Chương 29
Chuyển vào hoạt động bí mật (1) Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Tối thứ hai, ngày 14-6-1971, chúng tôi đến dự buổi chiêu đãi tại gia của Peter Edelman và Marian Wright Edelman. Nhà họ chật cứng. Người ngồi trên sàn nhà, người ngồi trên sofa với những chiếc đĩa trong lòng. Hai chủ đề chính của các cuộc hội thoại là: Hồ sơ Lầu Năm Góc tiết lộ điều gì và ai đã cung cấp tài liệu đó cho tờ Thời báo New York. Patricia và tôi lắng nghe mà không đóng góp gì nhiều.
Jim Vorenberg mải ăn uống, trong một góc phòng. Anh ta không nhìn ra chúng tôi.
Vào sáng thứ ba, kỳ ba được xuất bản. Tổng Chưởng lý John Mitchell gửi một bức thư cho Toà soạn Thời báo New York yêu cầu ngừng việc xuất bản và trao trả lại bản sao của tài liệu nghiên cứu đó. Toà soạn từ chối và buổi chiều hôm đó, Bộ Tư pháp đưa ra một đề xuất, lần đầu tiên trong lịch sử nước Mỹ, về một lệnh cấm chính thức tại toà án quận cấp liên bang ở New York. Vị quan toà ban hành lệnh hạn chế tạm thời trong khi ông ta xem xét lệnh cấm chính thức. Lần đầu tiên kể từ Cách mạng, một lệnh cấm của toà án liên bang ngăn cản các nhà máy in của một tờ báo Mỹ in một câu chuyện nhiều kỳ.
Điều khoản bổ sung lần thứ nhất (First Amendment -Tuyên bố trong Hiến pháp Mỹ bảo vệ quyền tự do ngôn luận, tự do tôn giáo và tự do hội họp), nói rằng: "Quốc hội không được ban hành luật… hạn chế quyền tự do ngôn luận hoặc tự do báo chí", là văn bản cao nhất ngăn cấm hành vi tiên chế của chính phủ liên bang và chính quyền bang đối với các phát hành báo chí và sách. Bộ Tư pháp của chính quyền Nixon đang tiến hành một thử nghiệm có tính tiên phong, yêu cầu các toà án liên bang vi phạm hoặc phót lờ Hiến pháp hoặc trên thực tế bác bỏ Điều khoản Bổ sung lần thứ nhất. Đó quả thật là sự khẳng định dũng cảm nhất trong Chiến tranh lạnh rằng "an ninh quốc gia" vượt trên các đảm bảo của hiến pháp về Tuyên ngôn nhân quyền.
Tôi nhận được một cú điện thoại từ Dunn Gifford, một người bạn của Neil Sheehan mà tôi gặp tháng trước. Khi đó ông ta nói với tôi rằng Neil đã hỏi ông, với tư cách của một cựu sĩ quan tình báo hải quân, liệu công bố những bức điện tín, dạng điện tín có trong tài liệu nghiên cứu, có làm tổn thương hệ thống mật mã của Mỹ không. Ông trả lời, một cách chính xác, là không. Với việc kể lại câu chuyện đó, ông ngầm lưu ý rằng tôi nên biết Neil có những nguyên tắc riêng với tư cách là một nhà báo, không phải hành động theo cách nghĩ của tôi.
Trong cuộc điện thoại sáng thứ ba, Gifford nhắc lại cảnh báo trước đó bằng cách giục tôi cung cấp hồ sơ cho tờ Bưu điện Washington, khi mà hiện nay, Thời báo New York bị cấm không được tiếp tục xuất bản. Ý tưởng này chưa từng xuất hiện trong đầu tôi, và câu trả lời tức thì của tôi là: "Tôi sẽ không làm như vậy". Ngay buổi tối hôm thứ bảy, khi đọc kỳ đầu câu chuyện đăng trên tờ Thời báo New York, tôi không còn bực tức Neil và Toà soạn vì đã không thông báo gì cho tôi trong vòng ba tháng. Khi nhìn cách họ đã xử lý vấn đề và ảnh hưởng mà họ có được, tôi không cảm thấy gì khác ngoài sự hài lòng với những gì họ đã làm. Tôi ý thức được nghĩa vụ đối với Neil và tờ Thời báo, dù rằng họ quyết định giữ khoảng cách với tôi.
Dường như chắc chắn rằng Neil hay tờ Thời báo New York, hoặc cả hai, sẽ đoạt giải Pulitzer, mà họ xứng đáng nhận được.
Đối với tôi việc cung cấp tài liệu này cho tờ Bưu điện Washington có thể phá hoại khả năng đó hoặc là buộc họ phải chia sẻ giải thưởng này. Cũng có thể Thời báo New York sẽ mất đi động lực để tiếp tục xuất bản, với thời gian đã ấn định, khi các phần khác của tài liệu đã được công bố đâu đó.
Neil và tôi chưa bao giờ thảo luận về quyền độc quyền công bố câu chuyện của tờ Thời báo, nhưng tôi tin chắc rằng những nhà biên tập sẽ yêu cầu quyền đó khi họ đáp ứng điều kiện của tôi để cung cấp tài liệu này cho họ. Tôi chấp nhận điều đó Neil có thể không chắc chắn rằng tôi sẽ tuân theo một thoả thuận như vậy. Dường như, động lực chính hay sự tính toán chủ yếu thúc đẩy tờ Thời báo công bố hồ sơ, bất chấp sự khích lệ của các luật sư, là mối lo ngại, đặc biệt từ phía Neil, rằng nếu không làm như vậy, tôi sẽ đi nơi khác. Trong trường hợp đó, họ sẽ bị tờ Bưu điện "nẫng tay trên". Thật là ngớ ngẩn khi ông ta đưa ra khả năng đó khi giả bộ rằng vị thế tờ Thời báo chưa chắc chắn. Nhưng trên thực tế, kể từ khi nói chuyện với Neil, tôi chưa bao giờ nghĩ tới việc nói cho một tờ báo khác về tài liệu đó. Và tôi trả lời Giford rằng tôi trung thành với Neil, và tôi không thể phản bội lòng trung thành của mình bằng cách cung cấp "tin sốt dẻo" của họ cho tờ Bưu điện Washington.
Gifford chỉ ra rằng mối nguy hiểm ở đây còn lớn hơn danh tiếng mà tờ Thời báo hay Neil có được. Ông tin rằng cần phải tiếp tục đà này, duy trì sự quan tâm liên tục của công luận với nội dung của hồ sơ. Không ai có thể biết đến bao giờ tờ Thời báo nối lại việc xuất bản. Chúng ta thậm chí không biết rõ điều lệnh cấm có bị từ chối thực hiện hay không. Sự tiết lộ có thể chấm dứt ở đây, trừ phi các tờ báo khác sẵn sàng nắm lấy ngọn cờ, dám thách thức Bộ Tư pháp và chính quyền.
Lập luận của ông đầy thuyết phục. Tôi buộc phải nghĩ đến khả năng này, mặc dù tôi luôn cảm thấy khó chịu với việc qua mặt Neil và tờ Thời báo. Cam kết và nguy cơ họ sẽ phải gánh chịu trong việc quyết định công bố tài liệu đã rõ ràng. Xem xét lệnh cấm "vô tiền khoáng hậu" đó, khả năng họ bị truy tố hình sự là không nhỏ. (Trên thực tế, Bộ Tư pháp đang ráo riết chuẩn bị xử lý vụ việc này, dự định ngay sau phiên toà xét xử tôi). Có thể Neil và tờ Thời báo đã không đối xử với tôi như một đối tác, nhưng tôi khâm phục sự can đảm của họ, biết ơn họ với tư cách là một công dân và một nhà hoạt động.
Mặt khác, tôi phải suy nghĩ nghiêm túc lời cảnh báo của Gifford rằng toàn bộ tiến trình sẽ bị dừng lại vĩnh viễn trừ phi tôi thúc đẩy nó. Nhờ có quyết định của chính quyền coi vụ việc này như một cuộc khủng hoảng tầm cỡ quốc gia để biện minh cho các nỗ lực kiểm duyệt báo chí "vô tiền khoáng hậu", nội dung của tập hồ sơ đã thu hút được sự chú ý với mức độ đáng ngạc nhiên từ phía dư luận. Độc giả của các tờ báo mong muốn tìm hiểu diễn biến nào khiến cho chính quyền hoảng sợ và buộc phải mạnh tay như vậy. Tôi luôn tin rằng, tác động tổng thể của câu chuyện này phụ thuộc vào phạm vi lịch sử được phơi bày. Tác động mạnh mẽ không phải từ sự tiết lộ bí mật của bất kỳ trang giấy nào, một tập hồ sơ nào hay một cá nhân nào. Điều gây choáng váng tột bực là sự ngoan cố và bản chất của các hình mẫu lừa lọc, liều lĩnh và chủ nghĩa hoài nghi.
Công bố điều đó với bất kỳ một độc giả nào hoặc cả đất nước, độ dư chấn sẽ mạnh hơn rất nhiều.
Ba kỳ đầu công bố trên tờ Thời báo đề cập đến chính quyền Johnson nhưng một đoạn "châm biếm" trong bài báo ngày thứ ba cho thấy bài báo kỳ tới sẽ tập trung vào Eishenhower. Tôi không muốn tiến trình lịch sử sẽ bị cắt cụt ở đây. Càng cân nhắc về khả năng này, đề nghị của Gifford càng lôi cuốn tôi. Tờ Thời báo đã xem xét việc in ấn nhật báo sáng thứ tư với một loạt các trang trắng thay vì cho đăng kỳ tới của câu chuyện như kế hoạch. Khoảng trống không chữ với nguyên nhân là lệnh cấm của chính phủ có thể là trường hợp đầu tiên trong lịch sử báo chí Mỹ. Và người ta cũng mong đợi, đây sẽ là trường hợp cuối cùng. Nhưng cuối cùng, tờ Thời báo lại đăng những câu chuyện khác thế vào chỗ trống. Nhiều mẩu tin và bài phân tích được đăng để lấp chỗ trống, bởi vì lệnh cấm gây ra một trong hai vụ vi hiến lớn nhất trong hai thế kỷ trở lại đây. Đài truyền hình, trước kia hầu như phớt lờ kỳ đầu không mấy tiếng vang hôm chủ nhật, thì nay dành ít nhất là 15 phút trong tổng số 30 phút của chương trình thời sự trong nước hàng đêm trên một trong ba kênh chính thức để nói về Hồ sơ Lầu Năm Góc và các vụ kiện tụng tại toà án.
Đêm khuya ngày thứ ba, ai đó từ Toà soạn của Tuần tin tức gọi điện cho tôi để sắp xếp cuộc gặp với một nhóm các biên tập viên vào buổi sáng hôm sau. Tôi ra ngoài Quảng trường Harvard dùng bữa sáng cùng với Lloyd Norman, một phóng viên của tạp chí Tin tức Lầu Năm Góc mà tôi đã quen biết nhiều năm, và Joel Blocker, một biên tập viên cao cấp. Họ bắt đầu câu chuyện bằng cách thông báo cho tôi biết bài trên trang nhất trong số tạp chí tuần tới sẽ là việc công bố Hồ sơ Lầu Năm Góc và họ dự định nói rõ tôi là nguồn gốc của tài liệu đó. Tôi nói: "Tôi không dự định bình luận về người cung cấp thông tin đó. Tôi sẽ bình luận tất cả những gì các ông muốn về nội dung của tập hồ sơ này và ý nghĩa của nó theo cách nghĩ của tôi. Tôi tiếp cận được với toàn bộ nghiên cứu này, và tôi đã đọc từ đầu đến cuối".
Blocker nói: "Chúng tôi tin rằng ông chính là người phát tán tài liệu đó nhưng chúng tôi tiến hành trừ phi ông sẵn sàng khẳng định điều này".
Tôi trả lời rằng tôi không đoán này đoán nọ về điều đó, nhưng với tư cách là một người tham gia thực hiện nghiên cứu và một người am hiểu về nó, tôi chắc chắn rằng việc xuất bản tài liệu này là một điều tốt. Công chúng cần và xứng đáng được biết mọi điều trong công trình nghiên cứu đó. Tương tự như vậy, Quốc hội cũng phải được biết. Theo ý kiến của tôi, bằng cách nào đó, tất cả nội dung của công trình nghiên cứu cần phải được công bố. Điều đó không có gì tổn hại mà chỉ có lợi cho an ninh quốc gia. Tôi sẵn lòng viết bài về các chi tiết trong nội dung, với độ dài bất kỳ tuỳ ý.
Blocker tiếp lời: "Này, vấn đề là sẽ không có bài báo trên trang bìa trừ phi chúng tôi có sự khẳng định của ông về nguồn gốc của tài liệu".
"Tệ thật. Nếu đúng là như vậy, các ông đang mất một bài báo có tiếng vang lớn về nội dung của hồ sơ đó".
Chúng tôi nói chuyện hơn ba giờ đồng hồ, kết thúc trong văn phòng của tôi ở MIT. Trong bài tường thuật của Blocker về cuộc phỏng vấn (ra ngày 21 tháng sáu), ông ta nói rằng: tôi (tác giả) "đã thẳng thừng từ chối bình luận về liệu có phải ông (tác giả) đã cung cấp những tài liệu mật cho tờ Thời báo".
Blocker trích nguyên văn lời của tôi: "Tôi rất mừng khi hồ sơ này được công bố… Tôi mong muốn Quốc hội và công chúng có thể tiếp cận tư liệu này hai hoặc ba năm về trước. Những văn bản này chứng tỏ các trợ lý của Tổng thống và các quan chức khác trên thực tế đã được cho phép nói dối công chúng. Nhưng bây giờ, những người chịu trách nhiệm về sự leo thang của cuộc chiến phải chịu trách nhiệm về những văn bản mà họ đã ký".
Blocker tường thuật lại những gì tôi kể cho họ nghe về nỗ lực vô vọng của tôi khi tìm cách để các quan chức cao cấp của chính quyền như Henry Kissinger và trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao Irwin đọc hồ sơ này, hay ít nhất là xem qua những bản tóm tắt. Mặc dù không có gợi ý của tôi, nhưng tờ Tuần tin tức sau đó phỏng vấn John Holum, trợ tá lập pháp của Thượng nghị sỹ McGovern, và Pete McCloskey. Hai người này cho biết tôi đã đề nghị cung cấp cho họ những văn bản mật.
Holum tường thuật lại: "Ông ta (tác giả) nói ông ta sẽ công bố chúng cho dù ông ta sẽ bị tống vào tù". (Đây là lời lẽ từ văn phòng Thượng nghị sỹ được đăng trong số báo hơn một tuần trước khi tôi bị buộc tội, mặc dù họ đã hứa là không tiết lộ tên của tôi). "Theo lời khuyên (của Holum), McGovernd đã từ chối lời đề nghị".
Tuy nhiên, bất chấp sự đề nghị thiết tha từ phía tôi, các biên tập viên Tuần tin tức không muốn tường thuật quan điểm của tôi về nội dung của tài liệu hay là về cuộc chiến. "Ellsberg, 40 tuổi, chứng tỏ là một kẻ ba hoa tột độ, và nói năng bừa bãi… Với một quyết tâm gần như một nỗi ám ảnh, Ellsberg nói đi nói lại về những tác động tích cực của việc công bố các văn bản đó. Ông ta nói, những tài liệu đó là những gì tốt nhất mà chúng ta có - một xuất phát điểm tốt để hiểu biết thật sự về cuộc chiến, có giá trị như những hồ sơ về tội ác chiến tranh tại Nuremberg".
Họ không hài lòng việc chúng tôi bỏ đi. Nhưng tôi không muốn đưa ra lời khẳng định mà họ cần tại thời điểm đó. Cho đến lúc này, chưa có dấu hiệu nào cho thấy Bộ Tư pháp sẽ quyết định truy tố hình sự. Tôi không ngạc nhiên rằng tờ Tuần tin tức nhanh chóng biết được rằng tôi là nguồn gốc của tài liệu đó. Dòng cuối cùng của bài báo về cuộc phỏng vấn ghi lại, tôi vừa cười vừa nói rằng: "Tôi lấy làm hãnh diện trở thành kẻ bị tình nghi là đã tuồn tài liệu này ra ngoài". Và tôi biết chắc rằng Bộ Tư pháp nghi ngờ ít nhiều từ câu nói này. Nhưng tôi đã quyết định không kích động chính quyền đi đến một quyết định khởi tố hình sự chưa từng có trong lịch sử bằng cách công khai chỉ trích, nếu chính quyền kiềm chế trong việc buộc tội tôi. Bài báo trên trang bìa có thể tạo nên hiệu quả thông tin tốt.
Chỉ có Chúa mới biết tại sao tờ Thời báo không hỏi ý kiến của tôi về bất cứ điều gì nhưng tôi không nghĩ rằng đóng góp của tôi là cần thiết. Hàng nghìn trang tài liệu có thể tự nói - khi mà chúng được công bố. Và cuối cùng, như tôi từng hy vọng, tờ Tuần tin tức đã đăng một bài báo trên trang bìa, không phải về tôi, mà về "Lịch sử bí mật của Việt Nam" (Ngày 28-6-1971, số trước ra ngày 21-6).
Ngay khi Blocker và Norman rời khỏi, tôi gọi điện thoại bằng thẻ trả trước của mình và, thông qua một người bạn, liên lạc với Ben Bagdikian của tờ Bưu điện Washington. Bagdikian đã rời Rand, quay trở lại tờ Bưu điện Washington năm ngoái với tư cách một biên tập viên. Tôi chắc rằng ông ta đang xoay xở tìm kiếm một mẩu của hồ sơ. Tôi đã đoán chính xác rằng ông ta nghi ngờ tôi chính là người phát tán những tài liệu đó và có lẽ đang tìm tôi. Nhưng tôi không thể gọi điện thoại cho ông ta từ nhà của mình. Thông qua một nhân vật trung gian, "Ông Boston", Ben nhận được hướng dẫn để gọi đến một số điện thoại ở Cambridge từ một chiếc điện thoại "an toàn". Đó là số 617, và Ben đọc tin nhắn từ "ông Boston ở Boston". Ben nhận ra rằng đó là một bút danh và quyết định gọi điện thoại. Ông ta đi qua phố, đến Statler Hilton và gọi điện từ một bốt điện thoại công cộng. Mr. Boston nói rằng Ben có tin nhắn từ một người bạn cũ nhưng ông ta phải cho số của một bốt điện thoại công cộng, nơi mà ông có thể nhận được điện gọi tới. Ben cho số của bốt điện thoại bên cạnh.
Khi tôi gọi Bagdikian một vài phút sau, ông ta nhận ra giọng của tôi. Tôi hỏi ông ta liệu Tờ Bưu điện Washington có muốn in "những tài liệu đó" nếu có được chúng. Ông trả lời là "Có". Tôi hỏi liệu ông có được lời cam kết của tờ Bưu điện Washington không. Ông ta hứa sẽ gọi điện lại. Chúng tôi thoả thuận rằng nếu ông ta có được sự đảm bảo, ông sẽ đặt phòng tại một khách sạn ở Cambridge hay Boston, gọi đến một số khác với máy trả lời điện thoại tự động, để lại lời nhắn về nơi mà chúng tôi có thể gặp nhau. Ông ta gợi ý về lời nhắn là "Ông Medfold từ Providence (nơi mà Bagdikian đã từng làm) sẽ đợi ông ở khách sạn". Tôi đề nghị ông ta nên đặt phòng nhanh lên bởi vì hầu hết khách sạn đều kín chỗ trong tuần đầu tiên. Ông ta nên mang theo một chiếc vali lớn.
Ben nhận được tín hiệu "đèn xanh" từ phía chủ bút của tờ báo, Ben Bradlee. Khi Bagdikian gọi điện cho Bradlee từ sân bay, ông ta nói thêm rằng trong trường hợp ông ta có được những hồ sơ đó và nếu chúng không được đăng trên số báo ngày hôm sau, thì tờ Bưu điện Washington sẽ có một chủ bút mới. Bagdikian kể lại với tôi: Lúc ông ta đăng ký phòng tại khách sạn Boston dưới cái tên Medfold, ông thất kinh khi nhân viên lễ tân báo ông có một tin nhắn từ ông Bagdikian, người sẽ tới khách sạn cùng thời gian này từ Washington. Điều đó thì có liên hệ gì với ông không? - Bagdikian nghĩ. Dường như, Bagdikian quên mất tên giả của mình. Ông không có những trực giác như người bạn ông. Ben tự giới thiệu bản thân, nói rằng ông ta đăng ký dưới cái tên Medford. Khi ông ta vào phòng, ông ta nhận được một cú điện thoại của tôi, chỉ dẫn đến một địa chỉ ở Cambridge để lấy tài liệu và nhắn với nhân viên lễ tân cho phép một số người bạn của ông vào phòng khi ông ra ngoài.
Khi Bagdikian quay trở lại trên một chiếc taxi với một trong hai thùng các-tông mà ông đã được cho xem trong tầng hầm ở Cambridge, ông ta thấy Patricia và tôi đang đợi ông ta trong phòng khách sạn. Tôi muốn ông ta mang cả chiếc hộp thứ hai. Không lâu sau, ai đó mang chiếc hộp còn lại đến phòng. Trong khi đó, chúng tôi kiểm tra chiếc hộp thứ nhất lộn xộn giấy tờ. Chiếc hộp đựng một bộ hồ sơ đầy đủ, nhưng thứ tự lẫn lộn. Do trải qua nhiều giai đoạn "giải mật" với mảnh các- tông, kéo, máy cắt giấy, nên rất ít trang còn ghi số trang. Hầu hết các số trang trùng khớp với sự đánh dấu kín mà chúng tôi đã bỏ đi. Khi được chuyển đến, chúng tôi thấy thùng tài liệu thứ hai có cùng nội dung như vậy. Đó chính là trạng thái hồ sơ mà tôi muốn khi trao cho ông ta. Đầu tiên ông ta miễn cưỡng chấp nhận. Tôi muốn ông ta gửi thùng thứ hai tới Mike Gravel nếu ông thượng nghị sỹ từ Alaska này sẵn sàng sử dụng nó.
Cảm giác nghề nghiệp của Ben khiến ông ta không muốn trở thành một đối tượng trung gian với Quốc hội. Tôi không thể thông cảm, trong những tình huống đặc biệt này. Tờ Bưu điện Washington rõ ràng muốn cái mà tôi có, và dường như họ cũng có thể giúp tôi. Tôi không nghĩ ra bất kỳ cách nào khác để mang hồ sơ này đến Washington nhanh chóng. Cuối cùng, ông ta đồng ý.
Bagdikian nhớ lại, tôi đưa ra hai điều kiện khác. Tờ Bưu điện Washington không được tiết lộ danh tính của tôi và không in lại ngày tháng hoặc số hiệu của bất kỳ bức điện tín nào khi sao chép lại tài liệu. Nhiều người đã buộc tội tờ Thời báo New York đã làm tổn hại hệ thống mật mã. Tôi cam đoan điều đó là không đúng, nhưng tôi không chắc chắn rằng chính phủ sẽ thừa nhận tại toà án.
Chúng tôi ở khách sạn cả đêm với ông ta, cắt bỏ những chú thích ngày tháng ở cuối trang và cố gắng phân loại các tập khác nhau. Patricia trở về nhà nghỉ ngơi trong khi tôi tiếp tục công việc. Ben đặt vé chuyến bay trở lại Washington, hai ghế hạng nhất cho "Ông Medford và một người khác". Ý của ông ta là muốn để chiếc vali tài liệu ở chiếc ghế bên cạnh. Sáng sớm hôm sau, chúng tôi nhận ra rằng chiếc vali tài liệu không đủ rộng. Ông ta quyết định sẽ mang về Washington hai chiếc hộp các-tông lớn như lúc đầu, nhưng chúng tôi không có dây hay băng để buộc chiếc hộp thứ hai. Sáng sớm, chúng tôi ra quầy lễ tân xin một đoạn dây thừng. Nhân viên bàn lễ tân không tìm thấy đoạn dây nào cả, nhưng ông ta gợi ý Ben nên ra ngoài để tìm, nơi mà đôi khi có dây buộc chó của khách. Ben trở lại với một sợi thừng dài 6 feet từ hàng rào cạnh bể bơi. Ông ta buộc chiếc hộp lại và lên xe ra phi trường. Tôi gọi điện cho Patricia và bảo cô ấy đến đón tôi. Trong lúc chờ đợi, tôi nghỉ lại trong phòng.
Trước khi rời khỏi phòng khách sạn, chúng tôi bật ti vi để xem tin tức buổi sáng. Chúng tôi nhìn thấy một trong hai ngọn đèn của nhà chúng tôi tại số 10 phố Halliard trên màn hình, với hai người đàn ông tự xưng là nhân viên FBI đang gõ cửa.
Người phát ngôn viên giải thích họ đang tìm cách thẩm tra Daniel Ellsberg cho quá trình điều tra của họ về việc rò rỉ Hồ sơ Lầu Năm Góc. Sau một lúc gõ cửa không thấy ai trả lời, hai người đàn ông rời đi. Patricia và tôi có cảm giác rằng họ sẽ không đi xa. Chúng tôi không muốn ở lại khách sạn này cho dù là một đêm, chứ không muốn nói là đêm thứ hai. Chúng tôi không mang theo gì, kể cả bàn chải đánh răng. Nhưng dường như, đây không phải là thời điểm tốt để trở về nhà. Và cũng không phải là ý kiến hay khi ở lại trong căn phòng mà ông Bagdikian của tờ Bưu điện Washington đã trả. Chúng tôi đến thuê phòng tại một khách sạn bên dòng sông Charles bờ phía Cambridge dưới tên giả. Buổi sáng hôm sau, chúng tôi chuyển sang một khách sạn khác. Trong một vài ngày tiếp theo, chúng tôi liên tục di chuyển qua các khách sạn khác nhau ở Cambridge. Sau đó, chúng tôi tìm thấy nơi ẩn náu ở Cambridge và trở về nhà sau 12 ngày trốn tránh.
Xem tin tức phát trong buổi sáng thứ năm, ngày 17-6-1971 chúng tôi nhanh chóng hiểu tại sao FBI lại chọn ngày hôm đó để ghé thăm căn hộ của chúng tôi. Khuya đêm hôm trước, trong khi chúng tôi đang làm việc tại khách sạn, cố gắng sắp xếp các tập hồ sơ theo đúng thứ tự, một nhà báo tên là Sidney Zion đã xuất hiện trên chương trình trò chuyện với các nhân vật nổi tiếng trên truyền hình tại New York và thông báo rằng ông ta đã phát hiện ra chính tôi là người cung cấp Hồ sơ Lầu Năm Góc cho tờ Thời báo New York. Đúng như tôi dự đoán, trên cơ sở những bài phỏng vấn ban đầu, cả Nhà Trắng và FBI đã xác định tôi là nghi can số một. Nhưng FBI tiết lộ rằng chính tuyên bố của Zion dẫn tới chỉ thị của Sở chỉ huy của FBI tại Wahshington cho văn phòng ở Boston thẩm tra tôi ngay lập tức. Văn phòng ở New York nhận được chỉ thị thẩm tra Zion. Do công bố tối hôm trước nên ở cả hai nơi các nhân viên FBI bắt gặp những đám đông nhà báo và quay phim chờ đợi sẵn quanh khu nhà tôi. Zion từ chối tiết lộ thêm điều gì, và FBI không thấy chúng tôi trở về nhà kể từ cái đêm chúng tôi ở lại khách sạn cùng với Bagdikian. Nhưng, nếu Zion không công bố, sẽ không có bất kỳ phóng viên truyền hình nào bên ngoài căn hộ số 10 phố Hilliard để ghi lại chuyện viếng thăm của nhân viên FBI, và chúng tôi cũng không thể được nhìn cảnh quay trực tiếp trên truyền hình. Thay vào đó, chúng tôi có thể có mặt tại hiện trường và gặp những nhân viên FBI khi trở về nhà, hoặc họ tìm thấy chúng tôi ở đó chiều ngày hôm sau. Mọi việc diễn ra may mắn lạ thường, mặc dù ý định của Zion chưa hẳn đã tốt như vậy.
Bí quyết tránh giáp mặt với FBI (trong thập kỷ 70) dường như là: không sử dụng điện thoại nhà hay cơ quan. Những người giúp đỡ chúng tôi tìm nơi ẩn náu và phân tán tài liệu liên lạc với chúng tôi trực tiếp hoặc thông qua những bốt điện thoại công cộng được chọn một cách ngẫu nhiên. Không ai trong số họ bị các quan chức hay bồi thẩm đoàn tra hỏi, hay bị báo chí phát hiện. (Sau 30 năm giấu tên, tất cả họ dường như muốn tiếp tục giữ kín. Tôi không thể thuyết phục bất kỳ ai trong số họ xuất hiện công khai hoặc để tôi có cơ hội nói lời cảm ơn bằng chính tên thật của họ).
Trong vòng 13 ngày, chúng tôi trở thành tâm điểm trong câu chuyện mà báo chí miêu tả là "cuộc săn lùng lớn nhất của FBI kể từ vụ bắt cóc Lindberg". Báo chí đưa tin các nhân viên FBI phỏng vấn nhiều người ở nhiều nơi trên thế giới khiến cho tôi nghi ngờ rằng một số đang lạm dụng cơ hội này để đi vui chơi. Chúng tôi ở Cambridge trong suốt thời gian đó, ở năm địa điểm khác nhau, có chỗ chỉ lưu lại trong một đêm. Việc đó được sắp đặt bởi một vài bạn bè thân thiết của tôi. Họ nhờ bạn bè trong số những nghiên cứu sinh hoặc những người hàng xóm. Điều đáng chú ý là tất cả những người trên đều hợp tác mặc dầu họ biết FBI đang truy lùng tôi. Theo lý thuyết, FBI chỉ muốn thẩm tra tôi. Nhưng rõ ràng là ở bất cứ thời điểm nào, lệnh bắt đều có thể được đưa ra, và những người chủ nhà có thể bị buộc tội là che giấu một kẻ phạm tội. Đó là thời điểm trong lịch sử dân tộc khi bạn có thể chìa tay ra với hầu hết thanh thiếu niên và nói: "Tôi đang hành động chống chiến tranh. Điều đó có thể có ích, có thể quan trọng, nhưng có thế rất nguy hiểm cho bạn. Bạn có giúp tôi không?". Một người bạn sau đó nói với tôi rằng cô ta đơn giản chỉ gọi những người quen biết trong các cuộc biểu tình và hoạt động chống chiến tranh khác, và nói với họ, "tôi cần căn hộ của bạn trong một vài ngày. Chúng tôi sẽ bảo quản nó. Đừng hỏi tôi bất kỳ câu gì?". Không ai thắc mắc, không ai từ chối. Đến nay, tôi vẫn chưa biết tên của họ.
Một dịp nọ, "ông Boston" xuống gác, băng qua đường tới bốt điện thoại ở góc phố, cách khoảng 50 thước từ căn hộ mà chúng tôi đang ẩn náu. Ông ta nói trong 10 phút với một người bạn của tôi là Lloyd Shearer ở Los Angeles, giúp tôi truyền đạt đến anh ta một số câu hỏi. Shearer là người cho tôi lời khuyên về các nhân vật tin cậy có thể làm việc được với giới truyền thông. Qua cửa sổ chúng tôi tình cờ nhìn thấy ông ta rời khỏi buồng điện thoại và quay trở lại phòng. Ngay khi ông ta bước chân vào cửa trước, có lẽ chỉ khoảng 12 phút từ lúc ông ta đặt máy, bốn chiếc xe cảnh sát lao về bốt điện thoại đó từ hai hướng. Xe phanh kít lại, và cảnh sát nhảy ra với súng lăm lăm, mặc dù bốt điện thoại trống không. Không còn nghi ngờ gì nữa, đường dây của Shearer đã bị nghe trộm. Chúng tôi nằm rạp xuống sàn dưới khung cửa sổ không có rèm che bởi cảnh sát bắt đầu ngó nghiêng tìm kiếm ngược xuôi trên con phố. Khi họ rời đi, chúng tôi chuyển sang một nơi khác nghỉ đêm. Đôi khi chúng tôi ở lại trong một căn hộ hai đến ba ngày.
