Lương Sơn Bạc  
Trang chủ Lương Sơn Bạc  Lương Sơn Diễn Đàn  Nơi Lưu Trữ: Truyện Ngắn, Truyện Dài, Bài Viết, Nhân Vật, Sách Lịch Sử, Sách Dạy Võ Thuật...   Xem hình thành viên và hình các buổi giao lưu LSB   Nơi Lưu Trữ: Cổ Thi VN, Cổ Thi TQ, Thơ Mới & Các Tuyển Tập Thơ
Quay Lại   Lương Sơn Bạc > Kim Ngư Thành > Quảng Kiến Đài > Văn Hóa Thế Giới
Thành viên
Mật khẩu
Những câu hỏi thường gặp Danh sách các thành viên LSB  Lương Sơn Thương Quán
Văn Hóa Thế Giới Chia sẻ những nền văn hóa của các nước trên thế giới

Trả lời
 
Tiện ích Chế độ hiển thị
Cũ 07-06-2009   #37
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.762.588
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
Hát hiếu ở Lũng Giang - Tam Sơn


Lũng Giang - Tam Sơn là một cặp kết chạ, cặp chạ Lũng Giang - Tam Sơn hàng năm đều đến thăn nhau, hát quan họ vào ngày hội. Ngoài ra mỗi làng đều có những đội hát chèo Hải hê, một lối hát tang lễ.Các đội conf giúp đỡ nhau khi nhà có tang lễ. Thí dụ: Tam Sơn có người mất báo tin cho Lũng Giang ngay. Đoàn chèo Hải Hê của Lũng Giang cùng anh Hai, chị Ba" Quan họ thôn mình vào Tam Sơn giúp đám. Cùng đi với đoàn có các cụ thượng là người cao tuổi và một vài chức dịch Cả đoàn đi gọi chung là đoàn quan họ Lim.

Trên đường đi vào Tam Sơn cả đoàn ăn mặc đẹp như đi hội. Quan họ Tam Sơn ra tận đầu làng đón bạn.

Quan họ Lim vào đến Tam Sơn bắt đầu hát chúc: Chúc cho đồng lúa tốt, cho hàng cây xanh, cho nước giếng trong, cho cây đa cổ thụ sống lâu.... Quan họ Tam Sơn hát chúc lại hai bên đối đáp và cùng nhau đến nhà có đám hiếu.

Quan họ Lim sau khi mời trầu xong bọn trai đoàn chèo Chải Hê đưa linh hồn người đã khuất về nơi tổ tiên. Các cô Quan họTam Sơn chia nhau ra đứng cạnh các anh quạt cho các anh múa hát.

Vở chèo chia làm 3 phần:

Phần I: khảo về những người con có hiếu tích rút trong "Nhị thập tứ hiếu", những động tác diễn xuất, thì lại là những động tác lao động đi săn cá, hái rau...

Phần II: Hát về quá trình làm thuyền kể từ khi chặt cây, kéo gỗ rồi xẻ ván cho đến khi làm xong thuyền đuổi mộc trừ tà......

Phần III: Huê tình hay giao duyên.

Cả ba phần hợp lại thành quan họ Hiếu.

Sang phần III, các cô quan họ Tam Sơn bắt đầu hát đối với các diễn viên đoàn chèo Hải Hê, sau đó chuyển sang đối đáp với người ngoài và sau là với các chàng chai đến dự tang lễ. Chặng hát này vẫn nằm trong phạm vi quan họ Hiếụ


Nguồn : www.suutap.com

Tài sản của LSB-Sun
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 07-06-2009   #38
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.762.588
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
Hát Xoan trên vùng đất Tổ


Hát xoan là một loại dân ca lễ nghi, phong tục gắn với hội mùa, thờ thành hoàng cũng như hát dặm, hát dô ở đồng bằng sông Hồng.

Hát xoan được tổ chức vào mùa xuân, mở đầu cho múa hát để đón chào năm mới.

Các họ xoan ở vùng đất Tổ lần lượt hát khai xuân ở miếu đình làng xã, sau đó các họ xoan sẽ đi hát lần lượt các nơi khác. Vì hát ở cửa đình cho nên hát xoan còn gọi là “khúc môn đình”.

Theo truyền thuyết dân gian vùng đất tổ Phú Thọ, nghệ thuật hát xoan có từ thời các vua Hùng dựng nước. Tập "truyền thuyết Hùng Vương" đã ghi sự tích của hát xoan như sau: "Vợ vua Hùng mang thai đã lâu, tới ngày sanh nở, đau bụng mãi mà không sanh được. Có một người hầu tâu với vua Hùng về nàng Quế Hoa xinh đẹp, múa hát rất hay, nên đón nàng về múa hát có thể làm cho đỡ đau và sinh nở được. Vợ vua Hùng nghe lời, cho mời nàng Quế Hoa đến. Quế Hoa vâng theo lời triệu, đến chầu vua Hùng. Bấy giờ vợ vua Hùng đang lên cơn đau dữ dội, mới bảo nàng Quế Hoa đứng trước giường múa hát. Quế Hoa vâng lời miệng hát, tay múa, đi qua, đi lại trước giường. Giọng hát trong vắt , khi cao, khi thấp như chim ca, suối chảy, tay uốn chân đưa, người mềm như tơ, dẻo như bún ai cũng say mê. Vợ vua Hùng mải nghe hát, xem múa không thấy đau nữa, hạ sanh được ba người con trai khôi ngô dẹp đẽ. Vua Hùng vui mừng khôn xiết và hết lời khen ngợi Quế Hoa, mới bảo nàng dạy múa hát cho các mỵ nương. Quế Hoa hát chầu vợ vua Hùng vào đầu mùa xuân nên các mỵ nương gọi lối hát ấy là hát xoan".

Ngày nay, hát xoan chỉ thấy phổ biến ở vùng đất Tổ diễn ra vào mùa xuân, sau Tết Nguyên Đán. Mỗi phường xoan giữ hát ở một số cửa đình nhất định. Tục giữ cửa đình cũng có ý nghĩa là tránh sự tranh chấp và dẫm chân nhau giữa các phường xoan. Từ tục này đã dẫn đến tục kết nghĩa họ xoan và người địa phương của đình sở tại. Tình nghĩa ấy rất được coi trọng. Và mỗi phường xoan hay còn gọi là họ xoan phải có một ông trùm, bốn năm kép và từ mười đến mười lăm đào.

