Năm 1876, Mỹ Tho, vốn trước kia thuộc tỉnh Định Tường thời "Nam Kỳ lục tỉnh", trở thành một hạt tham biện (arrondissement) thuộc khu vực (circonscription) Mỹ Tho do thực dân Pháp đặt ra.
Theo Nghị định ngày 20 tháng 12 năm 1899 của Toàn quyền Đông Dương đổi tất cả các hạt tham biện thành tỉnh thì từ ngày 1 tháng 1 năm 1900 hạt tham biện Mỹ Tho trở thành tỉnh Mỹ Tho. Tỉnh lị là thị xã Mỹ Tho.
Ban đầu tỉnh Mỹ Tho có 3 trung tâm hành chính và 15 tổng:
Châu Thành có 4 tổng: Thuận Trị, Thuận Bình, Hưng Nhơn, Hưng Nhượng
Cai Lậy có 6 tổng: Lợi Trinh, Lợi Thuận, Lợi Mỹ, Lợi Trường, Phong Hòa, Phong Phú
Sau này các trung tâm hành chính chuyển thành các quận: Cai Lậy (thành lập năm 1904), Cái Bè (thành lập ngày 12 tháng 3 năm 1912), An Hóa (thành lập ngày 12 tháng 3 năm 1912), Bến Tranh (thành lập ngày 9 tháng 2 năm 1913), Châu Thành (thành lập ngày 22 tháng 3 năm 1912), Chợ Gạo (thành lập ngày 22 tháng 3 năm 1912).
Từ ngày 9 tháng 2 năm 1913 đến ngày 9 tháng 2 năm 1924, tỉnh Mỹ Tho bao gồm cả tỉnh Gò Công nhập vào, thành quận Gò Công.
Thời kỳ 1945 - 1975
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, cấp tổng bị bỏ, làng chuyển thành xã. Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa mãi đến năm 1963 mới bỏ cấp tổng.
Năm 1956, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa thành lập tỉnh Định Tường theo Sắc lệnh 143-NV ngày 22 tháng 10 năm 1956 trên phần đất tỉnh Mỹ Tho (trừ quận An Hóa nằm phía nam sông Tiền Giang nhập vào tỉnh Kiến Hòa và đổi tên là quận Bình Đại). Tuy nhiên chính quyền Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam) và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không công nhận tỉnh này và vẫn giữ tỉnh cũ là Mỹ Tho. Năm 1957 lực lượng Việt Cộng do Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hậu thuẫn nhập 2 tỉnh Gò Công và Mỹ Tho làm một đơn vị và gọi là tỉnh Mỹ Tho với các huyện: Cái Bè, Cai Lậy, Châu Thành, Chợ Gạo, Gò Công.
Tháng 8 năm 1968, quận Gò Công được chính quyền Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tách khỏi tỉnh Mỹ Tho để lập lại tỉnh Gò Công.
Tháng 2 năm 1976 tỉnh Mỹ Tho (hoặc Định Tường) nhập với Gò Công thành tỉnh Tiền Giang (trừ quận Bình Đại nằm phía nam sông Tiền Giang nhập vào tỉnh Bến Tre từ trước).
Nam Hà là một tỉnh cũ của Việt Nam nằm ở phía nam đồng bằng Bắc Bộ, với tỉnh lỵ là thành phố Nam Định. Tỉnh được thành lập ngày 21 tháng 4 năm 1965 trên cơ sở sáp nhập hai tỉnh Hà Nam và Nam Định.
Từ 27 tháng 12 năm 1975, Nam Hà lại được hợp nhất với Ninh Bình thành tỉnh Hà Nam Ninh.
Ngày 26 tháng 12 năm 1991, tỉnh Nam Hà được tái lập. Khi tách ra tỉnh Nam Hà có diện tích 2.423,59 km², dân số là 2.435.995 người, gồm thành phố Nam Định, thị xã Hà Nam và 11 huyện: Xuân Thủy, Hải Hậu, Nghĩa Hưng, Nam Ninh, Ý Yên, Vụ Bản, Bình Lục, Lý Nhân, Thanh Liêm, Duy Tiên, Kim Bảng.
Theo thống kê năm 1993, tỉnh có diện tích 2.479,8 km², dân số là 2.590.373 người.
Kể từ 6 tháng 11 năm 1996, Nam Hà được chia lại thành hai tỉnh Hà Nam và Nam Định.
Nghĩa Bình là tên một tỉnh cũ thuộc ven biển Trung Trung Bộ của Việt Nam. Tỉnh này được thành lập tháng 2 năm 1976 trên cơ sở hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định. Đến tháng 6 năm 1989, tỉnh lại được tách ra thành hai tỉnh.
