[center:f90f575c2f]36. Dụng Ý Bất Dụng Lực Là Gì ? "Ý" Là Gì ? "Lực" Là Gì ? Ý Nghĩa Và Tác Pháp Của Dụng Ý Bất Dụng Lực Ra Sao ?[/center:f90f575c2f]
Khi Luyện TCQ , không nên gây căng thẳng ở cơ nhục, mà tinh thần phải hết sức chủ ý , như thế gọi là 'Dụng ý bất dụng lực" .
"Ý" là cái gì ? Theo nghĩa chữ mà nói thì ý hàm ngụ cái nghĩa ý niệm , ý thức , tâm ý , tuy gần gủi với quan niệm ý của TCQ nhưng không lột tả được hết . Cái gọi là "ý" trong TCQ chỉ là tác dụng của tinh thần . Nói cụ thể hơn , trong quá trình luyện tập TCQ , tiểu não và trung khu vận động của đại não bì tằng (hai bộ phận này có liên hệ mật thiết tới sự hoạt động của thân thể) , đối với các hoạt động của các bộ phận trong thân thể , tăng gia sự khống chế một cách có ý thức , như vậy TCQ gọi là dụng "ý" .
"Lực" là cái gì ? Sức lực của thân thể phát sinh từ sự co thắt của cơ , gân , sụn . Người có bắp thịt nở nang , thì sức lực nggười ấy tương đối nhiều ; những người lao động chân tay , những vận động viên , tương đối có sức khõe hơn người bình thường (sự co thắt của bắp thịt cũng chịu sự chi phối của hệ thống thần kinh mới tạo lực được) .
Thế thì tạo sao TCQ lại yêu cầu phát rtiển tác dụng của ý mà không phát triêẻn lực ? Ðó là bởi vì :
1. Ðộng tác của TCQ phải khinh linh , rất kỵ dùng chuyết kình ( kình lực vụng về ) làm cho cơ nhục căng thẳng . Ðể ngừa sự căng thẳng của cơ nhục nên phải dụng ý .
2. Vận động thân thể cốt để xúc tiến sự tuần hoàn của máu , nếu làm cơ nhục quá căng thẳng thì chướng ngại sự tuần hoàn của máu , cho nên khi dụng lực đến mức quá đáng dễ sinh ra hiện tượng ứ huyết , trong khi đó động tác TCQ thì nhu hòa hoãn mạn , lại phối hợp với nguyên tắc dụng ý bất dụng lực nên không hề sinh ra các bệnh kể trên .
3. Kết quả của sự dụng ý là tác dụng cải tiến cơ năng hệ thần kinh . Vì sự phức tạp của các động tác của TCQ nên đại não bị đặt trong tình trạng căng thẳng để hoàn thành các động tác đó , tức là gián tiếp gây tác dụng huấn luyện hệ thống trung khu thần kinh , kích thích sự hoạt động có tính cách cơ năng của các khí quan và hệ thống ; nếu kiên trì luyện tập lâu năm , sẽ có thể dần dần làm cho cốt cách cứng cỏi , cơ nhục mềm mại , cảm giác linh mẩn ; sự xử dụng kình lực sẽ tùy ý chí mà di chuyển , năng thâu năng phóng , năng tùng tâm sở dục , và khi chiến đấu hễ mới chạm là đã phát . Ðây là ý nghĩa của sự dụng ý bất dụng lực .
Ðể đạt được yêu cầu dùng ý bất dụng lực , cần chú ý vài điểm sau :
1. Khi luyện tập TCQ , không được dụng lực ở bất kỳ những động tác nào ; những động tác phải viên hoạt tung nhuyễn ; khi dùng quyền thì không nắm chặc quyền , khi đã quyền không được dùng mãnh kình ; khi dụng cước cũng từ từ nhè nhẹ treo chân và từ từ đá ra , không dùng sức không cầu thắng , chỉ cầu tinh thần quán chú vào lòng bàn chân , tức là đặt ý tại đó .
2. Ý tùy theo động tác mà di động . Sự di động của ý có liên hệ mật thiết tới sự tuần hoàn của máu . Như ở động tác Ðơn tiên , ý từ tay phải thông qua lưng mà qua tay trái , tức là đem máu ở tay phải trở về tim , đồng thời , một phần máu do động mạch thông qua vai , chỏ , cổ tay mà đến bàn tay trái , và lúc tay trái duỗi ra ắt có cảm giác các đầu ngón tay trương ra , nở ra , chính là máu chảy đến . Trong TCQ sự đáo đạt (sự đến nơi) của ý ở bất kỳ động tác nào cũng thế cả .