Ông trùm xoan lo hướng dẫn, chỉ bảo các đào, kép học tập các làn điệu hát, múa và chuyên lo giao dịch với các địa phương. Các đào xoan đều là các cô gái xinh đẹp, có giọng hát hay, tuổi từ 15-20. Khi đã có chồng thì không theo phường hát nữa. Kép có thể là người đứng tuổi, đã có vợ con.

Hàng năm, trước khi đi hát, các phường xoan thường lo tập luyện trước vào tháng Chạp âm lịch.

Hát xoan phải theo trình tự đã qui định, gồm hát phần nghi lễ tôn giáo; phần diễn xướng các quả cách như xuân, hạ, thu, đông, ngư tiều canh mục, thuyền chèo, tứ dân... cơ bản là hát lối và ngâm đọc, có thêm phần hát hội mang tính chất trữ tình, phản ánh những nội dung yêu đương, giao duyên giữa trai và gái. Cuối cùng là phần giã cá để kết thúc quá trình diễn xướng của hát xoan.

Mùa xuân trên quê hương đất Tổ, không gì vui bằng đi xem hát xoan. Và hát xoan thì cứ tiếp tục hát từ đình này cho đến đình khác khiến cho không khí hội hè, vui xuân cứ kéo dài ra mãi.


Minh Đạt
Nguồn : www.suutap.com

Tài sản của LSB-Sun
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 07-06-2009   #39
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.762.588
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
Hát Xoan, hát Ghẹo


Hát Ghẹo, hát Xoan là vốn quý văn nghệ dân gian lâu đời của tỉnh Phú Thọ, nằm trong kho tàng văn học dân gian giàu có của Việt Nam. Hát Xoan, hát Ghẹo là thế nào? Hẳn vẫn còn có người chưa tường.

Hát Xoan là một loại dân ca độc đáo, tồn tại lâu đời ở hai xã Kim Đức và Phượng Lâu, thuộc huyện Phù Ninh cũ. Nay là huyện Phong Châu và thành phố Việt Trì.
Trước Cách mạng tháng Tám 1945, hát Xoan thường được trình diễn vào mùa xuân trong những ngày hội đám ở một số đình làng trong tỉnh, nên còn được gọi là Hát cửa đình. Chữ Xoan là từ chữ Xuân đọc trẹo ra.

Những người đi hát Xoan thường sống cùng chòm xóm và tổ chức thành phường. Người đứng đầu một phường Xoan gọi là ông Trùm. Các thành viên thì gọi trai là Kép, gái là Đào. Mỗi phường Xoan có khoảng 10 đến 15 người. Y phục dân tộc hệt quan họ Bắc Ninh. Nam thì áo the, khăn xếp, quần trắng; nữ mặc áo năm thân, khăn mỏ quạ, áo cánh trắng, yếm điều, thắt lưng bao, dải yếm các mầu, quần lụa, đeo xà tích.

Các tiết mục múa hát thường theo thứ tự nhất định. Mở đầu là 4 tiết mục có tính nghi thức, mang nội dung khấn nguyện, chúc tụng, xen mô tả sản xuất. Đây là những bài ca cổ, chủ yếu hát nói hoặc ngâm ngợi; theo thứ tự: Giáo trống, giáo pháo, thơ nhang, đóng đám. Tiếp theo là phần hát cách (còn gọi là quả cách).
Trong phần này, ông Trùm hoặc một kép chính giở sách ngân nga 14 bài thơ nôm dài với giọng phụ họa của các cô đào đứng ở phía sau. Mười bốn quả cách trong hát Xoan là những áng thơ khuyết danh với các đề tài khác nhau; như mô tả lao động, sinh hoạt ở nông thôn, ca ngợi cảnh vật thiên nhiên, kể các tích chuyện xưa. Sau phần hát cách đến các tiết mục có tính chất dân gian với nội dung đậm nét trữ tình, giao duyên. Mỗi tiết mục nối tiếp nhau ở đây thường gắn với những động tác và đội hình múa, hoặc lối diễn mang tính chất hoạt cảnh. Ví dụ: hát gái, bỏ bộ, xin huê, đố huê, đố chữ, gài huê, "hát đúm", đánh cá,v.v...

Xin mời các bạn thưởng thức vài lời trong điệu đố huê: Bên nam hát:

Anh đố em biết huê gì nở trên rừng bạc bội?
Anh đố em biết huê gì nở nội đồng không?
Anh đố em biết huê gì nở bẩy tám lần chông?
Anh đố em biết huê gì nở mùa đông trắng vàng?

Bên nữ đáp:

Anh đã đố thời em sẽ giảng
(Qua hòa) anh chẳng biết thời em giảng anh nghe:
Huê sim, huê mua nở trên rừng bạc bội
Nhược bằng huê lúa nở nội đồng không
Nhược bằng huê dứa nở bẩy tám lần chông
Nhược bằng huê cải nở mùa đông vàng trắng vàng.

Hát Ghẹo thì hơi khác. Hát Ghẹo là một loại dân ca phổ biến trong đại đa số quần chúng, không chỉ dành riêng cho một số ít người chuyên hoặc bán chuyên. Hát Ghẹo không tổ chức thành phường, bọn hay họ mà là của mọi người. ở miền bắc, ai đã qua tuổi thanh xuân, thì nhiều ít đều có biết hát Ghẹo, và cũng đôi lần hát trong những dịp hội hè, tế lễ ở địa phương. Người hát Ghẹo không phải để sinh sống, dù trong một thời gian ngắn nào đó, hoặc để lấy thưởng, mà chính là để mua vui tinh thần cho tuổi trẻ của họ. Dân ca hát Ghẹo thực sự là một hình thức văn hóa phổ thông trong nhân dân.

Tuy nhiên, dù có rộng rãi trữ tình hơn, phóng túng hơn, nhưng hát Ghẹo vẫn mang phong cách của các dòng dân ca chung, nên các câu hát, giọng hát của hát Ghẹo cũng vẫn có quy định của một trật tự nhất định. Nhất là thứ tự của các câu trong giọng sổng. Người ta chia ra làm 4 loại giọng như sau:

1) Ví đãi trầu: Trầu thường bọc vào khăn tay, hoặc bày ở trên khay, trên đĩa. Các chị đưa trầu ra mời các anh bằng những câu ví:

Miếng trầu để đĩa bưng ra
Xin anh nhận lấy để mà thở than

Lời mời thật lễ phép và ân cần, nhưng các anh chưa vội nhận, để cho các chị còn phải mời đi mời lại nhiều lần. Và có khi phải trách móc bóng gió:

Miếng trầu để đĩa bưng ra
Có cau, có vỏ lòng đà có vôi
Hay là trầu héo, cau ôi
Mà anh nỡ để trầu mời không ăn?