Trừ khi chúng tôi chuyện chỗ, mà hầu hết diễn ra vào lúc nửa đêm, luôn chỉ có Patricia và tôi bên nhau. Nhìn lại, tôi nhận ra đó là hai tuần tĩnh lặng nhất, ít căng thẳng nhất mà chúng tôi có trong suốt hai năm tới. Chúng tôi không phải làm gì nhiều trừ việc quyết định chọn toà soạn nào, và cung cấp phần nào của nghiên cứu cho họ. Tất cả sắp đặt thực tế được thực hiện bởi những ân nhân của chúng tôi, bởi vì chúng tôi thậm chí không thể sử dụng điện thoại hay ra ngoài sử dụng điện thoại thẻ, hay làm những việc lặt vặt. Tôi nói với mọi người nơi mà họ có thể lấy tài liệu để chuyển đi. Nhưng họ lấy tài liệu từ những chỗ đó mà không nói cho chúng tôi biết họ làm vậy như thế nào.
Bạn của chúng tôi, "ông Boston" tỏ ra hết sức tài năng trong các hoạt động bí mật. Khi ông ta liên lạc với Ben Bagdikian giúp tôi, một số dàn xếp của ông ta để truyền đạt thông tin hay chuyện tài liệu khiến cho các biên tập viên sợ sệt bởi nó chi tiết hơn mức cần thiết. Nhưng về cơ bản, chúng phát huy hiệu quả. FBI không thể ngăn chặn bất kỳ vụ chuyên chở nào, bởi vì các phần của hồ sơ được tập kết đến một địa điểm từ các đường khác nhau. Đó là ý kiến của ông ta chia những phần liên tiếp thành từng gói riêng biệt. Ông nhớ lại cách làm đầu tiên của tôi, sau khi lệnh cấm thứ hai được ban hành, là trộn lẫn một vài tập hồ sơ vào với nhau, đảm bảo rằng tất cả đều được chuyển đi khi mà tôi bị bắt. Từ kinh nghiệm bản thân trước kia làm việc cho một nghị sỹ quốc hội, ông ta nhanh chóng thuyết phục tôi rằng tốt hơn hết là tiếp tục thực hiện bằng cách tiếp cận từng đối tượng một. Ông đảm nhận việc sắp đặt ông ta dành cho tôi việc chọn lựa đầu ra hàng ngày, và ông ta là người liên lạc và sắp đặt việc chuyện tài liệu.
Một điều khiến cho mọi việc phần nào dễ dàng hơn là không ai gặp khó khăn trong việc thương lượng để có được sự đồng ý của các tờ báo. Hầu hết tất cả các tờ báo chính đều không muốn đứng ngoài vụ này. Trong bối cảnh các thủ tục tố tụng đang được triển khai và sự tức giận rõ ràng từ phía chính quyền, thật ấn tượng khi không ai từ chối cơ hội tham gia. Sau tờ Bưu điện Washington, tờ Boston Globe hiển nhiên là lựa chọn tốt nhất cho đối tác kế tiếp. Mặc dù đây là một ấn phẩm địa phương, nhưng nó lại là một trong những tờ báo phản chiến tiên phong và mạnh mẽ nhất. Trường hợp tương tự là tờ St. Louis Postdispatch. Theo tôi nghĩ, họ đã đủ điều kiện để nhận được một lệnh huấn thị. (Trên thực tế, họ đã nhận được một lệnh cấm, cùng lúc với tờ Globe). Như Sanford-Ungar ghi lại, có thể là một sự trùng hợp ngẫu nhiên rằng cả bốn tờ báo bị cấm, trong số 20 tờ đã in các phần của hồ sơ, đều phê phán mạnh mẽ chính quyền Nixon và bày tỏ nghi ngờ về cuộc chiến.
Đối với các tờ báo khác, tôi lựa chọn trên cơ sở những tính chất đặc biệt. Tờ Thời báo Los Angeles, tờ báo mà tôi nghĩ là đã đưa tin tốt về cuộc chiến, là ấn phẩm của nơi tôi đã sinh ra; Knight, hệ thống gồm 11 tờ báo, trong đó có cả thành phố Detroit nơi ba tôi ở, và tờ Người đưa tin Cơ đốc giáo là tờ báo chính của cha tôi (ông gửi cho tôi đơn đặt báo dài hạn trong nhiều năm).
Bạn bè giúp mua thức ăn, báo chí, các vật dụng trang điểm, áo sơ mi, đồ lót và tất. Patricia và tôi hàng ngày cùng đọc báo và theo dõi tin tức trên ti vi. Tôi đặc biệt nhớ lại một chương trình mà chúng tôi xem vào cái ngày cuối cùng của thời gian yên tĩnh bên nhau. Đó là chủ nhật, ngày 27-61971, một ngày trước khi tôi trình diện tại trụ sở toà án liên bang. Tướng Maxwell Taylor đang được Martin Agronskyk phỏng vấn, trong một chương trình lúc trước đã bị nghe lén.
Ông ta miêu tả đề xuất của ông ta với Tổng thống Kennedy tháng 11-1961. Ông ta nói với Agronsky và công chúng nước Mỹ 10 năm sau đó: "Tôi không đề xuất sự tham gia của các lực lượng chiến đấu. Tôi đã nhấn mạnh rằng, chúng ta chỉ nên đưa đến các lực lượng kỹ sư và hậu cần, để thực hiện các công việc hậu cần và giúp đỡ trong sự kiện tắm máu năm 1961. Vì vậy, đó không phải là một lực lượng chiến đấu… Tôi không đề xuất gì khác ngoài ba sư đoàn tiểu đoàn lính bộ … à, xin lỗi, ba tiểu đoàn kỹ sư…".
Đã một thập kỷ trôi qua kể từ thời điểm những đề xuất đó được đưa ra, và vị Tổng thống nghe đề xuất của ông đã chết.
Tôi nhớ lại hai điều khi mà tôi nghe ông ta nói: bộ sậu của Tổng thống nghĩ rằng họ có quyền nói dối vô hạn, và "hãy chú ý những điều ông nói, tướng quân, những bức điện của ông sắp được công bố ngày nào đó gần đây".
Hai ngày sau khi nội dung của cuộc phỏng vấn được công bố, Toà án Tối cao dỡ bỏ lệnh cấm, và tờ Thời báo nối lại việc xuất bản. Số báo ngày hôm sau đăng câu chuyện của thời kỳ Kennedy. Trong số những văn bản tờ báo công bố trong ngày thứ tư có những bức điện cấm sao chụp gửi Tổng thống vào cuối tháng mười năm 1961, đề cập việc đưa ngay lập tức lực lượng lục quân của Mỹ vào chiến trường như "là một hành động cần thiết nếu chúng ta muốn lật ngược chiều hướng xấu hiện nay của tình hình… Trên thực tế, tôi không tin rằng kế hoạch cứu vãn miền Nam Việt Nam sẽ thành công nếu không hành động này" và cho rằng vai trò của các "kỹ sư" để "tung hoả mù" tỏ ra không còn hợp lý".
Đó là một lời khuyến nghị hoàn toàn trái ngược mà Taylor đưa ra vào thời điểm đó, năm 1961, và kéo dài trong nhiều năm. Một thập kỷ lừa gạt kết thúc với lời buộc tội của tôi. Nếu lịch sử vẫn còn giá trị để lừa gạt, thì nó cũng đáng để phơi bày, dù cho có phải trả giá bằng cuộc sống của chính mình.
Tạp chí Time (Thời đại) liên lạc với tôi thông qua Charlie Nesson, một giáo sư Luật học của Harvard, người đồng ý tham gia vào nhóm cố vấn pháp lý của chúng tôi để viết một câu chuyện trên trang nhất về tôi. Nhưng họ cần phỏng vấn tôi.
Derek Shearer, cùng với chúng tôi, thảo luận điều này với cha tôi Lloyd. Cha tôi kiên quyết thuyết phục tôi không nên làm như vậy. Ông nói những phóng viên nhật báo sẽ tức giận nếu tôi dành quyền độc quyền cho một tờ báo nào đó, đặc biệt là tạp chí Times, tờ báo mà họ coi thường (chủ bút của tạp chí Times Henry Grunwald, nhất quyết cấm đoán và chèn ép những phóng viên của ông ta viết về cuộc chiến. Một vài trong số họ đã xin thôi việc). Họ sẽ chỉ coi tôi như một kẻ tìm kiếm sự nổi tiếng cá nhân. Tôi nên tiếp tục duy trì sự tập trung của dư luận vào cuộc chiến và nội dung của tài liệu, không phải vào cá nhân tôi. Tôi nhắn với tạp chí Times rằng cuộc phỏng vấn là không thể thực hiện được. Tôi không có thời gian. Tờ báo tiếp tục gây sức ép. Họ nói họ sẽ không thể đăng lên trang nhất nếu không phỏng vấn tôi. Họ có quy định về điều này.
Tôi nói, điều đó thật tệ. Tạp chí Times đề nghị dành cho tôi ba trang để nói bất kỳ điều gì tôi muốn, không biên tập, như là một phần của bài báo. Đề nghị đó thật hấp dẫn và tôi cảm thấy dằn vặt khi phải từ chối cơ hội này. Nhưng tôi biết điều đó sẽ làm chệch con đường tôi đang đi, và tôi nên chú tâm vào những điều sắp xảy ra. Cuối cùng, Tạp chí Times buộc phải đăng bài báo đó. Tôi được cho biết rằng, kể từ bài báo viết về Adolf Hitler in năm 1943, đây là lần đầu tiên một bài trên trang bìa được đăng mà không có phần phỏng vấn cá nhân.
Đến phút cuối, những biên tập viên thuyết phục tôi chỉ trả lời họ một câu hỏi: Mắt tôi màu nâu hay xanh? Chúng tôi trả lời rằng mắt tôi màu xanh. Họ chỉ hỏi thế thôi. Mặc dù vậy, điều đó rõ ràng tạo nên sự khác biệt. Sau đó, ai đó từ tạp chí Time đưa cho tôi bản in thử đầu tiên với bức hình của tôi trên trang bìa, đôi mắt nâu.
Tạp chí Times lấy bức hình của tôi (đen trắng) từ cha tôi ở Detroit. Tạp chí Life cũng vậy. Bố tôi có các album ảnh của tôi. Một số trong đó được chụp khi tôi đang ở Việt Nam, hầu hết là ở Rạch Kiến, mặc bộ đồ chiến đấu và mang một khẩu súng tiểu liên K do Thuỵ Điển sản xuất. Tạp chí Life có một bức ảnh lớn của tôi nằm trên cánh đồng lúa, với khẩu tiểu liên ngang vai. Một bức ảnh khác cho thấy tôi trong bộ đồ lính thuỷ đánh bộ màu xanh da trời. Tôi từng nghĩ rằng những bức hình đó từ Cha có thể giúp tôi thoát khỏi tình thế khó khăn, ngăn cản Nhà Trắng tuyên truyền rằng tôi là một kẻ không yêu nước. Nhưng sự việc diễn ra ngược lại. Việc công bố những bức ảnh đó đưa đến một nhận định rằng tôi là một kẻ được chăng hay chở, dễ thay đổi, có chút gì đó điên rồ bởi sự thay đổi cực đoan của bản thân tôi, cho dù việc đó có thể đặt ra câu hỏi là tại sao tôi được tin tưởng rất lâu với nhiều bí mật và được tham vấn ở cấp cao, bởi cả những đảng viên Dân chủ hay Cộng hoà. Ngay cả những bài báo thông cảm nhất cũng khai thác bi kịch của tình cảnh khốn đốn khiến tôi thay đổi quan điểm. Tiêu đề trên Life là "Từ Diều hâu đến Bồ câu hung tợn". Tôi nghĩ tính từ miêu tả tình cảnh hiện tại của tôi thật thú vị, bởi vì nó dành cho giai đoạn trước với bức tranh tôi mang khẩu súng tiểu liên.
Sự chứng thực của cha về tôi ở Detroit rất có lợi cho tôi.
Tôi đọc nó trong các bản tin của hãng AP và nhìn thấy ông một vài lần trên tivi. Điều đó làm tôi cảm thấy ấm lòng. Xét cho cùng, ông là một đảng viên Đảng Cộng hoà. Người anh cấp tiến của tôi không thể nói chuyện với ông về chính trị. Cha tôi (lúc đó 80 tuổi) đã hai lần bỏ phiếu cho Nixon. Tuy nhiên, khi ông ta được hỏi về tôi, ông không chỉ tỏ ra cảm thông. Ông hùng hồn tuyên bố hoàn toàn ủng hộ những gì ông cho rằng tôi đang làm. Khi trả lời phỏng vấn tờ Detroit News, ông nói: "Daniel đã từ bỏ mọi thứ để cống hiến cuộc đời nó để chấm dứt cuộc tàn sát điên rồ đó… Nếu con trai tôi đã cung cấp cho họ báo cáo đó, và nếu chính phủ buộc tội nó… thì thế đấy, nó có thể đang cứu sống nhiều thanh thiếu niên, nếu không thì họ sẽ bị gửi tới nơi đó (Việt Nam)". Bài báo tiếp tục: Ellsberg nói con trai của ông đã cho ông "biết rất nhiều điều tồi tệ khi đọc về cuộc chiến đến mức mà chúng ta không thể phí thời gian để nói về nó khi chúng ta ở cùng nhau. Chúng ta biết chúng ta đang đứng ở đâu - và chúng ta đang bị dồn vào chân tường".
Tôi không cho ông biết một chút gì về những gì tôi đang dự định, hoặc đang thực hiện, không lời cảnh báo (ngay cả tôi cũng không nói trước được điều gì) về những điều có thể xảy ra. Tôi không thể gọi điện cho ông khi tôi đang ẩn trốn. Nhưng trong các bài phỏng vấn, ông trình bày các vấn đề hệt như tôi đã mớm lời cho ông. Thực tế còn tốt hơn. Ông nói về Hiến pháp và vai trò của tự do ngôn luận trong nền dân chủ của chúng ta, về cuộc chiến kinh hoàng, vô vọng và sai trái, về những người đã bị nói dối cho đến lúc chết bởi sự lừa đảo của các vị Tổng thống của họ, về những sinh mạng mà tôi đang cố gắng cứu vớt. Tôi run lên vì cảm động khi nghe những lời đó từ ông. Một tuần sau khi chúng tôi đi vào hoạt động bí mật, theo đề nghị của tôi, Tom Oliphant chuyển tải thông điệp, trong bài báo về tôi trên tờ Globe, rằng: "Ông (tác giả) muốn cha, Harry Ellsberg… biết rằng ông (tác giả) biết ơn sâu sắc cho với những lời ủng hộ mà ông (cha của tác giả) tuyên bố trước báo giới tuần trước". Tất cả những điều này đến từ đâu? Tom nói với tôi sau đó: "Từ chính bản thân anh. Lúc đầu tôi ủng hộ cuộc chiến, nhưng những lá thư của anh từ Việt Nam làm tôi sáng mắt".
Những gì đang xảy ra ở nước Mỹ thật đáng ngạc nhiên và chưa từng có. Ngành công nghiệp báo chí, trong vòng 30 năm trở lại đây hoặc lâu hơn nữa, mỗi khi động đến chính sách đối ngoại và các vấn đề quốc phòng luôn bằng lòng với việc dựa vào các văn kiện của chính phủ, bỗng nhiên nổi loạn khắp nơi.
Hết tờ báo này đến tờ báo khác lên tiếng đòi cơ hội, không chỉ để đăng một phần của câu chuyện mà còn vượt qua ranh giới, trở thành sự phản kháng dân sự cực đoan. Chưa bao giờ trong lịch sử có một lệnh cấm hoạt động của báo chí. Trước khi có phán quyết của Toà án tối cao, đã có bốn lệnh được đưa ra, và cũng có thể lên đến hai mươi.
Chương 29
Chuyển vào hoạt động bí mật (2) Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Sau lệnh hạn chế tạm thời ban đầu được đưa ra với tờ Thời báo New York, tất cả các tờ báo tham gia đăng nội dung tập hồ sơ đều thách thức lại tuyên cáo chính thức của Nhà Trắng và Bộ Tư pháp rằng họ đang gây thiệt hại nghiêm trọng đến an ninh quốc gia. Những cá nhân và cơ quan đưa ra tuyên bố đó được biết đến như là các trụ cột của chính phủ. Đối với bất kỳ ai trong số họ, trước khi sự việc xảy ra, dám thách thức lại phán quyết khẩn cấp của Tổng thống đồng thời là Tổng Tư lệnh quân đội trong thời kỳ chiến tranh, bằng hành động cụ thể và ở mức độ như vậy, là không thể tưởng tượng được, theo đúng nghĩa đen.
Đọc tin tức và theo dõi tình hình qua tivi từ các nơi ẩn náu khác nhau, tôi nghĩ điều này thật tuyệt vời: Họ đang ở đúng trong tiến trình mà tôi đã trải qua, học cách nghĩ cho chính họ, tự đánh giá về những gì đúng đắn cần phải làm trong một cuộc khủng hoảng, phát hiện ra rằng họ sẵn sàng chấp nhận cáo buộc và đối mặt với các hình phạt nặng nề khi họ không còn lựa chọn nào khác. Trong bối cảnh như vậy, tôi nhận thức nghĩa vụ cần phải mang cơ hội này đến càng nhiều người càng tốt. Điều đó có nghĩa là các mạng lưới truyền hình cũng cần có cơ hội để tham gia vào cuộc nổi loạn này.
Các kênh tin tức truyền hình đã sẵn sàng dành một nửa thời gian hoặc nhiều hơn trong chương trình thời sự đêm khuya để đối diện với chính phủ, nhưng việc đưa tin không đặt họ vào trong tình thế của các tờ báo đã đăng tải nội dung của hồ sơ. Các kênh truyền hình mới chỉ đưa tin về cuộc nổi loạn, chứ không tham gia. Nhưng hiện nay, khi các đồng nghiệp báo viết dám đương đầu với thách thức để thể hiện lòng can đảm thật sự, truyền hình quốc gia cần phải có cơ hội để chung sức với họ.
Chúng tôi bắt đầu với kênh truyền hình NBC bởi vì tôi đã xem hình ảnh của ông Chủ tịch tập đoàn, Julian Goodman, trên chương trình thời sự buổi đêm, ủng hộ việc tờ Thời báo New York công bố công trình nghiên cứu bí mật. Một người bạn của chúng tôi đã lách qua nhiều cấp quản lý tại NBC để mang tin nhắn chúc mừng của tôi đến Goodman, và lời đề nghị giúp ông cùng với tờ Thời báo New York công bố một phần tài liệu chưa phát hành trong Hồ sơ Lầu Năm Góc trên kênh truyền hình của ông. Trong vòng nửa giờ, Goodman từ chối lời đề nghị. ABC từ chối nhanh hơn, ngay sau khi nghe lời đề nghị. Nhưng CBS chứng tỏ mối quan tâm thực sự, dựa trên thời gian của họ mà cân nhắc.
Quyết định cuối cùng không thuận cho chúng tôi. Nhưng họ đưa ra quyết định đó một cách miễn cưỡng sau một ngày xem xét kỹ lưỡng ở cấp lãnh đạo cao nhất. Cân nhắc chủ yếu là CBS lúc đó đang dính líu vào một vụ đối đầu pháp lý liên quan đến bộ phim tài liệu của hãng về quan hệ công chúng của giới quân sự, Vụ bán tháo Lầu Năm Góc. Một Uỷ ban của quốc hội đề xuất buộc tội CBS không tuân theo lệnh của Quốc hội, từ chối giao nộp cuốn phim gốc để điều tra. Hạ nghị viện đang chuẩn bị bỏ phiếu về đề xuất này. Frank Stanton của CBS và hầu hết nhân viên dưới quyền nghĩ rằng điều đó sẽ tác động xấu cho cuộc bỏ phiếu, và họ sẽ phải chịu quá nhiều áp lực trong cùng một lúc nếu chống lại chính sách bảo mật của Lầu Năm Góc lúc này. Tôi hiểu điều đó, và tôi tôn trọng thực tế rằng, trái ngược với hai kênh truyền hình NBC và ABC, CBS đã thực sự cố gắng hết sức. Chính vì vậy, vài ngày sau, khi cả ba hãng truyền hình, thông qua các nhà trung gian, đề nghị phỏng vấn tôi trong lúc tôi vẫn còn hoạt động bí mật, tôi đã dễ dàng chọn CBS.
Tôi hy vọng rằng CBS sẽ chọn phóng viên Walter Cronkite, phát thanh viên của chương trình thời sự buổi tối, người được coi là "người đàn ông đáng tin cậy nhất của nước Mỹ". Và Cronkite đã đến. Sau khi trở về từ Việt Nam sau trận Tổng tiến công Mậu Thân năm 1968, anh ta đã nói với khán giả rằng chúng ta đang sa lầy trong "bế tắc", một từ mà Nhà Trắng rất sợ nói tới. Tổng thống Johnson, khi xem chương trình này, đã nói với các đồng sự "Tôi vừa mất Trung Mỹ". Vài tuần sau, ông ta rút khỏi chiến dịch tranh cử Tổng thống.
Chiều muộn ngày 23-6-71, Cronkite và nhóm của anh ta đến một ngôi nhà lớn ở Cambridge, nơi tôi đang đợi sẵn.
Một số đoạn của buổi phỏng vấn được trình chiếu trên chương trình thời sự sớm buổi tối, và một chương trình khác muộn hơn, trong vòng nửa tiếng đồng hồ, từ 10h30 đến 11h trong cùng buổi tối. Trong phần chính của buổi phỏng vấn, tôi có cơ hội để trình bày với khán giả truyền hình cả nước tại thời điểm nhiều người xem truyền hình nhất về chiến lược bí mật của Nixon và sự tương tự của nó với những gì tôi đã thực hiện tại Lầu Năm Góc năm 1964 trong một thời gian nhất định.
Một số đoạn, bao gồm cả phần mở đầu và kết thúc của chương trình như sau:
Cronkite (mở đầu): Mặc dù còn nhiều tranh cãi, nhưng cái tên duy nhất được nhắc đến nhiều nhất như là người cung cấp tài liệu cho tờ Thời báo, Daniel Ellsberg, cựu nhân viên của Bộ Ngoại giao và Lầu Năm Góc, và sau đó ít khi xuất đầu lộ diện, hôm nay đã đồng ý trả lời phỏng vấn tại một địa điểm bí mật. Nhưng ông từ chối thảo luận về vai trò của ông, nếu có, trong việc công bố hồ sơ. Tôi hỏi ông ấy, theo ông, những phát giác quan trọng nhất liên quan đến các tập hồ sơ của Lầu Năm Góc là gì?
Ellsberg: Tôi nghĩ rằng, bài học được rút ra là tất cả mọi công dân của đất nước này đều không thể trả nổi cái giá mà họ đã để cho Tổng thống tự mình lãnh đạo đất nước, cả về đối nội và đối ngoại, mà không có sự giúp đỡ của Quốc hội, cũng như không có sự trợ giúp của công luận…
Cronkite. Có phải việc đính chính thông tin công khai tuỳ thuộc vào cá nhân các nhà lãnh đạo ở Washington hơn là do quy định của pháp luật?
Ellsberg: Tôi không đồng ý với nhận định này. Với tôi, dường như các "nhà lãnh đạo" - những người mà các bạn hay liên tưởng đến các quan chức hành pháp, hay nhánh Hành pháp của chính phủ - đã củng cố một ấn tượng trong chúng ta trong suốt một thế hệ vừa qua, đồng nhất Nhánh Hành pháp với Chính phủ. Và thực sự họ là những nhà lãnh đạo mà theo cách này chính phủ có thể không hoàn toàn lành mạnh nếu chúng ta vẫn tự coi mình là một nền dân chủ. Trên thực tế, tôi thực sự kinh ngạc trước phản ứng của Johnson, coi những phát giác đó "gần như là tội phản quốc", bởi vì nó gây ra một cảm giác rằng những hành động gây tổn hại cho danh tiếng của một chính quyền nhất định, một cá nhân nhất định thực sự là tội phản bội quốc gia. Điều đó đồng nghĩa với quan niệm: "Tôi chính là nhà nước". Và chân thành mà nói, rất nhiều Tổng thống, không chỉ Johnson đâu, đều có cái cảm giác như vậy. Điều mà tôi nhận thức sau khi đọc tài liệu đó là chúng ta phải luôn ghi nhớ rằng đây là một đất nước tự điều hành. Chúng ta chính là chính phủ.
Về khía cạnh thể chế, Hiến pháp quy định sự phân quyền, cho Quốc hội, cho toà án, một cách không chính thức cho báo chí, được bảo vệ bởi Tu chính án thứ nhất … Tôi nghĩ rằng chúng ta không thể để các quan chức của Nhánh ành pháp quyết định thay cho chúng ta những gì công chúng cần biết, về thành tích cũng như cách thức họ đang thực hiện nhiệm vụ của họ…
Cronkite: Bằng cách nào mà người ta có thể giữ bí mật tài liệu nghiên cứu này ở Nhà Trắng?
Ellsberg: Thực tế các quan chức của chính phủ đã giữ kín những bí mật này, họ đã dành cả cuộc đời của họ học cách ngậm miệng. Tôi cũng là một người trong số đó.
Cronkite. Một số người nói, tài liệu đó còn chưa đầy đủ, hay là "một phần lịch sử bị đánh mất". Có phải vậy không?
Ellsberg: Đó mới chỉ là điểm xuất phát. Đó là điểm bắt đầu của một thời kỳ lịch sử. Tôi có thể nói, đó là màn khởi đầu chính, nhưng chỉ là mở màn… Trong bảy nghìn trang của tài liệu nghiên cứu đó, tôi không nghĩ có một dòng nào đề cập đến một dự đoán về tác động có thể có từ chính sách của chúng ta đối với thương vong của người Việt Nam, hoặc người tị nạn, và ảnh hưởng sinh thái của hoá chất diệt cỏ. Cũng không có một dự đoán hay tính toán nào về những tác động đã xảy ra, không hề. Và tài liệu chỉ đơn giản phản ánh những lo ngại nội bộ trong những quan chức của chúng ta. Tài liệu không đề cập gì đến việc các quan chức của chúng ta không hề lo ngại về tác động từ chính sách của chúng ta đối với người Việt Nam.
Cronkite: ông miêu tả thế nào về những người mà họ không có chung cảm xúc khi đọc được điều này, khi biết được điều nọ, khi họ cũng có quyền tiếp cận với những bí mật đó như ông. Có phải họ lạnh lùng? Có phải họ vô tâm? Có phải họ độc ác?
Ellsberg: Tất nhiên, nhận định thông thường, mô tả thông thường về họ là họ thuộc số những nhân vật đứng đắn nhất, đáng kính trọng nhất và trách nhiệm nhất mà xã hội chúng ta có. Về khía cạnh lai lịch của họ, đánh giá đó thuyết phục. Nếu đọc được những dòng lịch sử đó, tôi nghĩ những người khác cũng cảm thấy như tôi. Nhưng tôi không thể không có cảm giác rằng sự đứng đắn, nhân tính của họ, sẽ được đánh giá một phần bởi những quyết định mà họ đưa ra, nguyên nhân mà họ đi đến quyết định đó, và hậu quả của chúng. Tôi sẽ không nhận xét về họ. Bằng chứng đã rõ ràng.
Tôi chắc chắn rằng, tại thời điểm này, nhiều người sẽ đau đớn hơn tôi khi nghe câu chuyện, tất nhiên bởi vì tôi đã quen thuộc với nó, đã đọc đi đọc lại vài lần. Nhưng tất cả người Mỹ hiện nay sẽ đau đớn khi đọc hồ sơ này - nhiều phần khác sẽ sớm được công bố - và phát hiện ra rằng, những người mà họ kính trọng, tin tưởng và dành cho quyền lực, khinh thường họ như cách họ khinh thường những đồng minh Việt Nam của chúng ta.
Cronkite: Ông nói sao về những hiệu ứng tức thì (của những phát giác này) đối với cuộc chiến trong những ngày này, tháng 6-1971?
Ellsberg: Vâng, cuộc chiến vẫn đang tiếp diễn… Tôi hy vọng rằng Thượng viện sẽ làm được nhiều hơn. Tôi hy vọng rằng họ nhận thức ra trách nhiệm của họ đối với công dân của họ, đối với công dân của đất nước này, và đối với các cử tri, và họ sẽ làm nhiều hơn để tái đắc cử. Họ là những người tự do, những người dám gánh vác trách nhiệm để chám dứt cuộc chiến tranh này.
Cha tôi có một câu nói yêu thích trong Kinh thánh mà tôi hay thường được nghe khi còn là một đứa trẻ: "Sự thật sẽ giải phóng bạn". Và tôi hy vọng rằng, với việc công khai sự thật - công khai trên báo chí, ở các gia đình, ở nơi mà nó cần phải được công bố, nơi mà các cử tri có thể thảo luận - sự thật đã thoát ra khỏi hộp kín, và không có cách nào khác để cất nó vào hộp trở lại - tôi hy vọng sự thật sẽ giải thoát chúng ta khỏi cuộc chiến. Tôi mong muốn chúng ta có thể bước qua cuộc chiến tranh… sao cho lịch sử của 20 năm kế tiếp sẽ không giống như lịch sử của 20 năm vừa qua.
Trong phần tường trình trước Toà án Circuit của Quận Columbia, thứ ba, ngày 22-6, tờ Bưu điện Washington đã thừa nhận những ảnh hưởng pháp lý của những nỗ lực do nhóm hoạt động bí mật chúng tôi trong việc tiếp tục phân tán tài liệu "Tờ báo cũng cảnh báo toà án phúc thẩm rằng các nỗ lực của chính phủ cuối cùng sẽ trở nên vô ích với thực tế là ngày càng nhiều các tờ báo đăng tài liệu đó". Một điều chắc chắn là: "Sự tiết lộ công khai nội dung của tài liệu sẽ sớm đến với công luận Mỹ". Sự chắc chắn của tiến trình này phụ thuộc vào khả năng mạng lưới của chúng tôi bị FBI thâm nhập và tóm gọn, cũng như phụ thuộc vào sự cung cấp các bản sao. Tất cả văn bản công bố đều được phát ra trực tiếp hay gián tiếp từ chúng tôi.
Một yếu tố may mắn không thể thiếu khác là thời điểm và tính gấp rút gây áp lực sao cho Patricia có thể chụp tài liệu kịp thời mặc dù không một ai dự đoán trước được những tình huống đặc biệt đó đã làm cho chúng trở nên đặc biệt giá trị.
Nhân vật được Nixon bổ nhiệm, thẩm phán Roger Robb, đưa ra vấn đề thông tin tiếp tục được tiết lộ trên các tờ báo khác tự đặt ra câu hỏi rằng liệu có phải chính phủ "đang yêu cầu chúng ta kiểm soát một bầy ong". Ông ta dùng từ này có lẽ để chỉ các báo, nhưng từ "bầy ong" diễn tả chính xác đặc điểm của đội ngũ những người hoạt động bí mật của chúng tôi.
Thứ năm, ngày 24-6, phép ẩn dụ "một đàn ong" bị lu mờ bởi hình ảnh so sánh ngầm "vỡ đập". Trên khắp đất nước, mười một tờ báo trong hệ thống Knight - Detroit, Miami, Tallahassee, Akron, Boca Raton, và hai tờ báo ở mỗi thành phố Philadenphia, Charlotte, và Macon - cùng với tờ Thời báo Los Angeles, đồng loạt được phát hành với những tiết lộ mới. Cùng ngày đó, tờ Thời báo New York kháng án lên Toà án Tối cao để xem xét lại quyết định phúc thẩm có lợi cho chính phủ của toà án Circuit. Cùng với nhiều yêu sách khác, Alexander Bickel đại diện cho tờ Thời báo yêu cầu một buổi điều trần ngay lập tức bởi vì "không chỉ quyền được thông tin của công chúng đã bị vi phạm trong vòng một tuần lễ mà tờ Thời báo, tờ báo đã dũng cảm đi tiên phong trong việc công bố Hồ sơ Lầu Năm Góc, đang bị buộc phải nhường đường cho các tờ báo khác".
