Còn chi nữa, cánh hoa tàn
Tơ lòng đã dứt dây đàn Tiểu Lân
Nàng Tiểu Lân, tài sắc vẹn toàn, đàn giỏi hát hay , là ái phi của vua Trần Hậu Chủ, đời Nam Bắc triều.
Hai nước Trần, Chu giao tranh. Trần thua. Chu Vũ Đế bắt được Tiểu Lân đem về, gả cho Đại vương Đạt. Đạt thương yêu lắm, nhưng biết Tiểu Lân vẫn một lòng thủy chung với Hậu Chủ, nên không nỡ ép duyên.
Một hôm, Đạt muốn nghe Tiểu Lân đàn; tỳ bà, nửa chừng đứt dây, nàng tiếp lời thơ:
Thiết thừa kim nhật sủng
Do ức tích thơì duyên
Dục tri tâm đoạn tuyệt
Ưng khán tất thượng huyền.
Thánh thượng có lòng thương
Nhưng tình cũ đong đầy
Thiếp tơ lòng đứt đoạn
Như dây đàn đứt ngang
Nói về Tống Ngọc, tình sử Trung Quốc viết: Vuơng Trung là một đại thần của nước Sở. Một lần vua cho lĩnh ấn tiên phong đi dẹp loạn, bị thất trận. Vương Quân bị giáng chức, được bổ làm thiên hộ vệ quân tại Nam Dương. Ái nữ là Vương Kiêù Loan cũng theo cha về nhiệm sở mới.
Kiều Loan là một giai nhân tuyệt sắc đang độ tuổi trăng tròn, bản chất thông minh, lại được cha mẹ cưng chìu, từ nhỏ đã thông làu kinh sử, văn hay chữ tốt. Năm tháng nàng chỉ quẩn quanh chốn khuê phòng. Tài sắc vẹn toàn, lại là con nhà trâm anh thế phiệt, nên khó mà tìm cho được người môn đăng hộ đối. Nàng có một người cô là Tào Di, góa chồng. Mẹ nàng đưa bà vềsống chung với gia đình để sớm hôm bầu bạn với Kiều Loan.
Một hôm, trong tiết thanh minh, hai cô cháu cùng đám thị nữ tản bộ đến hoa viên thưởng ngoạn. Đang mải ngắm hoa xuân, Kiều Loan linh cảm có ai từ bên kia bức tường đang đăm đăm nhìn mình. Chỉ đôi mắt ai đó thôi, Kiều Loan đã thẹn thùng đỏ mặt, đôi chân líu quíu không dời bươc được. Nàng níu lấy áo bà cô, giục đưa về phòng; các thị nữ cũng líu ríu về theo.
Vườn hoa đã vắng bóng giai nhân, nhưng hương thơm còn đọng lại. Đôi mắt, chàng trai lần bước ra, tẩn ngẩn như mất hồn; chợt trông thây chiếc khăn tay của ai còn vướng trên cành hoa, chàng cầm lấy áp vaò môi. Một thị nữ của Kiều Koan quay trở lại tìm chiếc khăn cho chủ. Chàng trai tư giới thiệu tên là Tống Ngọc và biết tên của thị nữ là Minh Hà và dò được quí danh của cô chủ. Tống Ngọc không trả lại khăn, mà chỉ năn nỉ nhờ thị nữ trao lại cho chủ một tấm hoa tiên, bài thơ vừa mới viết:
Phạ xuất quí nhân phận ngoại hương
Thiên công giao phó hữu tình lang
Ân cần ky thủ tương tư cú
Nghi xuất hồng ty xuất động phòng
(Khăn rơi mỹ nữ đượm hơi hương
Tạo hóa khiến xui kẻ vấn vương
Gởi khúc tương tư tình tha thiết
Chỉ hồng buộc chặt mối lương duyên)
Từ tuổi dậy thì vừa chớm, giai nhân chỉ ẩn mình phòng the, chỉ biết vui cùng đèn sách. Nay nhận được lời tỏ tình tuy quá đường đột nhưng chao ôi là tình. Trong lòng như sóng dậy, Kiều Loan không chợp mắt, cuối cùng không nén được rộn ràng, tấm hoa tiên đề thư phúc đáp:
Thiế'p thân nhất điểm ngọc vô hà
Linh thi hầu môn tướng tướng gia
Tinh lý hữu thân đồng đối nguyệt
Nhàn trung vô sự độc khán hoa
Biết ngô chi hứa lại kỳ phương
Thúy trúc nang dung nhập lãi nha
Kỳ dữ dị hương cô lãnh khách
Mặc tướng tâm sự loạn như ma
(Thân em như khôi ngọc trong lành
Khuê các ẩn mình kín cửa quan
Ngày vắng dạo xem hoa dưới mái
Đêm thanh bầu bạn trăng bên mành.