3. Lúc luyện tập thôi thủ , cũng cần phát huy tác dụng của ý , bởi vì sự dụng ý có được thỏa đáng hay không có quan hệ mật thiết với sự đắc thắng hay không .
[center:00a346f8f2]37. Thế Nào Là Thượng Hạ Tương Tùy ? Ý Nghĩa Và Tác Pháp Của Nó Ra Sao ?[/center:00a346f8f2]
Khi luyện tập TCQ , bất luận làm động tác nào cũng phải làm cho sự vận chuyển của các bộ phận thân thể cùng với thượng , hạ chi ăn khớp , phối hợp với nhau . Sự vận chuyển ăn khớp này gọi là thượng hạ tương tùy .
Trong quyển Thái Cực Quyền Luận có nói : " Kỳ căn tại cước , phát ư thối , chủ tể tự yêu , hình ư thủ chỉ , do cước nhi thối nhi yêu tổng tu hoàn chỉnh nhất khí " ; câu này muốn nói rằng khi luyện tập , chân như là rể của cây cối , có thể làm cho thân vững vàng , mà tính vững vàng này lại do đùi phát xuất , rót đến tận dưới gót chân ; còn eo là chủ tể của thân , vì nó là cái trục quay trung ương , kình lực phát ra do eo đi xuống dưới thì qua đùi mà đến bàn chân , đi lên trên thì qua vai và cánh tay mà rót đến ngón tay . Do đó trong bất cứ động tác nào , đều phải làm cho toàn thân là một khí hoàn chỉnh , mới là thượng hạ tương tùy .
Thượng hạ tương tùy có ý nghĩa gì ? Theo Thái Cực Quyền luận : "...Hướng tiền thối hậu , nãi nâng đắc cơ đắc thế , hữu bất đắc cơ đắc thế , thân tiện tán loạn ..." Ý muốn nói : Thượng hạ tương tùy giúp cho sự tiến thối được cơ được thế , thân pháp mới không tán loạn . Do đó có thể phân tích trên hai mặt :
1. Trên mặt vận động :
Mỗi động tác TCQ đều là hoạt động của toàn thân , đều là hoạt động toàn diện , cả trong lẩn ngoài , cả trên lẩn dưới , do đó chúng ta thấy ngay rằng thương hạ tương tùy trên phương diện sinh lý vận động cốt là làm cho thân thể vận động toàn diện .
2. Trên mặt Kỹ kích : (Sử dụng trong chiến đấu)
Có thượng hạ tương tùy mới chiếm được thế cơ , thân pháp hoàn chỉnh nhất khí nên tiến thoái mới thuận lợi , thôi thủ mới chiếm phần thắng . Nếu như thân pháp tán loạn , chân tay không thể hợp tác , khí như áo rách tả tơi , sẽ bị người ta chế ngự .
Ðể thực hiện được thượng hạ tương tùy , nên chú ý mấy điểm sau đây :
1. Khi luyện tập TCQ , bất luận đối với động tác nào , đều phải làm cho tay chân nhất trí với nhau , không được chia ra trước hay sau . Thông thường là ta hay mắc phải lổi là chân tới trước rồi tay mới tới sau , tức là mại bộ thì nhanh còn thủ thế thì chậm ; thứ đến là các động tác khuất thối tọa yêu ( rùn chân buông eo ) cũng không di chuyển một lượt với thân . Sửa thế nào đây ? TCQ Luận có nói : " Hữu bất đắc cơ đắc thế xứ , thân tiện tán loạn , kỹ bệnh tất ư yêu thối cầu chi " , tức là các bệnh (lổi) này đều do eo và chân gây ra cả , cho nên nếu muốn khắc phục thì nhắm ngay vào eo và chân . Phải thường chú ý luôn mới mong giử được thượng hạ tương tùy . Như ở động tác Ðảo niên hầu , lúc tay phải co rút thu về thì chân phải cũng lui về , lúc chân trái lui ra sau thì đồng thời tay trái cũng rút về sau , mới là thượng hạ tương tùy ; đồng thời lấy eo làm trục thì chuyển động mới linh hoạt .
2. Trong lúc tập thôi thủ , có thể phát triển thêm một bước cái ưu đìểm của thương hạ tương tùy , như lúc hai người đang hoạt bộ thôi thủ , thủ pháp và bộ pháp phải nhất trí , tiến thì tê , thối thì lý ; không được chậm trể mảy may ; nếu trái lại ắt phải bị khống chế .