Thông tin tiếp tục được các tờ báo công bố bất chấp nỗ lực của Bộ Tư pháp. Có lẽ, cũng vì lý do đó mà, một thời gian sau khi cơ quan này đưa ra lệnh hạn chế đối với tờ Boston Globe, Bộ Tư pháp dường như từ bỏ việc đưa ra các lệnh cấm. Không có thủ tục pháp lý nào được triển khai đối với Thời báo Chicago Sun - Times, Thời báo Los Angeles hoặc bất kỳ tờ báo nào thuộc hệ thống báo chí Knight, mặc dù về nguyên tắc, tất cả những ấn phẩm này đều có nguy cơ gây ra tổn hại lập tức và nghiêm trọng đối với quốc gia mà chính phủ đã tuyên bố trong các trường hợp trước đó.
Buổi sáng thứ sáu, ngày 25-6, năm vị thẩm phán của Toà án Tối cao bỏ phiếu để xác định liệu có xử gấp vụ việc của Tờ Thời báo New York và Tờ Bưu điện Washington. Họ đồng ý nghe tranh luận vào ngày hôm sau trong một phiên toà họp vào buổi sáng thứ bảy chưa từng có trong lịch sử.
Bốn vị thẩm phán - Hugo Black, William Douglas, William Brennan và Thurgood Marshall - bất đồng ý kiến với quyết định nghe tranh luận "nói rằng họ đã có thể từ chối vụ việc này, và ngay lập tức dỡ bỏ mọi hạn chế đối với tờ Thời báo và Bưu điện". Rõ ràng, để dỡ bỏ lệnh cấm, cần phải thuyết phục ít nhất một trong số các thẩm phán còn lại. Do đó, tôi muốn thêm nhiều tờ báo vào danh sách những kẻ nổi loạn vì hai lý do. Trường hợp xấu nhất, nếu Toà án Tối cao duy trì lệnh cấm trong một thời gian ngắn, tôi muốn công bố càng nhiều nội dung của tài liệu càng tốt trước khi điều này xảy ra.
Hơn nữa, khi tin tức càng lan rộng, thì càng nhiều cơ hội mà một hoặc hơn nữa các thẩm phán đang lung lay, giống như Bobb và số đông trong bồi thẩm đoàn của Toà D.C Circuit, sẽ có ấn tượng rằng việc đưa ra lệnh cấm còn cần phải tranh luận thêm. Khi các thẩm phán tranh luận, tôi muốn cung cấp cho họ thêm các bằng chứng rằng hệ thống tư pháp đã tỏ ra hoàn toàn không còn khả năng ngăn cản dòng thông tin lưu chuyển tự do (Điều khoản Bổ sung lần thứ nhất chưa bao giờ quy định nhiệm vụ này cho hệ thống tư pháp).
Tất nhiên, Bộ Tư pháp có động cơ trái ngược. Tôi nghi ngờ nếu họ tin rằng có cách nào đó mà họ có thể chặn đứng dòng thông tin. Nhưng, rõ ràng Bộ Tư pháp cho rằng họ có thể củng cố lập luận trước Toà án Tối cao nếu họ nhấn mạnh quan điểm về tính khẩn cấp và nghiêm trọng của việc tiết lộ thông tin mà họ ra sức gây sức ép trong hai tuần qua bằng việc truy bắt người cung cấp thông tin như một kẻ tội phạm hình sự.
Các bài báo đưa tin chứng tỏ rằng cơ quan này đang cố gắng để có được một bản cáo trạng và lệnh bắt dành cho tôi trước khi Toà án Tối cao họp vào buổi sáng thứ bảy. Vấn đề có thể là không một ai trong số các tờ báo chấp nhận chứng thực (hoặc đã từng chứng thực) rằng tôi đã cung cấp các tập hồ sơ.
Tôi cũng chưa thừa nhận điều này. Gần đây, nhất là buổi phỏng vấn của Cronkite vào ngày 23-6, tôi từ chối bình luận về vai trò của tôi, bởi vì chưa có dấu hiệu rõ ràng rằng chính quyền có định khởi tố hay không. Bộ Tư pháp đã có bằng chứng chi tiết rõ ràng rằng thông cáo báo chí của McGovern và McClosky khẳng định tôi đã đưa tài liệu cho họ và tôi đã quả quyết sẵn sàng chịu bắt giam để công bố thông tin này.
Nhưng, không có tuyên bố của tôi (hoặc của một phóng viên đã nhận tài liệu từ tôi) thì điều đó không đủ để chứng minh tôi đã cung cấp các văn bản đó cho báo chí.
Về việc sao chép tài liệu, vợ cũ của tôi đã đưa ra bản khai có tuyên thệ mà con tôi và tôi đã mớm lời cho cô ấy. Tony Russo từ chối làm chứng. Nhưng trước đề nghị được dành cho quyền miễn trừ và đối mặt với khả năng bị tạm giam vì khinh thường pháp luật nếu từ chối, Lynda Sinay đã cung cấp bằng chứng. Với chứng cứ đó, quan toà Venetta S. Tasopoulos ra trát bắt giam tôi ngay tối thứ sáu ngày 25-6. Lệnh bắt này được đưa ra kịp thời để đưa vào hồ sơ họp của Toà án Tối cao vào sáng thứ bảy.
Khi luật sư riêng của tôi Charlie Nesson tìm đến tôi với lệnh bắt đó, ông ta nói rằng tôi phải trình diện với cơ quan công quyền ngay lập tức. Tôi nói: "Tôi không thể làm như vậy. Tôi còn rất nhiều bản sao của tài liệu để phân phát".
Charlie nói tôi không còn cơ hội nào khác. "Nếu anh không trình diện, anh sẽ trở thành một tên tội phạm đang lẩn trốn".
"Tệ thật. Tôi không thể kết thúc như vậy".
Charlie nhắc đi nhắc lại điều đó và rời khỏi để tham khảo ý kiến với Boudin. Khi trở lại, ông ta hỏi: "Anh cần bao nhiêu lâu để thoát khỏi phần hồ sơ còn lại".
"Một vài ngày", tôi trả lời.
Sau khi bàn bạc với tôi, Charlie và Boudin gọi đến Bộ Tư pháp và cố gắng thuyết phục họ với ý tưởng tôi sẽ trình diện ngay lập tức nếu Bộ Tư pháp đảm bảo tôi sẽ được thả vào cuối tuần mà không cần bảo lãnh. Như chúng tôi đã dự đoán, họ không thành công. Charlie gọi điện lại cho tôi và hỏi: "Khi nào anh có thể tới được?"
"Sáng thứ hai".
Charlie gọi cho luật sư đại diện ở Boston và nói với ông ta rằng tôi sẽ trình diện vào sáng thứ hai, không sớm hơn. Ông luật sư nói: "Ông biết rằng, anh ta sẽ không làm như vậy".
Charlie quá quyết: "Vâng, anh ta sẽ làm như vậy".
Yên lặng trong một phút, Luật sư đại diện nói: "Ồ, được rồi, FBI sẽ không thể tìm thấy anh ta cho đến ngày hôm đó".
Charlie nói: "Ông biết không, ông đang nói chuyện trên một đường dây bị nghe trộm". Đó là giả định mà các luật sư của tôi đưa ra, mặc dù họ không biết thực sự về điều đó.
"Ông đang đùa đấy hả".
"Không hề".
Viên quan chức của Bộ Tư pháp thốt lên: "Ôi, Chúa ơi" và cúp máy.
Charlie kể lại câu chuyện này cho tôi và nói, "Anh có hai ngày". Tôi xem lại những gì còn lại và quyết định xem sẽ chuyện chúng cho ai. Tất nhiên, tôi không nhất thiết phải làm như vậy. Tôi có thể trình diện ngay và giao lại công việc này cho ai đó, nhưng từ trước đến nay, tôi là đầu tầu của quá trình này và tôi muốn trụ lại đến phút cuối cùng. Sau khi hai mươi tháng nỗ lực, và sau hai tuần thắng lợi vừa qua, thách thức công khai và thành công, tôi không hề muốn rời bỏ khi các nhà chức trách bảo tôi phải làm như vậy. Luật sư của tôi còn ở vào một tình trạng khó xử hơn, có nguy cơ dính líu vào một vụ rắc rối pháp lý, nhưng họ gánh chịu mà không một lời phàn nàn. Khi Toà án Tối cao đang nghe tranh luận, họ tuyên bố tại một cuộc họp báo ở Boston rằng tôi sẽ trình diện tại Văn phòng luật sư tại Boston lúc 10.00 sáng thứ hai, ngày 28-6. Họ cũng không biết gì nhiều về nguyên nhân của sự trì hoãn này.
Sáng thứ bảy, tôi chia các bản sao còn lại thành hai phần và cuối tuần, nhóm của chúng tôi chuyển chúng đến toà soạn báo Người đưa tin Cơ đốc giáo và Tuần tin tức. Đến đêm chủ nhật, tủ đựng tài liệu đã sạch trơn. Chúng tôi đã sẵn sàng lộ diện vào sáng ngày hôm sau. Tôi không biết điều gì sẽ xảy ra trong trường hợp bảo lãnh. Hai ngày với tư cách là một kẻ chạy trốn có thể không thuyết phục được thêm một vị quan toà để cho phép tôi bước ra khỏi toà án. Trong căn phòng ở nhờ cuối cùng, chúng tôi nghĩ đây có thể là đêm cuối cùng chúng tôi bên nhau. Trước lời thúc giục quyết liệt của chính phủ trong buổi sáng chủ nhật đề nghị Toà án Tối cao tiếp tục ngăn chặn việc công bố thông tin cho công luận Mỹ, tôi cảm thấy thật bõ công để chứng minh trên thực tế nỗ lực của chính phủ là vô ích, trong khi các thẩm phán đang cân nhắc, để các tờ báo sẵn sàng hành động như thể họ không bị ràng buộc gì.
Buổi sáng ngày thứ hai, ngày 28-6, Charlie Nesson đến để cùng chúng tôi đến toà án liên bang thưa kiện.
Ông bày tỏ hy vọng sẽ có nhiều nhà báo ở đó. Tôi mặc bộ đồ đẹp nhất mà ai đó đã "ăn trộm" ra khỏi căn hộ của tôi. Đó là một món quà cưới của người anh rể và là bộ complê may duy nhất mà tôi từng có. Tôi mặc nó trong suốt phiên toà. Trong những ngày này, trước khi vụ Watergate diễn ra, dường như bất kỳ ai đến toà án với một bộ complê lịch sự cùng cà vạt luôn có vẻ như vô tội trước hội thẩm đoàn.
Charlie đưa cho tôi lời khuyên của một nhà báo rằng FBI đang cố gắng một cách tuyệt vọng để tóm được tôi trên đường trước khi tôi trình diện tại toà án. Sự bất lực của FBI trong nỗ lực truy bắt tôi hai tuần qua khiến họ lúng túng, trong khi đó tôi đang phân tán hồ sơ và xuất hiện trên kênh truyền hình quốc gia, và tìm kiếm sự minh chứng vào phút cuối. Bản thân tôi cũng cảm thấy ấn tượng về sự thất bại của họ trong việc tìm kiếm tôi hay ngăn cản bất cứ bản sao nào của hồ sơ trước khi chúng xuất hiện. Một vài ngày sau đó, tôi hỏi luật sư của tôi, Leonard Boudin: "FBI thực sự giỏi cái gì?"
Leonard trả lời: "Bắt kẻ đi đầu thú".
Theo kinh nghiệm quá khứ, Boudin tin rằng Bộ Tư pháp hào hứng muốn trình diện tôi trước ống kính camera như là một kẻ tội phạm bị bắt giam, với còng số tám, nếu không nói là xích sắt. Charlie nói tôi có thể gặp rất nhiều xe cảnh sát ở trên đường dẫn tới trụ sở toà án. Ông ta cho rằng chính phủ sẽ rất hài lòng nếu tóm được tôi, thậm chí ở những phút cuối cùng, trước khi tôi bước vào Quảng trường Bưu điện. Ông ta thuê một chiếc taxi đến chở chúng tôi đến đó. Ông hướng dẫn người lái xe theo một lộ trình lòng vòng. Chúng tôi đi vòng ra rất xa và qua Charles trên một chiếc cầu ít được sử dụng.
Sáng hôm đó, tôi hình dung trong đầu một tuyên bố ngắn, tôi muốn nói với báo giới nếu tôi có cơ hội trước khi bị bắt.
Đây có thể là cơ hội đầu tiên cho tôi đứng ra nhận trách nhiệm duy nhất về việc tiết lộ hồ sơ. Khi tôi còn hoạt động bí mật và chưa công khai nhận tôi là nguồn gốc của hồ sơ, tôi không thể chứng thực giả thuyết là đồng nghiệp cũ đã khai với FBI để thoát khỏi sự nghi ngờ. Giờ đây, tôi muốn bắt đầu tuyên bố hùng hồn và công khai rằng tôi làm việc này với trách nhiệm của cá nhân và "một mình", với tư cách như là một nhân vật trong chính phủ, một người được phép biết các thông tin mật. (Rõ ràng, ngay khi tôi quyết định, tôi không đơn độc, mà nhận được sự giúp đỡ quan trọng từ phía bạn bè, gia đình và những người phản đối chiến tranh). Đó là điểm chính mà tôi muốn nói, nhưng đó cũng là tuyên bố đầu tiên tôi phát biểu trực tiếp về động cơ và hy vọng của bản thân tôi.
Trong khi đi lòng vòng, tôi chợt nghĩ ra rằng Patricia cần phải có một bản sao những điều mà tôi muốn nói, để trong trường hợp tôi bị bắt khi đang phát biểu hoặc trước khi tôi có thể nói ra, cô ấy có thể phát ngôn thay tôi. Trên chiếc ghế sau của chiếc xe tắc xi, Patricia ngồi kề bên, tôi viết ra tuyên bố của mình trên vài trang giấy viết thư và trao cho cô ấy. Tôi nói với cô ấy rằng nếu cảnh sát tìm ra được chúng tôi trước khi chúng tôi đến nơi hoặc bắt tôi đi đâu đó trước khi tôi kịp nói điều gì hoặc trước khi tôi kịp kết thúc, cô ấy sẽ tiến về phía micro và kết thúc bài phát biểu giúp tôi.
Charlie ngồi ở ghế đằng trước với người lái xe. Tất cả mọi người - trong lúc tôi đang tập trung nguệch ngoạc viết - theo dõi các xe tuần tra và đợi nghe tiếng còi rú vang. Nhưng những con đường mà người tài xế chọn hầu như vắng tanh, ngay cả trong buổi sáng thứ hai. Ngay khi tôi dừng bút và trao những tờ giấy cho Patricia, chiếc taxi rẽ ngoặt qua góc phố và dừng lại trước lối vào Quảng trường Bưu điện. Con đường đông nghịt người từ đầu này đến đầu kia. Một số họ giương cao dấu hiệu ủng hộ tôi. Chúng tôi xuống xe và tiếng hoan hô dậy vang khi đám đông kéo đến xung quanh.
Thoạt tiên, đám đông dường như tập hợp toàn những người mà chúng tôi quen biết, nhưng không có một ai trong số đó là những đồng nghiệp lâu năm của tôi trong chính phủ và Rand mà hầu hết là các bạn bè trước và sau đó, đặc biệt là từ Boston và Cambridge và trên khắp vùng Bờ Đông. Điều đó giống như một bữa tiệc sinh nhật bất ngờ, hoặc chương trình "This is your life"(*), hoặc những kinh nghiệm chết lâm sàng mà nhiều người đã kể lại sau cơn hôn mê, rằng khi họ đi qua một đường hầm tối để đến ánh sáng, họ gặp lại tất cả những người yêu thương.
Ở một đầu của quảng trường nhỏ là toà nhà Post Office với toà án liên bang và văn phòng luật sư Mỹ bên trong. Tôi nhìn thấy những người trông giống như quan chức, cùng cảnh sát đứng ở các bậc cầu thang. Nhưng có vẻ họ không muốn bắt tôi. Họ cư xử giống như những người tốt bụng. Rõ ràng, do tôi đã tiến những bước dài mà không bị còng tay, họ sẵn sàng từ bỏ cuộc chơi và để tôi tự đến với họ. Họ chờ đợi trong khi chúng tôi ôm lấy nhau, bắt tay với phóng viên trong đám đông.
Họ bị nhấn chìm bởi một làn sóng báo chí. Chưa bao giờ tôi thấy nhiều nhà báo, phóng viên ảnh, phóng viên truyền hình đến như vậy. Họ vây quanh chúng tôi. Không có sự ngăn cách nào giữa tôi với họ để phát biểu. Tôi nói trước một rừng micro trước mặt. Tôi tự diễn thuyết. Đám đông ép sát vào tôi. Patricia không cần phải phát ngôn hộ tôi nữa. Tôi nói:
"Mùa thu năm 1969, theo sự chủ động của cá nhân, tôi nhận trách nhiệm báo cáo với Chủ tịch của Uỷ ban Đối ngoại Thượng viện thông tin trong cái gọi là Hồ sơ Lầu Năm Góc, bao gồm cả tài liệu nghiên cứu về các cuộc đàm phán của Mỹ, những điều chưa từng được tiết lộ cho báo giới. Đến thời điểm đó chỉ có tôi và hơn một chục cá nhân khác có quyền tiếp cận những nghiên cứu này. Đến mùa xuân năm nay - hai cuộc xâm lược sau đó - khoảng 9 ngàn người Mỹ nữa và hàng trăm ngàn người dân Đông Dương bị chết, tôi chỉ có thể ân hận rằng tại thời điểm đó, tôi đã không phơi bày lịch sử trên báo chí cho người dân Mỹ biết. Hiện nay, tôỉ đã hoàn thành công việc đó, một lần nữa, với sự chủ động của cá nhân tôi.
Tất cả những hành động đó trái ngược với quy định bảo mật và, thậm chí, trái ngược với cách thức xử lý thông tin của Bộ Quốc phòng. Tuy nhiên, với tư cách là một công dân có trách nhiệm, tôi cảm thấy không thể hợp tác thêm nữa trong việc che giấu thông tin này đối với công luận Mỹ. Tất nhiên, hành động của tôi có thể gây nguy hiểm cho bản thân, và tôi sẵn sàng chịu trách nhiệm về mọi hậu quả do quyết định của mình gây ra. Đó có thể là hậu quả cho cá nhân tôi, gia đình tôi.
Nhưng dù hậu quả đó có ra sao, cuối cùng chúng cũng không thể so sánh với những hậu quả mà tôi, cùng với hàng triệu người Mỹ khác, đã từng vui vẻ chấp nhận khi trước để phục vụ cho tổ quốc này.
Đối với tôi đây là một hành động của hy vọng, một hành động của lòng tin. Hy vọng rằng sự thật sẽ giải thoát cho chúng ta khỏi cuộc chiến này. Tin rằng những người dân Mỹ hiểu biết sẽ buộc những công chức của họ ngừng nói dối, ngừng tàn sát và chấm đứt chết chóc ở Đông Dương do những người Mỹ gây ra".
Cuối cùng, khi chúng tôi rẽ đám đông để bước vào toà nhà liên bang, một phóng viên hỏỉ tôi: "Ông cảm thấy thế nào khi vào tù?". Tôi hỏi lại: "Chắc hẳn ông sẽ không vào tù để giúp chấm dứt chiến tranh chứ?"
Chúng tôi bước lên bậc thềm nơi các quan chức đang chờ đợi. Một số họ đang mỉm cười. Họ đón mừng chúng tôi trong lòng, và những cánh cửa đóng lại bỏ mặc đám đông hò reo bên ngoài. Hai giờ đồng hồ sau, khi tôi bước ra ngoài, mọi người vẫn chờ đợi và hoan hô một lần nữa. Tôi được thả với 50.000 ngàn đô tiền bảo lãnh mà không chắc chắn sẽ phải chờ đợi việc kiện cáo hoặc xét xử tiếp theo.
Sáng thứ ba, ngày 29-6, trong khi Toà án Tối cao đang xem xét các trường hợp Hồ sơ Lầu Năm Góc, tờ Người đưa tin Cơ đốc giáo đăng bài báo của riêng họ dựa trên tài liệu nghiên cứu đó với quảng cáo đây là phần đầu tiên trong một chùm ba bài liên tiếp. Tôi biết rằng Cha sẽ rất vui khi thấy tờ Người đưa tin Cơ đốc giáo trên thực tế đã tán thành hành động của tôi.
Đêm ngày thứ ba, 29-6, Thượng nghị sỹ Mike Gravel của Alaska bỏ lá phiếu của mình, hai lần: lần thứ nhất tại Thượng viện, nơi ông là nghị sỹ duy nhất cố gắng cản trở cuộc chiến và cuối cùng là người duy nhất nhận Hồ sơ Lầu Năm Góc từ tôi và cố gắng đọc chúng để ghi lại. Lần thứ hai là vào đêm khuya hôm đó, trong một buổi điều trần của Tiểu ban xây dựng và mặt bằng của Uỷ ban các công trình công cộng của Thượng viện mà ông triệu tập một cách vội vã.
Ông đã vội vã rời khỏi phòng tập thể thao của Thượng viện thứ sáu, ngày 18-6, để nhận một cuộc điện thoại mà trợ tá của ông nghi ngờ rằng do tôi gọi. (Tờ Bưu điện Washington công bố bài báo đầu tiên vào buổi sáng hôm đó và biết rõ sẽ bị cấm). Từ một chiếc máy điện thoại công cộng, không giới thiệu bản thân, tôi hỏi liệu ông có nghiêm túc về việc kéo dài thời gian để trì hoãn việc thông qua lệnh cấm, và liệu ông có muốn sử dụng Hồ sơ Lầu Năm Góc cho mục đích này. Ông trả lời "Có" một các chắc chắn với cả hai câu hỏi.
Ngày 24-6, bất chấp mối lo ngại với tư cách là một nhà báo, Ben Bagdikian giữ lời hứa với tôi, chuyển chiếc hộp với tập tài liệu thứ hai đến cho Gravel (từ chiếc xe này sang chiếc xe khác) trước khách sạn Mayflower ở Đại lộ Connecticut.
5 giờ 55 phút sáng thứ ba, ngày 29-6, Thượng nghị sỹ Gravel bị ngăn cản bởi một thủ đoạn nghị trường của một nghị sỹ Đảng Cộng hoà, không thể tiến hành việc kéo dài thời gian ở phòng họp nghị viện. Ý định của ông là kéo dài cho đến khi dự thảo hết hạn 30 giờ sau đó giữa đêm ngày thứ tư.
Ông tiếp tục sử dụng ảnh hưởng cá nhân, bởi không nghị sỹ nào đủ can đảm cản trở. Ông triệu tập một cuộc điều trần vào buổi đêm trong một tiểu ban ít tiếng tăm mà ông làm chủ tịch.
Với tư cách là Thượng nghị sỹ duy nhất có mặt, ông bắt đầu đọc Hồ sơ Lầu Năm Góc để ghi vào hồ sơ điều trần lúc 21h45 trước ống kính camera. Ông ghi lại phần tài liệu còn lại mà Bagdikian đã chuyển đến cho ông vào băng khi ông ngưng buổi điều trần một mình vào lúc 1 giờ sáng. Sau đó, với sự giúp đỡ của các trợ lý, ông phân phát hàng bọc những văn bản tối mật trước đó chưa từng công bố cho một đám đông nhà báo và cho hãng tin AP. Hãng tin này đã đưa những văn bản đó lên mục tin tức của nó và truyền đi khắp đất nước. Ông làm như vậy mà không có sự đảm bảo nào về quyền miễn trừ của đại biểu quốc hội cho những hành động trên, và với nhiều khả năng sẽ bị các đồng nghiệp tẩy chay, và nguy cơ bị khiển trách hay mất chiếc ghế nghị sỹ. Khi các thẩm phán của Toà án Tối cao chuẩn bị ra phán quyết buổi sáng hôm đó, các toà báo ở khắp Washington và các nơi khác đã có sẵn các bài báo dựa trên những tài liệu mật mà Ngài Thượng nghị sỹ đã phân phát.
Cũng trong buổi sáng thứ tư, ngày 30-6, khi tờ Monitor xuất bản kỳ hai, tờ Tin chiều của Long Island công bố những tiết lộ mới mà chúng tôi đã cung cấp cho họ cuối tuần.
Tờ báo này trở thành tờ báo cuối cùng có nguy cơ đối mặt với Bộ Tư pháp, bởi vì Toà án Tối cao ngay chiều hôm đó, bỏ phiếu với tỷ lệ 6-3 (cả Potter Steward và Byron White tham gia vào số đông), huỷ bỏ giá trị của tất cả các lệnh cấm trên cơ sở Hiến pháp và gạt bỏ mọi cản trở cho việc tiếp tục công bố Hồ sơ Lầu Năm Góc.
Chú thích:
(*) "This is your life" (Đây là cuộc sống của bạn) Một chương trình truyền hình quen thuộc của Anh, phát sóng thường kỳ kể từ năm 1955. Mỗi chương trình kể về câu chuyện cuộc đời của một nhân vật nổi tiếng, hoặc người đã giúp đỡ người khác Họ không biết trước về điều đó, và người dẫn chương trình mang lại cho họ ngạc nhiên ngay từ đầu chương trình. Họ được mời đến trường quay, nơi mà bạn bè, gia đình và những người khác xuất hiện với tư cách là các vị khách mời và kể chuyện về họ. Tất cả chi tiết về cuộc đời họ được ghi lại trong một cuốn sách bìa đỏ lớn, và sẽ được tặng lại vào cuối chương trình. Chương trình này đã trình chiếu đến năm 1987 do Eamonn Andrews phụ trảch và sau đó chuyển sang cho Micheal Aspel (1933 đến 2003). Một chương trình tương tự, với tên gọi tương tự được phát trên truyền hình Mỹ từ 1952 đến 1961 - ND.
Chương 30
Cuộc chiến tranh vẫn đang tiếp diễn Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Lời H. R. Haldeman nói với Tổng thống Nixon, trong băng ghi âm của Phòng Bầu dục, 14-7-1971 về tác động của Hồ sơ Lầu Năm Góc:
"Đối với một người bình thường, tất cả chỉ là một mớ văn chương cầu kỳ. Nhưng trong mớ văn chương cầu kỳ này lại nói lên một điều rất rõ ràng. Anh không thể tin vào chính phủ, anh không thể tin vào những điều họ nói, và anh không thể tin vào những lời phán xử của họ. Và niềm tin vào sự sáng suốt của Tổng thống vốn được thừa nhận rộng rãi ở Mỹ đã bị tổn thương nghiêm trọng, bởi nó chỉ ra rằng người ta sẵn sàng làm những điều mà Tổng thống muốn dù cho điều đó là sai lầm, và Tổng thống cũng có thể sai lầm(103)".
Thông điệp đó đã đến với quần chúng như một lời tuyên bố chung chung. Chính nhờ lệnh cấm đầy kịch tính của Nixon và thái độ bất chấp của phần lớn báo giới Mỹ mà sự chú ý đổ dồn vào nội dung những tài liệu đó đã vượt quá những trông đợi của tôi: phủ kín 50 trang tờ Thời báo New York, chiếm một nửa thời lượng bản tin tối trong suốt một tháng; xuất hiện trên trang nhất của không chỉ 19 tờ báo mà chúng tôi gửi bản sao mà hầu như toàn bộ tất cả các tờ báo trong nước. Và toàn bộ các tiêu đề và bài xã luận, trong suốt một tháng, ngày nào cũng nhắc lại thông điệp mà Haldeman đã tóm tắt một cách cô đọng và nhanh chóng.
Dù rằng thông điệp này xa lạ và khó lọt tai, nhưng không ai thực sự phản bác và không thể chối bỏ nó. Đó là một sự thay đổi trong ý thức của người Mỹ. Nó càng được củng cố sau khi bí mật về vụ Watergate được hé lộ. Một sự thay đổi chỉ đem lại những điều tốt đẹp nếu chúng ta vẫn là một nền Cộng hoà.
Tuy nhiên tôi đã sớm nhận ra rằng tâm lý của những cử tri và những nhà bình luận vẫn khó tin vào những lời suy luận đối với ông Tổng thống đương nhiệm. Ít nhất là họ cũng phản đối trên cơ sở là tôi không có những tài liệu tương tự như những tài liệu mà tôi đã cung cấp về những chính quyền tiền nhiệm. Đây là việc mà tôi phải sớm kết thúc trong vòng 2 năm tới, sau một cơ hội lớn để kiểm chứng điều đó. Bản cáo trạng của Bộ Pháp lý dành cho tôi, sau hai tuần truy nã rộng khắp nhưng thất bại, đã cho tôi thấy cơ hội của mình. Điều đó đã làm cho tôi trở nên nổi tiếng đến mức tôi có thể sử dụng để truyền tải thông điệp chính: cách thức dối lừa của cơ quan hành pháp, lạm dụng quyền lực thời chiến, và chiến lược vô vọng nhằm ngấm ngầm đe doạ và công khai leo thang bạo lực trong những Hồ sơ của Lầu Năm Góc trong suốt 23 năm qua vẫn tiếp tục được chính quyền Nixon theo đuổi, trong năm cầm quyền thứ ba và sau đó.
Hầu như chẳng có ai tin tôi cả. Tôi không có những tài liệu để chứng minh cho những điều tôi nói về chính sách bí mật của Nixon, và không ai trong chính quyền bước ra để cung cấp những tài liệu này. Bản cáo trạng đối với tôi về ba tội nghiêm trọng cấp liên bang, cuối năm đó đã tăng thêm khoảng một tá tội danh khác khiến tôi có thể sẽ bị phạt tù tổng cộng 115 năm - cùng với Anthony Russo, người cũng bị thay đổi cáo trạng, có thể tù 25 năm rõ ràng là nhằm ngăn chặn bất kỳ một sự tiết lộ trái thẩm quyền những thông tin giống như của chúng tôi, có lẽ cũng phát huy tác dụng. Có thể thông cảm được rằng, rất ít người trong công chúng muốn tin lời tôi nói về triển vọng của cuộc chiến và sự leo thang tiếp diễn, và vì tôi thiếu những bằng chứng thuyết phục hơn, nên họ không cảm thấy bị bắt buộc phải tin. Vì vậy, tôi chỉ có thể nói, tôi không định thuyết phục những người không tích cực tham gia vào phong trào phản chiến. Những nhà phỏng vấn chuyên nghiệp và hầu hết những nhà bình luận đều lắng nghe tôi và đối xử với tôi một cách trân trọng. Nhưng kể cả những người này và công chúng đều không thực sự nghiêm túc tin vào những lời cảnh báo mà tôi cố gắng truyền đạt: Cuộc chiến này chưa kết thúc và nó không phải đang trong tiến trình kết thúc, thậm chí nó đang mở rộng ra một lần nữa.
Thật không may, những sự kiện xảy ra đã chứng minh là tôi đúng. Tuy nhiên vào mùa thu năm 1971, sự lạc quan trong lời tuyên bố của Nixon về việc khai thông quan hệ với Trung Quốc đã khiến công chúng hiểu điều này nghĩa là cuộc chiến đã là chuyện cũ, lui vào lịch sử, những thông điệp của tôỉ lại trở nên thiếu sức thuyết phục và lạc lõng. Mọi người suy đoán trong thông điệp hào nhoáng của Nixon về chuyến thăm Trung Quốc sắp tới rằng một thoả thuận về Đông Dương đang được định hình. Có lẽ Tổng thống Nixon và Henry Klssinger cũng tin vào điều đó. Còn tôi thì không.
Tôi không thấy có một dấu hiệu nào là Nixon đã từ bỏ những mục tiêu cá nhân: nhằm ép miền Bắc rút quân khỏi miền Nam cùng với Mỹ hoặc chấp nhận một lệnh ngừng bắn nhằm để Chính quyền Thiệu vĩnh viễn nắm quyền tuyệt đối ở Sài Gòn.
Tôi cũng không thấy một dấu hiệu mong manh nào cho thấy Hà Nội sẽ chấp nhận những điều khoản này. Đối với miền Bắc Việt Nam, việc đồng ý ngừng bắn và trên cơ sở lời hứa về những cuộc bầu cử được tổ chức bởi chế độ chống cộng Sài Gòn thì cũng không khác gì những thoả thuận rỗng tuếch mà người Pháp đã đưa ra năm 1946 hay phương án của những "nhà bảo trợ" đưa ra trong Hiệp ước Geneva năm 1954. Tuy nhiên đó chính là điều mà Nixon nghĩ trong đầu; ông ta thậm chí còn không buồn thay đổi cái vỏ bọc của nó.