Một mình ngắm hoa nào ai tỏ
Cành ngô phượng vĩ chen màu biếc
Khóm trúc ô môn đượm mảnh tình
Nhắn nhủ phượng xe người lữ khách
Đừng trao tâm sự rối ren lòng.)
Tống Ngọc nhận được thơ từ tay Minh Hà, chàng lại phúc đáp. Từ đó , tỳ nữ Minh Hà là chim xanh, thơ đi tình về cho đôi lứạ Thời gian qua, đến lúc yêu đương đã chín mọng rồi, vậy mà Tống Ngọc vẫn phớt lờ chuyện mai mối, Kiều Loan phải thúc giục. Chàng trai viện cớ này , cớ nọ để trì hoãn. Rồi một chiều, Tống Ngọc lén đến bên tường đông, tỏ ý muốn vào tận sâu khuê phòng. Nàng từ chối; nhưng khi Tống Ngọc tiu nghỉu ra về, thì Kiều Loan lại sai Minh Hà đem đến một tấm hoa tiên:
Ám tương tế ngữ ký anh tài
Thảng hướng nhân tiện mạc loạn khaị
Kim dạ hương khuê xuân bất toả
Nguyệt di hoa ảnh, ngọc nhân lai
(Đôi lời xin ngỏ cùng ai
Nỗi riêng chớ để người ngoài thị phi
Phòng xuân mở rộng đêm nay
Trăng đưa hoa bóng gót lài rẽ sang
Vầng trăng vừa ló đầu núi, Tống Ngọc đã vội vàng nhẹ bước đến tường đông. Tỳ nữ Minh Hà đứng đợi ở cửa phòng. Lúc được đưa vào gặp, Kiều Loan cho mời bà cô Tào Di đến, rồi quay lại nhỏ nhẹ cùng Tống Ngọc:
- Thiếp là người đoan chính, chàng đâu phải là kẻ phàm phu. Chúng ta đã yêu nhau là do tài sắc, đã thành keo sơn gắn bó. Yêu chàng, thiếp đâu còn tiếc lấy thân, nhưng chỉ sợ vườn xuân cánh bướm, biết rồi có giữ được nguyện ưó+c hay không. Vây chúng ta hãy nguyện lời thề thủy chung đầu bạc răng long. Nếu không, chẳng hóa ra vì ham mê muội ái ân mà chúng ta quên nghĩa đá vàng.
Đôi uyên ương nhờ bà cô đứng ra chứng dám lời thề nguyền. Làm chứng xong, bà cô rút êm, để lại phòng the cho gió trăng. Ngoài phòng, Minh Hà ngồi canh cửạ Sáng tinh mơ, Kiều Loan đã đánh thức tình lang dậy, thủ thỉ bên tai chàng:
- Đời con gái, thiếp' đã trao trọn cho chàng rồị Thiếp chỉ mong chàng giữ trọn lời thề, sống chết có nhau đến trọn kiếp.. Từ đây về sau, khi nào có thể gặp nhau được, thiếp sẽ sai bảo Minh Hà đến đón chàng.
Từ đó, đôi trai gái không còn kín đáo trao cho nhau những vần thơ tình ủ ấp' hương , mà chỉ cách khoảng một hai hôm, lại được sự dẫn dắt cuả cô thị nữ Minh Hà, để tìm gặp nhau trong ái ân hoan lạc. Tường đông rộn ràng hoa bướm, nào đâu ngờ càng rộn ràng hơn trong lòng thiếu nữ Minh Hà, đang xuân thì phơi phới, cứ phải lấp ló trộm nhìn cảnh dập dìu gái traị Và, thời gian không lặng lẽ qua đi , trong suốt ba năm, những khoản hở không gặp Kiêù Loan, Tống Ngọc lại lén lút dan díu với Minh Hà. Sau rồi, Kiều Loan cũng hay chuyện, đau đớn không lường, nhưng chuyện đã rồi, đành ngậm đắng, và hối thúc Tống Ngọc phải làm lễ thành hôn với mình.