[center:05452e1a4a]38. Thế Nào Gọi Là Nội Ngoại Tương Hợp ?Ý Nghĩa Và Tác Pháp Cụ Thể ?[/center:05452e1a4a]
" Nội " là tinh thần , mà tinh thần là cái gì vô hình , sự lành mạnh hay không của tinh thần là do thân thể biểu hiện , mà mỗi động tác của thân thể được hình thành dưới sự chi phối của hệ thống thần kinh - tức là vỏ đại não . Khi não ở trạng thái hưng phấn thì tinh thần sung túc sãng khoái ; khi não bị ức chế thì tinh thần ủy mị . Yêu cầu nội ngoại tương hợp của TCQ có quan hệ mật thiết với trạng thái của vỏ đại não là như vậy .
" Ngoại " là tứ chi bách hải của thân thể . Bất luận sự hoạt động toàn bộ hoặc cục bộ của thân thể , dù là hoạt động vi tiểu đến đâu , cũng phải chịu sự chi phối của thần kinh mới hoàn thành được , cho nên trong các tình huống thông thường , hoạt động nhục thể và tác dụng của thần kinh là không thể phân ly .
Ðã như thế thì tại sao khi luyện tập TCQ còn đòi hỏi nội ngoại phải tương hợp ? Xin thưa sự đòi hỏi này chỉ là sự nhấn mạnh có tính cách cưỡng điệu hóa cái tác dụng chủ đạo của vỏ đại não , chiếm địa vị chủ soái trong lúc vận động , và sai khiến sự hoạt động của toàn thân . Vậy chúng ta có thể định nghĩa nội ngoại tương hợp như sau : Sự dung hợp của tác dụng tinh thần và vận động nhục thể . Vận động của TCQ có hiệu quả tốt , có hiệu năng y liệu là do tác dụng trọng yếu của tương hợp nội ngoại vậy .
Muốn làm được nội ngoại tương hợp , thì trước khi khai thức cần làm cho tinh thần trầm tĩnh xuống , sau khai thức thì nội liễm tinh thần , tập trung tư tưởng , trong mỗi một động tác hành khí làm sao , dụng ý ở đâu đều phải được phối hợp một cách nghiêm mật .
[center:90b9f9aa3d]39. Thế Nào Là Tương Liên Bất Ðoạn ? Ý Nghĩa Và Tác Pháp Cụ Thể ?[/center:90b9f9aa3d]
Gọi là " Tương liên bất đoạn " khi sự dụng ý và vận kình từ chiêu thức này sang chiêu thức nọ đều liên tục không gián đoạn (có khi kình đoạn nhưng ý không đoạn) .
Sự vận động của TCQ là sự vận động mà từ khai thức tới thâu thức , thức này nối thức kia , đều liên tục bất đoạn , đồng thời với sự liên tục của khí .Các loại vận động bất đoạn liên hoán này có thể xúc tiến sự phát triển ở cơ năng của các khí quan trong thân thể . Tỷ như bộ máy tiêu hóa của chúng ta không được tốt , thì sau một thời gian luyện tập TCQ , cơ năng tiêu hóa tốt lại , chúng ta trở nên thích ăn uống nhiều hơn , cho nên động tác của TCQ , tuy nhu hoà hoãn mạn , nhưng được thực hiện liên tục và bền bĩ , sẽ nâng cao tình trạng sức khõe .
Sự dụng ý ở TCQ tùy thuộc vào sự biến hóa của động tác . Phàm ý vận hành ở bộ phận nào trong cơ thể thì khí huyết đến nơi đó . Ý có thể đi khắp toàn thân nên khí huyết cũng chu lưu khắp cơ thể . Nếu trong người có chổ nào bị bệnh (như viêm các quan tiết , thần kinh suy nhược , v.v...) thì do ảnh hưởng của sự vận hành khí huyết trong cơ thể , sau một thời gian nào đó các bộ phận ấy sẽ lành mạnh trở lại .
Về mặt chiến đấu , nguyên tắc tương liên bất đoạn có giá trị nhất định của nó . Như trong lúc thôi thủ , do sự dụng ý và vận kình một cách tương liên bất đoạn , mới có thể phòng thủ nghiêm mật , không để hở chổ nào cho địch thủ có thể tấn công .
Phương pháp để đạt tương liên bất đoạn như sau :
1. Bình thường khi đi quyền không nên gây gián đoạn . Những người mới học nên chia thành những động tác đơn để tập luyện thì mới nắm được động tác . Ðiều quan trọng là khi hiểu được dộng tác rồi phải biết diễn luyện liên tục từ thức này sang thức khác , không một lúc nào ngưng nghỉ .
2. Khi thực hiện các động tác , cái gọi là kình có thể gián đoạn nhưng ý thì không được gián đoạn . Ý bất đoạn chính là tinh thần thủy chung quán chủ , không một sát-na nào không quán chủ . Chổ nào ý cần phải đến , phải thực sự đưa ý đến hẳn hoi . Muốn nắm được điểm tâm lý này cần phải để tâm nghiên cứu .