Những kí ức của ông ta về những năm 1954 đến 1960 khi ông đang là phó Tổng thống cũng sống động như của họ. Ông ta không hề có ý định cho phép có một cuộc bầu cử năm 1972 hoặc 1973 để rồi dẫn đến việc chia sẻ quyền lực ở Sài Gòn hoặc những người Cộng sản nắm quyền, cũng như Dwight Eisenhower hoặc John Foster Dulles đã từng làm năm 1954 và 1956. Thực ra tôi nghi ngờ rằng ông ta đang hy vọng lặp lại chính xác phương án Geneva mà Hà Nội cương quyết phản đối: nghĩa là Liên Xô và Trung Quốc sẽ lại ép một giải pháp như vậy đối với đồng minh nhỏ bé của mình, để đổi lấy việc cải thiện quan hệ với Mỹ. Tuy nhiên, mặc dù Nixon có kế hoạch thăm cả Trung Quốc và Liên Xô, tôi tin rằng sự đối đầu giữa Trung Quốc và Liên Xô sẽ vẫn tiếp tục, giống hệt trong thập kỷ trước, và đảm bảo cho Hà Nội sự trợ giúp đầy đủ để tránh hậu quả đó. Dù sớm hay muộn, năm sau hoặc năm sau nữa, sẽ có một đợt tấn công mới để rồi Nixon sẽ đáp trả bằng việc tăng cường ném bom và có lẽ cả những biện pháp còn cứng rắn hơn.
Trong khi đó, ông ta vẫn tiếp tục rêu rao về cái gọi là "những cuộc phản công bằng không quân vì mục đích phòng thủ" (đối với miền Bắc đến một mức độ ngang với mức ném bom thời Johnson. Ngay sau đêm Giáng sinh 1972, ông ta lệnh cho hàng ngàn máy bay ném bom miền Bắc Việt Nam suốt 5 ngày, đây là đợt oanh tạc dữ dội nhất kể từ năm 1968). Vậy là 6 tháng sau khi xuất bản Hồ sơ Lầu Năm Góc, khi mọi người hỏi rằng tôi nghĩ những tài liệu này đã đem lại điều gì, tôi trả lời:
"Chẳng có tác dụng gì". Chẳng có tác dụng gì liên quan đến cuộc chiến tranh, mối quan tâm lớn nhất của tôi. Mục đích chính của tôi không phải là thay đổi dư luận: mục đích chính của tôi là ngăn chặn việc ném bom, cuộc chiến tranh, và chính sách của Nixon. Như tôi thấy, cả ba đối tượng này đều chưa bị ảnh hưởng gì bởi dư luận Mỹ, hoặc bởi những tài liệu của tôi, suốt từ khi Nixon lên nắm quyền đến nay.
Hầu hết người Mỹ đều muốn rút khỏi cuộc chiến từ trước khi những tài liệu này được xuất bản; phần đông coi cuộc chiến là phi đạo đức. Có lẽ cả hai nhóm người này đều đang tăng lên sau khi họ đọc các bài báo liên quan đến hồ sơ và bất cứ điều gì mà họ biết. Nhưng tác động đến mức nào? Bất chấp tình cảm của đa số, Tổng thống tiếp tục kéo dài cuộc chiến bằng cách giảm bộ binh nhưng lại tăng cường ném bom và luôn liên tục thuyết phục công chúng rằng ông ta đang đi đến một giải pháp.
Ông ta lại lặp lại luận điệu đó vài tháng sau, tháng giêng năm 1972, tiết lộ rằng đã có một số cuộc hội đàm bí mật và ra vẻ như có một số lời đề nghị "hào phóng" mà ông biết rằng Hà Nội sẽ không bao giờ chấp nhận.
Khi đó tôi đang dành thời gian mấy tháng, trước phiên toà xét xử chúng tôi bắt đầu vào tháng Năm, để viết lời bình luận trong một tập hợp những bài viết của tôi về Việt Nam, nhan đề "Hồ sơ cuộc chiến". Vì tôi đã hoàn thành phần giới thiệu của cuốn sách vào cuối tháng ba, tôi buộc phải viết những nhận định đáng buồn rằng: "Cuộc chiến vẫn tiếp tục và vẫn chờ một "sự kết thúc" bất tận, trong khi các đợt ném bom vẫn diễn ra đều đặn với cường độ ngang với Chiến tranh thế giới lần II". Mấy ngày sau khi tôi viết những dòng đó, miền Bắc mở đợt tấn công chớp nhoáng. Ba năm nay, Mort Halpelin và tôi từng dự báo đợt tấn công này, Nixon và Kissinger từng tìm cách ngăn ngừa nó bằng những lời đe doạ, những đợt ném bom, những đợt xâm lược công khai vào lãnh thổ Campuchia, Lào, và chính sách ngoại giao tam giác với Liên Xô và Trung Quốc. Một niềm tin vô căn cứ rằng sức mạnh của những lời đe doạ và những sự leo thang ít nhất cũng ngăn ngừa được một đợt tấn công ở quy mô luôn là tâm điểm trong chính sách chiến lược của chính quyền Mỹ suốt 3 năm qua. Đợt tấn công nổ ra ngay vào năm bầu cử Tổng thống cho thấy sự thất bại hoàn toàn của chính sách trước đó. Như Halpelin và tôi cũng dự báo, họ phản ứng bằng một đợt leo thang dài hơi, chưa từng có.
Ngay từ ngày 1-4-1972, tôi đã tiên đoán được việc thả thuỷ lôi ở Hải Phòng và theo đó, tôi chắc rằng, sẽ có những đợt ném bom không hạn chế ra miền Bắc, bao gồm cả B52. Tôi cũng chẳng biết nói gì thêm sau những lời cảnh báo của mình trước đó. Đối với ý nghĩa của sự kiện này, đây là lúc để xuất bản những tài liệu cuối cùng của tôi về cuộc chiến, tài liệu mã số NSSM-1 và một tài liệu tự chọn. Tôi từng muốn xuất bản những tài liệu này vào mùa thu năm ngoái, ngay sau khi Hồ sơ Lầu Năm Góc được phát tán, nhưng Patricia đã khuyên rằng trong bối cảnh Trung Quốc đang muốn khai thông quan hệ với Mỹ và Quốc hội lại đang tạm hoãn, những tài liệu này sẽ có ít tác dụng.
Nay ít nhất thì những tài liệu này sẽ chứng minh được rằng Nixon có ý định thả thuỷ lôi ở Hải Phòng từ năm 1969 và sự thiếu hiệu quả của quân đội Mỹ đã được các nhà phân tích tình báo dân sự dự báo trước.
Những luật sư của tôi chắc rằng, việc tiếp tục tung ra tài liệu này ra sẽ dẫn đến thêm một tội danh nữa trong cáo trạng của tôi, như họ đã từng thấy ở năm 1971. Hơn thế nữa, nó lại liên quan đến tài liệu mật của Hội đồng An ninh quốc gia từ chính quyền hiện tại, loại tài liệu không thể biện luận là thuộc diện tài liệu "lịch sử" được. Do vậy việc tránh tội là hầu như không thể. Tuy nhiên, họ không gây sức ép với việc tôi chuẩn bị đưa ra lời kêu gọi. Và vì chúng tôi sắp phải đối đầu với một cuộc tổng tấn công mà chúng tôi đã tránh né trong 7 năm qua, cả Patricia cũng đồng ý rằng đây là thời cơ để chúng tôi làm tất cả những gì có thể. Sự nhượng bộ duy nhất mà tôi đồng ý với các luật sư của mình là tôi sẽ không khiêu khích Bộ Tư pháp bằng việc cung cấp 500 trang tài liệu mật tại một buổi họp báo hoặc công khai tuyên bố mình là nguồn cung cấp những tài liệu đó.
Một lần nữa, Thượng nghị sỹ Mike Gravel sẵn sàng đóng vai trò trung gian đưa thông tin vào Hồ sơ quốc hội của Thượng nghị viện và lần này là cả giới truyền thông nữa. Mặc dầu đang phải cố gắng bảo vệ những người phụ tá khỏi bị kết tội vì có vai trò trong việc xuất bản Hồ sơ Lầu Năm Góc tại nhà xuất bản Beacon - ông đã kháng án đến Toà án tối cao - ông vẫn khuyến khích tôi đưa cho ông ta bất cứ tài liệu gì tôi có. Tôi đã giao tài liệu NSSM-l cho ông để chờ thời điểm thích hợp. Vào tháng sáu ông bị Thượng nghị viện ngăn không cho đưa những văn bản trên vào Hồ sơ quốc hội qua một bài phát biểu tại Thượng viện. Dự tính được điều này, ông đã đưa những tài liệu này cho Jack Anderson và tờ Tuần tin tức và thế là chúng xuất hiện trong những bài viết nổi bật trên các báo Bưu điện Washington và Ngôi sao Washington, bắt đầu từ ngày 25-4-1972, chính vào ngày mà Thượng nghị viện ngăn cản Gravel đọc những tài liệu này trước Quốc hội.
Tám ngày sau, ngày 3-5-1972, tôi tranh thủ sự hiện diện của Thượng nghị sỹ Gravel và Hạ nghị sỹ Ron Dellums tại cuộc mít tinh trên bậc thềm trước toà nhà Quốc hội, là nơi tôi đang diễn thuyết - theo sự gợi ý của một trợ lý tư pháp của Dellum là ông Mike Duberstein - để Gravel có thể chuyển tài liệu cho Dellums. Sau khi cắt bỏ kí hiệu phân loại mật bằng một chiếc kéo, Duberstein đặt 500 trang tài liệu mật vào trong hộc dành cho những kiến nghị bổ sung cho Hồ sơ Quốc hội, theo đó tất cả đã được xuất bản vào ngày 10 và 11-5. Vậy là những Thượng nghị sỹ đang bàn cãi trong cuộc họp kín rằng liệu họ có đủ thẩm quyền để nhận tài liệu mật của Gravel hay cứ mặc kệ kí hiệu mật đi thì cuối cùng tất cả đều được đọc.
Tuy nhiên, chính quyền Mỹ cũng đã học được một vài bài học. Lần này không hề có yêu cầu báo chí hạn chế hoặc lệnh cấm của toà án, không phạt, không khiển trách, không tính thêm tội danh trong cáo trạng của tôi, mặc dù ông Tổng thống cũng như ông Chánh án Toà án tối cao biết quá rõ nguồn cung cấp một lượng thông tin mật ấy là từ đâu rồi. Những quan chức khôn ngoan đã không hề phản ứng hoặc bình luận gì trước việc xuất bản đó. Kết quả là, việc tiết lộ 500 trang văn bản bí mật của chính quyền Nixon chỉ gây một chút xáo động, không có tác động gì thực sự đáng kể.
Nỗi lo lắng của tôi về những điều sẽ đến với người dân Bắc Việt là hoàn toàn xác thực, bởi vì một đoạn băng ghi lại những đối thoại ở Nhà Trắng mãi đến gần đây mới được tiết lộ. Vào ngày 25-4-1972, buổi sáng mà tờ Bưu điện Washington lần đầu tiên cho đăng tài liệu NSSM-1 và những phân tích về việc thả thuỷ lôi ở Hải Phòng, có cuộc trao đổi trong Phòng Bầu Dục như sau:
Tổng thống Nixon: Chúng ta phải bỏ kiểu không kích 3 ngày liên tiếp (ở khu vực Hà Nội và Hải Phòng). Chúng ta ta cần phải nghĩ đến một đợt ném bom dốc toàn lực - kéo dài cho đến khi chúng … - Và bây giờ với việc đánh bom toàn lực tôi đang nghĩ đến những điều xa hơn thế. Tôi nghĩ đến đê đập, tôi nghĩ đến đường sắt, và tôi nghĩ đến tất nhiên, cả những bến cảng…
Kissinger: … Tôi đồng ý với ngài.
Tổng thống Nixon: … Chúng ta phải sử dụng lực lượng lớn …
Hai tiếng sau, vào buổi trưa, H. R Haldeman và Ron Ziegler cùng dự với Kissinger và Nixon:
Tổng thống: Chúng ta giết được bao nhiêu bên Lào?
Ziegler: Có lẽ là 10 ngàn hoặc 15 ngàn?
Kissinger: Nói chung ở bên Lào, ta hạ được khoảng 10, 15 ngàn…
Tổng thống: Thế đấy, quay lại chuyện đợt tấn công vào miền Bắc mà ta đang tính… nhà máy điện, bất kể cái gì còn lại - trạm xăng dầu, bến cảng… và tôi đang tính có lẽ ta sẽ nên đánh cả các đê đập. Điều đó sẽ làm chết nhiều người chứ?
Kissinger: Khoảng 200.000 người.
Tổng thống: Không, không, không,… tôi thà dùng bom nguyên tử còn hơn. Anh hiểu không hả Henry.
Kissinger: Điều đó, tôi nghĩ, có lẽ là quá nhiều.
Tổng thống: Bom nguyên tử, điều đó làm anh khó nghĩ à? Tôi chỉ muốn anh nghĩ rộng ra, Henry, vì Chúa(104).
Một tuần sau, ngày 2-5-1972, sau khi nghe Kissinger và Haig trình bày về lợi ích của việc kết hợp ném bom và phong toả, Tổng thống đã đồng ý tiến hành cả hai. Như ông ta tuyên bố: "Phong toả kết hợp ném bom toạ độ sẽ giúp chúng ta đạt được mục tiêu - khiến bọn Bắc Việt phải quỳ gối"(105).
Vậy là, dù cho "kể cả Miền Nam sụp đổ" thì, một khả năng theo dự báo của Kissinger, miền Bắc dưới áp lực kép sẽ "phải trao lại tù nhân, nước Mỹ không thể bị đánh bại. Chúng ta không thể thua ở Việt Nam… Vì vậy chúng ta phải rút kiếm. Vì vậy - việc phong toả sẽ tiếp tục. Và tôi phải nói là… tôi thích nó … và tôi muốn mọi người hiểu rõ điều này. Lý thuyết về chiến lược đánh bom toạ độ là đúng đắn và tôi muốn nơi đó phải bị đánh bom nát vụn. Nếu chúng ta hành động, chúng ta hãy dội bom lên lũ khốn kiếp đó khắp mọi nơi. Hãy cất cánh bay, hãy cất cánh bay".
Ngày 4-5, sau khi bàn luận về quyết định của mình với Kissinger, Al Haig, và John Connally, Nixon đã suy nghĩ về triển vọng cuộc chiến với Việt Nam. Nghe trong băng của Phòng Bầu Dục, ông ta đập xuống bàn như đang chỉ vào một tấm bản đồ tưởng tượng, hoặc có lẽ một tấm bản đồ thật ở đó:
"Việt Nam! Lũ khốn đó đang ở trong chỗ này, ngay chỗ này (đập) Đây là nước Mỹ (đập). Đây là Tây (đập) Âu, cái vùng nhỏ xíu kiêu căng, đã gây quá nhiều thiệt hại… Đây là Liên Xô (đập), và đây là (đập) Trung Đông… Đây là (đập) lũ Châu Phi ngu dốt… và đây là lũ Mỹ La tinh không đến nỗi ngu lắm. Đây là chúng ta. Chúng nó muốn gây sự với nước Mỹ. Bây giờ, mẹ kiếp bọn Ananút, chúng ta phải làm việc thôi. Chúng ta sẽ nghiền nát chúng. Đây chẳng phải là giận dữ hay gì cả. Những lời chê bai rằng tôi "nóng nảy" đều nhảm nhí. Đáng ra tôi phải làm việc này từ lâu rồi, tôi đã không nghe theo bản năng mình.
"Tôi sẽ cho thấy là nước Mỹ không thua. Tôi nói thẳng như thế, và chính xác là như thế. Miền Nam Việt Nam có thể thua. Nhưng nước Mỹ không thể thua. Điều này có nghĩa là tôi đã có quyết định. Bất kể điều gì xảy ra với miền Nam Việt Nam, chúng ta sẽ nghiền nát miền Bắc.
"Chỉ một lần, chúng ta sẽ phải dùng hết sức lực của đất nước này đối với cái nước nhỏ bé khốn kiếp kia: để chiến thắng trong cuộc chiến. Chúng ta không thể dùng từ "chiến thắng". Nhưng những người khác thì được".
Trong một cuộc trao đổi sau đó, Nixon có nói với Kissinger:
"Có một điểm duy nhất mà tôi và anh còn bất đồng… là liên quan đến việc đánh bom. Anh quá quan tâm đến lũ dân thường, còn tôi cóc cần, tôi không quan tâm".
Kissinger trả lời: "Tôi quan tâm đến dân thường vì tôi không muốn cả thế giới đoàn kết chống lại ông như chống lại một tên đồ tể".
Tại cuộc mít tinh trước toà nhà Quốc hội ngày 3-5, tôi đã tiên đoán được việc thả thuỷ lôi ở Hải Phòng sắp tới. Hoá ra, ông Tổng thống đã bí mật quyết định một ngày trước đó.
Việc này được tiến hành 6 ngày sau đó, vào ngày 8-5-1972.
Richard Nixon đã chờ đợi chiến dịch này kể từ khi chưa nắm quyền đến lúc nắm quyền, trong gần một thập kỷ. Tôi đã phản đối kế hoạch này, và lo rằng nó sẽ dẫn đến việc ném bom ồ ạt, và kéo dài. Tôi vẫn nhớ cảm giác chiều hôm đó và nói với Patricia, đó là ngày đen tối nhất của đời tôi. Sau đó khi chúng tôi chuẩn bị cho phiên toà ở Los Angeles, tôi nói với Mort Halpelin, người tham gia vào nhóm biện hộ với vai trò cố vấn: "Này, có lẽ chúng ta sắp kết thúc lời dự báo mà anh nói với tôi 3 năm trước".
Ông ta trả lời: "Không, Hà Nội vẫn chưa bị đánh bom".
Vào tháng bảy, sau khi nghe bản kiến nghị của hội thẩm đoàn tiến trình tranh tụng của chúng tôi bị hoãn lại sau khi Bộ Tư pháp phát hiện ra thiết bị nghe trộm điện tử trong số một luật sư của chúng tôi. Trong suốt quá trình trì hoãn kéo dài đó, tôi đã dành suốt mùa biểu tình năm 1972 để cảnh báo bất kỳ ai rằng tôi biết khả năng chiến tranh sẽ còn leo thang. Trong số đó bao gồm hầu như tất cả các đoàn báo chí đến đưa tin về việc tái đắc cử của Tổng thống tại Đại hội toàn quốc của Đảng Cộng hoà, và tại một cuộc họp báo do Hạ nghị sỹ McCloskey tài trợ. Ở khắp nơi, khán giả của tôi đều rất lịch sự nhưng vẫn hoàn toàn hoài nghi thông điệp của tôi. Họ thấy dễ tin hơn vào tuyên bố của Kissinger hồi cuối tháng 10 rằng "hoà bình đã ở trong tầm tay", thông điệp này đã đưa đến việc tái đắc cử của Tổng thống trong tuần sau đó với một chiến thắng áp đảo lớn thứ hai trong lịch sử nước Mỹ. Ở một vài góc độ, độ chênh lệch phiếu của Nixon còn cao hơn cả Lyndon Johnson năm 1964, người đã chiến thắng với khẩu hiệu "chúng ta không cần mở rộng chiến tranh nữa", ba tháng trước khi ông ta bắt đầu đánh bom Bắc và Nam Việt Nam.
Một tháng sau cuộc bầu cử và một tuần trước lễ Giáng sinh năm 1972, Tổng thống Nixon lệnh cho những chiếc B52 ra Hà Nội lần đầu tiên. Trong 11 ngày đêm tiếp theo - trong kỳ nghỉ Giáng sinh - máy bay Mỹ đã trút xuống Bắc Việt Nam 20.000 tấn bom (lượng chất nổ ngang với quả bom nguyên tử ném xuống Nagasaki). Con số này được cộng vào với con số 150.000 tấn được ném xuống Bắc Việt Nam từ tháng tư đến tháng mười.
Nếu tính từ thời điểm Hồ sơ Lầu Năm Góc được tiết lộ một năm rưỡi trước đó - sau khi đa số người dân Mỹ được thăm dò ý kiến cho rằng tham gia vào cuộc chiến là phi đạo đức" - thì Tổng thống Nixon đã ném khoảng 1,5 triệu tấn bom xuống vùng Đông Dương. Tức là ngang với toàn bộ số tấn bom mà Mỹ ném xuống châu Âu trong Chiến tranh thế giới thứ lần II.
Trong tuần lễ Giáng sinh năm 1972, tôi luôn được hỏi rằng tôi nghĩ gì về tác dụng của việc phát tán Hồ sơ Lầu Năm Góc đối với cuộc chiến. Tôi vẫn trả lời giống như câu trả lời một năm trước đó: "Chẳng có gì, chẳng có tác động gì cả. Điều này đúng cả với phong trào hoà bình rộng lớn, mà việc xuất bản những tài liệu này chỉ là một phần. Và không chỉ phong trào hoà bình mà cả toàn bộ phong trào chống chiến tranh cũng chẳng có tác động gì cả. Cả khối cử tri cũng không gây được tác động".
Trong suốt những tuần lễ Mỹ ném bom với mật độ dày đặc nhất trong lịch sử, 6 tuần sau thắng lợi vang dội của Tổng thống Mỹ nhờ lời hứa hẹn "Hoà bình trong tầm tay", tôi vẫn tiếp tục nói: "Người Mỹ chúng ta cũng có nhiều khả năng gây ảnh hưởng đến những gì đang xảy ra ở Hà Nội và Hải Phòng trong tuần này, như người Liên Xô có thể gây ảnh hưởng tới cuộc xâm lược Tiệp Khắc. Không như Liên Xô, chúng ta có một nền dân chủ thật sự. Điều mà chúng ta không có ở lúc này là một sự kiểm soát dân chủ đối với chính sách đối ngoại của Mỹ.
Vào cuối tháng 1-1973, Hiệp định Hoà bình Paris được ký kết, Mỹ dừng ném bom Đông Dương, trừ Campuchia vẫn còn bị ném bom tăng cường. Tuy nhiên, như tôi dự báo - cùng với Nhà Trắng - cái tiêu đề chính thức "Hiệp định về chấm dứt chiến tranh và lập lại hoà bình ở Việt Nam" vẫn chứng tỏ lối tư duy độc đoán. Hiệp định đã không đem lại một khoảng khắc hoà bình hay ngừng bắn nào cho miền Nam Việt Nam và không mở ra triển vọng nào cho việc kết thúc chiến tranh. Điều mà Kissinger và sếp của mình có trong tay vào tháng mười và đã thoả thuận lại, về cơ bản là không thay đổi. Tháng 1-1973, theo quan điểm của họ hoặc trên thực tế, chưa phải là lúc kết thúc cuộc chiến. Đó chỉ là một thoả thuận với Hà Nội về việc Mỹ đơn phương rút bộ binh để đổi lấy việc trao trả tù binh chiến tranh Mỹ, cùng với những lời cam kết rỗng tuếch về việc chuẩn bị và tiến hành những cuộc bầu cử công khai ở miền Nam Việt Nam, có sự tham gia của Mặt trận dân tộc giải phóng.
Vì lãnh đạo của cả Washington và Sài Gòn đều sớm cho thấy họ không có ý định tuân thủ những điều khoản về bầu cử, cục diện vẫn là Mặt trận dân tộc giải phóng bị gạt ra ngoài lề các hoạt động chính trị công khai trong miền Nam. Trong khi đó, chính quyền Thiệu, được sự hậu thuẫn của người Mỹ, vẫn tuyên bố nắm quyền lực hợp pháp và duy nhất. Vì vậy, sẽ không thể có triển vọng tiếp tục ngừng bắn như vậy đối với Mặt trận dân tộc giải phóng và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, hoặc đối với Việt Nam cộng hoà. Với việc chiến sự vẫn tiếp tục giữa Quân đội Việt Nam cộng hoà và Mặt trận dân tộc giải phóng (Việt Nam Dân chủ Cộng hoà), tôi dự đoán Mỹ chắc chắn sẽ ném bom trở lại miền Bắc, miền Nam Việt Nam, và Lào sau hai tháng tạm ngưng chờ quân Mỹ rút hết. Cuốn "Không hoà bình, Chẳng danh dự" của Larry Berman (2001), một tài liệu đầu tiên về chính sách của Nixon và các cuộc đàm phán đã phản ánh hầu như đầy đủ các tài liệu và các cuộc phỏng vấn của cả hai bên, khẳng định rõ rằng Nixon luôn có dự định đó. Nixon đã bí mật, nhắc đi nhắc lại những cam kết "đảm bảo 100%" với Tổng thống Thiệu rằng ông ta sẽ tái ném bom quy mô lớn càng sớm càng tốt.
Nixon thực sự có ý định thực hiện lời hứa đó, Kissinger cũng vậy. Như Berman tiết lộ, Kissinger ra sức thúc giục các đợt không kích với quy mô tương đương đợt Giáng sinh năm 1972, lại Lào và Việt Nam năm 1973, kể cả trước khi các lực lượng Mỹ kịp rút hết.
Tuy nhiên đợt ném bom mà Nhà Trắng chăm chăm thực hiện đã không xảy ra, vì những lý do, cuối cùng, chính là nền dân chủ Mỹ, và chế độ pháp quyền. Việc xét xử Tony Russo và tôi, với việc tranh tụng trước toà bắt đầu lại vào tháng Giêng đã bộc lộ cho công chúng thấy phản ứng của Nixon đối với việc phát tán Hồ sơ Lầu Năm Góc. Nhưng đó không phải là phản ứng duy nhất. Việc phát tán trái quy tắc của tôi đã làm khuấy động một chuỗi phản ứng trong bộ máy cầm quyền và dẫn đến việc kiềm chế rất hiệu quả sự lạm dụng những quyền lực thời chiến của Tổng thống Nixon trong vài năm sau đó, ngăn ngừa việc Mỹ ném bom trở lại Việt Nam và Lào, và rút ngắn cuộc chiến.
Chú thích:
(103) "Đối với một người bình thường" - Tổng thống và Haldeman, 15:09, 14 tháng 7, 1971, Phòng Bầu Dục. Cục hồ sơ An ninh quốc gia. Xem biên bản tại Cục hồ sơ An ninh quốc gia, Đại học George Washington, www.gwu.edy/NSAEBB
(104) "Chúng ta phải bỏ kiểu không kích" - Tổng thống và Kissinger, 10:45, 25 tháng 4, 1972, Toà nhà Văn phòng Hành pháp.
(105) "Phong toả kết hợp ném bom toạ độ" - Tổng thống và Haig, 24:42, 2-5-1972, Trao đổi tại Phòng Bầu dục 717-20.
Chương 31
Đường đến Watergate (1) Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Các băng ghi âm và biên bản công khai cho thấy hai phản ứng khác và phần nào trái ngược nhau của Nhà Trắng khi Hồ sơ Lầu Năm Góc lên trang ngày 13-6-1971. Một mặt, bản thân Nixon tỏ ra lạc quan với các nội dung được công bố, trong đó có những thông tin không mấy tốt đẹp về các Tổng thống tiền nhiệm, người của Đảng Dân chủ. Nhưng đồng thời ông sợ rằng sự việc sẽ là một tiền lệ cho những tiết lộ nay mai về hoạt động và chính sách bí mật ông ta đã và đang áp dụng với Đông Dương. Hai thái độ có phần trái ngược nhau chính là cơ sở dẫn đến những hành động của Tổng thống và người của ông. Nó đưa Nixon đến sự sụp đổ hoàn toàn về chính trị mà người ta vẫn gọi tên là vụ Watergate.
Nixon và Henry Kissinger lần đầu tiên nhắc đến vấn đề trên vào một ngày chủ nhật. Hai thái độ đã được bộc lộ. Gọi điện cho Tổng thống từ California, Kissinger bình luận:
"Theo dư luận(105), sự kiện này có thể sẽ có phần thuận lợi cho ta. Đây sẽ là cơ hội tốt để người ta thấy các chính quyền trước đã đẩy chúng ta đến với Việt Nam như thế nào… Tôi cho là dư luận cũng đã tự phát hiện ra vấn đề rồi, vì… nếu trước đây họ quy kết đây là cuộc chiến tranh của Nixon thì những gì bài báo chỉ ra là, nếu có là cuộc chiến tranh của ai đó thì đấy chính là chiến tranh của Kennedy, là chiến tranh của Johnson… Vì thế nếu phe Dân chủ vẫn luôn phàn nàn rằng… chúng ta sai lầm, thì nay đã rõ ràng … ai phải chịu trách nhiệm trước hết cho mớ hỗn độn này…"
Nó đã là một lời buộc tội chính quyền trước.
Sang ngày hôm sau Tổng thống mới tỏ ra thoải mái hơn với cách giải thích này. Nhưng ngay từ đầu ông đã lo sợ các hồ sơ "Lào và Campuchia"(107) - cụ thể là những đợt ném bom - trọng tâm trong các mục tiêu và chiến lược bí mật của Tổng thống có thể bị lộ ra ngoài từ chính Bộ Ngoại giao hay Bộ Quốc phòng.
Dù sao, Tổng thống cũng sẽ chỉ lo lắng nếu có những tiết lộ về chính quyền của ông. Ngoài ra ông không hề bận tâm tới các tiết lộ về đời những Tổng thống trước. Ông không sợ ảnh hưởng đến khả năng tiếp tục chính sách đối ngoại bí mật của mình. Quá lạc quan Nixon còn trông chờ những tiết lộ mới, chứng minh cho sai lầm của các lãnh đạo của đảng Dân chủ, đặc biệt là Kennedy. Với ông, Ted Kennedy là đối thủ khó chơi nhất trong năm 1972. Ông hy vọng những loạt bài này sẽ còn tiếp tục để gây thêm tai tiếng cho gia đình Kennedy.
Thứ hai, ngày 14-6, khi tờ Thời báo đã đăng được hai kỳ, vào 7 giờ 13 phút tối, Nixon trao đổi với Cố vấn đối nội, John Ehrlichman:
Ehrlichman: Thưa Tổng thống, thưa ngài Bộ trưởng Tư pháp (Mitchell) (108) đã gọi đến nhiều lần về những bài báo trên Thời báo New York. Bộ Tư pháp cho rằng nếu Bộ trưởng không cảnh cáo tờ Thời báo, thì ông có thể sẽ phải rút bỏ quyền khởi tố tờ báo này. Ông muốn biết liệu Tổng thống có đồng ý cảnh cáo Thời báo trước khi số báo đầu tiên của họ được tung ra vào ngày mai hay không?
Tổng thống: Hmmm.
Ehrlichman: Tôi thấy có những dấu hiệu không thuận lợi cho vấn đề này nếu tính đến cuộc bỏ phiếu tại Quốc hội (dự kiến vào thứ tư về dự thảo luật McGovern-Hatfield về cắt giảm ngân sách chiến tranh từ tháng 12-1971).
Tổng thống: Ý cậu là khởi tố tờ Thời báo?
Ehrlichman: Đúng thế.
Tổng thống: Quỷ thần ơi, tôi không muốn truy tố tờ báo. Tôi muốn truy ra tên khốn nào đã cung cấp tài liệu cho bọn họ.
Ehrlichman: Vâng, nếu chúng ta tìm ra kẻ đó.
Tổng thống: Đúng vậy… Tôi muốn rằng, chúng ta có thể kiện tờ Thời báo được chứ?
Ehrlichman: Hiển nhiên là được.
Tổng thống: Hãy đợi nào - đợi đã - có phải ngày mai bọn họ sẽ đăng thêm một câu chuyện?
Ehrlichman: Vâng.
Tổng thống: Tại sao không đợi đến ngày mai?
Ehrlichman: Đề nghị của Bộ trưởng là, ông nghĩ chúng ta nên có một hình thức cảnh cáo trước như thế nào đó với tờ Thời báo và sẽ tiếp tục làm như vậy nếu bọn họ vẫn không dừng lại. Như thế sẽ không mất đi quyền khởi kiện. Nhưng nếu không cảnh cáo trước, chúng ta sẽ bị xỏ mũi - ngồi đây và để bọn họ mặc sức mà không tỏ thái độ phản đối.
Tổng thống: Hãy đợi một ngày nữa. Cho bọn họ thêm một ngày, còn sau đó thì… tôi cũng chưa biết… chưa biết.