Từ lâu, Vương Thiên Hộ đã lợm danh Tống Ngọc, chàng trai khôi ngô tuấn tú, văn chuơng uyên bác, nhưng lại chuyên bề trăng gió , đã làm cho biết bao giai nhân bẽ bàng, nên quyết liệt từ chối lơì cầu hôn. Bị từ hôn, vui hay buồn không biết, Tống Ngọc lặng lẽ ra đi, nối tiếp cuộc sống ngắt hoa bẻ cành. Đau thương cho Kiều Loan, vò võ trông ngóng người yêu quay trởlại, rồi đau tình đến chết. Trước khi lìa đời, nàng đã để lại bản Trường hận ca và ba mươi bài thơ tuyệt mệnh.
Nuôi con vẫn ước về sau
Trao tơ phải lứa gieo cầu phải nơi.
Có nhiều điển tích trong việc kén chọn kết duyên, trao thân gởi phận giữa đôi trai gáị Trao tơ là trao sợi chỉ tơ hồng , còn gọi là hồng ti, cho người đính ước.
Tích trao tơ có từ đời Đường. Trương Gia Trinh có năm người con gái sắc nước hương trời đều đang đến tuổi cập kệ Vương tôn công tử gần xa đều ngấp nghé muốn xin, nhưng các chàng trai đều hoa mắt, vì các giai nhân trang sức ăn mặc rất giống nhau, đi đứng nói cười như hệt, ngày đêm quanh quẩn khuê phòng như các hằng nga vờn trong mây.
Có chàng nho sĩ tài danh tên là Quách Nguyễn Chấn thương lui tới gia trang đối ẩm với Gia Trinh. Mến mộ tài năng đức hạnh của chàng nho sĩ, ông già ngỏ ý muốn gả một trong năm cô con gái của mình. Nguyễn Chấn mừng khấp khởi, nhưng cả năm cô gái đều đẹp như tiên giáng trần, trông giống nhau quá thì biết chọn ai đây. Gia Trinh nghĩ ra một kế, cho năm ái nữ ngồi sau một bức mành, mỗi người cầm một sợi tơ màu khác nhau. Duyên số cho màu tơ người nào được chọn. Và Nguyễn Chấn đã chọn sợi tơ màu hồng. Từ đó trao tơ hồng có nghĩa là lời đính ước chuyện trăm năm.
Phương Tây có Casanova, có Don Juan., nhưng đào hoa, đa tình e còn thua xa Tống Ngọc, Tràng Khanh..Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Tràng Khanh. Chỉ một khúc nhạc Phượng Cầu trầm tư để "làm vốn" mà Tràng Khanh đã làm rơi rụng biết bao con tim. Tiếng đàn của Kiều cũng nặng u sầu khúc nhạc này:
Khúc đâu Tư Mã Phượng Cầu
Nghe ra như oán như sầu phải chăng ?.
Trường Khanh, tức Tư mã Tương Như có tiếng đàn tuyệt chiêu, đặc biệt là khi gảy khúc Phượng Cầu, trong lòng thiếu phụ, gái thanh xuân bỗng như sóng trào.
Thời ấy có nàng Trác Văn Quân thuộc hàng quốc sắc thiên hương, con của tri huyện Thiểm Tây Trác Bá Lộc. Nàng được gã cho thư sinh Vương Hàm Tân, đỗ tú tài rồi nhu(ng vẫn tiếp tục việc bút nghiên. Nửa năm hương lửa đang nồng, Hàm Tân bỗng lâm bạo bệnh từ trần. Nửa đời hồng nhan dang dở. Trong suốt thời gian làm tuần , nàng ngồi rũ rượi bên bàn thờ chồng. Bỗng một đêm, văng vẳng từ bên kia sông, tiếng đàn ai theo với lời ca não nùng:
Tình yêu là mối dây oan
Hoa tươi nghĩ lúc hoa tàn tủi thân.