[center:db08ea6fbc]40. Thế Nào Là Ðộng Trung Cầu Tĩnh ? Ý Nghĩa Và Tác Pháp ?[/center:db08ea6fbc]
Ðộng trung cầu tĩnh trong TCQ là trong cái động của các động tác từ hoãn ( chậm chạp mềm mại) , tâm thần một mực bình ổn , điềm tĩnh . Ðó là giử cái trầm tĩnh trong cái hoạt động vậy .
" Ðộng " hàm ngụ các ý niệm vận động ... có cái động bên ngoài của cơ thể là cái động tay chân . Có cái động bên trong như hô hấp , máu tuần hoàn , tế bào sinh hóa (hiện tượng tân trần đại tạ) . Ý niệm "động" ở TCQ bao hàm hai phương diện ấy .
" Tĩnh " hàm ngụ các ý nghĩa an tĩnh , bình ổn . Thực ra trong vũ trụ không có sự vật nào tuyệt đối ở trong trạng thái tĩnh chỉ , từ cái nhỏ như nguyên tử , phân tử , đến cái lớn như địa cầu , hệ thái dương đều ở trạng thái động hằng cửu . Người ta là một thể hửu cơ hoạt dộng , dù trong lúc ngủ , các hiện tượng sinh lý vẫn liên tục xảy ra . Cho nên , cái tĩnh trong TCQ là tương đối , là cái tĩnh ở một trình độ nhất định nào đó .
Theo mặt sinh lý mà nói , động tác hoãn mạn nhu hòa làm cho sự hô hấp của phổi sâu và dài , làm cho nhịp tim đập chậm mà có sức , làm cho khí huyết đi khắp mọi nơi và đi đến nơi đến chốn . Vận động như vậy sau một thời gian dài , cơ năng các khí quan sẽ tiến triển . tức là thể chất và thể lực tăng triển . Nói một cách cụ thể nếu học viên nào ủ rũ vì thần kinh suy nhược hay tinh thần lờ đờ lúc ban ngày , mất ngủ lúc ban đêm , nếu trải qua một thời gian luyện tập TCQ nào đó , thì tinh thần có thể chuyển biến tốt hơn và ba tháng sau không còn bị mất ngủ nữa . Do nguyên nhân nào vậy ? Bởi vì TCQ tự nó là một phương pháp vận động có tính cách nghỉ ngơi tích cực . Sự đòi hỏi tĩnh khiến cho những ai lo lắng buồn rầu phải xua đuổi tạp niệm , làm cho đại não có cơ hội nghĩ ngơi nhiều hơn , tức là làm cho thần kinh não chuyển biến từ suy nhược đến mạnh khõe .
Trên phương diện tâm lý , làm thế nào giử cho " tĩnh " ?
Ðây là sự trấn tĩnh trên phương diện tinh thần . Vỏ đại não là cơ sở vật chất của hoạt động tâm lý . Khi luyện quyền , ta bắt buộc phải nội liễm tinh thần , tập trung tư tưởng , trong não không nghĩ ngợi gì cả cho đến mức mục vô sở thị , nhỉ vô sở văn , tuy vận động mà vẫn y nhiên thản nhiên tâm thần thơ thới . Ðó chính là trạng thái mà Ðạo gia gọi là "nhập tĩnh" hay "hư vô" . Chính trong trạng thái này , đại bộ phận của võ đại não bị đặt vào tình trạng ức chế , làm phát sinh tác dụng phản xạ có ích ở các khí quan nội tạng . Do ảnh hưởng của sự vận công liên tục , bệnh tình của bệnh nhân giảm và hết đi . Ðồng thời , trạng thái nhập tĩnh còn có tác dụng huấn luyện đối với hệ thống trung khu thần kinh , cơ năng của hệ thống này mạnh mẻ lên lại điều chỉnh và kích thích cơ năng của các hệ thống khí quan của nó . Vì vậy trên phương diện vận động sinh lý , nguyên tắc động trung cầu tĩnh có giá trị rất lớn .
Người mới học rất khó thực hiện động trung cầu tĩnh vì động tác tư thức chưa được thuộc làu còn nhớ này quên kia . Nhưng không thể không biết yêu cầu này , biết để mà từ từ thử nghiệm .
[center:ca4c849ff5]41. Thế Nào Là Khinh Linh ? Ý Nghĩa Và Tác Pháp Cụ Thể ?[/center:ca4c849ff5]
Gọi là khinh linh khi cơ nhục và quan tiết toàn thân đều buông lỏng , tâm thần ổn định , thức nào thức nấy đều nhẹ nhàng , mềm mại , uyển chuyển , sống động (khinh , tung , linh , hoạt) .