Kể cả trong lúc trò chuyện với Ehrlichman và với Mitchell ngay sau đó, dù lúc này đã đồng ý để Bộ trưởng Tư pháp đưa ra một lời cảnh cáo "sơ bộ"(109) cho tờ Thời báo ngay chiều hôm sau, Tổng thống cũng chưa hề nhắc đến lệnh đình chỉ xuất bản từ toà án. Họ mới chỉ nghĩ sẽ truy tố tờ Thời báo và người đứng đằng sau. Nội trong ba ngày đầu tiên, qua tất cả những biên bản ghi âm, chúng ta chưa một lần nào nghe thấy Tổng thống hay các cộng sự Nhà Trắng của ông, thậm chí Kissinger, bày tỏ ý kiến mượn lệnh của toà án để ngăn chặn việc xuất bản. Hình như chỉ Mitchell và Bộ Tư pháp mới nghĩ đến việc làm đó. Thứ ba Mitchell đề nghị toà án ra lệnh đình chỉ xuất bản lấy lý do việc tiếp tục sẽ gây tổn thương trực tiếp và không thể vãn hồi đối với an ninh quốc gia. Tổng thống nói với Haldeman rằng nếu công khai trước dư luận các chương về Kennedy trong Hồ sơ Lầu Năm Góc có thể có tác dụng tốt, "Lệnh của toà án chỉ có hiệu lực đối với tờ Thời báo thôi đúng không Bob?"(110) Haldeman khẳng định chắc chắn. Thảo luận với Haldeman và Kissinger tại Phòng Bầu Dục, Tổng thống nói: "Tiết lộ mớ tài liệu dính dáng tới Kennedy đi. Sẽ tiết lộ hết… Vì một phần đang bị rò rỉ rồi, sẽ để rò rỉ tất cả những gì ta muốn"(111).
Một phần mối quan tâm của Tổng thống với đối thủ Ted Kennedy là vì ông cần lôi kéo bộ phận cử tri dao động theo Đạo Thiên Chúa về phía mình, không để ngả về phe Dân chủ. Ứng cử viên hàng đầu cho cuộc chạy đua vào Nhà Trắng của Đảng Dân chủ lúc đó, Thượng nghị sỹ Edmund Muskie, cũng là một người Thiên Chúa giáo. Nixon cũng rất nóng lòng chờ đợi các tài liệu về vụ ám sát Tổng thống miền Nam Ngô Đình Diệm lên mặt báo. Tờ Thời báo đã gửi đơn khiếu kiện lệnh hạn chế xuất bản lên Toà án tối cao và có nhiều khả năng Toà sẽ đưa ra lệnh đình chỉ vĩnh viễn. Thời gian không còn nhiều. Tổng thống cần gấp rút công bố các chứng cớ tối mật về cái chết của nhà lãnh đạo theo Đạo Thiên chúa trong cuộc đảo chính được người anh trai của Ted Kennedy, Tổng thống Kennedy hậu thuẫn.
Thứ tư, Tổng thống nói với Henry Kissinger: "Tôi muốn đưa lên báo các tài liệu (112) về vụ ám sát Diệm. Cần một người bên anh làm việc này". Im lặng, ông Cố vấn an ninh quốc gia không nói gì. Tổng thống nói tiếp: "Thôi được, tôi sẽ làm".
Lúc đấy Kissinger mới nói: "Không nên để người bên tôi tiết lộ tài liệu mật".
Tổng thống nhắc lại: "Tôi sẽ công bố".
Sau khi Kissinger đi khỏi(113), ông gọi điện thoại và giao nhiệm vụ này cho Cố vấn Nhà Trắng Charles Colson. Ông này đảm bảo là mọi việc sẽ được hoàn thành, cho dù hôm thứ hai ông ta đã nói "Đơn giản chúng ta không thể cho phép báo chí đăng tải các văn bản mật"(114).
Trong nhiều ngày sau đó, tờ Bưu điện Washington và Boston Globe đều không được phép đăng bài do Mitchell liên tiếp yêu cầu hạn chế. Tôi gợi ý tờ Bưu điện đăng lên các tài liệu khác tạm gác bài về chính quyền Johnson vì tôi chỉ muốn đưa ra một trường hợp điển hình và không muốn dư luận nghĩ chỉ có chính quyền Johnson mới thường xuyên dối trá. Tờ Bưu điện nghe theo, đăng câu chuyện của Eisenhower, về quyết tâm ngăn chặn cuộc bầu cử ở Việt Nam từ năm 1954 đến 1956. Nhưng chủ bút của Globe, Tom Winship lại muốn có các thông tin về chính quyền Kennedy, lấy lý do rằng ở Boston người ta có những hứng thú đặc biệt với chuyện về gia đình Kennedy. Buổi tối hôm đó, cấp dưới báo cáo với Tổng thống Nixon là số buổi tối của tờ Boston Globe "có một bức hình lớn(115) của John F. Kennedy và bốn câu chuyện khác nhau… làm Kennedy phát điên". Ông hỏi: "Có cả Diệm chứ? Rất tốt?"
Tuy nhiên sự thực ngược lại. Câu chuyện về Diệm không xuất hiện trên tờ Boston Globe. Mitchell trước đó đã gọi đến cho chủ bút toà soạn này và nhắc nhở anh ta, như Winship nhớ lại:
"Tôi buộc phải làm như vậy(116) với các anh (yêu cầu lệnh đình chỉ từ toà án vì nếu không sẽ khiến các toà soạn khác không bằng lòng, sẽ không công bằng cho tờ Thời báo và Bưu điện".
Trong khi tờ Globe bị cấm đoán, thì tờ Chicago Sun - Times đã cho đăng các tài liệu về vụ ám sát Diệm vào ngay tối hôm đấy, ngày 22-6. Đây là tờ báo thứ tư đi ngược lại những cảnh cáo trước đó của chính phủ về nguy cơ đe doạ An ninh quốc gia.
Chicago Sun-Times cũng là tờ báo đầu tiên được phép xuất bản, trong ngày hôm đó cũng như nhiều ngày liên tiếp sau mà không hề bị doạ đình chỉ.
Trong khi đó, Tổng thống ngày càng quyết tâm với ý định tìm kiếm và phanh phui từ các hồ sơ mật những tài liệu có thể hạ thấp uy tín của cựu Tổng thống và anh em nhà Kennedy. Một chủ đề thường xuyên trở đi trở lại trong nhiều tháng sau đó và thậm chí nhiều năm là vụ việc nào để lộ ra cho báo chí thì sẽ có tác động lớn nhất: vụ Vịnh Con Lợn, khủng hoảng tên lửa Cuba, Bức tường Berlin hay là vụ ám sát Diệm. Đây rõ ràng là một công việc nghiên cứu không hề đơn giản, cần phải do một người có đầy đủ cảm quan về lịch sử cùng nhiều phẩm chất khác nữa, thực hiện. Sau khi đã xem qua danh sách các ứng cử viên cho công việc này do Haldeman và Ziegler đưa lên vào ngày 24-6, trong lúc FBI vẫn đang truy lùng tôi, Nixon nhận xét:
"Tốt nhất là có một người hiểu rõ vấn đề này. Có nghĩa là, chúng ta cần một Ellsberg, một Ellsberg đứng về phía ta; nói cách khác, một học giả thông thuộc về lịch sử và hiểu được anh ta đang phải tìm kiếm thứ gì"(117).
Lẽ dĩ nhiên Tổng thống vẫn có một thái độ khác đối với tôi và những việc làm của tôi. Ông vui mừng vì tôi đã tạo ra tiền lệ giải mật chóng vánh và rò rỉ thông tin về các đời Tổng thống trước đây của Đảng Dân chủ. Mặt khác, ông cũng lại lo rằng chính nó cũng sẽ là tiền lệ cho người khác tiết lộ thông tin về bản thân ông. Điều này dễ thấy trong một cuộc thảo luận của Tổng thống với Kissinger ngày 13-6 xung quanh Hồ sơ "Lào và Campuchia". Muốn ngăn chặn nguy cơ đó, câu trả lời hiển nhiên sẽ là tìm và truy tố kẻ nào cung cấp tài liệu cho tờ Thời báo - "thằng quỷ nào đã tuồn những tài liệu đó cho bọn họ".
Cho dù có là ai đi chăng nữa, Tổng thống muốn kiện hắn ra toà để "tất cả mọi người trong cái chỉnh phủ này đều biết sợ Chúa". Vào ngày thứ ba, 15-6, Tổng thống đập tay xuống bàn, nói: "Quỷ tha ma bắt, phải tống một tên nào đó vào tù… chỉ cần có thế?" (118). Hôm đó, ông hỏi Milchell: "Có cách nào anh tóm cổ được cái gã Ellsberg ngay lập tức được không? Mà Ells- gì nhỉ?" (119)
"Ellsberg".
Nixon nói mỉa mai: "Ellstein… được rồi, thây kệ. Có thể là Ellstein, hoặc Halperin hoặc Gelb. Cả ba tên này đều có liên hệ với cánh báo chí".
Hai hôm sau, ngày 17-6, Nixon không còn giữ được bình tĩnh nữa khi Haldeman nhắc đến tôi, ông ta hỏi ngay:
"Tại sao FBI(120) chưa tóm lấy nó rồi tống vào quan tài? Đó là bước tiếp theo đúng không?"
Buổi sáng hôm đó chúng tôi đã trên đường trốn chạy.
Điều đặc biệt cấp bách với chính quyền này là ngăn chặn những người khác làm theo tiền lệ của tôi. Vì Nixon và Kissinger và tôi, chúng tôi đều có chung suy nghĩ. Chúng tôi biết phải giữ kín chính sách Việt Nam thực sự nếu muốn nó khả thi.
Cả hai người đều cảm thấy sự nhạy cảm khi có người nghi ngờ và tranh cãi về chính sách của họ. Tuy nhiên, khác với tôi, họ lại không cho những gì mình đang làm là ngớ ngẩn, liều lĩnh, vô vọng và sai lầm. Nhưng đồng thời hai người cũng hiểu rằng người khác sẽ nghĩ như vậy nếu nhờ vào những lài liệu mới được tiết lộ, chính sách của họ không còn được giữ bí mật và bị dư luận Mỹ hiểu lầm.
Cũng trong cuộc đàm thoại đầu tiên liên quan đến tờ Thời báo vào chủ nhật, ngày 13-6-1971, Tổng thống đặc biệt lo sợ các cuộc ném bom lên đất Campuchia đầu năm 1969 có mật danh "Thực đơn", một loạt các cuộc tấn công lúc đầu được đặt tên là "Điểm tâm", "Bữa trưa" và "Bữa tối", có thể bị tiết lộ.
Tương tự, ngày thứ ba, 15-6, Kissinger thúc giục Tổng thống đưa ra truy tố những kẻ phải chịu trách nhiệm: "Tổng thống, ngài phải thật mạnh tay(121) bởi vì nếu đã có những thứ này trên Thời báo New York, sang năm ngài sẽ gặp tình cảnh tương tự. Hồ sơ của chính quyền này sẽ lại bị tuồn ra ngoài trong thời gian tranh cử (năm 1972). Tôi muốn nói những người này…"
Nixon đáp lại: "Tôi hiểu, họ sẽ lấy được toàn bộ hồ sơ về các chiến dịch Thực đơn".
Tôi cho rằng hai người này, cũng như tất cả những người khác đều hiểu các tài liệu gốc có ý nghĩa thế nào với các tiết lộ của báo chí. Trong tháng 3-1969, William Beecher đăng một câu chuyện tỉ mỉ trên tờ Thời báo về các đợt ném bom bí mật lên đất Campuchia. Chính quyền đã tức giận đến nỗi quyết định chỉ đạo FBI bí mật tiến hành nghe trộm (đương nhiên là bất hợp pháp) một loạt các nhân viên NSC và các nhà báo để truy ra nguồn cung cho tờ báo. Nhưng câu chuyện này vì thiếu tài liệu gốc làm bằng chứng, chẳng qua cũng chỉ là vụ việc trong ngày và sau khi Lầu Năm Góc thẳng thừng bác bỏ, đã hoàn toàn bị lãng quên. Khả năng những tài liệu khác bị lôi ra ánh sáng sau tiền lệ của Hồ sơ Lầư Năm Góc, cho dù chậm hai hay ba năm sau nữa, lại là một vấn đề khác.
Có những lý do đặc biệt cho tính nhạy cảm của chiến dịch tấn công Campuchia mang tên Thực đơn(122). Câu chuyện Beecher kể ra đã làm ê mặt Nhà Trắng vì những chi tiết về một chiến dịch mà Nhà Trắng đã muốn giấu kín với Bộ trưởng Quốc phòng Melvin Laird và Bộ trưởng Ngoại giao William Rogers. Cả hai người đều phản đối mạnh mẽ việc mở rộng chiến tranh. Nhắc tới chính sách về Việt Nam, Nixon và Kissinger đều coi bọn họ gần như kẻ thù. Hai ông luôn mong giấu kín họ càng nhiều và càng lâu càng tất, vì ngại sự phản đối quyết liệt, hoặc thậm chí trong trường hợp của Laird, ông ta sẽ báo lại với Quốc hội hay cho cánh nhà báo. Nếu hai Bộ trưởng có được Tổng thống thông báo điều gì đi nữa thì cũng chỉ rất sơ sài, và vào phút chót. Tuy nhiên, khi nói chuyện với Kissinger vào ngày 13 và nhiều lần sau đó, Nixon e ngại là hai vị Bộ trưởng đang có trong tay các tài liệu lẽ ra họ không nên có hoặc các bản ghi nhớ các cuộc trao đổi với Tổng thống. "Bất cứ khi nào(123) tôi trao đổi với Rogers và Mel (Lairdl về một trong các vấn đề này, về Lào và Campuchia, … tôi cho là họ đều tự mình ghi âm lại … họ thường tự mình suy luận ra từ những gì tôi yêu cầu, anh biết rồi đấy".
Kissinger đảm bảo với Nixon: "Đúng là họ sẽ tự suy luận ra những gì Tổng thống yêu cầu, nhưng họ sẽ không hiểu được lý do đâu". Những lý do ấy ông ta và Tổng thống luôn thận trọng không để hai người biết được, đặc biệt trên văn bản.
Sự thật là trong suốt năm 1971, các cuộc ném bom gây áp lực lên miền Bắc Việt Nam và Lào đều dưới sự chỉ huy trực tiếp của Nixon và Kissinger, thông qua một "kênh nối thẳng" tới Đô đốc Thomas H. Moorer, chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân. Hai người bí mật vượt mặt Laird, vẫn với lý do cũ, Laird không ủng hộ. Một bí mật đặc biệt nhạy cảm là lúc này FBI vẫn đang tiến hành nghe trộm văn phòng và nhà riêng của trợ lý quân sự của Laird, tướng Robert E. Pursley, để biết ông Bộ trưởng nắm được những thông tin gì về các chiến dịch và ông ta có tiết lộ điều gì cho quốc hội. Cần nhớ Laird đã từ bỏ Quốc hội để chuyển sang làm việc cho chính quyền.
Thêm vào đó, Quốc hội, cơ quan cấp ngân sách cho các chiến dịch, được nhận những thông tin mật hoàn toàn giả mạo về mục tiêu ném bom. Hàng trăm nhân viên làm việc tại trụ sở của MACV và CINCPAC đêm ngày bận rộn làm giả các kế hoạch ném bom mật và các bản báo cáo hậu chiến sự, làm giả toạ độ các mục tiêu bị ném bom, để mọi người tưởng rằng họ đang ở Nam Việt Nam chứ không phải là ở Campuchia. Vào năm 1971, khi Nixon ra lệnh ném bom Cánh đồng Chum ở Lào (một địa điểm không hề liên quan đến các tuyến đường lấn chiếm của miền Bắc), ông ta đã dùng đến cơ cấu ghi sổ kép như đã từng dùng để che đậy vụ ném bom Campuchia. Có những trường hợp đến cả các phi công cũng không được biết đích xác toạ độ ném bom của họ. Song chủ yếu mục đích của Nixon vẫn là che giấu Quốc hội và dư luận (và ở một mức nào đó, cả Laird và Rogers, về qui mô và tần suất các chiến dịch). Tổng thống không có ý định và kế hoạch này cũng không nhằm đánh lừa các nước Cộng sản - mục tiêu ném bom của ông ta, hay các đồng minh của họ.
Những người trên mặt đất không thể nhầm lẫn và cũng không ai nghĩ họ nhầm lẫn về kẻ đang dội bom B-52 xuống đầu mình.
Một hệ thống bí mật như vậy đã được chính quyền này giữ kín trong gần bốn năm - cho đến khi một trung sĩ (một trong số hàng trăm người liên quan đến hoạt động giả mạo này) đột nhiên băn khoăn rằng có thể Tổng thống cũng không được biết về các mục tiêu ném bom thực sự. Anh ta đã đem những tài liệu này trao cho Thượng nghị sỹ Harold E. Hughes. Khả năng thực tế của vị Tổng thống đương nhiệm có thể bí mật thả hàng trăm nghìn tấn bom xuống một đất nước không hề có chiến tranh với chúng ta chính là minh chứng hùng hồn nhất cho hiệu quả của một hệ thống hậu chiến bí mật. Nó cho phép Tổng thống bí mật phát động cuộc chiến, leo thang chiến tranh. Điều đó không thể thấy ở các vị vương chúa ngày trước.
Dù thế, vào thời điểm nói tới, các cuộc ném bom bí mật đã kéo dài được hơn hai năm, bắt đầu từ trước và còn mãi tới sau cuộc xâm lược ngang nhiên Campuchia (và còn tiếp tục được giữ kín thêm gần hai năm sau đó). Nhưng việc nó vẫn bị che mắt cho thấy đây là một phần của một chính sách đe doạ bí mật vẫn chưa hoàn thành. Và lần này, vẫn chính là cử tri Mỹ bị che mắt, chứ không phải các quốc gia cộng sản, những mục tiêu đe doạ hay đồng minh của họ. Còn cả một năm nữa mới xảy ra các cuộc tấn công vào mục tiêu trên sông Hồng và các vụ ném bom B-52 vào Hà Nội và Hải Phòng, cho dù kế hoạch dự phòng đã nhiều lần được lên lịch từ năm 1969. Hà Nội cáo buộc và các quan sát viên xác thực, rằng Mỹ chủ định ném bom từng phần đê sông Hồng trong mùa xuân 1972. Phải mãi đến giữa năm 1971 người ta mới phanh phui ra tất cả các hành động chính quyền đã, đang và sẽ thực hiện - những cột trụ trong chính sách bí mật của Nixon. Một khi chính sách này bị phơi bày, Quốc hội có thể viện lý do hạn chế về ngân sách để phản đối nó. Đó là nguyên do cho những bước đi vội vã nhằm chặn lại hay ngăn cản bất kỳ thông tin rò rỉ từ chính quyền đương nhiệm, trong khi khuyến khích thông tin về các chính quyền cũ. Đó là lý do cho các lệnh đình chỉ xuất bản trước đây chưa bao giờ được dùng tới và cho các hành động cũng chưa bao giờ có tiền lệ đi cùng những lệnh đình chỉ kia.
Tuy nhiên vào lúc đó, chúng tôi vẫn chưa thể biết mình có bị đem ra xét xử trước toà hay không. Những sự kiện liên quan đến vụ việc của chúng tôi đã quá rõ ràng. Tôi cũng đã thừa nhận và cung khai tất cả những hành động người ta cáo buộc cho tôi.
Nhưng chưa bao giờ có một đạo luật nào của Quốc hội quy kết tội phạm những hành động như của tôi: không được phép của cấp trên, sao chụp và trao tài liệu "bảo mật" chính thức cho báo giới, Quốc hội và những người mà các nguyên tắc hiến định của chúng ta gọi là "công chúng độc lập". Phần lớn các nước, không chỉ là các chế độ chuyên chính như Trung Quốc mà cả nền dân chủ khai sinh ra chúng ta, Vương quốc Anh, cũng đều có những đạo luật như thế. Họ không có Hiến pháp với Điều luật bổ sung thứ nhất như chúng ta, ở đó quy định Quốc hội không được phép thông qua một đạo luật nào có nội dung tương tự. Không tồn tại một cơ sở luật pháp rõ ràng hay ngụ ý nào cho cả một cơ chế phân loại tài liệu được hình thành từ những mệnh lệnh hành pháp của chính phủ, bắt đầu từ Thế chiến II. Những quy định về quản lý tài liệu kín, mật và tuyệt mật tạo nên một hệ thống hành chính, theo đó những ai làm việc trong ngành hành pháp một khi đã dặt bút ký vào lời tuyên thệ hay chấp thuận giữ bí mật, nếu để lộ thông tin mà không được phép, sẽ phải chịu những hình phạt hành chính, có thể bị khước từ quyền tiếp cận với các thông tin mật hoặc nặng hơn, bị sa thải. Một nguyên tắc cơ bản của hiến pháp quy định thẩm quyền của chính phủ là, Tổng thống không được phép ban hành các đạo luật hình sự, cho dù bằng mệnh lệnh hành chính hay một cách nào khác chăng nữa. Chỉ Quốc hội mới đủ thẩm quyền ban hành luật. Và ngoại trừ một số loại bí mật nhất định và trong phạm vi rất hẹp, không liên quan gì tới Hồ sơ Lầu Năm Góc - như dữ liệu về vũ khí nguyên tử, tin tức tình báo thu thập qua kênh thông tin liên lạc, và gần đây là danh tính của các điệp viên bí mật - Quốc hội, nếu chiếu theo Điều luật bổ sung thứ nhất của Hiến pháp, chưa bao giờ đưa ra một đạo luật như thế.
Hầu như tất cả mọi người, vào thời điểm đó hoặc một thời gian về sau đều không nhận thấy rằng, việc tôi và Tony Russo bị khởi tố hình sự vì tội sao chép đủ loại tin tức của chính phủ - không nhằm mục đích bí mật chuyển giao những thông tin này cho một thế lực nước ngoài nào (tội làm gián điệp) mà nhằm tiết lộ ("rò rỉ") thông tin cho báo chí và dư luận Mỹ - là chưa từng có tiền lệ và vô cùng đặc thù trong lịch sử. Sự việc ấy cũng đặc thù không kém gì so với những kiềm chế và những nỗ lực đình chỉ xuất bản đã dẫn chúng ta đến với vụ án mang tên Hồ sơ Lầu Năm Góc, một vụ án giờ đã được chuyển lên Toà án tối cao.
Thực tế dễ hiểu là trên đất nước này trước đây chưa từng có trường hợp nào bị truy tố vì đã để rò rỉ thông tin. Rất nhiều lần trong thời gian tôi làm việc trong chính quyền, bất cứ khi nào nhận được bản tóm lược một thông tin mật, hay kí vào một thoả thuận giữ bí mật trước khi được phép tiếp cận xử lý chúng, tôi đều được nhắc nhở về khả năng bị truy tố hình sự nếu để lộ thông tin mà chưa được cho phép. Những lời cảnh cáo ở đây luôn luôn viện dẫn đến các điều khoản trong Đạo luật Tội làm gián điệp, mà theo đó người chịu trách nhiệm đầu tiên là tôi. Và quy kết cho tôi tội rò rỉ thông tin trái phép, chứ không phải tội làm gián điệp. Trong thực tế, những cảnh báo này báo trước rằng nhiều phần của đạo luật về tội làm gián điệp sẽ được dùng đến, mặc nhiên được coi như một đạo luật về tin mật nhà nước, tương tự một đạo luật của Anh. Tuy nhiên thông tin mật vẫn thường xuyên bị rò rỉ ra bên ngoài, thậm chí gần như hàng ngày (mặc dù ở qui mô nhỏ hơn so với trường hợp Hồ sơ Lầu Năm Góc). Rất ít trong số đó được cấp trên chấp thuận. Họ cũng không tức giận đến mức phải trừng phạt hành động này. Dù có tức giận nhưng diễn biến tiếp theo vẫn chưa bao giờ là một phiên toà. Cố vấn luật pháp của các bộ và Bộ Tư pháp vẫn luôn khuyến cáo quan chức nào định đưa vụ việc ra toà rằng trong luật Mỹ, không tồn tại một đạo luật nào về tin mật chính thức hay luật nào trơng đường. Các cố vấn đôi khi còn nhấn mạnh, qua những tranh luận về Đạo luật Tội làm gián điệp, Quốc hội đã công khai loại bỏ bất kỳ ý định lập pháp áp dụng đạo luật này với các hành động tiết lộ thông tin cho báo chí chưa được phép. Và do đó bất kỳ nỗ lực nào coi đây như một đạo luật về thông tin mật chính thức sẽ vi phạm những nguyên tắc hiến định trong Điều luật bổ sung thứ nhất. Không có một đạo luật nào biện minh cho những cảnh báo đến hàng triệu nhân viên làm việc trong chính quyền đã ký vào những thoả thuận giữ bí mật; trong thực tế, nhân dân có thể nắm lấy đằng chuôi.
Tất cả những điều này tôi không hề biết khi tôi sao chụp và công khai Hồ sơ Lầu Năm Góc. Các luật sư của tôi và, như tôi được biết, các toà soạn cho đăng tải phần nào tập hồ sơ này, cũng có suy nghĩ tương tự. Chúng tôi, kể cả Nixon, Kissinger, Mitchell và hầu hết những người khác, đều cho rằng trong hệ thống luật pháp Mỹ tồn tại một quy định gì đó tương đương một đạo luật về thông tin mật chính thức. Hay nói khác đi, tất cả đều tin rằng, tôi, có thể cả các toà soạn báo; đang vi phạm một điều luật nào đó. Tôi xem hành động của mình là sự chủ tâm vi phạm các quy định dân sự. Nhưng nếu như vậy, thì Tổng thống sẽ giải thích ra sao về việc ông ta chỉ đạo cho nhân viên dưới quyền để lộ ra cho báo chí các tài liệu vào loại tuyệt mật? Và những nhân viên dưới quyền sẽ phải giải thích cho hành động của mình ra sao đây - khi mà những gì họ làm là đích xác những điều Tổng thống đang quy kết tội cho tôi?
Tôi nghĩ là mình có thể tự tìm được câu trả lời, từ kinh nghiệm làm việc tại Lầu Năm Góc. Đon giản là vấn đề đúng, sai chưa bao giờ được đặt ra. Cho dù là một nhà tư vấn, hay trong cương vị một quan chức, tôi cũng chưa bao giờ bận tâm nghĩ đến Điều luật bổ sung thứ nhất, hay những phần trong Hiến pháp có liên quan tới nó, hay những ràng buộc về mặt pháp luật trong nước có thể đặt ra cho công việc của chúng tôi. Tôi làm việc trong ngành hành pháp, phục vụ Tổng thống, công việc liên quan đến chính sách quân sự và ngoại giao. Tôi không cho rằng Hiến pháp hay các văn bản luật của Quốc hội sẽ chi phối công việc chúng tôi đang làm. Về điều này, tôi cũng không có gì khác rất nhiều các quan chức Nhà Trắng, những người sau này đã thừa nhận trong các phiên điều trần liên quan đén vụ Watergate, rằng họ tin là - theo như lời cấp trên của họ, tổng thống Nixon - "khi Tổng thống làm việc gì, việc đó sẽ không vi phạm pháp luật".
Chắc hẳn rằng, cũng với tinh thần ấy, Nixon đã chỉ định Colson và những người khác chủ động tiến hành việc rò rỉ tin tức. Hành động ấy, với người khác, ông ta sẽ thực tâm, dù sai lầm, coi như là tội hình sự, hay là thậm chí là hành động phản quốc (cùng với tội đột nhập và bao che, được thừa nhận rộng rãi là tội hình sự).
Nói cách khác, các nhân viên trong chính quyền cho rằng Tổng thống, và bản thân họ khi làm việc cho ông ta, có thể đứng trên luật pháp trong nước. Chính tôi cũng nghiễm nhiên chấp nhận điều này khi làm việc trong cả lĩnh vực an ninh quốc gia, cũng như các đồng nghiệp của tôi trong lĩnh vực quân sự và chính sách đối ngoại. Đáng buồn là, nhiều nghị sỹ Quốc hội và công chúng cũng có cùng suy nghĩ. Đi liền với sự tin tưởng vào thẩm quyền xét xử và sự tự do độc quyền, vô hạn của Tổng thống trong các lĩnh vực này là giả thiết về khả năng kiểm soát không hạn chế của chính phủ đối với những gì công chúng được biết liên quan đến quá trình đưa ra các quyết định trên của chính phủ.
Tôi nhận ra, có phần muộn màng, rằng cách làm đó sẽ chỉ tạo ra một ông vua chuyên chế và những "Việt Nam" khác, hoặc có thể còn tệ hơn. Tôi cũng đã tìm thấy bài học này, chưng cất từ những trước tác của James Madison. Chính ông là người đã soạn thảo ra Điều luật bổ sung thứ nhất: "Một chính phủ được lòng dân(124), nếu không nắm được các thông tin phổ cập nhất hoặc không có trong tay những phương tiện thu thập các thông tin này, sẽ chẳng là gì ngoài màn mở đầu cho một vở hài kịch, hoặc bi kịch, hoặc là cả hai. Trí tuệ sẽ mãi mãi thống trị sự ngu dốt. Một dân tộc muốn cai trị chính mình sẽ phải tự trang bị thứ quyền năng mà tri thức đem lại".
Người đầu tiên chỉ ra cho tôi thấy kết luận gây chấn động rằng những gì Tony và tôi thực hiện không hề, trên đất nước này, trái với luật pháp, là luật sư Leonard Boudin. Lúc đó là vào cuối năm 1972, khoảng một năm sau lần xét xử đầu tiên đối với tôi.
Chương 31
Đường đến Watergate (2) Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Boudin tóm tắt cho tôi về đặc điểm việc nghiên cứu vụ việc trong luật pháp Mỹ, về lịch sử lập pháp của những đạo luật được viện dẫn ra trong các bản cáo trạng của chúng tôi và những kết quả nghiên cứu của đoàn luật sư trong suốt cả một năm vừa qua, kể cả tìm kiếm các vụ án trước đây có thể không có hồ sơ lưu trữ. Cuối cùng anh ta kết luận: "Điều mà tôi có thể nói được là, Dan, anh không hề phạm pháp".
Tôi bật lên: "Quá tuyệt! Tôi sắp được tự do rồi!"
Nhưng Boudin đáp lại: "Tôi e là mọi việc không đơn giản như vậy đâu. Khi chính phủ Mỹ bước vào phòng xử án, nói với quan toà, "Vụ kiện giữa chính phủ Mỹ và Daniel Ellsberg" và đưa ra trước toà mười hai trọng tội của anh… anh đừng mong bước chân ra khỏi phòng xử án mà vẫn còn là một người tự do".
Tôi ngẫm nghĩ kĩ, rồi hỏi: "Thế cơ hội của tôi là bao nhiêu?"
"Năm mươi - năm mươi".
"Năm mươi - năm mươi? Và tôi không hề làm trái pháp luật?"
Leonard trả lời: "Dan, hãy đối diện với sự thật. Sao chụp 7.000 trang tài liệu tuyệt mật và chuyển cho tờ Thời báo New York, tình hình không thật thuận lợi cho anh đâu".
Ngày 22-6-1971, còn hơn một tuần nữa mới đến ngày toà án quyết định gỡ bỏ các hạn chế xuất bản trước đó, Tổng thống nói với Ehrlichman, Ziegler và những người khác: "Dẹp lệnh đình chỉ của toà án đi. Chúng ta sẽ thua thôi… Thế đấy! Chúng ta sẽ thua, phải chuyển sang vụ kiện tụng ngay lập tức khởi kiện Ellsberg".
Buổi chiều ngày 13, ngay sau khi Toà án Tối cao ra phán quyết - ngày hôm trước tôi đã bị cáo buộc mười hai tội trạng nghiêm trọng đối với Liên bang - vào lúc có mặt Henry Kissinger tại Phòng Bầu dục, Tổng thống đã hỏi Bộ trưởng Tư pháp John Mitchell: "Cậu không phản đối (125) nếu chúng ta theo đuổi vụ Ellsberg bây giờ chứ?"
Mitchell: Hiển nhiên là không … một nước đi chúng ta phải làm, để tóm gọn những kẻ nào …
Tổng thống: Phải tống thằng khốn này vào tù.
Kissinger: Chúng ta sẽ tóm được hắn.