Thế rồi, chần chừ nhưng khéo léo, các anh mới ngại ngùng đáp lại:

Miếng trầu ăn nặng bằng chì
Ăn thì ăn vậy biết lấy gì trả ơn!

Trao đổi bằng ví đãi trầu như vậy có khi hàng giờ, rồi các anh mới chịu nhận trầu, ăn trầu và cùng hát sang giọng sổng.

2) Giọng sổng: là nét nhạc mà người ta dùng để hát câu ca khác nhau, nội dung lời ca là để tỏ bày:

Bối rối là con chỉ thâm
Những điều anh nói nhập tâm em rồị

3) Sang giọng: theo các cụ thì ngày xưa có 36 giọng. Hát hết 36 giọng này là trời rạng sáng, ấy là khi sắp tàn một đêm ca.

4) Ví tiễn chân: Các câu ví lúc này thốt lên từ đáy lòng của mỗi con người vừa sống qua cuộc chuyện trò chứa chan tình cảm, cho nên lời ca ứng tác đầy cảm xúc, tha thiết như những câu ca Giã bạn trong Quan họ:

Anh về có chốn thở than
Em về ngồi tựa phòng loan một mình.
Anh về tựa bóng sao Mai
Em về em biết lấy ai bạn cùng!

Hoặc:

Trăm năm gắn bó như niêm
Chữ tình tạc dạ, chữ duyên ghi lòng.

Các anh chị tiễn chân nhau có khi cùng đi một đoạn đường rất xa, hàng mấy dặm, vừa đi vừa ví, lưu luyến tưởng khó chia đôi ngả.

Hát Xoan cũng như hát Ghẹo ngày nay tuy không phát triển, nhưng mỗi lần qua vùng quê Phú Thọ, ta vẫn còn bắt gặp; cũng như ta thường được nghe trong những chương trình dân ca nhạc cổ trên sóng đài Tiếng nói Việt Nam. Những làn điệu ấy, chất liệu ấy đến giờ vẫn còn làm giầu làm đẹp mãi tâm hồn đằm thắm của dân tộc Việt Nam.


Nguyễn Hà
Nguồn : www.suutap.com

Tài sản của LSB-Sun
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 07-06-2009   #40
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.762.588
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
Hội húc cầu gỗ ở Xuân Dục


Làng Xuân Dục Đông, xa xưa có tên gọi Xuân Đán Trang nay thuộc xã Tân Minh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội. Xuân Dục là điểm tụ cư của người Việt cổ, là điểm nối giữa vùng đất tổ Phong Châu với vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng. Đình Xuân Dục thờ Lạc Long Quân và Âu Cơ. Hằng năm, làng mở hội tưởng niệm các vị Quốc Tổ vào ngày 12 đến 14 tháng mười (âm lịch). Lễ vật chỉ có oản quả đặt lên kiệu bát cống rước từ chùa về đình. Hội xưa có nhiều trò chơi: ban ngày có múa rối, bắt phỗng, bịt mắt bắt dê; buổi tối có hát tuồng, chèo. Vào ngày mồng 3 Tết, ở Xuân Dục còn có hội húc cầu gỗ.

Huyền thoại xưa kể rằng, vào thời Hùng Vương, có một cánh quân của Thánh Gióng do tướng Hữu Lâm chỉ huy, một buổi chiều giáp Tết hành quân qua Xuân Đán Trang. Vị chủ tướng thấy nơi đây có rừng già, phong cảnh đẹp bèn cho quân dừng chân nghỉ lại. Để quân dân cùng vui, dân làng đem cơm nắm, cà muối ra thết nghĩa quân (nay ở Xuân Dục còn có địa danh Rừng Cơm). Các phụ lão ở đây còn kể, lúc các chiến sĩ đi chơi xuân, thấy trẻ mục đồng túm năm tụm ba, bèn nghĩ ra trò chơi húc cầu. Lúc đầu quả cầu được tạo bằng củ chuối lá mọc giữa rừng có đường kính khoảng 30cm. Dụng cụ để cướp cầu là một que tre ở đầu có móc nhọn. Sau khi que tre gãy người ta dùng sức người để đẩy. Ai khéo dùng mẹo lừa cướp được cầu đẩy vào lồ phía bên kia là thắng cuộc. Nhưng quả cầu làm bằng củ chuối không để được lâu, người ta nghĩ ra cách chế quả cầu bằng gỗ lục thông (cây thông to ở rừng) đường kính khoảng 50cm nặng 60-70kg sơn mầu đỏ.

Làng Xuân Dục có bốn giáp chia thành hai đội (nhân dân địa phương gọi là tứ giáp lưỡng đoàn). Mỗi đội cử 10 trai đinh khỏe mạnh. Chỉ huy mỗi đội là một ông cai. Giáp Đông, giáp Điềm giữ lồ phía đông; giáp Đoài, giáp bắc giữ lồ phía tây. Cuộc chơi diễn ra trên một thửa đất 5 sào trước cửa đình. Chiều mồng 3 Tết, lễ đào lồ diễn ra hết sức trang nghiêm. Theo tục lệ ở đây, lễ đào lồ đồng thời cũng là lễ động thổ. Từ đây, có việc cần thiết phải ra đồng, người ta được tự do cày cuốc không còn phải kiêng cữ. Hai lồ nằm theo hướng đông - tây. Mỗi lồ sâu 0,5m rộng 0,8m. Lồ nọ cách lồ kia 25m. Cùng với lễ động thổ, các chức sắc còn tổ chức lễ vớt cầu từ Ao Tiên, rửa sạch, lau khô rồi đặt lên chiếu hoa trước hậu cung đình. Lúc ấy, trên ban thờ đã bày biện cỗ chay gồm: bánh dày, bánh rán, bánh khảo cùng một buồng chuối lá. Tục truyền, bánh dày tượng trưng cho cơm nắm, bánh rán tượng trưng cho cà ghém mà thuở xưa dân làng đã úy lạo quân ông Gióng. Lễ thần xong, đêm mồng 3 Tết, ông từ cùng các phụ lão phải đèn nhang thờ phụng và canh quả cầu suốt đêm.