Khinh linh là một đặc điểm của TCQ , không thấy ở các môn vận động nào khác . Ý nghĩa của khinh linh là :
1. Khi rèn luyện mà buộng lỏng được cơ nhục và quan tiết , sự vận chuyển khinh linh , thì khí huyết khắp thân lưu thông , làm cho sự dụng ý trở nên hiện thực tức là làm cho khí huyết theo sự dẫn dắt của động tác mà vận chuyển , lâu ngày nội kình chân khí tự phát sinh .
2. Làm cho gân cốt thư triển : Khi cơ nhục căng thẳng thì gân mạch toàn thân cũng căng thẳng theo , các mô tủy ở trong xương bị bó ép lại không được thư triển , và sự lưu thông của huyết dịch bị ảnh hưỡng . Do đó chỉ với điều kiện thân thể khinh linh thì gân mạch nới lõng ( tung thí ) , tủy mới thân trương , máu tuần hoàn nhanh lên , tế bào mới sinh ra nhanh hơn .
3. Về mặt tác dụng của khinh linh trong chiến đấu , có khinh linh mới không sinh ra kình lực vụng về , mới dễ ứng địch . Mỗi động tác của TCQ đều khinh linh viên hoạt , cơ nhục không căng thẳng , thân thể tứ chi không cứng ngắt vụng về , khéo biến hóa khi giao thủ , mới không bị địch khống chế .
Người mới học TCQ không dễ gì đạt được sự khinh linh , vì lúc bình thường cơ nhục lúc nào cũng ở trong một mức độ căng thẳng nào đó . Sự căng thẳng này sinh ra do sự khống chế của hệ thống thần kinh . Bình thường thì như vậy , đến khi luyện quyền , sự căng thẳng vẫn sinh ra vì sự thiếu tự chủ . Phải trải qua một quá trình nhất định nào đó mới hiểu và đạt được tình trạng khinh linh . Muốn thế thì người học hãy nổ lực thực hiện mấy điểm sau :
1. Khi luyện quyền , trước hết phải giử tinh thần không được căng thẳng .
2. Với bất kỳ động tác nào , cũng phải tuân thủ một cách nghiêm túc nguyên tắc dụng ý bất dụng lực .
3. Tập xong và đi khá bài quyền , thì luyện thôi thủ hai người , và trong lúc thôi thủ , lưu tâm thể nghiệm yếu lý và tác dụng của sự khinh linh .
[center:c28171982b]42. Có Người Nói Rằng TCQ Ðược Gói Trong Mật Quyết : Tâm , Ý , Thần , Khí . Thực Sự Bốn Thứ Này Là Gì ?[/center:c28171982b]
TCQ là một loại vận động kiện thân ( làm thân thể sống mạnh ) , nhưng rất chú trọng đến tác dụng của tinh thần . Nói chung tinh thần có tác dụng hiệu quả của sự vận động TCQ về nhiều mặt , và phần lớn đã được đề cập ở các mục chuyên biệt ở trên .
Nhưng có người cho rằng tác dụng của tinh thầ được gói ghém trong bốn chữ : Tâm Ý Thần Khí , còn gọi là bốn chữ mật quyết . Thực ra bốn chữ này không nói hết lên được . Ý nghĩa của bốn chữ này không thể căn cứ vào mặt chữ mà giải thích , vì chúng có nghĩa rộng hơn .
Chữ " Tâm " ở đây không có nghĩa là tâm trạng (trái tim) mà là sự hoạt động của thần kinh cao cấp của đại não . Chữ " Ý " ở đây có thể nói là ý niệm , là một loại tác dụng của tinh thần , như ta nói dụng ý bất dụng lực. Chữ " Thần " chính là hoạt động của thần kinh , chủ yếu là hoạt động của đại não . Chữ " Khí " có hai mặt ý nghĩa là nuôi khí và luyện khí .
Dĩ tâm hành khí , vụ lệnh trầm trước : túc là lấy tinh thần khống chế sự vận hành của huyết khí , một mực phải trầm trọng lặng lẻ , thì mới đạt hiệu quả cao .
Dĩ khí vận thân , vụ lệnh thuận toại , nãi năng tiện lợi tùng tâm : Trong lúc vận khí đi khắp nơi trong cơ thể , cần một mực vận hành một cách tự nhiên , không được gắng gượng dùng sức , rồi trải qua sự tập luyện lâu ngày mới được như ý muốn , dẫn khí đi khắp thân thể .