Hoa tàn hoa rụng - Hoa héo đầu cành
Hận ngày xanh - Tủi ngày xanh
Kiếp hoa ngắn ngủi
Mưa gió tan tành
Nguyệt đan mành
Hoa tàn tạ
Cảnh bâng khuâng
Yêu nhau không trọn
Đời bạc như vôi
Tình xưa ai đã phụ rồi
Người xưa như thế thì thôi còn gì
Mối tình si - lệ lâm ly
Thà rằng quen biết nhau chi
Biết nhau như thế ước gì mà mong
Ôi tiếng đàn câu ca như xé tâm can. Trác Văn Quân gọi tỳ nữ Thanh Mai vào thơ phòng , hỏi:
- Tiếng đàn của ai bên sông sao nghe buồn bã quá, lòng ta xao động khôn cùng. Người hãy sang sông tìm thử ai đang réo rắt tiếng tơ trùng này.
Đêm đã khuya, nhưng may con ánh trăng vằng vặc. Thanh Mai vâng lời chủ, gọi đò sang sông. Cô lái đò giải thích cho Thanh Mai:
- Có chàng trai từ phương xa đến đây tên là Tư Mã Tương Như Trường Khanh . Chàng có khúc nhạc mê hồn Phượng Cầu Hoàng, đàn bà con gái không sao cưỡng lại sức quyến rũ, mê mẫn khi nghe khúc nhạc này.
Thanh Mai chỉ hiểu mơ hồ lời giải thích của cô lái đò và tìm đến gần phía trang viên. Bên trong thấp thoáng nhiều bóng hồng đang đùa cợt lả lơi quanh một chàng trai trẻ đẹp. Sửng sờ, cô tỳ nữ bị chôn cứng chân đến gần tảng sáng mới lần bướ ra về, thưa chuyện cho cô chủ:
- Em đã tìm đến trang viên.. Ở đó có vườn hoa đẹp, có chàng trai tên là Trường Khanh, có tiếng đàn làm mê hoặc đàn bà con gái khắp vùng này.
Trác Văn Quân bỗng hở dài, nét hoa thêm phần ủ dột, thảo nào, lòng tạ. Suốt ngày hôm đó, nàng ngồi câm nín bên lan can, vành khăn tang trễ xuống ngang vai, khói hương bàn thờ chồng cũng tắt ngấm. Rồi ngày một ngày hai, tiếng đàn sao im bặt.. Qua đêm thứ ba, Văn Quân không dìm được nỗi lòng, gọi Thanh Mai vào:
- Đa ~ hai đêm ta không nghe được tiếng đàn, trong người khó thở. Người hãy tìm đến chàng, trao thư này cho tạ Thanh Mai ngập ngừng can ngăn:
- Tiểu thư chưa quen biết, sao lại trao thơ cho người tạ Lệnh lang cũng vừa mệnh chung...
Văn Quân như mất hồn, ừ thì thôi vậy, nếu người không trao thư cho ta, thì hãy đưa ta đến tìm gặp người đó . Nói xong. vội vàng Van Quân cởi bỏ tang phục, ăn mặc cực kỳ diêm dúa, kéo xệch Thanh Mai xuống đò, sang ngang. Gần đến trang thanh viên, Văn Quan hối hả bước vộị Nhưng khi đến gần, được Thanh Mai chỉ cho trông thấy dung mạo người trong mộng, Văn Quân bỗng thẹn thùng; con người đàn bà đoan chính, một thoáng chốc ... Nàng run rẩy quay gót chạy trở về. Tràng Khanh cũng biết có nguời đang nhìn trộm mình rồi bỏ chạy, nhưng vướng víu các kiều nữ đang quấn chặt lấy mình, nên không theo đuổi kịp. Sau đó, tuy trễ một chuyến đò, Tràng Khanh cũng tìm đến được bên ngoài phủ quan, biết ngươì thiếu phụ là Trác Văn Quân, góa phụ trẻ đẹp tuyệt tác trần gian. Tràng Khanh nghĩ, ta sẽ có nàng.
Trác Văn Quân về đến thơ phong, vất bỏ xiêm ỵ mặc lại tang phục, đến ngồi lặng yên bên bàn thờ chồng. Nửa đêm về sáng, bỗng tiếng đàn lại vọng lên. Ôi nó réo rắt mời gọị Người góa phụ cố bịt kín lấy đôi tai, nhưng âm thanh lại càng xoáy vào hồn. Nàng dẫy dụa trong dằn vặt nhưng thôi ; ánh trăng mờ dần .. nàng thẩn thờ đứng dậy, lại cởi bỏ tang phục, thay đổi xiêm y sặc sỡ, nhanh bước ra bờsông. Khi đã đưa nàng sang bên kia bờ, cô lái đò hỏi:
- Thưa bà, tiện nữ sẽ đợi đến bao giờ để đưa bà về.