Sáng mồng 4 Tết, sau khi các quan viên hương lão tế thần xong lúc 10 giờ thì hai đội tiến ra sân đình lễ vua. Các cầu thủ quấn khăn đầu rìu, thắt lưng đỏ xếp hàng chờ cụ chủ tế đánh hai tiếng trống thì chắp tay lên ngực, đánh ba tiếng trống mọi người cùng lễ vua cho đều. Sau lễ trình là cuộc đấu sức đua tài diễn ra hết sức sôi nổi, hào hứng. Điều hành cuộc chơi là cụ chủ tế còn người đánh trống chầu là hai ông đăng cai thay phiên nhau. Trong tiếng trống thì thùng khoan nhặt, khán giả đủ các lứa tuổi tha hồ mà chen chúc xô đẩy, miệng hò reo cổ vũ ầm ĩ. Trong khi đó, các cầu thủ tìm mọi cách trườn bò, luồn lách cốt sao đẩy được quả cầu gỗ trúng lồ phía bên kia. Mẹo chơi duy nhất là một người ôm chặt quả cầu, ba bốn người cùng đội tập trung sức lôi phốc cả người ôm cầu chạy nhanh về lồ phía kia. Nhưng trước sự cảnh giác của đội bạn, cánh "lừa" trên không phải bao giờ cũng giành được thắng lợi. Cuộc đua tranh được dừng ngay khi có bên thắng bên thua. Nhưng tới 4 giờ chiều vẫn không phân thắng bại thì cuộc đua vẫn kết thúc. Cụ chủ tế lấy một cành lá tươi (làng gọi là cây nêu) đánh dấu chỗ quả cầu đang đậu và lấy lễ vật trên ban thờ phân phát cho mọi người.

Sáng mồng 5, mọi nghi lễ lại được tiến hành như ngày mồng 4. Vào chiều ngày 5, sau khi lễ tạ và phát lộc, cụ chủ tế còn lấy buồng chuối lá từ ban thờ thần tung mạnh ra giữa sân. Mọi người dự hội lại được dịp xô lấn, cướp và giật. Ai cướp, bẻ được nhiều quả thì năm đó người ta tin là sẽ gặp được nhiều may mắn.

Cũng buổi chiều ngày mồng 5, sau khi ba quả cầu trở lại nằm dưới Ao Tiên thì cũng là lúc các trai đinh về nhà chuẩn bị khăn áo để 3 giờ sáng hôm sau, họ đốt đuốc rước kiệu hoa trúc về đền Sóc Sơn lấy lộc. Hoa trúc được chế từ những thanh tre dài 0,7m, bông tua được nhuộm vàng, nhuộm đỏ. Bó hoa trúc có từ 150 đến 200 bông. Dự lễ xong, kiệu làng Xuân Dục rước ra đến giữa sân đền Sóc. Nam thanh nữ tú ở khắp nơi về dự hội hô nhau xô vào cướp. Và ai cũng cố cướp được ít nhất là một bông. Người ta tin rằng, đi hội mà cướp được hoa trúc thì năm đó bản thân gặp nhiều hạnh phúc, may mắn.

Hội húc cầu gỗ ở Xuân Dục thể hiện ước mong từ ngàn đời của người dân chuyên trồng lúa nước: mong mưa thuận gió hòa; quả cầu đỏ tượng trưng cho mặt trời chuyển động từ đông sang tây. Người Xuân Dục lấy sự thắng, thua của hội như là một sự dự báo thời tiết trong năm:

- Bên tây thua báo hiệu vụ mùa khó khăn, nước ít, sâu bệnh nhiều.

- Bên đông thua là năm đó được mùa, nước nôi đầy đủ, không sâu bệnh.

- Hai bên hòa là năm đó khí hậu bình thường, dân làng tha hồ sản xuất và chăn nuôi.

Trong những năm chống thực dân Pháp, đình Xuân Dục Đông đã bị giặc phá hủy để chúng lấy gạch đi xây bốt Núi Đôi. Dân làng chỉ còn giữ được ba quả cầu ở Ao Tiên. Sau năm 1954, đình Xuân Dục đã được dựng lại. Hằng năm, hội húc cầu ở đây vẫn được tổ chức trước sân đình.

Xuân Dục, mảnh đất lịch sử - ở đó không chỉ có "Núi chồng núi vợ đứng song đôi" mà còn có hội húc cầu độc đáo mỗi năm Tết đến Xuân về thu hút hàng nghìn người đến dự.


Trần Văn Mỹ
Nguồn : www.suutap.com

Tài sản của LSB-Sun
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 07-06-2009   #41
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.762.588
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
Hội làng Hạ Kỳ


Làng Hạ Kỳ, xã Nghĩa Thịnh, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định, nằm bên tả ngạn sông Đào. Đây là vùng đất đai màu mỡ và được khai phá từ rất sớm. Bản thần tích vị thần làng cho biết: Vào đời Trần ở bộ Cửu Chân có ông bà Đinh Công Nguyên làm nghề bốc thuốc, sống nhân từ. Gặp năm đói kém, ông bán cả của cải nhà cửa để cứu giúp người nghèo. Nhưng chỉ hiềm nỗi muộn con, mãi đến khi về già, ông bà mới sinh được Đinh Lôi. Năm Lôi 18 tuổi, cả cha mẹ đều mất, cảnh nhà túng bấn, chàng đành từ biệt quê hương chu du thiên hạ. Khi đến huyện Đại An thấy bệnh dịch tả hoành hành, Đinh Lôi dùng bài thuốc của cha ra tay trị bệnh cứu dân. ít lâu sau bệnh dịch được dập tắt. Công lao đó được nhà vua biết đến và đã thưởng cho ông trang Hạ Kỳ làm thực ấp. Khi quân Nguyên - Mông sang xâm lược nước ta, là một danh y nhưng lại có tài về quân sự, ông được Hưng Đạo Vương giao chức tham tán cùng Trần Hưng Đạo bàn kế đánh địch trên các phòng tuyến. Tại trận chiến trên sông Bạch Đằng, Đinh Lôi cùng quân dân bắt sống tướng Ô Mã Nhi chém đầu Toa Đô.

Sau ngày toàn thắng, ông về Cửu Châu thăm phần mộ gia tiên và bà con thân thuộc. Ngày 12 tháng giêng, Đinh Lôi mất tại quê cũ. Được tin vua Trần vô cùng thương xót, sắc cho dân Hạ Kỳ xây đền thờ phụng và ban cho Đinh Lôi là "Thượng đẳng phúc thần".