Thân thư thế tĩnh , khắc khắc tại tâm : Thần là tinh thần , chủ yếu là vỏ đại não , cần phải trầm tĩnh thư sương , tư tưởng tập trung ; thế tĩnh là muốn nói trong cái động giử cái tĩnh , khắc khắc tại tâm là bất luận ở động tác tư thức nào , tinh thần đều phải chuyên nhất , không được có một chút tạp niệm nào .
Tâm vi lệnh , khí vi kỳ : Câu này muốn nói rằng dưới sự khống chế của hệ thần kinh , khí huyết được đưa đi khắp thân .
Các mật quyết tương tự còn rất nhiều , nhưng ý nghĩa thì đại đồng tiểu dị , không cần nói chi cho rườm . Tóm lại , Tâm Ý Thần Khí ám chỉ tác dụng của tinh thần , không thể phân biệt được một cách rành rọt , có tác dụng chủ đạo trong vận động TCQ , có ý nghĩa trọng yếu đối với hiệu quả vận động và mực độ sức khõe .
[center:0544ab1b8c]43. " Thập Lục Quan Yếu " Của TCQ Có Nội Dung Gì ?[/center:0544ab1b8c]
Các nhà quyền thuật cận đại đã quy nạp những điều cần thiết khi tập TCQ thành 16 điểm quan trọng , gọi là Thập lục quan yếu . Ðó là :
1. Hoạt bát ư yêu . ....... 9. Liễm chi ư tủy .
2. Linh cơ ư đỉnh . ....... 10. Ðạt chi ư thần .
3. Thần thông ư bối . ....... 11. Ngưng chi ư nhĩ .
4. Lưu hành ư khí . ....... 12. Tức chi ư tỵ .
5. Hành chi ư thối . ....... 13. Hô chi ư phúc .
6. Ðắng chi ư túc . ....... 14. Túng chi ư tất .
7. Vận chi ư chưởng . ....... 15. Phát chi ư mao .
8. Quán chi ư chỉ . ....... 16. Hồn ngạc nhất thân .
1. Hoạt bát ư yêu : Cái eo chiếm một địa vị trọng yếu trong TCQ . Một cái eo buông lỏng linh hoạt hoặc vụng về cương ngạnh có ảnh hưởng rất lớn đối với thân và tứ chi . Sự khinh linh viên hoạt của động tác TCQ chỉ có được trên cơ sở là cái eo linh hoạt . Ðó là ý nghĩa của hoạt bát ư yêu .
2. Linh cơ ư đỉnh : Về điểm này chỉ có hai giải thích :
a. Tức là hư linh đỉnh kình .
b. Tức là cái động cơ linh hoạt phát xuất từ đỉnh đầu điều khiển sự hoạt động đáp trái ứng phải của toàn thân , tức là sự hoạt động của đại não có thể khống chế toàn thân . Trong khi luyện quyền , tinh thằn càng tập trung cao độ thì tác dụng của sự hoạt động của hệ thần kinh cao cấp càng được phát huy .
3. Thần thông ư bối : Ở đây , bối ( lưng ) là tích bối ( vùng lưng dọc cột xương sống ) . Trên thân thể , lưng chiếm một địa vị trọng yếu , lên trên là đầu , qua trái và phải thì thông qua hai vai mà đạt đến cánh tay , đi xuống thì qua eo , háng mà đạt đến chân , cho nên tích bối , đối với thân thể , là chổ giao thông rất thuận lợi (tứ thông bát đạt) ; thần (tích tủy và thần kinh) thông qua bối mà đi khắp châu thân ; nhưng muốn đạt được mục đích thần thông ư bối , phải thực hiện dưới tác dụng của tinh thần một cách có ý thức , làm cho thần đi khắp toàn thân ; như dụng ý , vận kình , đều có thể thông qua tích bối mà đến khắp tứ chi .
4. Lưu hành ư khí : Ý muốn nói khí lưu hành khắp thân . Làm thế nào để khí huyết lưu hành khắp thân ? Ðiều này thì trong lúc luyện quyền , chú ý đến việc kết hợp hô hấp và sự dụng ý bất dụng lực .
5. Hành chi ư thối .
6. Ðắng chi ư túc .
7. Vận chi ư chưởng .
8. Quán chi ư chỉ .
Bốn điều quan yếu này muốn nói rằng trong lúc luyện TCQ , tinh thần và khí huyết đạt đến các bộ phận trên thân thể như thế nào ; thông qua thối và tý ( đùi và tay ) , vận đến thủ chưởng ( bàn tay ) và túc chích ( bàn chân ) , sau cùng rót đến đầu ngón tay và đầu ngón chân .
9. Liễm chi ư tủy .
10. Ðạt chi ư thần .