Tổng thống: Chúng ta sẽ phải tóm được. Đừng bận tâm về phiên toà nữa. Cứ công bố hết. Cứ để báo chí quy tội cho hắn. Cứ để cho báo chí xét xử. John, tất cả những gì thu được từ cuộc điều tra, công bố hết, để lộ tất cả. Tôi muốn chính báo chí tiêu diệt nó. Trên mặt báo. Tất cả đều đã rõ rồi chứ?
Mitchell và Kissinger: Vâng.
Tuy nhiên, chỉ ít phút trước, khi Mitchell chưa đến, và sau khi ông này đã đi khỏi, Kissinger nêu lên một thông tin do Laird cung cấp, một thông tin đã làm thay đổi tình hình hiện tại. Các cuốn băng ghi âm cho đến tận hôm nay vẫn không cho thấy sự lo lắng với những tài liệu tôi đã hoặc có thể sẽ tiết lộ. Mọi người đều cho rằng những tiết lộ này chỉ giới hạn trong thời kỳ cầm quyền của Đảng Dân chủ. Việc đưa tôi ra trước pháp luật và huỷ hoại danh dự của tôi đơn giản chỉ để "nêu gương" cho những người khác, những ai đã từng hoặc giờ vẫn đang phục vụ trong chính quyền có ý định tiết lộ các bí mật của chính phủ. Lo lắng của Tổng thống chỉ giới hạn trong khả năng rò rỉ thông tin từ Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng, thậm chí dù rằng Nixon đã nhiều lần đảm bảo là xác suất rủi ro rất thấp, vì ở đấy, không một ai, từ Bộ trưởng trở xuống có thể có trong tay các tài liệu viết tay có giá trị, tất nhiên nếu họ biết được một thông tin nào đó. Nhà Trắng là nơi vạch ra chính sách còn NSC thì rất đáng tin và an toàn. Tuy nhiên, những gì Laird nói với Kissinger vào buổi sáng hôm đó là Thượng nghị sỹ Mathias đang có trong tay "hàng xệp tài liệu (126) nhận từ Ellsberg. "Đó chỉ là các thông báo chuyển đến cho chúng ta thôi - và các bản phúc đáp cũng không nói lên nhiều điều, bởi vì tất cả chỉ là, "Tổng thống đã quyết định rằng, Nixon hỏi xem tin tức đó từ đâu ra. Sau đó:
Tổng thống: Và bọn họ cũng có một số tài liệu của NSC?
Kissinger: Đúng vậy, bọn họ có một vài tài liệu của NSC… Đúng thế.
Tổng thống: Chúng ta không để lại thứ gì về Campuchia ở đó chứ, ở NSC đấy? Quỷ tha ma bắt…
Kissinger: (a) Tài liệu về Campuchia lưu tại NSC từ năm 1969. (b) Toàn bộ hệ thống của chúng ta lại khác. Tôi cũng không rõ đấy là những tài liệu gì… Chắc hẳn đấy là mấy thông báo ngớ ngẩn của Rogers…
Ngay sau đó, Kissinger nêu ra vấn đề này với Mitchell. Ông Bộ trưởng Tư pháp khẳng định rằng ông đã được nghe điều này từ chính Mathias: Lúc trước(127) Mathias đã gọi điện cho ông (sau này tôi biết đó là ngày 13-6, và Mitchell không hề báo cáo điều này lại với Phòng Bầu Dục). Vào cuối năm 1971, Thượng nghị sỹ Mathias đã nói với Thượng nghị sỹ Charles Goodell, người khi đó là một trong các luật sư của tôi, rằng với tư cách Thượng nghị sỹ, ông cảm thấy mình có trách nhiệm gọi điện đến nhà Bộ trưởng Tư pháp Mitchell và nói với ông ta rằng: "John, có điều này tôi nghĩ anh nên biết…". Hôm đó là chủ nhật, ngày 13-6, ngày tờ Thời báo bắt đầu cho đăng tải Hồ sơ Lầu Năm Góc. Mitchell nói thêm: "Tôi không hiểu tại sao ông ta không hề đề cập chút nào tới Ellsberg. Tôi còn lạ gì ông ta nữa chứ. Chắc chắn Ellsberg đã từng nói chuyện với Mathias".
Hiển nhiên các câu hỏi đặt ra sẽ là: Tôi đã lấy tài liệu từ bộ phận nào trong chính quyền, chính xác là những tài liệu gì, ngoài ra còn thứ gì khác nữa không, tôi nhận tài liệu từ người nào, và ông ta còn có thể có những tài liệu nào nữa, và tôi sẽ còn đưa ra thêm những gì nữa?
Tổng thống: Mọi chuyện sắp sửa vỡ lở cả rồi… Vấn đề là không chỉ có những tài liệu này thôi đúng không?
Mitchell: Rất có thể như vậy.
Kissinger Có thể, nhưng đương nhiên lúc này, nếu hậu quả là tất cả đối thủ của chúng ta có thể sẽ tiết lộ không chừa một tài liệu gì về chính quyền này và đẩy chúng ta vào thế bị động …
Mitchell Thì khi đó bọn họ sẽ phải thấy một thực tế là Ellsberg đang bị kết tội.
Chính suy nghĩ đó mới thực chất là mục đích của họ khi đưa tôi ra xét xử. Nhưng dường như việc làm đó thôi thì vẫn chưa đủ để giải quyết vấn đề của chính quyền này. Tôi có thể còn có trong tay những tài liệu khác về họ. Tôi cũng có thể tiếp tục vai trò một kênh an toàn cho những người khác, chẳng hạn những ai có thể đã trao cho tôi các tài liệu tôi giao lại cho Mathias vào ngày 2-3-1971. Tôi cũng đã chứng tỏ cho họ thấy từ trước đó rằng, không dễ vì sợ truy tố hay ngồi tù mà tôi sẽ chùn chân. Theo lời Colson, tại phòng Bầu Dục, khi có mặt ông ta, Tổng thống và những người khác, Kissinger đã nói: "Daniel Ellsberg là kẻ nguy hiểm nhất đối với nước Mỹ. Chúng ta phải chặn hắn lại bằng mọi giá"(128).
Vào lúc đó Hồ sơ Lầu Năm Góc mới bắt đầu lên báo được có vài ngày. Dù Kissinger có nhìn thấy mối nguy hiểm nào từ tôi đi chăng nữa, thì tôi vẫn chắc hẳn rằng ông ta nói những lời đó mà quên không tính tới sự kiện kia. Tổng thống coi sự kiện này chủ yếu như một cơ hội vạch trần những việc làm bẩn thỉu của các đời Tổng thống trước. Nếu cần, ông sẽ tự mình làm việc đó.
Cho dù Kissinger có biết trước hay không việc Mathias nhận các tài liệu NSC từ tôi - Mitchell và FBI đều đã biết trước việc này - nhưng qua các lần liên hệ trực tiếp của tôi với ông ta trong năm 1970, những bức thư và bài viết của tôi kể từ hồi đó, và qua những đoạn băng nghe trộm điện thoại của tôi với Halperin, hẳn ông ta cũng nhận ra là tôi đã nắm được chính sách bí mật của bọn họ. Một ví dụ là, một số đoạn hội thoại nghe trộm do trợ lý của Kissinger, Al Haig kiểm tra và một số khác trực tiếp chuyện lên cho Kissinger và Nixon, cho thấy vào ngày 22-11-1970, chỉ vài ngày sau các cuộc tấn công vào Sơn Tây và ném bom gần Hà Nội và Hải Phòng, tôi và Halperin đồng ý với nhau: "Đã đến lúc phải hành động(130), phải kích động mọi người; nếu sự kiện này không làm lay chuyện được dư luận, thì không gì có thể, trừ phi là một vụ thảm sát, đánh phá Hà Nội hay xâm lược Lào". Có vẻ như tôi đang nắm những tài liệu hậu thuẫn cho dự đoán của mình. Có thể không phải Halperin cung cấp những tài liệu này, mà là Tony Lake, Lany Lynn, hay một ai đó đã rời NSC vì những bất đồng xoay quanh vấn đề Campuchia, hay ai đó vẫn còn chưa chịu bỏ đi.
Kissinger tiếp tục tin chắc là các hành động của NSC không thể nào bị lộ ra ngoài, nhưng giờ đây mọi người đón nhận thái độ này của ông ta với đôi chút nghi ngờ. Nixon bắt đầu nói tới việc tiến hành đặc biệt hoạt động xử lý thông tin mật với các cuộc thảo luận của Tổng thống.
Kissinger: Nhưng ở đây rất an toàn. Các thông báo của chúng ta gửi đi cũng không nêu danh chính quyền. Trong nội các cũng chưa ai từng đọc các thông báo tôi viết gửi Tổng thống, thỉnh thoảng chỉ có John (Connally) … Còn ngoài đó ra thì Rogers, Laird, chưa ai cả…
Tổng thống: Điều tôi muốn nói là… chúng ta cần tiến hành một đợt phân loại mới… tất cả các cuộc hội thoại của Tổng thống… Quỷ tha ma bắt, phải phân loại … Cả triệu người trong cái chính phủ này được tiếp cận với các thông tin tối mật. Một triệu. Chúa ơi…
Kissinger: Nhưng tôi đang nghĩ là, thưa Tổng thống, sau khi - nếu như, nếu như sự việc này không làm tiêu tan các kế hoạch của chúng ta, chúng ta nên cân nhắc, ngài có thể tính tới việc tại phiên họp của Quốc hội, nói cho mọi người biết rằng vấn đề đang đi quá xa, cần phải có một đạo luật nào đấy và chơi một trận ra trò.
Hai tiếng sau vẫn ngày hôm đấy, 30-6, trong buổi thảo luận khác với Kissinger và Haldeman về tác động của điều Mathias mới tiết lộ, Nixon tiếp tục nói đến nguy cơ nhỡn tiền này:
"Henry, tôi muốn nói, tại sao việc này lại cực kỳ quan trọng, vì chúng ta vẫn luôn đinh ninh là những tài liệu này không hề liên quan đến chính quyền. Điều đó - bây giờ hình như chúng ta đã sai…"
Từ giờ phút này, trong các cuộc thảo luận, không còn thấy Tổng thống tỏ hứng thú theo đuổi kiện tụng nữa, trong khi vụ án của tôi mới chỉ bắt đầu được vài ngày. Các hoạt động ngoài luật hình như hứa hẹn nhiều hy vọng hơn. Ngày hôm sau, 1 tháng bảy, Tổng thống nói với Haldeman, Colson, và Ehrlichman:
"Việc khó là: tất cả các luật sư ở phe ta… luôn nói là chúng ta sẽ thắng vụ kiện này. Chúng ta chấm dứt trò kiện tụng ngay tại đây. Sẽ làm như thế - Tôi không muốn làm rùm beng vụ thằng cha Ellsberg này trước kỳ bầu cử. Tức là, hẵng cứ để - cứ để báo chí kết tội tên khốn này. Cứ như vậy là được…"(131)
Việc tất cả mọi người trong chính quyền đều không biết tôi đã giao những gì cho ngài nghị sỹ đã tác động rất lớn đến phản ứng của Nhà Trắng trước Mathias, và do đó, phản ứng của họ đối với tôi Nhà Trắng chỉ biết rằng đây là những tài liệu liên quan đến thời kỳ của Nixon, cách thức ông ta giải quyết vấn đề Việt Nam, và lấy được từ NSC. Mathias cũng không nói ngoài những điều này với Mitchell hay Laird. Kissinger hy vọng sẽ thấy những tài liệu này vào chiều 30-6, nhưng trong suốt cả tháng bảy, Mathias chẳng chuyển thứ gì cho ông ta hay một ai khác trong chính quyền. Theo lời Mitchell, vào ngày 6-6 Bộ Tư pháp và Bộ Quốc phòng hy vọng có trong tay những tài liệu này vào ngày 8-6 (chuyện đó đã không xảy ra) Mathias vẫn "đang chơi trò mèo vờn chuột(132). Cuối cùng mãi đến ngày 20-7, Ehrlichman mới đề nghị Tổng thống cử một ai đó, có thể là Elliot Richardson hoặc Richard Kleindienst, làm nhiệm vụ "vạch trần cái trò trẻ con"(133) của Mathias và buộc ông ta phải trưng ra tất cả những gì mình có. Có thể nói, trong suốt thời kỳ này, chính quyền không hề biết rằng những tài liệu tôi trao cho Mathias đơn giản chỉ là NSSM-1. Hơn nữa, dễ thấy qua các buổi thảo luận đã được ghi âm, Kissinger không hề nói lại với Nixon một tin gây "sốc" là tôi đã trực tiếp làm việc cho ông ta trong tháng 2 và tháng 3-1969, tại văn phòng của NSC ở Toà nhà Văn phòng Hành pháp, mà cụ thể là tập hợp NSSM-1. Vì không ai nắm được cả hai thông tin này, tất yếu sẽ đến lúc Mitchell đưa ra kết luận vào ngày 6-6, tán thành với Tổng thống là không thể không lập một kế hoạch dự phòng: "Ellsberg đã như thế (134), Mathias lại đang có trong tay một số tài liệu chắc chắn ngoài Ellsberg còn có người khác trong chính quyền này đang tuồn tài liệu ra bên ngoài. Có thể hơi khó khăn để tìm ra người này, nhưng hy vọng chúng ta sẽ làm được. Một hay nhiều người khác".
Kết luận được đưa ra sau một giờ đồng hồ thảo luận giữa Nixon, Mitchell, Haldeman và Ehrlichman (Kissinger không có mặt) về cái mà Tổng thống gọi là "vấn đề Mathias(135) … phần tài liệu còn sót lại".
Tổng thống: Vấn đề chúng ta đang có ở đây là… có đúng là tài liệu từ NSC không? Mọi người đã biết - đấy chính là điều tôi vẫn bận tâm …
Mitchell: Đó là tài liệu của Nixon. Theo như tôi biết thì Mathias vẫn chưa hề đề cập một cách chi tiết về chúng.
Haldeman: Làm thế nào họ có được?
Tổng thống: Làm thế nào họ lấy ra được từ hồ sơ của NSC chứ, chính thế… là điểm mấu chốt, ngay từ bây giờ khi điều tra phải dành ưu tiên cao nhất…
Nixon: Dù sao đi nữa, nếu nói tài liệu của Nixon - có nghĩa những tài liệu này - không phải là do tôi viết ra?… Tôi không cho là có thể… bởi vì kể từ khi Kissinger vào đây tôi vẫn bắt ông ta cam đoan bằng mạng sống của mình, không bao giờ để lộ ra thứ gì về tôi, cho dù thế nào.
Ehrlichman: Theo tôi được biết, có thể là tài liệu do Tổng thống viết hoặc là gửi đến cho ngài - một trong hai cách đó. Và…
Nixon: Không thể do tôi viết. Không thể từ tôi, John, bởi vì chỉ có thể do Henry viết mà thôi. Anh hiểu ý tôi chứ? NSC - chúng ta thường làm như vậy.
Mitchell: Tôi hiểu, điều đó đúng với chính quyền của Tổng thống… Nhưng đó là tất cả những thông tin tôi thu thập được.
Nixon: Chúng ta sẽ biết trong vài ngày tới đây thôi… Nếu Ellsberg muốn công khai chúng. Nhưng trong trường hợp, nếu nguồn tài liệu của Ellsberg là những người hiện vẫn còn đường chức…
Mitchell: Tôi đang nghĩ thế.
Nixon: … Tôi cho rằng kế hoạch chúng ta nên tiếp cận từ khía cạnh này. Ellsberg không hành động một mình. Ellsberg là một - Tôi không biết những ai đang tham gia vào đây… Nhưng chúng ta sẽ phải tìm ra những kẻ nào đang câu kết với nhau thực hiện âm mưu này … Chúng ta sẽ phải kết tội bọn chúng trên báo chí, trên báo chí, mọi người hiểu điều tôi muốn nói chứ? Với việc làm này, bọn họ và rõ ràng còn có cả hai, ba người bên Henry đã tự đặt mình lên trên luật pháp. Thề trước Chúa chúng ta sẽ truy tìm ra chúng. Mọi chuyện đã quá rối rắm rồi, tôi không muốn có thêm một người nào bên đó dính líu vào vụ rò rỉ này nữa. Đó là lý do tại sao - John, anh không nên loại trừ trường hợp người của Henry dính líu vào đây. Phải xem còn có kẻ nào vẫn đang làm việc trong chính phủ này hay không. Tôi giao vụ Ellsberg cho anh đấy. Tôi không hứng thú mấy với việc vạch mặt một người, kết tội hắn rồi tự bịt miệng mình.
Nói thật, tôi muốn phơi bày câu chuyện này ra hơn, mọi người đều hiểu chứ? Thậm chí cả câu chuyện về Ellsberg. Tôi không chắc là tôi muốn hắn ta bị xét xử, luận tội - nhưng phải làm thế bởi vì hắn ta đã thừa nhận hết rồi…
Về việc còn lại, tôi cảm thấy giờ là thời điểm rất tốt để anh đi bước tiếp theo, hé ra các thông tin mật và tất cả những gì khác nữa có thể chứng minh tội tày trời của những thằng cha này. Còn phần tôi… rất nóng lòng xem người ta kết tội Ellsberg. Cứ thế.
Mitchell: Đúng vậy, tôi hoàn toàn đồng ý.
Tuy nhiên, Tổng thống cũng không thực sự nghĩ cả vị Bộ trưởng Tư pháp lẫn Bộ Tư pháp thích hợp với công việc ngài đang yêu cầu. Vào ngày 1-7-1971, một ngày sau khi Toà án tối cao đã gỡ bỏ hạn chế xuất bản các tài liệu mật, một ngày sau khi Nhà Trắng đã nhận ra là vấn đề của tôi không thể đơn giản chỉ giải quyết bằng một phiên toà, Tổng thống đã nói với Haldeman:
"Thực ra mà nói, tôi cho là nếu Mitchell thôi làm Bộ trưởng Tư pháp(136) (để chuyển sang chỉ đạo chiến dịch tranh cử), chúng ta sẽ có thuận lợi hơn … John không phải là một luật sư bình thường. Anh ta giỏi và rất mạnh. Để anh ta làm những công việc không hay này thật là không phải, nhưng cần phải làm. Chúng ta sẽ phải đánh trận này…
Trước đó Nixon đã đưa ra với Haldeman, Colson và Ehrlichman yêu cầu của ông "tìm một nhân viên Nhà Trắng(137) tập trung hoàn toàn vào hai công việc". Hai công việc đó, trước tiên, là để lộ các tin xấu về các chính quyền tiền nhiệm thuộc Đảng Cộng hoà, đặc biệt về chính quyền Kennedy, nhưng cũng sẽ quay ngược trở lại thời của FDR và sự kiện Trân Châu Cảng ("Chúng ta đều hiểu ông ta đã biết trước(138) mọi việc sẽ xảy ra như thế nào nhưng ông ta lại cố tình tỏ ra như không"). "Hãy khuấy động không khí một chút… Mọi người sẽ tạm quên đi Việt Nam. Họ sẽ nghĩ ngợi về quá khứ mà tạm quên các vấn đề hiện tại Công việc thứ hai là tiết lộ các thông tin về cá nhân tôi.
Tổng thống: Chúng ta đã dập tắt được vụ (Algerl Hiss(139) trên báo chí. Chúng ta làm được. Tôi đã phải tung tin lên khắp các báo… Chúng ta thắng ở ngay trên mặt báo. John Mitchell khó mà hiểu được một việc như thế này. Anh ta là một luật sư tử tế. Khó mà hiểu được. John Ehrlichman sẽ gặp một số khó khăn đấy. Nhưng điều tôi muốn nói ở đây là chúng ta cần phải xây dựng một chương trình, một chương trình tiết lộ thông tin. Chúng ta sẽ mượn báo chí để tiêu diệt bọn này … Đây là một cuộc chơi. Phải chơi trên mặt báo. Đó là lý do Mitchell không chơi được trận này. Anh ta không thể.
Haldeman: Sẽ phải tìm một người Tổng thống có thể thực sự tin cậy, bởi vì người này sẽ phải…
Tổng thống: Không để lại dấu vết gì tại Nhà Trắng…
Trong các cuộc đàm thoại này, Colson nhiều lần đề cử "một người ở bên ngoài(140) có năng lực và khuynh hướng tư tưởng có khả năng thực hiện tất cả các nhiệm vụ này … Một người sắt đá… Anh ta vừa mới ra khỏi CIA… Tên là Howard Hunt". Từ các cuộc nói chuyến điện thoại với Hunt vào lúc trước mà Colson đã bí mật ghi âm lại và sao chụp, ông ta rút ra: "Về mặt tư tưởng, Hunt hoàn toàn đồng ý phải xây dựng một kế hoạch lớn". Cũng trong cuộc điện đàm đó, Colson đã hỏi nhận xét của Hunt về tôi:
"Anh có nghĩ anh ta(141) hành động đơn độc không?"
Hunt trả lời: "Tôi cho là như thế, nếu không tính đến giới Đông phương chắc chắn đã giúp đỡ và hậu thuẫn anh ta". Được hỏi về việc xét xử tôi, Hunt nói: "Tôi muốn gã này phải bị treo cổ nếu việc ấy có lợi cho chính quyền".
Trong một thông báo gửi cho Haldeman, giới thiệu Hunt, ông ta đã nhắc đến: "Tôi đã quên không nói(142) với anh rằng Hunt là quân sư của CIA trong vụ Vịnh Con Lợn". Một lời giới thiệu việc làm kỳ lạ - như thể ông ta đã đoán biết tác động của nó - nhưng thực chất lại rất hiệu quả. Hunt được nhận việc vào ngày 7-7. Tuy nhiên theo Nixon, lý do quyết định tuyển Hunt lại chính là câu nói tiếp sau của Colson, "Anh ta nói với tôi từ rất lâu rồi rằng nếu sự thật được phơi bày ra, Kennedy hẳn đã bị mất mặt".
Tờ Thời báo đã đăng tải loạt bài về vụ đảo chính Diệm ngay trong số báo đầu tiên sau khi Toà án Tối cao thu hồi lệnh đình chỉ xuất bản. Tổng thống vẫn thấy rằng, chừng đó còn chưa đủ để phơi bày thực chất của chính quyền Kennedy. Hunt được giao nhiệm vụ lục tìm trong đống hồ sơ của Bộ Ngoại giao và CIA những bức điện tín theo kênh không chính thức được xếp vào loại tối mật mà tờ Thời báo vẫn chưa nắm được và qua đó "chỉ ra sự dính líu trực tiếp"(143) của Tổng thống Kennedy vào vụ ám sát Diệm. Không tìm được thông tin nào. Hunt cho rằng các hồ sơ này đã bị xoá sạch. Colson khi đó khuyến khích Hunt "nâng cấp các hồ sơ sẵn có bằng cách làm giả các bức điện gây bất lợi nhiều hơn cho Tổng thống Kennedy. Với những ngón nghề có được sau thời gian làm việc ở CIA của mình, anh ta làm giả hai điện tín và Colson định sắp xếp cho Hunt trao chúng cho một tay phóng viên tờ tạp chí Life. Tay phóng viên này tỏ ra đặc biệt thích thú và tỏ ý muốn đăng lại trên tạp chí Life. Tuy nhiên Hunt đã cảnh báo với Colson rằng nếu bị thẩm định, tài liệu giả đấy sẽ không đứng vững được. Lúc đấy Hunt vẫn chưa làm giả được kiểu giấy in của Nhà Trắng, và "sau vụ Alger Hiss, mọi người đều thận trọng hơn với các tài liệu đánh máy". Vì thế không có bài báo nào lên trang và những tài liệu giả mạo đó nằm lại trong két an toàn của Hunt tại Nhà Trắng cho mãi tới vụ đột nhập vào khách sạn Watergate.
Mặc dù vẫn còn nằm trong danh sách hưởng lương của Colson nhưng từ ngày 17-7, Hunt đã được thuyên chuyển sang một đơn vị điều tra đặc biệt (SIU), do Tổng thống thành lập và trực tiếp giao nhiệm vụ thông qua Cố vấn đối nội, John Ehrlichman. Đứng đầu SIU là Egil Krogh, một trợ tá cho Ehrlichman, David Young, trợ tá cho Kissinger, người sẽ giám sát các hoạt động của Hunt và G. Gordon Liddy, một cựu nhân viên FBI. Nhóm này được lịch sử biết đến với cái tên là "Thợ sửa ống nước Nhà Trắng" do một chuyện đùa của nhóm. Một người họ hàng của David Young sau khi đọc trên tờ Thời báo nói rằng Young đang "vá víu" các rò rỉ tại Nhà Trắng đã nói: "Ông nội sẽ tự hào về cậu cho xem(144)… ông là thợ sửa ống nước mà". Từ đó Young đem treo trước cửa căn phòng số 16 trên căn gác của Toà nhà Văn phòng Hành chính, nơi làm việc tuyệt đối bí mật, lẽ ra không biển hiệu của họ, một tấm biển có ghi ông Young. Thợ sửa ống nước.
Sở dĩ họ mỉa mai tự gọi mình là "thợ sửa ống nước" vì chức năng chính của nhóm này là thực hiện chương trình rò rỉ kép như Tổng thống yêu cầu. Vì thế công việc đầu tiên của Hunt là công bố các bức điện tín bí mật - mà thực chất là "nâng cấp" hoặc làm giả chúng - có liên quan đến Tổng thống Kennedy và Diệm. Lần đầu tiên ông ta sử dụng những lốt nguỵ trang và những bằng chứng giả do CIA cung cấp là trong cuộc điều tra lén lút về trách nhiệm của Ted Kennedy trong tai nạn tại Chappaquiddick, và hiển nhiên kết quả điều tra sẽ được tiết lộ ra ngoài nhằm hoặc thao túng hoặc gây áp lực với Kennedy. Nhiệm vụ thứ hai, thu thập thông tin, vẫn theo một cách có phần lén lút, về bản thân tôi và rồi sẽ lại tiết lộ các thông tin đó ra.
Đây chính là những mục tiêu được vạch ra trong một thông báo của Hunt gửi Colson vào ngày 28-7-1972.
Bản ghi nhớ này chỉ được công khai gần hai năm sau đó nhờ một cuộc thẩm vấn trong phòng xử án của chúng tôi. Tiêu đề của bản ghi nhớ đó là "Trung lập hoá Ellsberg". Mở đầu Hunt viết: "Tôi đề nghị có một khung kế hoạch hành động, mục đích xây dựng tập hồ sơ về Ellsberg, trong đó có chứa tất cả các thông tin công khai, bí mật và những thông tin nhạy cảm với uy tín của Ellsberg. Đây sẽ là công cụ cơ bản quyết định sẽ dùng cách nào nhằm huỷ hoại hình ảnh của ông ta trước công chúng và hạ thấp uy tín của ông ta".
Tiếp theo đó là một danh sách tám "đề mục" được đặt tên là "mong muốn", qua đó xác định những nguồn thông tin có thể sẽ hữu ích, rất đa dạng, bao gồm từ các tài liệu đã được xử lý thông tin mật đến các cuộc phỏng vấn với vợ cũ của tôi, các đồng nghiệp cũ tại Rand và ISA. Hai trong số các mục này là "Yêu cầu CIA bí mật tiến hành đánh giá tâm lý với Ellsberg" và, như một điềm báo, "Thu thập hồ sơ về Ellsberg từ những phân tích bệnh tâm thần của anh ta".
Khuyến nghị cuối cùng này đã dẫn đến vụ đột nhập vào văn phòng bác sỹ phân tâm trước của tôi tại Beverly Hill, ông Lewis Fielding. Có lý do hầu hết mọi người coi đề nghị cuối cùng này cùng với việc thu nhận Howard Hunt là sự mở đầu cho quá trình lụn bại của chính quyền Nixon. Tuy nhiên chưa có mấy người phán đoán chính xác các động cơ đằng sau haỉ hành động trên và phần lớn các phán đoán đều đi quá xa. Có độ tin cậy nhiều nhất là phát biểu của Egil Krogh về mục tiêu hoạt động của SIU và vụ đột nhập vào văn phòng của Fielding.
Ông này là người phụ trách SIU nhưng đồng thời cũng là người duy nhất luôn thành thực, thẳng thắn. Ông đã khai nhận trước mặt thẩm phán Gerhart Gesell tại toà(145) tội chỉ đạo vụ đột nhập vào nhà Fielding, trình bày các mục đích của vụ trộm và ý định sử dụng thông tin thu được sau đó. "Chúng tôi vạch ra rất nhiều mục tiêu cho chiến dịch này". Một trong số đó là đánh giá khả năng bị truy tố ra toà có khiến Tiến sĩ Ellsberg tiết lộ thêm nữa những tài liệu mật không, hay nếu không thì ông ta sẽ im lặng".
Điều này có vẻ không hợp lý nếu đặt ngoài bối cảnh cuộc thảo luận giữa Kissinger và Tổng thống ngày 27-7, một ngày trước khi Hunt thảo ra kế hoạch cho một cuộc điều tra ngoài luật nhằm "trung lập hoá Ellsberg":
Kissinger: Tôi cho là Mitchell nên hoãn lại(146) việc xét xử Ellsberg cho đến khi chúng ta dù bằng cách này hay cách khác khép lại được cuộc chiến tranh Việt Nam. Bởi vì tên khốn kiếp ấy. Đầu tiên, tôi cứ hy vọng - Tôi biết hắn khá rõ… Tôi chắc chắn rằng hắn ta vẫn còn giấu giếm thông tin khác nữa….Tôi cược là hắn ta ém lại cho phiên toà. Vì hắn có trong tay các bằng chứng về tội ác chiến tranh của Mỹ. Tôi không biết, nhưng tôi có cảm giác như thế.
Tổng thống: Được.
Kissinger: Hắn ta sẽ hành động như vậy.
Tổng thống: Hoãn lại ư, phiên toà này…
Kissinger: Thứ hai, chờ khi chúng ta chấm dứt được cuộc chiến này, chúng ta sẽ trút hết lên Ellsberg. Chúng ta sẽ ở thế mạnh hơn - và không ai buồn nhớ gì đến tội ác chiến tranh nữa. Ellsberg, đồ bỉ ổi!
Trước mặt thẩm phán Gesel vào tháng giêng năm 1974, Krogh khai nhận là các "mục đích tiềm năng" của thông tin thu được từ vụ đột nhập rất "đa dạng".
"Đương nhiên mục tiêu hàng đầu(147) là ngăn chặn tiến sĩ Ellsberg tiếp tục tiết lộ các thông tin khác và loại trừ bất cứ bộ máy phục vụ việc tiết lộ thông tin có thể đã được thành lập. Chúng tôi, đặc biệt là E. Howard Hunt, cũng cho rằng thông tin loại này có thể có tác dụng buộc Tiến sĩ Ellsberg phải tự mình khai. ra những ý đồ thực sự của ông ta. Cuối cùng, trọng tâm của quá trình điều tra lúc đó đang được tiến hành là khả năng sử dụng các thông tin này hạ thấp uy tín của một người phát ngôn cho phong trào phản đối chiến tranh".
Krogh, trong một lời khai khác đã nói rõ hơn về mục tiêu cuối cùng này. Trái với phỏng đoán trong gần như tất cả các tường trình từ trước tới giờ, ông ta không coi nó là mục tiêu tối quan trọng:
"Việc hạ thấp uy tín của Tiến sĩ Ellsberg sẽ có tác dụng làm chùn chân những kẻ khác định bắt chước ông ta. Nó cũng sẽ hạn chế khả năng của ông ta kích động tinh thần chống đối chính sách Việt Nam mà Tổng thống Nixon đã lựa chọn. Sự tự do của Tổng thống theo đuổi chính sách đối ngoại mình đã lựa chọn được coi là cốt tử của An ninh quốc gia.
Do đó, một trong các mục tiêu đặt ra cho SIU và vụ đột nhập là thu thập tin tức phục vụ nhiệm vụ Nixon đã giao phó cho Mitchell, Colson, và Hunt: tung ra dư luận các thông tin đó và "mượn báo chí để kết tội (tôi)". Tuy nhiên, theo lời Egil Krogh (sau này ông ta khẳng định với tôi như thế), đây không là mục đích chính của tất cả các nỗ lực nhằm vào tôi và kể cả của cuộc đột nhập riêng rẽ vào văn phòng bác sĩ phân tâm cũ của tôi.