Lúc đầu, đền Hạ Kỳ xây ở xứ Kim Lăng. Sau chuyển về cánh đồng bên sông. Năm 1944, đất bãi sông bị lở, đình được chuyển vào giữa làng và tồn tại đến ngày nay. Đình Hạ Kỳ có tòa tiền tế 5 gian, hậu cung 3 gian. Trong đình còn giữ được nhiều di vật quý: bộ bát bửu, ba bộ kiệu cổ nét chạm tỉ mỉ, thanh thoát. Đình còn giữ được bản thần tích, ba đạo sắc phong thần. Do còn bảo lưu được các di vật quý, ngày 16-1-1995 Bộ Văn hóa - Thông tin đã quyết định xếp hạng đình Hạ Kỳ là Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật: Ngày hội đón bằng xếp hạng di tích là ngày vui lớn của dân làng bởi sau 50 năm, hội Hạ Kỳ mới được mở lại. Sau đó 5 năm, vào ngày rằm tháng ba (âm lịch) Hạ Kỳ mở hội lần thứ hai với sự chuẩn bị công phu và quy mô to lớn chưa từng thấy trong lễ hội. Đoàn rước đi từ đình làng qua đê sông Đào, vòng quanh làng rồi trở về vị trí xuất phát. Sau đội múa rồng dọn đường là đội bát âm, cờ lọng, kiệu long đình, kiệu bát cống, kiệu ông. Đặc biệt hội làng Hạ Kỳ có rước ông Thổ địa và bà chúa Lúa. Ông Thổ Địa đội mũ cánh chuồn, mặc áo thụng xanh, mặt bôi đen, tay phe phẩy quạt lông. Bà chúa Lúa đầu đội khăn mỏ quạ, mặc áo nâu váy đen. Cổ bà đeo vòng bạc, thắt lưng đeo ống trầu, tay cầm quạt giấy. Ông Thổ địa và bà chúa Lúa, mỗi người ngồi trên một thớt cối xay, phía dưới là bệ cối bằng tre do 4 thanh niên khênh. Người được chọn đóng hai vai này đều là nam giới đã đứng tuổi, có phẩm hạnh, được dân làng quý mến. Cuối đoàn rước là hội thổi cơm thi gồm 2 tốp. Mỗi tốp 6 người. Truyền thuyết kể, khi Đinh Lôi nhận lệnh ra chiến trường, vì vội không kịp ăn nên ngài cùng dân làng phải vừa đi vừa thổi cơm. Dẫn đầu tốp là một người múa sênh tiền. Đi sau mỗi tốp là một người đầu chít khăn đỏ, trên đầu quấn xà cạp đỏ, quẩy gánh đồ đạc, đòn gánh là một đoạn tre quấn giấy xanh đỏ. Hai mẩu đòn gánh được tết con rồng bằng rơm. Nồi cơm được treo trên một cần tre, đi bên là ba thanh niên cầm ba bó củi tre, lửa cháy bùng bùng, chân múa nhịp nhàng, tay điều khiển ngọn lửa lúc tản ra lúc chụm lại để đủ lửa cho nồi cơm mau sôi và khi đoàn rước về đến cửa đình thì cơm vừa chín tới. Mỗi nồi cơm thổi 0,3 kg gạo tám xoan, gạo đặc sản của Hạ Kỳ. Để có gạo thổi cơm, từ chiều hôm trước, ban tổ chức đã treo một bị thóc lên, tốp nào lấy xuống hết ít thời gian thì được thêm điểm. Sau đó, đến đoạn xay giã và chọn gạo.

Hội Hạ Kỳ còn giữ được nhiều nét riêng độc đáo, vì vậy hội diễn ra trong 3 ngày mà ai nấy còn muốn kéo dài thêm. Cùng với lễ rước, hội còn nhiều trò diễn cuốn hút người xem, chiều 14 có hội thi giã bánh dày bằng cối đá chày tre. Mỗi chiếc bánh có trọng lượng từ 0,8 đến 1 kg gạo xôi. Sau đó, ở bãi cửa đình có biểu diễn tích Thổ Công và bà chúa Lúa. Sau lễ rước sáng 15, buổi chiều có thi "Chăn cóc, róc mía". Buổi tối, ở đình nam nữ thanh niên thi nhau hát đối, bên chùa có hát văn.

Mùa xuân này, tôi có dịp dự hội ở một số làng nhưng chưa có hội nào để lại trong tôi ấn tượng sâu sắc như hội "Khuyến nông" ở làng Hạ Kỳ.


Trần Văn Mỹ
Nguồn : www.suutap.com

Tài sản của LSB-Sun
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 07-06-2009   #42
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.762.588
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 

Lễ hội Hang Bua


Sau rằm tháng giêng, hàng nghìn người dân lại đổ về trẩy hội Hang Bua (thuộc bản Na Nhàng, xã Châu Tiến, huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An). Lễ hội Hang Bua bắt nguồn từ tục thờ mẹ nước của người Thái cổ. Ngày nay, nó trở thành nơi giao lưu văn hóa với nhiều loại hình nghệ thuật dân gian phong phú.

Hang Bua (dân tộc Thái gọi là Thăm Búa nghĩa là hang Sen) thuộc bản Na Nhàng, xã Châu Tiến, huyện Quỳ Hợp, Nghệ An. Đây là một vùng đất cổ đã được các thế hệ người Thái gìn giữ và phát triển. Ngày xưa, bản Na Nhàng chỉ là một thung lũng nhỏ hoang vu, không người sinh sống. Lễ hội Hang Bua chính là câu chuyện tâm linh gắn liền với đời sống sinh hoạt của đồng bào Thái cổ. Cách Hang Bua 500 m có một vùng đất cổ gọi là Pò Nậm (nước). Từ khe đá đến núi cao, một dòng nước mát lạnh từ nguồn chảy xuống hai giếng nguyên sinh trong vùng. Đất lành chim đậu, từ một vùng đất hoang người Thái cổ đã lập nên bản Búa (Bản Bua, nay là bản Na Nhàng) và quần cư tại đây. Để nhớ ơn "mẹ nước" từ xa xưa, người Thái cổ đã chọn một vùng đất (đẹp đẽ, cao ráo, thoáng đãng để thờ cúng. Sau vụ thu hoạch dân bản lại quây quần bên Hang Bua để thờ cúng thần nước và nhảy múa ăn mừng. Từ năm 1997, Hang Bua được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là di tích thắng cảnh tầm cỡ quốc gia, Sở Văn hóa - Thông tin Nghệ An và huyện Quỳ Hợp đã phối hợp tổ chức để lễ hội Hang Bua thực sự mang đậm bản sắc dân tộc.

