi trường tự nhiên xanh sạch, chúng ta không còn gì cả.
Hành động của cô đã thu hút được sự quan tâm của báo giới. Các tờ báo và các hãng thông tấn quan tâm theo dõi và đưa tin về chiến dịch đấu tranh bảo vệ môi trường của cô và những người của tổ chức Earth First. Cô nhận được nhiều lời động viên và thăm hỏi. Người ta hỏi cô về Luna, về rừng. Người ta muốn biến cái lều nơi cô ở trông như thế nào, muốn biết cô xoay sở ra sao ở trên cây cao. Có người hỏi rằng làm thế nào cô có thể ở trên cây lâu như thế mà không tắm rửa. Julia trả lời rằng vấn đề vệ sinh cá nhân là một trong những vấn đề khó khăn nhất mà cô buộc phải quen, nhưng đó chỉ là một cái giá khiêm tốn mà cô phải trả cho những gì cô tin tưởng.
Tháng Mười hai năm 1998, Julia kỉ niệm một năm tròn sống trên cây Luna. Những bức ảnh cho thấy cô vẫn vui tươi thể hiện quyết tâm không gì lay chuyển nổi.
Thế nhưng chiến dịch của Julia phải kéo dài thêm hơn một năm mới đi đến thắng lợi. Mãi đến tháng Mười hai năm 1999, công ty khai thác gỗ Pacific và những nhà bảo vệ môi trường mới đi đến một thoả thuận cuối cùng. Bên công ty khai thác gỗ đồng ý không động đến Luna và tất cả những cây gỗ trong vùng rộng 3 ha. Đổi lại Julia Hill phải xuống khỏi cây Luna. Thêm vào đó số tiền 50 nghìn đô la ủng hộ mà Julia Hill và các nhà hoạt động môi trường nhận được từ khi bắt đầu chiến dịch đấu tranh phải được trao cho công ty Pacific. Ngày 18 tháng Mười hai, Julia Hill rời chỗ ở của cô trên cây Luna.
Để bảo vệ rừng, Julia Hill đã sống trên cây Luna 738 ngày không đặt chân xuống mặt đất.
Marguerite Barankitse (Sinh năm 1955) THIÊN THẦN CỦA BURUNDI
Dịch giả: Nguyễn Bích Loan
Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Bạn bè quốc tế gọi Marguerite Barankitse là thiên thần của Burundi còn Marguerite thì nói: “Tôi là một phụ nữ, một người mẹ, mà nghĩa vụ của một người mẹ là hy sinh cho các con”.
Marguerite Barankitse là một phụ nữ thuộc sắc tộc Tutsi ở Burundi. Là thư kí của toà giám mục Ruyigi bà đã từng có nhiều cơ hội nói về hoà bình, tình đoàn kết giữa người và người. Năm 1993 khi cuộc nội chiến xảy ra ở Burundi giữa người Tutsi và người Hutu bà tận mắt chứng kiến những điều ấy bị thách thức, bị chà đạp, và trở nên xa vời hơn bao giờ hết đối với mọi người dân của đất nước này. Bà đã thấy những người Hutu và những người Tutsi đẩy thù hận giữa họ đi xa đến mức họ có thể giết nhau bằng những cách dã man và tàn bạo nhất. Họ giết nhau bằng lửa, súng, bom, búa, dao găm, dao rựa và bất cứ vật gì có thể kết liễu mạng sống trong nháy mắt. Sự thù hận của sắc tộc này dội vào tất cả mọi thành viên của sắc tộc kia không ngoại trừ trẻ em. Marguerite có bốn đứa con nuôi người Hutu và nhiều lần bà đã phải lấy cả mạng sống của mình ra để bảo vệ sự an toàn cho chúng. Người ta bảo bà đừng nên nuôi những đứa trẻ ấy nữa, nếu không sẽ phải chịu vạ lây nhưng bà vẫn khăng khăng giữ chúng bên cạnh mình. Những người cùng sắc tộc với bà gọi bà là một kẻ phản bội. Một lần họ muốn giết đứa con gái nuôi người Hutu của bà, bà đã nói với họ: “Nếu các người làm thế thì chẳng khác gì làm cái chuyện anh giết em. Chúa trời sẽ không bao giờ tha thứ cho các người đâu”.
Vào một trong những ngày đen tối nhất của cuộc nội chiến, Marguerite đã chứng kiến một cuộc thảm sát đẫm máu kéo dài trong vòng 10 giờ liền. Nhưng người Tutsi tấn công một khu dân cư của người Hutu đốt nhà của họ và dùng búa và dao găm giết chết 72 người trong đó có nhiều trẻ em. Vì là người Tutsi nên bà không bị giết nhưng bà bị đánh đập, bị trói và buộc phải đứng yên nhìn những đứa trẻ bị giết hại dã man. Sau khi những người Tutsi bỏ đi, bà đã gom thi thể của những đứa trẻ xấu số và chôn cất chúng. Kể từ hôm đó, bà quyết định sẽ làm tất cả để cứu mạng sống những đứa trẻ dù đứa trẻ đó thuộc sắc tộc nào.