Trong một lời khai vào năm 1974 của Krogh, ông ta nhớ lại:
"Tôi nhớ rằng nhiệm vụ của tôi là tập trung vào việc ngăn chặn những tiết lộ mới của Ellsberg và triệt tiêu bất cứ bộ máy nào ông ta có thể đã dựng lên để phục vụ ý đồ này của mình. Theo như tôi hiểu thì đây là nhiệm vụ trung tâm được giao phó cho đơn vị chúng tôi".
Cũng không có gì là hoang tưởng khi cả Tổng thống Nixon và Henry Kissinger đều nghi ngại tôi sẽ đưa ra các tài liệu tối mật khác đe doạ đến chính sách Việt Nam của họ. Cứ dựa vào những gì Thượng nghị sỹ Mathias đã nói với Kissinger - nhưng ông ta lại không để họ nhìn thấy tận mắt bất cứ tài liệu nào - cả hai người đều cho rằng tôi đang nắm giữ những tài liệu mật về Việt Nam, lấy được từ NSC, và tôi vẫn chưa hề công bố. Nixon và Kissinger không biết đó chỉ là những tài liệu chính tôi đã soạn ra (theo yêu cầu của Nixon), đã sao chụp và chuyện về Rand, cho nên giả định duy nhất của họ chỉ có thể là tôi đã nhận tài liệu từ một ai đó từng làm việc tại NSC vào năm 1969, hoặc có thể người này vẫn còn làm việc tại đây và vẫn có khả năng trao cho tôi những tài liệu khác. Thậm chí cho dù về sau người này có ra khỏi NSC, các kế hoạch cũng vẫn đã được vạch ra từ năm 1969, chi tiết với từng bước leo thang là chỗ dựa nhằm bí mật đe doạ Hà Nội, và những hành động leo thang đã và sẽ được thực hiện, trong thời gian từ năm 1969 đến năm 1971. Những kế hoạch dự phòng(148), sự đe doạ, và nhiều đợt leo thang chiến tranh tại Campuchia và Lào, tất cả đều được giữ kín - không nhằm che giấu chính quyền Hà Nội hay các nước đồng minh Cộng sản, mà chính Quốc hội và dư luận Mỹ - chính bởi vì nếu công khai, theo dự đoán bất ngờ sâu sắc của Krogh, sẽ đe doạ đến điều mà Nhà Trắng coi là "cốt tử của an ninh quốc gia": "Sự tự do của Tổng thống theo đuổi chính sách đối ngoại mình đã lựa chọn".
Tôi không cho rằng Nixon đã thực sự nghĩ tôi chính là mối đe doạ với "an ninh quốc gia", nếu bốn chữ đó được định nghĩa đúng như nó phải thế. Với tất cả khả năng của mình, tôi đe doạ công khai một chiến lược mà nếu tất cả mọi người đều hiểu đúng về nó, nền dân chủ của chúng ta có thể sẽ không cho phép Tổng thống tự do không e ngại điều gì theo đuổi chiến lược này.
Vẫn còn đó một câu hỏi, thông tin thu thập được từ văn phòng bác sĩ phân tâm sẽ có ích gì với kế hoạch "ngăn chặn các tiết lộ mới"? Tôi mới chỉ mập mờ hiểu điều đó, cho mãi đến năm 1975 khi Taylor Branch, phóng viên và là người gần đây đã nhận giải thưởng văn học Pulitzer viết về tiểu sử Martin Luther King Jr, cho tôi biết câu trả lời. Trong năm đó, Branch và một đồng nghiệp của mình, George Crile đã phỏng vấn một số người Cuba có liên hệ với Howard Hunt qua một loạt các kế hoạch phiêu lưu, bắt đầu từ vụ Vịnh Con Lợn. Có Eugenio Martinez và Bemard Barker, cả hai đều đã tham gia vào vụ trộm tại nhà bác sĩ Fielding, và sau đó là khách sạn Watergate (và trong cả một âm mưu ám sát tôi vào năm 1972, tôi sẽ kể lại chi tiết trong chương sau). Họ cho Branch hay rằng, trong năm 1971 họ có nhiệm vụ tìm kiếm các thông tin cá nhân mà tôi không muốn tiết lộ, dựa vào đó gây áp lực buộc tôi khai ra những bí mật vẫn còn nắm giữ có thể ảnh hưởng đến An ninh quốc gia. Họ không biết những bí mật đó là gì, chỉ biết rằng tôi là "kẻ phản quốc".
Cũng với mục đích này, họ còn được giao tìm hiểu về chính bác sĩ Fielding trong hồ sơ cá nhân của ông, làm thế nào khiến ông thay đổi quyết định và cung cấp cho FBI các thông tin của tôi. Biết như vậy, tôi cảm thấy vỡ lẽ ra nhiều so với giả định ngây thơ rằng các bệnh án viết tay của bác sĩ phân tâm lại có chứa các thông tin SIU cần đến. Buộc chính vị bác sĩ phân tích tâm lý ấy nói về bệnh nhân của mình có lẽ còn hiệu quả hơn nhiều. Thực chất, Barker đã trả lời phỏng vấn tờ Harper s rằng sau khi xem xét báo cáo nộp thuế thu nhập của Fielding, anh ta "cảm thấy hình như vị bác sĩ tử tế này lại không hoàn thành đầy đủ nghĩa vụ thuế". Ngoài ra, song song với tìm kiếm thông tin về tôi, bọn họ còn nghiên cứu về vợ và các con tôi, mục đích không gì khác ngoài thao túng tôi.
Tất cả những việc này, đương nhiên không loại trừ kế hoạch công bố các thông tin hoặc do Fielding cung cấp hoặc tìm thấy qua hồ sơ bệnh án của ông. Công việc có thể sẽ do chính Colson thực hiện (như trong một ghi nhớ của SIU vào thời điểm đó). Tuy nhiên, nhìn vào những gì Krog cho là chức năng của SIU, sẽ hợp lý hơn nếu thấy khả năng tiết lộ thông tin là rất ít so với hành động đe doạ sẽ tiết lộ. Branch cho hay là một số các kế hoạch chi tiết khác cũng đã được thảo luận. Đứng trước nguy cơ các thông tin nhạy cảm của mình bị lộ ra ngoài, ít nhất tôi cũng sẽ chùn chân. Thậm chí họ còn hy vọng tôi bỏ đi sống lưu vong, ở Cuba, hay Algeria, như gương của Eldridge Cleaver hoặc Timothy Leary, hoặc khiến tôi tự sát (là điều FBI mong mỏi nhất khi họ gửi đến cho Martin Luther King. Jr cuốn băng nghe trộm các cuộc phiêu lưu tình ái của ông). Tôi hiểu rõ con người mình khi đó, và biết chắc rằng không gì có thể thao túng được tôi. Nhưng nếu họ có hy vọng thì cũng chẳng có gì là vô lý. Không gì là chắc chắn cả, Nhà Trắng đã chợt nhận ra nguy cơ đó với chính sách chiến tranh họ đang bí mật tiến hành nếu nó bị tiết lộ.
Chú thích:
(106) "Theo dư luận" - Tổng thống và Kissinger, 15:09, 13 tháng 6, 1971, Phòng Bầu Dục. Cục hồ sơ An ninh quốc gia.
(107) "Lào và Campuchia" - sđd.
(108) "Thưa Tổng thống, thưa ngài Bộ trưởng Tư pháp" - Tổng thống và Ehrlichman, 19:13, 14 tháng 6, 1971, Điện đàm Phòng Bầu Dục. Cục hồ sơ An ninh quốc gia.
(109) "Lời cảnh cáo sơ bộ" - Tổng thống và Mitchell, 19:19, 14 tháng 6, 1971, điện đàm Phòng Bầu Dục. Cục hồ sơ An ninh quốc gia.
(110) "Lệnh của toà án chỉ" - Tổng thống, Haldeman và Ziegler, 10:39, 16 tháng 6, 1971, hội thoại Phòng Bầu Dục 522-2.
(111) "mớ tài liệu dính dáng tới Kennedy" - Tổng thống và Ziegler, 24:59, 16 tháng 6, 1971, hội thoại Phòng Bầu Dục 522-7.
(112) Tổng thống, Kissinger, Ehrlichman và Haldeman, 17:15, 17 tháng 7, 1971, hội thoại Phòng Bầu Dục 525-1.
(113) Sau khi Kissinger đi khỏi: Tổng thống nói chuyện với Colson, 18:21, 17 tháng 7, 1971, Biên bản điện đàm Nhà Trắng, Phòng Bầu Dục 525-1.
(114) "Đơn giản chúng ta không thể cho phép" - Tổng thống và Colson, 18:21, 15 tháng 7, 1971, điện đàm Phòng Bầu Dục, Cục hồ sơ An ninh quốc gia.
(115) "… có một bức hình lớn" - Tổng thống, Haldeman, Ehrlichman và Mitchell, 17:09, 22 tháng 6, 1971, Phòng Bầu Dục.
(116) "Tôi buộc phải làm như vậy" - Trích lại trong Ungar, 186
(117) "tốt nhất là" - Tổng thống, Haldeman và Ziegler, 9:38, 24 tháng 6, 1971, Phòng Bầu Dục. Kutler, trang 5.
(118) "Quỷ tha ma bắt, phải tống một tên nào đó vào từ" - Tổng thống và Haldeman, 9:56 sáng, 15 tháng 6, 1971, Phòng Bầu Dục.
(119) "Có cách nào" - Tổng thống, Mitchell và Ziegler, 15:45, 15 tháng 6, 1971, hội thoại Phòng Bầu Dục, 521-9.
(120) "Tại sao FBI chưa" - Tổng thống, Ziegler và Haldeman, 14:42, 17 tháng 6, 1971, Phòng Bầu Dục.
(121) "Tổng thống, ngài cần phải mạnh tay" - Tổng thống, Kissinger và Ziegler, 22:39, 15 tháng 6, 1971, hội thoại Phòng Bầu Dục 520-4.
(122) "Có những lý do đặc biệt" - Liên quan tới các rò rỉ về Campuchia, Lào hoặc chiến dịch Thực đơn, xem Tổng thống, Haig và Kissinger, 14 tháng 6, 1971, Phòng Bầu Dục; Tổng thống và Haldeman, 23:04, 23 tháng 6, Phòng Bầu Dục; Tổng thống và Kissinger, 30 tháng 6, Phòng Bầu Dục; Tổng thống và Haldeman, 8:45, 1 tháng 7, Phòng Bầu Dục; Tổng thống và Ehrlichman, 10:58, 8 tháng 10, Phòng Bầu Dục.
(123) "Bất cứ khi nào" - Tổng thống và Kissinger, 15:09, 23 tháng 6, 1971, điện đàm Phòng Bầu Dục.
(124) "Một chính phủ được lòng dân" - Foerstel, tr. 11, trích dẫn Các bài viết của James Madison, 9, chủ biên Gaillard Hunt (New York: NXB Putnam, 1900-10), trang 103
(125) "Cậu không phản đối" - Tổng thống, Mitchell và Kissinger, 14:55, 23 tháng 6, 1971, Phòng Bầu Dục. Kutler, trang 6.
(126) "hàng xệp tài liệu" - Tổng thống và Kissinger, 14:31, 13 tháng 6, 1971, Phòng Bầu Dục.
(127) "Lúc trước", "Tại sao ông ta không hề đề cập tới" - Tổng thống, Mitchell và Kissinger, 14:55, 30 tháng 6, 1971, Phòng Bầu Dục.
(128) "Daniel Ellsberg là kẻ nguy hiểm nhất" - trích trong Hersh, tr. 385.
(129) "Đã đến lúc phải hành động" - trích trong sđd, trang 330.
(130) "Nhưng ở đây rất an toàn" - Tổng thống và Kissinger, 14:31, 23 tháng 6, 1971, Phòng Bầu Dục.
(131) "Việc khó là" - Tổng thống, Haldeman, Colson và Ehrlichman, 10:28, 1 tháng 7, 1971, Phòng Bầu Dục. Kutler, trang 10.
(132) "Mathias vẫn đang chơi trò mèo vờn chuột" - Tổng thống, Mitchell, Ehrlichman và Haldeman, 11: 47, 6 tháng 6, 1971, Phòng Bầu Dục (trích Hồ sơ Đội chuyện trách khởi tố đặc biệt vụ Watergate, hội thoại 538-015, băng ghi âm Nhà Trắng).
(133) "cái trò trẻ con" - Tổng thống và Ehrlichman, 11:09, 20 tháng 7, 1971, Phòng Bầu Dục.
(134) "Ellsberg đã như thế" - Tổng thống, Mitchell, Ehrlichman và Haldeman, 11:47, 6 tháng 6, 1971.
(135) "Vấn đề Mathias" - sđd.
(136) "Thực ra mà nói, nếu Mitchell thôi" - Tổng thống, Haldeman và Colson, 9:15, 2 tháng 7, 1971, Phòng Bầu Dục. Kutler, trang 5.
(137) "một nhân viên Nhà Trắng" - Tổng thống, Haldeman, Colson và Ehrlichman, 10:28, 1 tháng 7, 1971, Phòng Bầu Dục. Kutler, trang 10.
(138) "Chúng ta đều hiểu, ông ta đã biết trước" - Tổng thống và Haldeman, 15:09, 14 tháng 6, 1971, Phòng Bầu Dục. Cục hồ sơ An ninh quốc gia.
(139) "… chúng ta đã dập tắt vụ "Algerl Hiss" - Tổng thống, Haldeman và Kissinger, 8:45, 1 tháng 7, 1971, Phòng Bầu Dục. Kutler, trang 7.
(140) "một người ở bên ngoài" - Tổng thống, Haldeman, Colson và Ehrli(.hman, 10:28, 1 tháng 7, 1971, Phòng Bầu Dục. Kutler, trang 13.
(141) "Anh có nghĩ anh ta" - Biên bản điện đàm của Charles Colson với Howard Hunt, 1 tháng 7, 1971, Tài liệu Watergate, hồ sơ riêng của tác giả.
(142) "Tôi đã quên" - Thông báo của Charles Colson gửi H. R. H. Trả lời: Howard Hunt, 2 tháng 7, 1971, sđd.
(143) "chỉ ra sự dính líu trực tiếp" - Biên bản cuộc điều trần của E. Howard Hunt trước Đại bồi thẩm đoàn, 2 tháng 5, 1973, sđd.
(144) "Ông nội sẽ tự hào về cậu" - trích trong Lukas, trang 101-2.
(145) ông đã khai nhận trước mặt Thẩm phán Gerhart Gesell tại toà: Lời khai trước Toà án Tiền kết án, 22 tháng 1, 1974. Nathaniel Akerman cung cấp.
(146) "Tôi cho là Mitchell nên" - Tổng thống và Kissinger, 14:20, 27 tháng 7, 1971, Phòng Bầu Dục.
(147) "Đương nhiên, mục tiêu hàng đầu là"; "Làm Ellsberg mất uy tín"; "Tôi nhớ rằng" - Lời khai trước Toà án Tiền kết án.
(148) Liên quan tới các rò rỉ về kế hoạch dự phòng, bao gồm kế hoạch phong toả Hải Phòng và ném bom các kênh đào: Tổng thống và Kissinger, 13 tháng 6, 15 tháng 6, 30 tháng 6, 1971; Tổng thống, Kissinger và Haldeman, 30 tháng 6, 1971.
Ngày 27-4-1973, mở màn ngày xét xử thứ tám mươi Anthony Russo và tôi, thẩm phán Mathew Byrne chuyển cho bên bị cáo một bản ghi nhớ nhận từ Bộ Tư pháp ngày hôm trước. Ghi nhớ này đề ngày 16-4 của công tố viên trong vụ Watergate, Earl Silbert gửi cho trợ lý Bộ trưởng Tư pháp Henry E. Petersen. Ghi nhớ mở đầu:
"Tôi xin thông báo rằng ngày chủ nhật, 15-4-1973, tôi nhận được tin vào một thời gian chưa xác định, Gordon Liddy và Howard Hunt đã đột nhập vào văn phòng bác sĩ tâm thần của Daniel Ellsberg tìm kiếm bệnh án của ông ta".
Nhân lúc không có mặt bồi thẩm đoàn, các nhà báo được thông báo nội dung bức điện này. Họ ngay lập tức đổ xô đến bên các máy điện thoại ngoài hành lang. Đây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy các phóng viên ngoài đời chạy đua để đưa tin, giống hệt trong các bộ phim ngày trước. Như lời một nhà báo, họ đang phác ra trong đầu những hàng tít trên trang nhất như là "Vụ Watergate "so găng" với vụ Hồ sơ Lầu Năm Góc".
Dư luận và báo giới cũng đã biết đến Hunt và Liddy, dù không thật nhiều bằng thời gian hai tuần cuối cùng của phiên toà của chúng tôi khi vai trò của họ trong vụ đột nhập tại khách sạn Watergate bị phanh phui. Cũng như thế với ba người Mỹ gốc Cuba, tất cả đều là các cựu chiến binh trong cuộc chiến Vịnh Con Lợn và là "những tài sản" của CIA kể từ cuộc chiến tranh đó. Ba người đó nhanh chóng bị phát giác đột nhập vào văn phòng bác sỹ Fielding theo sự chỉ đạo của Hunt và Liddy.
Bemard Barker và Eugenio Martinez bị bắt giữ ngay tại văn phòng của Uỷ ban Quốc gia Đảng Dân chủ ở khách sạn Watergate trong ngày 17--7-1972. (Còn lại Felipe de Diego, anh ta cũng tham gia vào vụ trộm hồi tháng Năm tại khách sạn này). Cả Hunt, Barker và Martinez đều đã nhận tội, còn Liddy đã bị buộc tội đột nhập vào Watergate tại phiên toà tháng 3-1973 diễn ra ở Washington, một tháng trước khi có tuyên bố của thẩm phán Byrne về vụ án của tôi. Nhà Trắng liên tiếp chối bỏ bất kỳ liên hệ nào với một "vụ trộm hạng bét" kiểu như thế này, còn các bị cáo cũng không hề biết một dây liên lạc nào tới cấp cao hơn hay những vi phạm khác nữa, kể cả khi phải trả lời và đã tuyên thệ trước Đại bồi thẩm đoàn và được hưởng quyền miễn trừ truy tố.
Giả thuyết được Silbert đưa ra về vụ trộm tại khách sạn Watergate là Liddy đã thuê Hunt và bốn người bị bắt tại khách sạn để giải quyết "công chuyện riêng" của ông ta. Liddy trước là một nhân viên của FBI, còn hiện giờ là cố vấn pháp lý của CREEP, Uỷ ban tái cử tổng thống (Nixon). Tuy nhiên thẩm phán Byrne không đồng tình với cách giải thích như vậy, bởi vì trong vật dụng cá nhân của những tên trộm này thấy ghi chép địa chỉ văn phòng làm việc của Hunt ở Toà nhà Văn phòng Hành pháp. Hơn nữa, ông ta cùng tất cả những người liên quan khác, trừ Liddy ra đều là nhân viên hoặc chính thức hoặc hợp đồng của CIA. Nghi ngờ là vậy, nhưng thẩm phán vẫn không dám chắc chắn cho mãi đến khi bị cáo James McCord, từng là một nhân viên an ninh cao cấp của CIA đã chuyển sang làm việc cho CREEP, gửi lên cho ông một tin nhắn trước giờ luận tội, báo cho thẩm phán hay rằng có người đã khai man trước toà và còn có nhiều người khác tham gia chỉ đạo vụ trộm tại Watergate. Tuy nhiên, McCord cũng không hay biết gì về liên can của Nhà Trắng.
Sau khi đọc bức thư của Silbert, thẩm phán Byrne yêu cầu công tố viên nhanh chóng trao cho ông trả lời của chính phủ về một loạt các nghi vấn, như là "Hunt và Liddy tiến hành vụ trộm với tư cách là các nhân viên của chính phủ? Vụ trộm do ai dàn dựng?"
Thứ hai, ngày 30 tháng tư, thẩm phán Byrne nhận được báo cáo của FBI về cuộc phỏng vấn mới ngày 27-4 với John Ehrlichman, qua đó công khai sự tồn tại của đơn vị điều tra đặc biệt, "Nhóm thợ sửa ống nước" mà Ehrlichman quản lý và nhận lệnh từ Tổng thống. Câu hỏi đầu tiên của thẩm phán Byrne đã được trả lời: Hunt và Liddy, làm việc cho Nhà Trắng, đang theo đuổi một kế hoạch nhắm chủ yếu vào tôi. Kế hoạch này bắt đầu theo yêu cầu của Tổng thống, không lâu sau khi tôi bị buộc tội. Hai người đã dàn dựng đột nhập văn phòng vị bác sĩ phân tâm, Lewis Fielding ở Beverly Hills ngày 3--9-1971 trong thời gian nghỉ lễ Ngày Lao động. Đây là lần đầu tiên có những quan chức trong chính quyền - cụ thể là Ehrlichman và Cố vấn pháp lý Nhà Trắng John Dean. Dean đã có những tiết lộ với công tố viên trong ngày 15 tháng tư - công khai thừa nhận sự chỉ đạo của Nhà Trắng đối với một hành vi phạm pháp đã rõ như ban ngày. Ít nhất thì cũng rõ ràng trong mắt tất cả những người (trừ Ehrlichman và Nixon) không nghĩ rằng cái cớ bảo vệ an ninh quốc gia có thể lấp liếm tất cả những nghi vấn về tính hợp pháp của các hành động thực hiện nhân danh chính quyền này.
Tối hôm đó, 30-4, Tổng thống Nixon thông báo Ehrlichman và H. R. Haldeman, Chánh Văn phòng Nhà Trắng - "hai trong số những công chức xuất sắc nhất mà tôi từng biết" - và Richard Kleindienst, quyền Bộ trưởng Tư pháp, ba người ra đi cùng với John Dean.
Bằng chứng về những vi phạm pháp luật và hành động cản trở công lý của Nhà Trắng thay nhau liên tiếp xuất hiện. Hunt phải thêm một lần đứng trước Đại bồi thẩm đoàn. Tại phiên toà của chúng tôi, công tố viên và thẩm phán công bố lời cung khai của ông ta - nhận lúc trước đã khai man. Qua lời khai của Hunt, theo yêu cầu của Ehrlichman, CIA có nhiệm vụ (bất hợp pháp) cung cấp hậu cần cho một mật vụ trong nước, những đạo cụ đại loại như danh tính giả mạo, thiết bị thay đổi giọng nói, để lại dấu giày, camera quay lén, kính, tóc giả và nộp lên Nhà Trắng hai "bệnh án tâm lý". Hunt đề nghị thực hiện vụ trộm tại nhà bác sĩ Fielding, một phần nhằm thu thập dữ liệu cho hai bệnh án này.
Ông ta biết rằng trong quá khứ đã có các bệnh án tương tự đối với mục tiêu nước ngoài như Castro và Tổng thống Indonesia Sukamo. Những việc làm trên đều trái với chức năng pháp lý của CIA. Cơ quan này không được phép tham dự vào các mật vụ, hoạt động cảnh sát, hoạt động tình báo trong nước, kể cả hoạt động phản gián. Tất cả đều thuộc thẩm quyền riêng biệt của FBI.
Cơ quan này cũng chưa từng xây dựng một hồ sơ nào như là một bệnh án tâm lý của một công dân Mỹ (vì biết pháp luật không cho phép). Nhưng Giám đốc Richard Helm ra lệnh phải hết sức kín đáo về nhiệm vụ này nên các nhân viên CIA dù cảm thấy bất an vẫn phải hoàn thành yêu cầu của Nhà Trắng.
Khi được Đại bồi thẩm đoàn hỏi về những vi phạm khác trong kế hoạch của Nhà Trắng, Hunt đã nói đến hai bức điện tín làm giả sự liên luỵ của Tổng thống Kennedy vào vụ ám sát Tổng thống Diệm, do Colson thúc giục ông ta. Cố vấn Nhà Trắng Dean, đang mặc cả với công tố viên để được quyền miễn trừ truy tố trách nhiệm chỉ đạo che đậy vụ Watergate và những vi phạm khác của Nhà Trắng. Sau những tiết lộ với các công tố viên ngày 15-4 về vụ trộm tại văn phòng bác sĩ Fielding, Dean nói đến khả năng những bức điện tín đã bị tiêu huỷ. Khi ông ta lục tìm trong két an toàn của Hunt tại Nhà Trắng, chỉ vài ngày sau sự kiện Watergate, ông ta thấy có hai bức điện tín giả mạo cùng những hồ sơ liên quan đến tôi - hai bệnh án do CIA xây dựng và các thông báo Hunt gửi cho Colson báo cáo về hoạt động tại Nhà Trắng của ông ta. (Trong các thông báo này cũng thấy nói đến cuộc điều tra bí mật đối với Ted Kennedy, trong đó Hunt lần đầu dùng đến những tài liệu nguỵ trang do CIA cung cấp).
Ehrlichman gợi ý Dean tiêu huỷ tất cả những tài liệu này vì chúng sẽ trở nên đặc biệt nhạy cảm (và có thể liên luỵ đến các nhân viên Nhà Trắng, kể cả ông ta) trong một năm bầu cử như năm nay. Đối với các đồ vật lớn hơn tìm thấy trong két an toàn như chiếc cặp đựng đạo cụ nghe lén, Dean có thể phi tang trên đường ông ta trở về nhà đi qua cầu. Dean lại không chịu làm hai việc này, vì hai lý do: Việc đó phạm pháp và đã có rất nhiều người thấy ông ta sở hữu chúng. Ông cho là vì Ehrlichman cũng đi qua con cầu đó trên đường trở về nên Ehrlichman có thể tự mình ném chiếc cặp nếu ông thấy hợp lý. Cuối cùng hai người nhất trí với nhau là nếu cần ai đó tiêu huỷ những vật chứng thì người đó nên là quyền Giám đốc FBI, L. Patrick Gray, một người rất trung thành với Nixon.
Theo lời Gray, họ mời ông tới văn phòng của Ehrlichman rồi trao cho ông hai chiếc phong bì dán kín lấy ra từ két an toàn của Hunt (có những hồ sơ như trên). Dean mô tả đây là những hồ sơ "cực kỳ nhạy cảm và vô cùng bí mật" nằm trong két của Hunt, có thể trở thành những "quả bom tấn chính trị" nhưng không liên quan gì đến vụ Watergate. Ông ta nói: "Không thể đưa chúng vào hồ sơ của FBI và cũng không được phép để chúng lộ ra ngoài. Đây, anh cầm lấy đi". Sau này Gray khai nhận là từ những cảnh báo này Dean, người thay mặt Tổng thống và có sự hiện diện người trợ lý của Ngài, ông suy luận nhiệm vụ của mình là tiêu huỷ các hồ sơ này. Và ông ta đã làm như thế. Nhưng lời khai của Gray lại không nhất quán. Khi thì ông ta nói rằng đã tiêu huỷ chúng tại văn phòng và quẳng vào trong thùng đựng rác đã cháy, lúc lại nói rằng ông ta cất ở nhà rồi đợi mãi sau này mới đốt chúng cùng mớ giấy gói quà Giáng sinh.
Những điều này chỉ nổi lên qua các cuộc thảo luận tại phòng xử án của chúng tôi, giữa quan toà, công tố viên và các luật sư bào chữa, bởi vì các tài liệu liên quan đến tôi đã bị ông giám đốc FBI tiêu huỷ. Giờ đây không thể biết nội dung thực sự hay các liên hệ của chúng với sự kiện khác. Cùng với những tiết lộ ngày 15-4, Dean cũng nói đến những trao đổi này của ông ta với Gray. Sau khi đã thừa nhận trước Quyền Bộ trưởng Tư pháp Kleindienst việc làm của mình, Gray bị buộc thôi chức Quyền Giám đốc FBI. Và ông ta đã từ chức hôm 27-4, là ngày thẩm phán Byrne tiết lộ vụ trộm tại nhà Fielding. Tin tức đưa đi về lý do từ chức của Gray chính là những phanh phui đầu tiên về hành động cản trở công lý có Nhà Trắng hậu thuẫn.
Nhiều người khác cũng nhanh chóng theo chân Gray. Đặc biệt, ngày 27-4, thẩm phán Byrne yêu cầu bên công tố trả lời tại sao lá thư của Silbert về vụ đột nhập văn phòng Fielding đề ngày 16-4, mất mười ngày mới đến được phòng xử án của ông. Hoá ra đích thân Tổng thống đã yêu cầu trợ lý Bộ trưởng Tư pháp Petersen trì hoãn việc này với lý do bức thư là vấn đề thuộc về "an ninh quốc gia và dựa trên đánh giá của bản thân ông rằng vụ trộm chẳng qua chỉ là "cái giếng cạn", không phát hiện thêm thông tin nào có thể ảnh hưởng tới phiên toà của chúng tôi. Trách nhiệm của Bộ Tư pháp là phải làm ngược lại.
Cả Petersen và bộ trưởng Kleindienst đều hiểu thẩm phán chính là người quyết định. Khi phiên toà của chúng tôi tiếp tục diễn ra và không có bức thư, hai người càng lúc càng lo lắng có thể vì thế mà họ, Tổng thống sẽ bị kết tội cản trở công lý.
Ngày 25-4, Kleindienst nói với Nixon rằng thông báo của Silbert "phải" được chuyển đến cho vị thẩm phán ở Los Angeles. Khi đó thẩm phán sẽ có quyền công bố các thông tin đó qua camera (tức là giữ bí mật trước dư luận và báo chí) và có phiên điều trần kín, xác định những thông tin đó có ảnh hưởng đến phiên toà hay không. Ông cũng có thể yêu cầu các luật sư của Ellsberg không phát biểu công khai về các thông tin hoặc về thủ tục điều trần kín. Nixon nói rằng nếu quan toà nhận được những thông tin này, ông cần phải biết rằng vụ đột nhập là "một cuộc điều tra an ninh quốc gia cực kỳ nhạy cảm". Một giờ sau, Kleindienst báo cáo lại với Nixon là các công tố viên hy vọng sẽ thuyết phục được thẩm phán tạm thời không công khai và hoãn các phiên điều trần đến khi kết thúc vụ án của chúng tôi. Sẽ chỉ tiếp tục nếu có một phán quyết có tội. Nixon đáp lại: "Tốt thôi. Tôi phải nói thêm điều này(149). Tôi không biết anh sẽ trao bức thư này bằng cách nào, nhưng thẩm phán cần biết rằng đây là một cuộc điều tra an ninh quốc gia cực kỳ quan trọng. Thực sự thế, anh biết, tôi biết". Tổng thống lặp lại là ông muốn rằng các công tố viên cũng hiểu điều này. Ông nói tiếp: "Được rồi. Thế nhé, ngủ ngon, chàng trai(150)…"
Kleindienst: Khoan đã, thưa Tổng thống.
Tổng thống: Chúc anh may mắn. Quỷ quái thật. Người ta bảo sẽ luận tội Tổng thống. Thế mà, bọn họ lại nhằm vào Agnew. Cái quái gì thế nhỉ? (Cười) Ổn cả chứ? Ổn cả chứ?
Kleindienst: Sẽ không có chuyện như thế đâu.
Tổng thống: Được rồi, chàng trai. Sẽ tốt thôi…
Đây có thể là lần đầu khả năng Tổng thống bị luận tội được đề cập tới trong các băng ghi âm. Trong ngày 26, Tổng thống đã gọi điện rất nhiều lần cho Kleindienst để hỏi về quyết định của toà. Ngày 27, Petersen báo cáo tối hôm trước thẩm phán Byrne đã đọc tường trình của công tố viên và "hình như cho rằng những thông tin ông có được từ trước tới giờ đã là đầy đủ. Nhưng ông đổi thái độ chỉ qua một đêm"(151).
Thực ra, do công tố viên phản đối, thẩm phán Byrne đã để cho tôi quyết định. Chiều ngày 26-4, ông cho mời vào phòng xử án tất cả các bị cáo và luật sư bào chữa. Với David R. Nissen, ông nói rằng ông đã đọc hết những nội dung trong phong thư dán kín Nissen trao cho ông và đi đến kết luận ông không nên giữ cho riêng mình những thông tin đó. Ông hỏi Nissen xem anh ta đồng ý chuyển cho bên bị cáo hay không. Nissen trả lời phải hỏi ý kiến cấp trên ở Bộ Tư pháp và đến sáng hôm sau, câu trả lời là không nên. Lúc đấy Byrne mới yêu cầu Tony, tôi và các luật sư của cả hai bên tiến lại gần chỗ ông, tránh để các nhà báo nghe thấy và yêu cầu Nissen phải giao tài liệu đó cho bên bị cáo ông nói rằng chúng tôi có quyền được biết thông tin này và có quyền yêu cầu một cuộc điều trần tương ứng.