Đặc điểm của lễ hội Hang Bua là hình thức tâm linh thường đơn giản và thiên về phần hội. Điều đó đáp ứng nhu cầu được giao lưu sinh hoạt văn hóa của đồng bào thiểu số quanh năm chỉ đối mặt với núi rừng. Lễ hội Hang Bua được tổ chức từ ngày 17 đến ngày 19 tháng giêng, luôn thu hút được số lượng lớn người tham gia. Nhân dân khi về dự lễ hội không mang theo hành trang của người hành hương mà luôn mong mỏi được trao đổi giao lưu văn hóa, được thưởng thức cái đẹp những truyền thống văn hóa dân tộc thể hiện qua nhiều hình thức sinh động khác nhau, đặc biệt qua các loại hình nghệ thuật dân gian cũng như hiện đại. Dàn cồng chiêng của các chàng trai, cô gái Thái vang lên rộn rã với tiết tấu bốn âm thanh như tiếng vọng của non ngàn. Những trò diễn, những điệu múa rộn ràng kết hợp với sắc mầu rực rỡ của cây xăng tang, của ánh nến lung linh, với tiết tấu dồn dập của trống, sự giục giã thôi thúc của dàn khắc luống. Rồi tiếng réo rắt của sáo, tiêu, khèn bè và bay bổng những làn điệu dân ca nhuôn, xuối, lăm, khắp... Cả núi rừng đều như bước vào hội xuân.

Ở Hang Bua hàng năm vẫn diễn ra các trò chơi dân gian độc đáo như bắn nỏ, đẩy sào, ném còn... Đặc biệt "hội thi người đẹp Hang Bua" thu hút được nhiều người tới xem. Đến Hang Bua vào mùa lễ hội, ta còn được thưởng thức các món ăn đặc sản của người Thái như: thịt thú rừng nướng, chẻo môn, cơm lam...

Nghệ An có nhiều lễ hội như lễ hội đền Cồn, lễ hội sông nước Cửa Lò, lễ hội uống nước nhớ nguồn..., nhưng lễ hội Hang Bua vẫn thu hút được nhiều người hơn cả. Đó là những giá trị tốt đẹp của văn hóa dân gian cần được gìn giữ và phát triển.


Nguyễn Diệu Lê
Nguồn : www.suutap.com

Tài sản của LSB-Sun
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 07-06-2009   #43
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.762.588
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 

Lễ hội hát chèo tầu Tổng Gối


Tháng giêng đóng đám ngoài đình
Trong dư năm tỉnh nức lòng người xem
Tướng cờ trương kiệu đôi bên
Giữa thì tầu hát bên thiềng đôi voi

Đã từ lâu, câu hát ngọt ngào ấy đã đi sâu vào tiềm thức người dân làng quê tỉnh Hà Tây. Hát chèo tầu hay còn gọi là hát tầu tượng là loại hình dân ca mà những người đóng con tầu, cái tầu, quản tượng... đứng trên thuyền rồng (tầu), voi (tượng) làm bằng tre gỗ, phất giấy hát theo những làn điệu cổ. Quê hương hội hát chèo tầu là xã Tân Hội, gồm bốn làng Thượng Hội, Thúy Hội, Phan Long và Vĩnh Kỳ. Tân Hội xưa có tên nôm là Tổng Gối thuộc phủ Hoài Đức (Hà Đông cũ) nay thuộc huyện Đan Phượng, Hà Tây. Theo tục lệ xưa, cứ vào ngày 15 - 21 tháng giêng âm lịch, dân làng Tổng Hội lại tổ chức mở hội hát chèo tầu với những nét văn hóa tinh thần thấm đượm giá trị truyền thống dân tộc.

Khác với nhiều dân ca nghi lễ thờ thần ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, nguồn gốc hội chèo tầu khá phức tạp. Có truyền thuyết giải thích hát hội chèo tầu có liên quan đến Triệu Quang Phụ và Lý Phật Tử, còn có thuyết lại cho rằng hội hát này liên quan tới Hai Bà Trưng... Nhưng có lẽ, truyền thuyết về Văn Dỹ Thành - vị thành hoàng làng của địa phương được nhân dân phổ biến hơn cả. Văn Dỹ Thành sống vào đời Trần Hùng Quang (thế kỷ 15) là một học trò giỏi. Năm 20 tuổi, một hôm trời mưa gió, ông đi học về qua cánh đồng (nay là khu Lăng) tự nhiên hóa, ông được Diêm Vương phong làm tướng Dạ Xoa. Ông rất linh thiêng thương giúp nhân dân quanh vùng tránh được dịch bệnh thiên tai. Vì vậy, dân làng đã tôn Văn Dỹ Thành làm thành hoàng và tổ chức lễ hội để tưởng nhớ đến công đức ông.

Bề trên hiển thánh đời Trần
Một đình một miếu bốn dân phụng thờ

Suốt từ tháng 8 năm trước, không khí chuẩn bị lễ hội đã được khởi động ở cả 4 làng. Mỗi làng đều có nhiệm vụ riêng, nếu ở Thượng Hội và Thúy Hội đóng hai chiếc thuyền bằng gỗ, thì làng Vĩnh Kỳ, Phan Long lại góp hai con voi làm bằng tre cao 2m và dài 3m đặt trên bộ gỗ có bánh xe đẩy. Trên mỗi thuyền đều có một bà chúa tầu (thuyền) độ tuổi 50, có tâm đức, 12 cô gái thanh tân con nhà nề nếp làm cái tầu, con tầu. Bên cạnh voi, có hai quản tượng (nữ giả nam) cũng thanh tân có nhiệm vụ thổi loa tù làm hiệu. Chọn phái đẹp làm quản tượng, dân gian muốn khẳng định tôn vinh vẻ đẹp tâm hồn, trí tuệ của người con gái đất Việt. Đa phần kinh phí lo việc quân lương, trang phục cho phường hội đều do bốn bà mẹ chiêu quân ở bốn làng đảm trách. Họ là những con người được dân làng cử ra với đầy đủ điều kiện: Gia đình khá giả, đạo đức, nhiệt tình...

Vào những ngày hội khi trời chưa sáng, các bô lão và ca nhi phường làm tiểu lễ ở miếu Voi Phục rồi tập trung tổ chức rước kiệu ra khu đại dinh. Bốn đội của bốn làng đứng vào các vị trí quy định. Người chủ tế hoặc bô lão trong làng dẫn cái tầu, con tầu quản tượng, các mẹ chiêu quân đi hàng một tiến vào trước bàn thờ trong điện chính tẩm. Sau bài văn khấn của các chủ tế, các tầu, tượng cùng các ca nhi mở đầu bằng các bài: Khởi lễ, dâng rượu, chúc vua, ẩm phước khúc, lễ trình. Một người hát xướng, ba người múa phụ họa theo tiếng gõ sênh dẫn nhịp của các chúa tầu. Sau lễ trình, các ca nhi bước trở ra sân đại dinh trèo lên thuyền múa hát. Chúa tầu đánh thanh la, hai cái tầu lĩnh xướng, 10 con tầu hát họa theo. Con tầu đứng trên thuyền rồng, quản tượng ngồi trên mình voi hát đối đáp tỏ tình. Cuối cùng là hát bỏ bộ tại cửa đình hay ở ngoài ruộng. Cả người xem hội cùng tham gia hát bỏ bộ với những làn điệu dân ca ở các miền khác nhau. Đây là dịp để mọi người gặp gỡ giao lưu, tự tình bằng tiếng hát, thể hiện sức mạnh cộng đồng. Ngoài hát chèo tầu, hội còn có các trò chơi truyền thống như thổi cơm thi, đấu vật, đánh đu... thu hút đông đảo du khách thập phương.