- Không, đừng hoài công chờđợi . Ta đã vào khúc Phượng Cầu, e không có ngày trở lại.
Kim lang ơi hỡi Kim Lang, khóc chi cho xiết sự tình. Ngày mai, tên lái người Mã Giám Sinh sẽ dắt thiếp đi, như dắt trâu ngựa, về Lâm Trị Chàng đang ở Liêu Dương, nơi xa xôi ngàn dặm, có thấu chăng nỗi lòng nàỵ Một mình, một bóng thiếp đang khóc cho tình đôi ta:
Thề hoa chưa ráo chén vàng
Lỗi thề thôi đã phụ chàng với hoạ
Trời Liêu non nước bao xa
Nghĩ đâu rẽ cửa chia nhà từ tôi
Biết bao duyên nợ thề bồi
Kiếp này thôi thế thì thôi còn gì
Tái sinh chưa dứt hương thề,
Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai.
Trong các tranh thủy mạc của Trung Quốc thường vẽ bụi trúc bên cành maị Hai loại cây này, dù trong đông giá vẫn không tàn úạ Đông đi xuân đến, mai lan cúc trúc, 4 muà của trời đất. Chuyện Trúc Mai được chép trong sách Lưỡng ban thư vũ tùy bút:
Huyện Long Môn, tỉnh Quảng Đông có một cái đầm nước rất đẹp.Vào dịp thu sang, lá vàng xào xạc, thân cây trơ trụi, riêng chỉ có hai loài mai và trúc thì lá vẫn xanh tươi. Các gia đình quyền quí, thường đến đó ngoạn cảnh trong tiết thu sang. Trong tình cơ, có hai trai gái quen nhau, rồi yêu nhaụ Đô^i uyên ương đều là con nhà gia phong thế phiệt. Chàng là Lâm Bá Trúc, nàng là Hoàng Kỳ Maị Ngươì xưa, khi nói người con gái có cốt cách cao sang thì được tả là mình hạc xương maị Hai chị em Kiều cũng được cụ Nguyễn chấm phá đôi nét:
Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười
Còn cây trúc được ví với các nho sinh, công tử. Ngày ngày Kỳ Mai, Bá Trúc đều hẹn nhau dạo chơi trên đầm. Những ngày thơ mộng. Nhưng rồi muà thu cũng ra đị Đôi uyên ương trao lời từ biệt. Buổi chiều cuối dạo thuyền trên đầm. Trúc bẻ một cành mai, Mai bẻ nhánh trúc, rồi cùng thành tâm khấn nguyện:
Hai cành trúc mai là đôi chúng tạ Chúng ta ném hai cành cây này xuống nước theo hướng khác nhaụ Nếu là duyên trời định thì giòng nước sẽ đưa đẩy hai cành cây này đến với nhau, thì đó là trúc mai hòa hợp, chúng ta sẽ nên duyên vợ chồng. Xin đất trời chứng giám. Một cơn gió nổi lên, mặt nước đang lặng lờ bỗng gợn sóng. Chỉ một lúc sau, sóng gió đưa đẩy hai cành trúc mai đến gối đầu lên nhau.
Lời nguyện đã linh ứng. Đôi trẻ trở về thưa chuyện với lệnh đường đôi bên. Hai họ cho đó là duyên tiền định, nên hoan hỷ tác hợp cho Trúc Mai thành duyên vợ chồng.
Đời sau, khi nói trúc mai là nói đến tình nghĩa vợ chồng . Kim Kiều chỉ mới thề ước, nhưng đã như phu thê tình nồng. Nay thiếp tròn chữhiếu, biết kiếp nào đền nghì trúc mai, thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây...
Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Tích tựa cửa từ thời Chiến Quốc. Vương Tôn Giả làm quan dưới triều Tề Mân Vương. Tôn Giả mồ côi cha sớm, chỉ còn mẹ già. Gặp cơn chinh chiến, Tề Mân Vương thua trận, bỏ kinh thành mà chạỵ Vương Tôn Giả phò vua, chạy đến nước Tề thì vua tôi lạc mất nhau, nên ông lại quay về quê nhà tìm mẹ
Bà mẹ thấy con về, bèn hỏi:
- Sao con không phò tá chúa công mà lại quay về đây?