Trước đây có nói rằng khi luyện quyền phải nội liểm tinh thần . Nội liểm có nghĩa là nội thâu . Lúc luyện quyền , không chú ý bất cứ sự vật gì của hoàn cảnh , mà chỉ chú ý tới một điều là dụng ý bất dụng lực , như vậy tinh thần không những nội liểm mà còn đạt đến cốt tủy , nên gọi là liểm chi ư tủy . Thật ra đây chỉ là thu liểm tinh thần vào trong một cách hoàn hảo ( tập trung tinh thần một cách hoàn hảo ) . Lâu ngày , tạo ảnh hưởng tốt cho hệ thần kinh , nhất là vỏ đại não , làm cho vỏ đại não được bồi dưỡng , nên gọi là đạt chi ư thần .
11. Ngưng chi ư nhĩ : TCQ đòi hỏi động trung cầu tĩnh , tránh ngoại vật kích thích . Như thế tức là đòi hỏi tai mắt phải ra sao ? Về vấn đề nhãn thần , đã có nói qua ở trên . Còn ở đây chỉ nói về thính giác . Ngưng chi ư nhĩ là làm cho cái công năng của tai , tức là thính giác , ngưng tĩnh lại , không còn nghe âm thanh nữa , để mà tập trung tinh thần .
12. Tức chi ư tỵ : Tức là hít thở bằng mũi , cũng có khi thở ra bằng miệng nhưng không được hít vào bằng miệng .
13. Hồ chi ư phúc : Về phương thức hô hấp , có hai cách : hung thức và phúc thức . Người ta bình thường hô hấp bằng ngực , còn TCQ thì đòi hỏi phải thở sâu , dài , đều , im , nên chủ trương thở bằng bụng .
14. Túng chi ư tất : Ðầu gối là quan tiết trọng yếu của hạ chi , và trong các quan tiết , nó tương đối nhu nhược dễ bị bệnh , như các bệnh viêm quan tiết và dây chằng bị thương , chủ yếu là do khí huyết không thông . Cho nên , túng chi ư tất trong TCQ là làm sao cho huyết khí rút đến quan tiết đầu gối .
15. Phát chi ư mao : Lông tóc con người , sinh từ trong da ,đầu dưới của lông là gốc lông , trong gốc lông có huyết quản vi ti vận chuyễn chất dinh dưỡng và oxygen ; lúc tuổi thanh niên khí huyết thịnh vượng thì lông mọc nhiều dài và nhanh , lúc tuổi già thì khí huyết suy nhược , lông tóc dần dần rụng rơi và ngã sang màu bạc . Luyện tập TCQ là để tăng cường thể chất , thể lực . Nhờ vận hành khí huyết đến tận gốc lông nên lông mọc dài , giảm thiểu sự rụng và biến màu . Phát chi ư mao biểu hiện một kết quả cụ thể của sự vận động TCQ .
16. Hôn ngạc nhất thân : Thuật ngữ này muốn nói rằng trong lúc đi quyền , xử dụng ý và và vận kình tại khắp thân thể là một khí hoàn chỉnh . Nhân thể là một thể hoàn chỉnh thống nhất , hoạt động của các cơ quan khí quan hệ mật thiết với nhau , dưới sự chi phối của hệ thần kinh . TCQ là thứ vận động phát triển cơ thể một cách điều hòa : " Nhất động vô hữu bất động , nhất tĩnh vô hữu bất tĩnh " , " Kỳ căn tại cước , phát ư thối , chủ tể ư yêu , hình ư thủ chỉ ; do cước nhi thối nhi yêu , tổng tu hoàn chỉnh nhất khí " . Như vậy bằng sự vận động này mà thân thể phát triển toàn diện .
[center:877cbaffbf]44. Có Người Nói Rằng Khi Ði Bài TCQ Ði Càng Chậm Càng Tốt , Căn Cứ Vào Ðâu Mà Nói Vậy ? Ði quyền Với Tốc Ðộ Nào Thì Là Ðúng Nhất ?[/center:877cbaffbf]
Khi đi quyền , tốc độ không được nhanh , nhưng cũng không phải càng chậm càng tốt , mà là đi với một tốc độ chậm rãi nhất định . Lấy thời gian mà nói , đi trọn một bài TCQ mất từ 15 phút đến 20 phút là thích đáng .