Mỗi mùa xuân đến, những người con làng quê Tổng Gối lập nghiệp phương xa lại nô nức trở về nơi đây không chỉ để sum họp đón Tết cùng gia đình mà hơn thế họ muốn hòa mình, đắm mình vào một lễ hội thiêng liêng mang đậm giá trị văn hóa nghệ thuật dân gian với niềm tự hào là người con đất Việt. Tất cả như trẻ lại, đầy sức sống để rồi tàn hội, họ lại trở về cuộc sống thường nhật với bao niềm vui, hy vọng vào tương lai tươi đẹp...


Thùy Dương
Nguồn : www.suutap.com

Tài sản của LSB-Sun
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 07-06-2009   #44
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.762.588
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
Lễ hội Hòn Chén


Đền Hòn Chén hay Ngọc Trản Sơn - là một trong mười sáu di tích được xếp hạng danh mục quần thể di tích Huế, di sản văn hóa thế giới. Hòn Chén từ xưa đến nay được mọi người biết đến không chỉ là một di tích danh thắng mà còn có lễ hội dân gian thờ và rước sắc mẫu Thiên Yana. Hằng năm vào dịp tháng ba và tháng bảy âm lịch, tín đồ từ khắp mọi miền đất nước đổ về đây dự lễ hội đền Hòn Chén.

Theo truyền thuyết, Hòn Chén (còn gọi là Ngọc Trản Sơn) là nơi Thánh Mẫu Thiên Yana xuất hiện để cứu hộ chúng sinh. Ngọc Trản vốn là ngọn núi thấp ăn từ chân dãy Trường Sơn chạy về phía động, đến làng Hải Cát, huyện Hương Trà thì dừng lại ở tả ngạn sông Hương. Đến đây, dãy núi như bị dồn nén lại, tạo thành ngọn Ngọc Trản, cây cối xanh tốt, soi bóng xuống dòng sông . Khúc sông qua Ngọc Trản được xem là sâu nhất của dòng Hương Giang. Người xưa chọn Ngọc Trản Sơn để dựng đền thờ. Trên đỉnh núi, có một hố trũng khá rộng, lúc mưa, nước đọng lại trông như cái chén nước khổng lồ, vì thế dân gian đặt tên là Ngọc Trản Sơn - hay còn gọi là Hòn Chén.

Không biết ngôi đền thờ ở Ngọc Trản Sơn có tự bao giờ, chỉ biết rằng người Chăm xưa từng thờ cúng ở núi này, đến thời nhà Nguyễn, các vua, chúa tiếp tục tu sửa, mở rộng đền - Đền Ngọc Trản thờ Thánh Mẫu Thiên Yana với những hình thức sinh hoạt tín ngưỡng dân gian có nguồn gốc sâu xa là tín ngưỡng Thiên Tiên Thánh giáo với tục thờ Mẫu, cũng như ở miền bắc thờ Mẫu Vân Hương, hay ở miền nam thờ Mẫu ở núi Bà Đen, hoặc Pohnaga ở Tháp Chàm - Nha Trang vậy. Thiên Yana Thánh Mẫu, nguyên xưa vốn là nữ thần của người Chăm có tên là PôYangInô-Nagar, gọi tắt là PôNagar, tức thần Mẹ Xứ Sở mà theo truyền thuyết Chăm là thần sáng tạo ra đất đai, cây cối, rừng, lúa, bắp... Trong chín vị vua triều Nguyễn thì vua Đồng Khánh là một tín đồ rất ngưỡng mộ vị Thánh Mẫu này. Vì vậy, năm 1886 ông đã cho tu sửa đền và đặt tên là Huệ Nam Điện (Huệ Nam có nghĩa là ban ơn huệ cho nước Nam). Vua Đồng Khánh còn làm thơ văn ca tụng công đức của Mẫu Thiên Yana. Chính vua đã ban hành việc dùng Quốc lễ để tế tại Huệ Nam Điện. Theo lệnh vua, vào dịp xuân - thu nhị kỳ hằng năm đều tổ chức tế lễ, vị chủ tế là một triều thần. Sau vua Đồng Khánh, các vị vua chỉ cử quan thần tới chủ tế một lần vào tháng ba, còn tháng bảy dân làng Hải Cát tự tổ chức. Lễ hội đền Hòn Chén, lễ nghênh thần là lễ lớn nhất, trong đó có đám rước Mẫu Thiên Yana. Đám rước được cử hành trên những chiếc thuyền ghép lại với nhau (gọi là bằng). Cùng với những chiếc bằng, nhiều thuyền đơn, thuyền đôi đi theo đám rước. Thuyền nào cũng được trang trí trông rất đẹp. Lễ nghênh thần được tổ chức trang nghiêm, người đi dự lễ mang mũ, quạt, áo quần sặc sỡ.

Phường bát âm với những bài hát chầu văn ca ngợi Thánh Mẫu và chư vị thánh thần. Các tín đồ vừa đi vừa hát, múa trên những chiếc bằng trong trang phục lộng lẫy, dưới lọng kiệu là đồ thờ của Mẫu Thiên Yana. Tất cả tạo nên một không khí tín ngưỡng thiêng liêng, huyền ảo và sôi động.

Ngày nay, đền Hòn Chén được khách thập phương biết đến không chỉ là một di tích tôn giáo mà là một kiến trúc phong cảnh, non nước đẹp của xứ Huế. Với mười công trình kiến trúc xinh xắn của ngôi đền nằm lưng chừng sườn Đông - Nam của ngọn núi, đền Hòn Chén ẩn mình dưới bóng của rừng lá xum xuê bên dòng sông Hương trong xanh. Những năm gần đây, lễ hội Hòn Chén tấp nập, tưng bừng hơn. Vào ngày chính lễ có cả trăm chiếc thuyền, bằng trẩy hội trên dòng Hương, tín đồ của cả miền trung về tụ hội, dâng lễ, rước Mẫu tháng ba năm nay, các tín đồ tín ngưỡng Thiên Tiên Thánh giáo lại có dịp trở về với Mẫu Thiên Yana với những sinh hoạt văn hóa dân gian tạo nên vẻ phong phú của nét văn hóa xứ Huế.