Tôi còn nhớ khá rõ giờ phút ấy, đặc biệt bởi vì đó là lần đầu tiên trong vòng hai năm xét xử, ngài thẩm phán nhìn trực diện và trao đổi trực tiếp với tôi. Trước đây, tất cả các thông điệp tới bên bị cáo dcu được chuyển qua các luật sư. Tôi không nhớ là từ trước tới nay có lần nào ông nhìn thẳng vào mắt tôi hay không.
Ông nói với tôi là: "Ông Ellsberg, tôi có lẽ không cần phải công khai thông tin này. Chúng tôi có thể giữ kín nếu ông muốn". Tôi hiểu điều ông ta nói có nghĩa là tôi không muốn để mọi người biết mình đang được điều trị tâm thần (tạp chí Times đã tiết lộ thông tin này cho mọi người, trong đó có Hunt từ hai năm trước).
Tôi đáp lại: "Ngài đang đùa hay sao? Đưa nó ra đây đi!"
Đây là những lời nói đầu tiên của tôi trực tiếp với quan toà kể từ sau tuyên bố tôi vô tội. Rất nhanh chúng tôi thấy cảnh các nhà báo đổ xô đến bên máy điện thoại.
Cứ thế phiên toà tiếp tục. Gần như mỗi ngày lại có thêm một điều ngạc nhiên thú vị, như sự ra đi của Haldeman, Ehrlichman, Kleindienst và Dean vào tối 30-4 và Gray, Quyền Giám đốc FBI ngày 27. Như lời Kissinger viết trong hồi ký, ông ta không thể tránh cái cảm giác Tổng thống "không còn kiểm soát được tình hình nữa". Nhưng không chỉ có Nixon. Trước đó cùng ngày, luật sư của tôi, Charlie Nesson nhận điện thoại của Mort Halperin đang ở Washington. Halperin cho hay trên số báo buổi sáng của tờ Ngôi sao Washington có tin thẩm phán Byrne trước đó vài tuần đã gặp Tổng thống và Ehrlichman tại khu Tây Nhà Trắng ở San Clemente. Tại đây ông được đề nghị chức vụ giám đốc FBI.
Vì Nesson đã báo trước với thẩm phán là ông có thể sẽ đề cập đến bài báo này tại phiên toà, thẩm phán đọc vội vàng một tuyên bố sơ sài, nhận có cuộc gặp nhưng không nhận đã thảo luận về vụ án và cho biết ông đã nói với Ehrlichman sẽ không có công việc nào cả chừng nào vụ án chưa kết thúc. Ngày 30-4, luật sư của chúng tôi yêu cầu ngay lập tức trong ngày hôm sau John Dean và Patrick Gray cùng Hunt và Liddy phải tường trình tại toà về vụ đột nhập vào nhà Fielding. Patrick khai nhận đã tiêu huỷ các tài liệu liên quan đến vụ án của tôi, còn tạp chí Tuần tin tức cho Dean là người đã thông tin cho Silbert. Tuy nhiên, hôm sau, các luật sư bào chữa chuyển sang kiến nghị toà án huỷ bỏ cáo trạng của chúng tôi. Leonard Boudin xoáy vào báo cáo của FBI về Ehrlichman mà chúng tôi mới nhận được sáng hôm đó. Leonard Weinglass, luật sư bào chữa cho Tony Russo phân tích rằng vào lúc "Ehrlichman gặp mặt quý toà này ngày 5-4," hẳn ông ta đã biết "ông ta đang là một phần trong cuộc điều tra về vụ đột nhập này" và "quý toà đang xét xử một vụ án có bị can Ellsberg… Câu hỏi đặt ra là ông Ehrlichman có tính toán gì trong đầu khi gặp quý toà". Ông bình luận hành vi của Ehrlichman "sẽ khiến đề tài kẻ trộm tìm thấy những gì trong văn phòng của Fielding trở nên ít nghĩa lý".
Thẩm phán đã bác kiến nghị huỷ bỏ cáo trạng nhưng lại nói yêu cầu này có thể được xem xét sau. Ông đặc biệt bác bỏ một lý do bãi nại có liên quan đến đề nghị của Ehrlichman và khẳng định ông không vì lời đề nghị đó mà dao động. Ông cũng nói cuộc gặp với Tổng thống chỉ rất ngắn ngủi và vụ án này cũng không được đem ra thảo luận với Nixon hay Ehrlichman.
Một vài ngày sau trong tháng năm, lại vẫn là các nhà báo chứ không phải thẩm phán Byrne tiết lộ rằng ông đã gọi điện cho Ehrlichman yêu cầu một cuộc gặp khác ngày 7-5 tại Santa Monica. Ngài thẩm phán thừa nhận cuộc gặp đã diễn ra nhưng theo lời ông, chỉ để nhắc lại với Ehrlichman ông sẽ không để tâm tới công việc này chừng nào phiên toà chưa kết thúc Ehrlichman phản pháo rằng thẩm phán Byrne, trái lại, tỏ ra khá quan tâm tới công việc trong cả hai lần gặp gỡ. Ông còn bình luận về cách điều hành FBI! Đây là lời bình luận của Weinglass trước một phóng viên: "Trong những ngày diễn ra phiên toà, nếu chúng ta có ai lại đi mời ông Byrne làm việc, chắc sẽ bị tống vào tù".
Tên của Byrne đã được nhắc đến trong các băng ghi âm Nhà Trắng từ cuối tháng ba trong những cuộc thảo luận về các ứng viên cho chức vụ này. Khi ấy Hunt đã bị cáo buộc tham gia vụ trộm tại khách sạn Watergate và đang sắp sửa điều trần trước Đại bồi thẩm đoàn. (Đương nhiên việc này chưa đến tai Byrne). Dù sao ông ta cũng được hưởng quyền miễn trừ truy tố.
Dù đã quyết định chi tiền để Hunt tiếp tục im lặng (sẽ được nói đến sau), Tổng thống vẫn sợ rằng tin tức về vụ Fielding có thể đang lan truyền tới phòng xử án của tôi. Ở đó ngài thẩm phán sẽ cân nhắc có nên truyền đạt thông tin đó cho bị cáo và dư luận hay không. Tin tức báo chí đưa ngày 27-4 dẫn lời các quan chức cấp cao giấu tên trong Bộ Tư pháp khá tức giận với việc làm này của ông. Sau này có người phỏng đoán đây là động cơ các quan chức này tiết lộ câu chuyện về thẩm phán cho tờ Ngôi sao.
Vì sao tội cản trở công lý có phần đóng góp của Nixon? Từ các băng ghi âm và tổng hợp các chứng cứ có thể suy đoán rằng Nixon tự để mình dính líu tới kế hoạch che đậy của Nhà Trắng và hành động cản trở công lý vì cùng một lý do. Kể cả việc ông chi tiền cho các bị cáo khai man và giữ im lặng trước toà ngay từ những ngày đầu họ bị bắt giữ tại khách sạn. Tổng thống không cần phải loại bỏ những mối liên hệ trực tiếp của ông với bản thân vụ Watergate. Không ai trong số những người đã bị bắt, cả Hunt và Liddy, có thể ám chỉ đến Tổng thống hay một ai khác trong Nhà Trắng. Đáng ra mà nói, cho đến tận hôm nay vẫn chưa xuất hiện một bằng chứng hay lời khai nhận nào chứng tỏ Nixon hoặc các quan chức Nhà Trắng đã biết trước về vụ đột nhập ở Watergate ngày 17-7-1972.
Nixon bắt đầu có những can thiệp từ ngày 23-7. Lý do của việc này là không để Howard Hunt khui ra vụ Fielding và hành động phi pháp của nhóm "Thợ sửa ống nước". Mãi sau này tôi mới biết, hoá ra việc đột nhập văn phòng bác sỹ trong tháng 9-1971, dù được biết đến nhiều nhất, không là hành động cuối cùng và nghiêm trọng nhất trong số những hành động phi pháp này. Tám tháng sau, ngày 3-5-1972, nhận được lệnh của Colson qua Hunt và Liddy, Nhà Trắng bí mật đưa mười hai người Mỹ gốc Cuba, "tài sản" của CIA, từ Miann sang Washington. Nhiệm vụ của họ là phá rối cuộc biểu tình có tôi và nhiều người khác đứng phát biểu trên lối vào điện Capitol và gây thương tích cho tôi.
Cuộc biểu tình như đã mô tả, diễn ra năm ngày sau khi Hải Phòng bị ném bom và tài liệu NSSM-1 được thượng nghị sỹ Gravel trao cho các báo. Không rõ kế hoạch làm tôi bị thương có mục đích gì. Tuy nhiên, băng ghi âm Phòng Bầu Dục ngày 2-5 cho thấy Nixon đã biết tôi sẽ lựa chọn thời điểm này công bố NSSM-l. Có lẽ ông đã nghĩ đến nguy cơ tôi sẽ tiết lộ dù là tài liệu nào lấy từ NSC. Nick Akerman, luật sư của Đội chuyện trách khởi tố đặc biệt Watergate (WSPTF) đang tiến hành điều tra tình huống này (anh đã có hơn một trăm cuộc phỏng vấn). Akerman cho hay là một số người từ Miami đã nhận được lệnh "vô hiệu hoá (tôi) hoàn toàn". Mỗi người lại có cách nghĩ khác nhau về nhiệm vụ của họ. Tất cả đều kể lại là Hunt và Liddy đã chỉ cho họ xem một tấm hình của tôi (và của Bill Kunstler cũng có mặt tại cuộc biểu tình) và nói rằng đây là "mục tiêu" của họ. Như tạp chí Times đã đưa tin, nhiều người khai với FBI hoặc WSPTF rằng "Chúng tôi phải coi người này là "kẻ phản bộỉ" và phải táng vào giữa mặt hắn ta.". Bernard Barker là người đứng ra cùng với Eugenio Martinez tuyển dụng nhóm này. Anh ta trả lời phỏng vấn nhà báo Lloyd Shearer rằng mệnh lệnh anh nhận được là "đập què cả hai chân (của tôi). Tuy nhiên cuộc biểu tình diễn ra rất hoà bình khiến bọn họ không thể hành động. Thay vào đó một số còn tấn công các thanh niên đứng ở vòng ngoài và bị cảnh sát dẫn đi: Rồi người ta giao họ cho hai người có giấy uỷ quyền của chính phủ. Ngay tối hôm đó một số đi cùng Hunt và Liddy nhận diện "mục tiêu tiếp theo của họ", văn phòng tại khách sạn Watergate của Uỷ ban Quốc gia Đảng Dân chủ.
Chỉ vài tuần sau sự kiện này, những ai đã từng góp mặt trong trong hai hành vi phi pháp của Nhà Trắng - đột nhập văn phòng của Fielding và phá rối cuộc biểu tình ngày 3-5 đều bị bắt do liên quan đến vụ Watergate. Nixon phải tự đứng ra chỉ đạo bưng bít những tội lỗi này, nếu không những người bị bắt có thể dẫn công tố viên đến các hành vi trước đó có thể liên quan trực tiếp tới Phòng Bầu Dục. Vì những việc làm này của Hunt và Liddy đều diễn ra khi họ còn tham gia Chiến dịch tái cử Tổng thống (trừ sự việc ngày 3-4) nên người chịu trách nhiệm cao nhất chỉ là John Mitchell. Trước đó ông ta đã rời chính quyền để chỉ đạo chiến dịch tranh cử. Ngay đến Hunt, Liddy và McCord cũng không hay biết gì về một cấp nào đó cao hơn Mitchell dính líu tới vụ Watergate, đừng nói tới mấy người Cuba bị bắt tại khách sạn kia. Nhưng rõ ràng là cuối cùng thì từ năm 1971 và trong tháng 5-1972, Hunt và Liddy đã làm việc cho ông chủ Phòng Bầu Dục và trực tiếp dưới quyền Ehrlichman và Colson, các trợ tá của Tổng thống. Mối đe doạ chỉ hiển hiện từ lúc những người kia bị bắt tại khách sạn.
Bọn họ có thể chỉ đường cho các công tố viên tìm đến Hunt và Liddy. Bọn họ cũng có thể bị cưỡng bức hoặc sẽ tự nguyện cung khai các tội lỗi của Nhà Trắng do họ thực hiện. Mối lo lớn nhất dồn vào Hunt, còn Liddy, theo Tổng thống, trung thành với những qui tắc im lặng theo kiểu Mafia, "điên rồ"(152) nhưng chắc chắn.
Sáu ngày sau khi có những vụ bắt giữ đầu tiên, ngày 23-7-1972, theo đề nghị của Mitchell và Dean, Nixon đã chỉ đạo Haldeman và Ehrlichman dùng CIA gây áp lực để FBI chấm dứt cuộc điều tra ở Hunt và Liddy. Ông chỉ muốn giới hạn truy tố những ai đã bị bắt tại trận. Vì Hunt và Liddy không ở trong số đó nên hai người này sẽ không thể bị áp lực tiết lộ những vi phạm khác của Nhà Trắng. Nhưng sau cùng Uỷ ban luận tội Tổng thống của Quốc hộỉ trong tháng 8-1974 đã có cuốn băng ghi âm kế hoạch cản trở cuộc điều tra của FBI sau mười ba tháng Nixon nỗ lực che giấu. "Khẩu súng còn ám khói" đó khiến cả những ai trung thành nhất với Nixon không thể không ủng hộ luận tội Tổng thống và buộc tội ông và dẫn ông đến chỗ từ chức. Quay trở lại với mối đe doạ Nixon đang chống đỡ. Băng ghi âm cuộc nói chuyện với John Dean ngày 21-5-1973 được coi là "vết ung nhọt trong đời Tổng thống"(153) đã làm sáng tỏ đe doạ này. Dean cho biết Hunt đang đòi được 200 nghìn đôla "chi phí"(154) và trắng trợn doạ nạt nếu không nhận được tiền sẽ khui ra "những việc xấu xa(155) hắn ta đã làm cho Nhà Trắng". Nixon hỏi và Dean khẳng định là Hunt ám chỉ "Ellsberg" và "Kennedy". Gạt đi sự phản đối của Dean, Nixon nhấn mạnh phải giao tiền cho Hunt, ngay lập tức không còn lựa chọn nào khác. Tối hôm đó, 75 nghìn đô la được rút ra từ quỹ vận động tranh cử trao cho luật sư riêng của Hunt. Tuy tức giận không được nhận nhiều hơn thế, nhưng Hunt cũng vẫn tiếp tục, ít nhất vào lúc đó, khai man trước Đại bồi thẩm đoàn.
Cứ thế trở đi hầu như ngày nào cũng có một tiết lộ theo kiểu trên tại phòng xử án của chúng tôi và ở Washington (nhưng vẫn chưa phải là cuộn băng chứng cứ). Ngày 10--5-1973, Quốc hội lần đầu tiên bỏ phiếu cắt giảm ngân sách Chiến tranh Đông Dương, kể cả ngân sách nối lại các cuộc ném bom nửa chửng. Tổng thống phủ quyết. Nhưng ông cũng hiểu không thể giữ mãi lá phiếu phủ quyết. Ông tự biết sớm muộn sẽ phải đối mặt với khả năng bị luận tội (Uỷ ban về vụ Watergate của Thượng viện lấy tên là Uỷ ban Ervin vẫn chưa khởi động các phiên điều trần công khai).
Nhiều người ngày hôm nay khi nhìn lại, nghĩ rằng "nếu Quốc hội ngăn cản, thậm chí dù không có vụ Watergate" thì Nixon "sẽ không thể" tiến hành ném bom, thực hiện lời hứa riêng của ông với Tổng thống Thiệu và ý định bảo vệ chính quyền miền Nam của mình. Họ vẫn cho rằng chỉ cần một đa số trong Quốc hội ủng hộ cắt giảm ngân sách chiến tranh. Điều đó có thể đúng. Nhưng chỉ đa số thì vẫn chưa đủ để chấm dứt ném bom và không có triển vọng đẩy lùi nó. Muốn thắng lá phiếu phủ quyết của Tổng thống, Quốc hội cần tập hợp không chỉ đa số phản đối mà còn phải là đa số hai phần ba. Mort Halperin cho tôi thấy nếu không có một vụ Watergate lơ lửng trên đầu, Nixon gần như chắc chắn sẽ dồn đủ số phiếu hai phần ba dư một, chiến thắng nỗ lực vô hiệu hoá phủ quyết của ông. Và khi đó các cuộc ném bom của Tổng thống sẽ được nguỵ trang bằng cái cớ "cưỡng bức thực hiện thoả thuận đã ký kết". Như Larry Berman đã vạch ra(156), chính nó là lý lẽ Nixon viện tới để thuyết phục Thiệu ký vào Hiệp định Paris. Tổng thống miền Nam Việt Nam sẽ từ chối việc đó nếu không vì lời hứa này.
Toan tính đó cũng là cơ sở Nixon nối lại các cuộc ném bom mà Quốc hội khó có thể bác bỏ. Nhưng khi các phiên điều trần của Uỷ ban Ervin đang đến gần và có nhiều khả năng Dean sẽ phải khai ra hành vi cản trở công lý của Nixon, có lẽ tốt nhất ông không nên vét cạn nguồn lực chính trị của mình để thắng cuộc bỏ phiếu của Quốc hội trong khi cần phải giành giật từng lá phiếu luận tội Tổng thống.
Do vậy, vào tháng sáu, Nixon đành miễn cưỡng thuận theo hai Viện chấm dứt ném bom trước ngày 15-8. Có thể nhiều nghị sỹ chỉ thấy thoả thuận này có tác động tới các cuộc ném bom lên Campuchia. Họ không hay biết lúc đó Tổng thống đã gần như nối lại hoạt động ném bom Lào và Bắc Việt Nam dù Kissinger đã bí mật đề nghị(157) từ tháng ba, trước cả khi quân đội Mỹ bắt đầu rút. Berman khẳng định quyết tâm của Nixon ném bom trở lại muộn nhất là cuối tháng tư. Trong bài báo "Sự liên hệ với Watergate" ra ngày 5-5 năm 1975, tạp chí Times tiết lộ Tổng thống trong thực tế đã "chính thức chấp thuận" nối lại các cuộc ném bom, nhưng cuối cùng rút lại quyết định khi hay tin Dean sắp sửa gặp các công tố viên. Ông "không còn cách nào khác đành nhận những những lời chỉ trích nặng nề đến đồng thời trên hai mặt trận".
Nếu thực như vậy, hẳn chính các tiết lộ của Dean với công tố viên ngày 15-4 mới là mối nguy hiểm thực sự, đủ làm đảo lộn tính toán của Nhà Trắng về một "sự đã rồi" dành cho Quốc hội. Hạ viện bỏ phiếu ủng hộ cắt giảm ngân sách chiến tranh vào ngày 10-5, hai tuần sau khi phiên toà của chúng tôi nhận được các thông tin từ Dean. Vì phiên toà này là nơi có những tiết lộ công khai quan trọng nhất về vụ trộm do Nhà Trắng đứng đằng sau hậu thuẫn, nhắm tới tôi, cho nên ý định trì hoãn nó sau khi kỳ bầu cử và cuộc chiến tranh Việt Nam đã "kết thúc gọn gàng" đã thất bại ngay từ khi còn trong ý tưởng.
Vẫn ngày hôm đó, ngày 10-5, quyền giám đốc mới của FBI, William Ruckelshaus thừa nhận trước toà các hoạt động nghe trộm điện tử của FBI đối với tôi, trái với những phủ nhận chính thức trước đó. Thẩm phán Byrne yêu cầu có báo cáo của các lần nghe trộm đó. Sáng hôm sau Ruckelshaus trả lời không tìm thấy chúng trong hỗ sơ của FBI và Bộ Tư pháp. Sau này người ta mới biết là các báo cáo này đã bị người phó của J. Edgar Hoover là William Sullivan lấy ra từ trong hồ sơ cá nhân của ông, theo lệnh của Tổng thống ngay từ khi phiên tuà của chúng tôi mới bắt đầu. Các báo cáo đó bao gồm biên bản mười lăm cuộc điện đàm của tôi với Mort Halperin bị nghe lén tại nhà riêng của ông. Chắc chắn các luật sư của tôi sẽ yêu cầu bên nguyên đơn cung cấp những bằng chứng này khi bắt đầu phiên toà. Cho nên Nixon không thể để chúng trong tay Hoover, sợ rằng Hoover có thể bằng cách này hay cách khác đe doạ trao các biên bản cho thẩm phán Byrne.
Ngày hôm sau, 11-5, các luật sư bào chữa yêu cầu thẩm phán ra phán quyết về kiến nghị bãi nại phiên toà và để lại hệ quả (nghĩa là bên nguyên sẽ không được phép kiện bị đơn về cùng một cáo buộc này nữa), trên cơ sở tổng hợp các hành vi sai trái của chính phủ, gồm có hành động bưng bít chứng cớ, xâm phạm quan hệ bác sỹ - bệnh nhân, nghe lén phi pháp, thủ tiêu tài liệu hữu quan và bất tuân thủ lệnh của toà án.
Buổi sáng ngày 11-5, sau phiên tạm nghỉ, thẩm phán Byrne đọc một thông báo, trong đó nói phán quyết của ông dựa trên "phạm vi các vấn đề ông Boudin(158) vừa nói tới. Phán quyết này không đơn thuần dựa trên chỉ riêng hoạt động nghe lén, hay riêng vụ trộm và các thông tin xuất hiện trong những ngày gần đây". Ông tiếp tục:
Bắt đầu từ ngày 26-4, đã có một loạt các tiết lộ quan trọng liên quan đến hành vi của nhiều cơ quan trong chính quyền đối với các bị cáo trong phiên toà này… Phần lớn các thông tin đã được sử dụng, những thông tin mới làm nảy sinh những câu hỏi mới. Giờ đây chúng ta có khá nhiều vấn đề chưa được giải đáp hơn là những điều đã sáng tỏ.
Các tiết lộ này bộc lộ nhiều hành động chưa từng có tiền lệ của nhiều cơ quan chính phủ đối với các bị cáo. Sau những cáo trạng đầu tiên, lẽ ra cần hạn chế quyền tiến hành hoạt động điều tra các bị cáo nhưng quan chức Nhà Trắng đã thành lập một đơn vị đặc biệt điều tra về một bị cáo ở đây. Dù chỉ nắm sơ lược về những việc làm của đơn vị đặc biệt này, nhưng chúng ta đã cảm thấy lo ngại hơn bao giờ hết.
Ông điểm lại các sự kiện: vụ đột nhập vào văn phòng bác sĩ tâm lý của tôi; các hành động của CIA theo yêu cầu của Nhà Trắng "được cho là vượt quá thẩm quyền pháp định của cơ quan này", mạo danh, cung cấp thiết bị chụp ảnh và các đạo cụ khác cho các mật vụ và nhằm xây dựng hai bệnh án tâm thần. Ông cũng nhắc lại thực tế là dù có những quan chức chính phủ đã biết về các việc làm phi pháp nhằm vào bị cáo nhưng toà án và thậm chí bên nguyên đơn không được thông báo cho đến khi có bản ghi nhớ của Silbert, "và cũng chỉ hơn mười ngày sau khi nó được viết lên"; thậm chí trước bức thư này, nỗ lực liên tiếp của chính phủ ngăn chặn tài liệu bào chữa cho bị cáo; "tiết lộ gần đây về hoạt động nghe lén điện tử đối với một số cuộc nói chuyện điện thoại của bị đơn Ellsberg" (sau rất nhiều phủ nhận của FBI và Bộ Tư pháp) nhưng ghi chép về nghiệp vụ đó đã biến mất khỏi hồ sơ lưu trữ của hai cơ quan này từ giữa năm 1971. Trong danh sách các sự kiện thẩm phán đã bỏ qua đề nghị ông giữ chức giám đốc FBI vào ngày 5 và 7-4 và ông cũng đã bác yêu cầu coi đề nghị này là một trong các cơ sở bãi nại phiên toà. Ông tiếp tục:
"Tiếp tục cuộc điều tra của chính phủ sẽ không giúp ích gì cho phiên toà… mỗi ngày trôi qua, bồi thẩm đoàn tiếp tục chờ đợi còn cuộc điều tra không thấy có hy vọng kết thúc. Thêm vào đó nó không thể giải đáp thoả đáng tại sao những hành vi lạc lõng của chính phủ có thể được che đậy trong một thời gian dài như thế và tại sao báo cáo của chính phủ lên Toà án là những hồ sơ và ghi chép liên quan đến các hành vi này đã bị mất tích hoặc bị tiêu huỷ …
Có những vấn đề nghiêm túc về tính xác thực và pháp lý nổi lên từ những cáo buộc dành cho bị đơn mà tôi luôn mong muốn giải quyết triệt để… Tuy nhiên … bồi thẩm đoàn bị đặt vào thế khó để phán quyết một cách công bằng, không cảm tính sau những hành vi gần đây của chính phủ. Đối với tôi, bản thân một vụ án xử trái phép đã là bất công bằng. Cho dù như thế nào, tôi hy vọng dưới thời chính quyền hiện tại, các bị cáo sẽ không bị xét xử thêm một lần nữa về cùng những cáo buộc này.
Tổng hợp những hoàn cảnh trên lại với nhau, "công lý" đã bị xâm phạm theo một cách nào đó. Những sự kiện lạ lùng xảy ra đã gây ra những xâm phạm không thể sửa chữa đối với vụ án này… Tôi tán thành rằng, ở vào tình trạng pháp lý như hiện nay của vụ án, phương cách duy nhất đảm bảo thủ tục và bảo vệ công lý đó là phiên toà này bị huỷ, kiến nghị bãi nại của bị cáo được chấp thuận và đoàn bồi thẩm giải tán.
Yêu cầu bãi nại có hiệu lực, các hội thẩm viên sẽ được thông báo về quyết định này và vụ án bị huỷ bỏ. Xin cám ơn quý vị rất nhiều".
Phòng xử án, hỗn loạn. Hân hoan, ôm hôn, tiếng khóc, tiếng cười vỡ oà. Tiếng rú nổi lên ngay khi thẩm phán kết thúc. Tiếng rú tại một nơi mà mọi biểu hiện cảm xúc của những người tham dự bị dồn nén suốt bốn tháng vừa qua. Lần này ông không cố gắng chặn nó lại nữa. Ông nói các hội thẩm viên có thể đi ra theo lối sau. Rồi ông quay lưng và với chiếc áo chùng đen, ông rảo bước. Các nhà báo đổ xô đi gọi điện thoại; bên nguyên thu dọn, không nói một lời và để lại phòng xử án cho chúng tôi. Tất cả quay cuồng, nghiêng ngả. Patricia và tôi ào đến bên nhau.
Tất cả cùng túa ra ngoài, cùng nhau đứng trên bậc thang toà nhà toà án liên bang, dưới ánh nắng mặt trời và trước một biển máy quay và ánh đèn flash. Có ai đó giơ cao trang nhất của một số báo buổi sáng: MITCHELL BỊ TRUY TỐ.
John Mitchell là người đứng ra khởi tố tôi. Vị Bộ trưởng Tư pháp thứ nhất đối mặt với tù ngục. Nhanh theo chân ông là Kleindienst, hai tuần trước khi từ chức còn là người chỉ đạo vụ truy tố tôi Và Haldeman, Ehrlichman và Colson. Và các cộng sự Nhà Trắng được giao nhiệm vụ "trung lập hoá tôi, các nhân viên hợp đồng cho CIA và những người Mỹ gốc Cuba có nhiệm vụ vô hiệu hoá tôi".
Một tuần sau bắt đầu những phiên điều trần đầu tiên của Thượng viện về vụ Watergate. Từ những phiên này dẫn đến các cuộn băng ghi âm Nhà Trắng, củng cố lời khai của Dean rằng Tổng thống đã chi tiền bịt miệng cho Hunt để hắn không tiết lộ "những việc làm xấu xa cho Nhà Trắng", hay chính là "Ellsberg" (Cuốn băng được ghi ngày 23-7-1972 - "khẩu súng ám khói" qua đó thấy ý muốn của Tổng thống dùng CIA để ngăn cản điều tra và truy tố Ellsberg, vẫn với lý đo như trên. Cuốn băng là động lực đẩy Nixon ra đi). Người thay chỗ ông, Tổng thống Gerald Ford quyết định tuân thủ quyết định chấm dứt chiến sự tại Đông Dương của Quốc hội, cho mãi đến khi chiến tranh kết thúc, ngày 1-5-1975. Quyết định được Hạ viện thông qua một ngày trước khi phiên toà của chúng tôi kết thúc, sau đó tháng 6-1973 đã được sự nhất trí của cả hai Viện.
Hệ thống ghi âm trong Nhà Trắng đã bị gỡ bỏ sau khi Alex Butterfield, một trợ lý Nhà Trắng, ngày thứ sáu, 13-7 khai báo với các điều tra viên vụ Watergate về sự tồn tại của nó.
Hệ thống này vẫn hoạt động trong ngày 11-5-1973, ngày phiên toà của chúng tôi chấm dứt. Một cuộc hội thoại dài giữa Tổng thống và người cựu Chánh văn phòng H. R. Haldeman từ 11 giờ sáng đến 2 giờ chiều ở Bờ Tây. Khi thẩm phán Byrne tuyên bố bãi nại phiên toà ở Los Angeles, điều đã được dự đoán trong cả buổi sáng, ở Nhà Trắng nghe thấy Tổng thống bối rối, cay đắng nói:
"Chẳng hạn với vấn đề An ninh quốc gia này(159), chúng ta lâm vào tình thế nan giải. Tên trộm huênh hoang đạo đức giả được tôn sùng lên hàng anh hùng dân tộc và thoát tội nhờ một vụ án xử trái phép. Còn tờ Thời báo New York ẵm giải thưởng Pulitzer nhờ đánh cắp hồ sơ… Bọn họ mượn bọn trộm cắp để chỉ trích chúng ta. Có Chúa mới biết chúng ta gặp phải thứ gì?
Chúng ta gặp lại một nhà nước dân chủ cộng hoà - chứ không phải một nhà nước quân chủ - ở đó chính phủ hoạt động theo pháp luật, với Quốc hội, Toà án và báo chí có nghĩa vụ phòng ngừa tệ lạm quyền, đúng như Hiến pháp đã gây dựng.
Hơn nữa, trên mảnh đất này cũng như ở tất cả các quốc gia khác, đây là lần đầu tiên cơ quan lập pháp đồng thuận phản đối một cuộc chiến tranh mà Tổng thống đang tiến hành. Quốc hội đã đòi lại quyền quyết định chiến tranh trót trao gửi cho Chính quyền chín năm về trước, vì Quốc hội mới là người kiểm soát hầu bao của chính phủ. Quốc hội đòi chấm dứt ném bom. Cuộc chiến tranh đang đi đến hồi kết.
Chú thích:
(149) "Tốt thôi, tôi phải nói thêm điều này" - Tổng thống và Kleindienst, 8:20, 25 tháng 4, 1973, điện đàm Nhà Trắng. Kutler, trang 335.
(150) "Thế nhé, ngủ ngon, chàng trai" - sđd.
(151) "và hình như cho rằng" - Tổng thống và Petersen, 16:31, 27 tháng 4, 1973, điện đàm Nhà Trắng. Kutler, trang 347.
(152) "điên rồ" - Tổng thống và Petersen, 17:37, 25 tháng 4, 1973, Toà nhà Văn phòng Hành pháp. Kutler, trang 337.
(153) "vết ung nhọt trong đời Tổng thống" - Kutler, trang 247.
(154)(155) "các chi phí", "những việc làm xấu xa" - Tổng thống, Haldeman và Dean, 10:12, 21 tháng 3, 1973, Phòng Bầu dục. Kutler, trang 253.
(156) Như Lany Berman đã vạch ra: Berman, trang 195, 199, 218.
(157) Họ không hay biết… Kissinger đã bí mật (ề nghị: sđd, trang 254-60.
(158) "phạm vi các vấn đề ông Boudin" - Ginger, trang 160-63.
(159) "Chẳng hạn với vấn đề an ninh quốc gia này" - Tổng thống, Haldeman và Haig, 00:53, 11 tháng 5, Phòng Bầu Dục. Kutler, trang 473.