1. Hợp với đặc điểm sinh lý :
Các dạng biến hóa của nhân thể , như tiêu hóa , hô hấp , tuần hoàn , bài tiết , xảy ra một cách liên tục ; nhưng tốc độ mhanh chậm của các dạng biến hóa ấy thì tùy theo sự nhiều ít của lượng hoạt động , lúc tĩnh tọa hay tĩnh ngọa thì chậm lúc đi bộ thì nhanh hơn một tí , lúc chạy thì càng nhanh hơn , khi chạy nhanh vì tim phải đập quá gấp , thời gian co thắt của tâm thất quá ngắn , không thể bài tiết một số lượng tương ứng số lượng máu mà nó dung nạp , đồng thời cái thời gian mà tim tiếp thụ máu từ tĩnh mạch hầu như hoàn toàn không có , kết quả là sự hoạt động của tim bị suy nhược . Sự hoán khí ở phổi cũng thế , vì số lần hô hấp mỗi phút tăng nhiều làm cho cơ hội trao đổi khí bị giảm thiểu . Nếu như mỗi phút mà số lần hô hấp lên đến bốn năm chục thì sự hô hấp chỉ là hình thức thôi , bởi vì lúc này không khí chỉ ra vào ở khí quản chớ không đến tận các phế bào , tức là không xảy ra sự trao đổi khí , lại càng làm cho phổi thêm mệt nhọc . Lúc này chúng ta nhận thấy tim đập nhanh , hơi thở hổn hển , không cách chi ngưng lại được , đó là vì các khí quan tim , phổi không được rèn luyện bao giờ cả . Nhưng sự vận động kịch liệt như vậy chỉ thích hợp với thanh thiếu niên , bởi vì thân thể của chúng phát dục nhanh , cơ năng của các khí quan cải tiến cũng nhanh , trải qua một thời kỳ luyện tập nhất địng sự vận động trở thành tập quán . thì kết quả của sự vận động càng ngày càng cao . Nhưng từ trung niên trở đi , nhất là những ai thiếu thể chất , vốn dĩ không tập luyện như thế bao giờ , đương nhiên không thích hợp với loại vận động kịch liệt này .
TCQ là một loại vận động chậm rải . Trong lúc vận động , dưới ảnh hưởng của sự hô hấp theo các hình thức đặc định , phổi sẽ nở nang và dung lượng khí trao đổi gia tăng , nhưng số lần hô hấp không tăng . Ðộng tác hòa hoản tâm thần an tĩnh làm tim đập nhẹ nhàng nhưng có sức . Nhờ sự co thắt khõe khoắn của tim mà máu tuần hoàn nhanh . Ðồng thời các cơ năng tiêu hóa , tạo huyết , cho đến sự bài tiết của thận đều nhận được ảnh hưởng tốt đẹp , làm cho các cơ năng phát triển một cách tự nhiên , tuần tự tiệm tiến , vừa sinh vừa trưởng , ngày ngày tiến triển . Cho nên yêu cầu động tác hoãn mạn của TCQ có cơ sở lý luận sinh lý học nhất định của nó .
2. Tăng gia lượng vận động :
Vận động chậm rãi có làm giảm đi hiệu quả của vận động không ? Không , mà ngược lại . Thí dụ như hạ chi phải phân thanh hư thực , vì một chân phải gánh chịu thể trọng , thân pháp phải rùn thấp , mại bộ phải chầm chậm , chỉ bấy nhiêu thôi cũng cho phép ta nói là lượng vận động không được tính là ít ỏi ; đó là chưa kể đến sự quán chú của tinh thần , sự tề động của tay chân , sự liên tục của bài quyền hơn mười mấy phút , lại càng làm gia tăng lượng vận động , biểu hiện qua sự bài tiết mồ hôi . Ðây chỉ là một mặt của vấn đề . Một mặt khác , ta biết rằng với sự vận sử của tâm ý thần khí , và động tác tuy chậm , thế mà lượng hô hấp lại rất lớn , máu tuần hoàn rất nhanh , làm tăng nhanh tác dụng của tân trần đại tạ , và kết quả là hiệu quả vận động rất lớn .
3. Tạo ảnh hưởng tốt đối với vỏ đại não :
Vận động TCQ đòi hỏi tâm thần trấn tỉnh , thủ trung khí , tuyệt tạp niệm , hàm nhãn quang ,ngưng nhĩ vận , khí trầm đan điền , hô hấp quân tỉnh . Các yêu cầu này giống như ở tĩnh tọa , có ảnh hưởng rất lớn đối với hệ thống thần kinh , nhất là vỏ đại não . Về phương diện này , kết quả kỳ diệu đã được chứng minh bởi những người suy nhược hệ thần kinh và những người say mê vũ thuật .
Nhưng ở đây người mới học nên lưu ý một điểm là trong sự chậm rãi phải có sự tương tùy thượng hạ , toàn thân nhất tề hoạt động , còn như hạ chi bất động mà thượng chi cứ chậm chạp như rùa thì không khác gì lảng phí thời giờ , đánh mất cái " động " của TCQ , cái chậm ấy chỉ còn cái võ không nhân thịt .