Nhật Mai
Nguồn : www.suutap.com

Tài sản của LSB-Sun
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 07-06-2009   #45
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.762.588
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
Lễ hội Katê - di sản văn hóa Chăm độc đáo


Lễ hội Katê được tổ chức mỗi năm một lần vào tháng 7 theo lịch Chăm.

Lễ hội Katê là biểu hiện của một nửa cấu trúc lưỡng hợp thuộc về Dương đối lập với yếu tố Âm - lễ Chabur (lễ cúng các ngư thần tháng 9). Cấu trúc lưỡng hợp là một đặc trưng phổ quát ở người Chăm được thể hiện trên nhiều bình diện sâu sắc như: ăn mặc, màu sắc, nghi lễ, hội hè cho đến loại hình biểu diễn nghệ thuật. Theo tinh thần đó người Chăm luôn phân chia sự vật làm hai nửa: đực - cái, ngày - đêm, sáng - tối, cao - thấp (bộ lạc cau - bộ lạc dừa). Tất cả đều thể hiện ước vọng phồn thực trong sự liên kết lức đôi, hầu mong cho sự sinh sôi nảy nở của con người, vật nuôi và mùa màng tươi tốt của một cư dân nông nghiệp. Bản thân lễ hội Katê chứa đựng triết lý ấy.

Katê là lễ hội lớn của cộng đồng làng Chăm diễn ra trên một không gian rộng lớn từ đến tháp (Bi Môn - Kalan) - làng (Paley) - gia đình (Nga Wôm). Lễ hội được lần lượt tổ chức theo thứ tự trước sau tạo thành một dòng chảy lễ hội Chăm phong phú, đa dạng.

Lễ hội Katê ở đền tháp: Lễ hội Katê ở Ninh Thuận diễn ra ở Đền Pô Naga (thờ thần mẹ xứ sở) tại Hữu Đức, tháp Pôklong Garai tại Đô Vinh, tháp Chàm và tháp Pô Rôme tại Hậu sanh. Lễ diễn ra ở 3 nơi cùng lúc, cùng ngày, cùng giờ.

Sau khi lễ vật đã được chuẩn bị xong thì lễ Katê được tiến hành theo 4 bước: Lễ rước y phục - Lễ mở cửa tháp - Lễ mộc dục (lễ tắm tượng thần Siva và tượng vua trong tháp) - Lễ mặc y phục - Đại lễ - Hội.

Đặc trưng của lễ hội Katê là trong mỗi bước hành lễ thì thầy cả sư (Pô Dhia) đọc kinh, ông thầy kéo đàn Kanhi hát thánh ca lần lượt mời các vị thần, bà bóng rót rượu, dâng lễ vật lên thần linh và bà con dự lễ khấn vái cầu thần linh ban cho may mắn, sức khỏe, mùa màng....Kết thúc của cuộc lễ là điệu múa thiêng của bà bóng trong tháp thì bên ngoài bắt đầu vang lên không khí chẩy hội, những chàng trai cô gái Chăm với sắc phục truyền thống nghiêng mình múa hát những điệu dân ca, dân vũ Chăm rộn ràng theo nhịp trống Ginăng, kèn Sarainaị..không khí náo nhiệt kéo dài đến mặt trời ngả về chiều thì lễ hội kết thúc.

Lễ Katê ở gia đình: sau khi lễ Katê kết thúc thì mọi thành viên trong gia đình, dòng tộc mới được tổ chức lễ cúng. Lễ Katê gia đình kéo dài 3 ngày (xưa kia được tổ chức 1 tháng). Trong dịp này ngoài lễ vật dâng cúng, từng gia đình có chuẩn bị qùa bánh để viếng đón bạn bè, làng xóm. Họ viếng thăm và chúc lẫn nhau. Lễ Katê gia đình thường do người chủ gia đình hoặc trưởng tộc làm chủ lễ tế. Mọi thành viên trong gia đình, tộc họ sum họp, ngồi quây qần bên hương hồn tổ tiên- những người đã khuất phù hộ độ trì cho con cháu.

Đó là 3 cuộc gặp gỡ linh thiêng của người Chăm - cuộc gặp gỡ ấy vừa trang nghiêm tĩnh lặng trong lễ vừa sôi động trong ngày hội, làm cho cả cộng đồng Chăm trở thành một khối thống nhất trong một khoảng khắc tâm linh. Lễ hội Katê Chăm thực chất là lễ nghi nông nghiệp tôn thờ các vị thần nông, thần thủy lợi, thờ các anh hùng dân tộc, anh hùng văn hóa như vua Pôklong Garai, Pô Rôme... Đây là mùa tương đối nông nhàn, do đó ngày hội Katê đa dạng trong sắc thái biểu hiện, trong đối tượng tờ cúng, trong không gian văn hóa và trong cách diễn xướng dân gian. Lễ hội Katê không những thu hút dân làng, du khách bởi những sinh hoạt văn hóa đặc sắc như đấu bóng, văn nghệ, thi dệt vải, đội nước...mà còn hướng người Chăm về cội nguồn dân tộc, về Tháp Chăm cổ kính.

Lễ hội Katê Chăm chính là tấm gương phản chiếu những sinh hoạt của một cộng đồng, là nơi hội tụ di sản văn hóa Chăm đồ sộ mà người Chăm tích lũy được trên dặm đường dài lịch sử gian truân của mình.



Nguồn : www.suutap.com

Tài sản của LSB-Sun
Trả lời kèm theo trích dẫn
Trả lời


Quyền sử dụng
Huynh đệ không được phép tạo chủ đề mới
Huynh đệ không có quyền gửi bài trả lời
Huynh đệ không được phép gửi file-gửi-kèm
Huynh đệ không được phép sửa bài của mình

BB code is Mở
Smilies đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt
Chuyển nhanh đến:

 
Copyright © 2002 - 2010 Luongsonbac.club
Thiết kế bởi LSB-TongGiang & LSB-NgoDung
Loading

Múi giờ tính theo GMT +7. Hiện giờ là 20:01
vBCredits v1.4 Copyright ©2007 - 2008, PixelFX Studios
Liên hệ - Lương Sơn Bạc - Lưu trữ  
Page generated in 0,12219 seconds with 15 queries