Vương Tôn Giảng thưa:
- Thua trận, vua tôi cùng chạy đến nước Vệ thì lạc nhau. Không biết giờ này vua lưu lạc nơi nào.
Bà mẹ nổi giận:
- Mày sớm đi chiều về, ta tựa cửa trông; mày chiều đi mà tối không về thì ta vẫn tựa cửa mà ngóng đợi. Vua trông đợi bề tôi chẳng khác chi mẹ mong con. Mày là phận làm tôi, mà vua lạc đi đâu mất không hay lại bỏ về nhà ư?. Có phải là ta có đứa con bất trung không?
Vương Tôn Giả nghe lời mẹ dạy, không dám bịn rịn tình mầu tử, liền lên đường tìm vuạ Khi biết tin Tề Mân Công đã bị giết, Vương Tôn Giả qui nạp dân chúng lại, tìm giết được kẻ giết vua, báo thù cho Tề Mân Công.
Xem thơ nức nở khen thầm
Giá đành tú khẩu, cẩm tâm khác thường
Tú khẩu, cẩm tâm; miệng thêu, lòng gấm ý nói người có tài văn chương, lời hay ý đẹp. Trong văn học Trung Quốc, bốn người văn chương trác tuyệt được đời xưng danh là "tú khẩu, cẩm tâm" là Hàn Dũ, Liễu Tôn Nguyên, Âu Dương Tu và Tô Tuân.
Hàn Dũ (768 - 824) tự là Thoái Chi, người đơi sau thường gọi là Hàn Xương Lê, quê quán Nam Dương, tỉnh Hồ Nam, mồ côi sớm, học rất giỏị Năm 25 tuổi đỗ tiến sĩ, làm Giám sát Ngự sử, Sử quán Tu soạn rồi Hình bộ Thị Lang. Hàn Dũ là người tôn sùng giáo lý Khổng Mạnh, nhưng vua Đường Hiến Tông lại sùng đạo Phật. Hàn Dũ làm sớ khuyên vua bài xích đạo Phật và đốt xương Phật. Vua giáng chức làm Thứ sử Triều Châu, nhưng rồi sau đó cũng được triệu về kinh phục chức.
Liễu Tôn Nguyên (773 - 819) tự là Tử hậu, quê quán Hà Đông, người cùng thời với Hàn Dũ và cũng chủ trương tôn Khổng Mạnh, bài triết lý Phật. Ông đỗ Tiến sĩ và Bác học Hoằng từ, làm quan đến Giám sát ngự sử. Sau bị tội, nên bị giáng xuống làm Tư mã Vĩnh Châu, rồi Liễu Châu thứ sử.
Âu Dương Tu (1007 - 1072) tự Vĩnh Thúc, quê quán đất Tô Lăng đời Tống, đỗ Tiến sĩ, học rộng, văn tài trác tuyệt, làm quan đến Binh bộ Thượng thư. Tính tình ngay thẳng, nên quan Dương Tu bị nhiều người ghét. Ông thuộc phái "Cựu đảng" của Tư Mã Quang chống "Tân pháp" của Tể tướng Vương An Thạch, nên phải lui về vườn sớm khi chưa tới tuổi hưụ Ông là tác giả bô Tân Ngũ Đại Sử và biên soạn chung với Tống Kỳ bộ Tân Đường thi.
Tô Tuân (1009 - 1066) tự Minh Doãn, quê ở My Sơn
đời Tống. Tô Tuân không xuất thân khoa bảng nhưng ông lại là một danh sĩ. Năm 27 tuổi ông mới bắt đầu học, năm 37 tuổi có đi thi một lần, không đỗ. Buồn, đi ngao du đây đó mấy năm mới chịu quay về nhà và từ đó không thi cử gì nữa. Ông là thân phụ của Tô Thức (Tô Đông Pha) và Tô Triệt. Năm 1059, ông được triều đình đặc cách chức Hiệu Thư lang, chuyên chép chuyện các đời vua nhà Tống, nhưng chỉ được khen chứ không chê. Ông tỏ ra không thích công việc này, nên được đổi làm Chủ Bạ huyện Văn An. Ở đó ông soạn bộ Thái thường nhân cách lễ, gồm một trăm quyển. Sách vừa soạn xong thì ông qua đời.