Marguerite bắt đầu công việc đó vào ngày 25 tháng Mười năm 1993. Bà nhận che chở cho 25 em nhỏ có cha mẹ đã bị giết. Bà giấu những đứa trẻ ấy trong nhà thờ và tìm mọi cách để nuôi sống chúng. Người nhà hỏi bà có mất trí không mà lại đi làm cái công việc nguy hiểm đó, bà hỏi lại họ: “Ai mất trí, kẻ đi giết người hay kẻ tìm cách cứu người?”.
Con số trẻ cần giúp đỡ tăng lên nhanh chóng. Marguerite vận động sự ủng hộ của những người bạn trong nước và nước ngoài hỗ trợ bà để bà có thể mở rộng hoạt động nhân đạo của mình. Tháng Năm năm 1994, giám mục Ruyigi đồng ý cho bà sử dụng một ngôi trường cũ làm trung tâm bảo trợ trẻ em. Họ đặt tên cho trung tâm đó là “Ngôi nhà thân ái”. Kể từ đó ngôi nhà than ái của Marguerite trở thành nơi đón nhận những em nhỏ là nạn nhân của cuộc nội chiến thuộc mọi sắc tộc ở Burundi. Đó là những em có bố mẹ bị giết hoặc bị lạc trên đường theo bố mẹ vượt biên giới sang nước láng giềng Tanzania lánh nạn. Tất cả các em ở mức độ nào đó đều bị tổn thương về thể xác và tinh thần bởi phải trực tiếp hứng chịu bạo lực hoặc chứng kiến bạo lực xảy ra với bố mẹ mình. Điển hình như trường hợp của một bé trai mà Marguerite đã đưa về trung tâm. Bé trai này được tìm thấy khi bé vẫn đang bám chặt lấy thi thể đầy máu của người mẹ trong khi bé cũng đã bị lựu đạn làm mất một phần khuôn mặt. Marguerite đã cố gắng cứu sống bé và tìm cách đưa bé sang Đức phẫu thuật chỉnh hình.
Sau khi tình hình ở Burundi đi vào ổn định, Marguerite vẫn tiếp tục theo đuổi công việc bảo trợ trẻ em thiếu may mắn. Trung tâm ngôi nhà thân ái đã phát triển thành một trong những tổ chức nhân đạo lớn nhất Burundi. Lãnh đạo 120 tình nguyện viên của tổ chức, Marguerite đã bảo trợ cho mười nghìn trẻ em mồ côi trên khắp đất nước. Trong số những trẻ em hiện đang được tổ chức của bà nuôi dưỡng hoàn toàn có 216 em mang virus HIV.
Để mỗi em bé đến với mình đều có cơ hội được quan tâm chăm sóc, được học hành đầy đủ và để cho các trung tâm nuôi dưỡng trẻ em mồ côi không trở nên quá tải, Marguerite luôn phải huy động tất cả những gì bà có và tất cả những gì bà có thể kêu gọi từ cộng đồng. Đến trụ sở của Cao uỷ Liên hợp quốc về người tị nạn ở Gevana bà đã thẳng thắn nói rằng tổ chức của bà đang thiếu tiền. Giúp đỡ những người phụ nữ hồi hương sau nội chiến bà không ngần ngại đề nghị họ chung tay cùng bà chăm sóc những trẻ em mồ côi bởi theo bà những phụ nữ ấy biết cách chia sẻ những may mắn của họ khi mà các con họ vẫn còn có họ trên đời. Khi được nhận số tiền 100 nghìn đô la của giải thưởng Nansen Refugee Award, giải thưởng của Cao uỷ Liên hợp quốc vì người tị nạn, Marguerite đã nói: “Tôi sẽ dùng số tiền này xây dựng một bệnh viện phụ sản ở Ruyigi để những phụ nữ trẻ được trang bị kiến thức và được chăm sóc y tế, để không phải chết trong khi sinh nở. Làm như vậy chúng ta sẽ không còn phải thấy những đứa trẻ sơ sinh mồ côi nữa”.
Nếu những đứa trẻ mồ côi tìm đến với Marguerite chỉ hi vọng được cho ăn uống, cho nơi che mưa che nắng thì Marguerite đã cho chúng tất cả những điều đó. Và còn hơn thế, bà cho chúng không khí gia đình, tình yêu thương của người mẹ. Trên tất cả, bà tạo cho những đứa trẻ thuộc những sắc tộc khác nhau cơ hội sống bên nhau, giúp đỡ chia sẻ với nhau mọi vui buồn để chúng tự học lấy bài học về tình đoàn kết của dân tộc. Đó là sự chuẩn bị cần thiết cho tương lai của các em và cho tương lai của đất nước Burundi.