Đơn vị hành chính tỉnh bao gồm: TX Quy Nhơn (thủ phủ), Tx Quảng Ngãi, 20 huyện: BÌnh Sơn, Sơ Tịnh, Tư Nghĩa, Nghĩa Hành, Mộ Đức, Đức Phổ, Trà Bồng, Sơn Hà, Minh Long, Tam Long (sau này đổi thành Ba Tơ), Hoài Nhơn, Hoài Ân, Phù Mỹ, Phù Cát, An Nhơn, Bình Khê, Tuy Phước, An Lão, Thạch Lâm (sau này đổi thành Vĩnh Thạnh), Vân Canh.
Nghĩa Lộ là một tỉnh cũ, thuộc vùng Tây Bắc Việt Nam. Tỉnh Nghĩa Lộ được thành lập theo Nghị quyết đổi tên khu tự trị Thái Mèo thành Khu tự trị Tây Bắc của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, thông qua ngày 27 tháng 9 năm 1962. Tỉnh Nghĩa Lộ lúc thành lập gồm 4 huyện: Than Uyên, Mù Cang Chải, Văn Chấn và Phù Yên và nằm trong Khu tự trị Tây Bắc. Sau này lập thêm 2 huyện Trạm Tấu và Bắc Yên. Tỉnh lỵ là thị xã Nghĩa Lộ.
Kể từ ngày 27 tháng 12 năm 1975, tỉnh được sáp nhập với các tỉnh Yên Bái, Lào Cai thành tỉnh Hoàng Liên Sơn, trừ hai huyện Bắc Yên và Phù Yên ở phía nam nhập vào tỉnh Sơn La. Từ 26 tháng 12 năm 1991, Hoàng Liên Sơn được chia lại thành 2 tỉnh Lào Cai với Yên Bái; phần lớn tỉnh Nghĩa Lộ (gồm các huyện Mù Cang Chải, Văn Chấn, Trạm Tấu) được sáp nhập vào tỉnh Yên Bái. Riêng huyện Than Uyên nhập vào tỉnh Lào Cai, cho đến năm 2004 thì chuyển sang tỉnh Lai Châu mới.
Nghệ Tĩnh là tên một tỉnh cũ từ năm 1976 đến 1991, từ năm 1991 tách ra thành 2 tỉnh là Nghệ An và Hà Tĩnh.
Lịch sử
Thời nhà Đinh, nhà Tiền Lê: gọi là Hoan Châu
Thời nhà Lý, năm 1030, bắt đầu gọi là châu Nghệ An
Thời nhà Hậu Lê, từ năm 1490 gọi là xứ Nghệ An
Thời nhà Tây Sơn, gọi là Nghĩa An trấn
Thời nhà Nguyễn, Gia Long lại đặt làm Nghệ An trấn
Năm 1831, vua Minh Mạng chia Nghệ An trấn thành 2 tỉnh: Nghệ An (phía Bắc sông Lam); Hà Tĩnh (phía nam sông Lam)
Từ năm 1976 đến 1991, sát nhập Nghệ An và Hà Tĩnh thành tỉnh Nghệ Tĩnh, đơn vị hành chính bao gồm: thành phố Vinh, thị xã Hà Tĩnh và 25 huyện: Anh Sơn, Con Cuông, Diên Châu, Đô Lương, Hưng Nguyên, Kỳ Sơn, Nam Đàn, Nghi Lộc, Nghĩa Đàn, Quế Phong, Qùy Hợp, Quỳ Châu, Quỳnh Lưu, Tân Kỳ, Thanh Chương, Tương Dương, Yên Thành, Can Lộc, Cẩm Xuyên, Đức Thọ, Hương Khê, Hương Sơn, Kỳ Anh, Nghi Xuân, Thạch Hà.
Năm 1991, tỉnh Nghệ Tĩnh lại tách ra thành Nghệ An và Hà Tĩnh như ngày nay
Phan Rang là tên gọi cũ của tỉnh Ninh Thuận, ở Nam Trung Bộ Việt Nam.
Đầu thế kỷ 17, chúa Hiền (Nguyễn Phúc Tần), con thứ hai của Thượng vương, đánh đuổi quân Chiêm Thành đến phía đông sông Phan Rang, đặt làm hai phủ Thái Khang và Diên Ninh, đặt dinh Thái Khang ở phía tây sông, vẫn cho lệ thuộc vào nước Chiêm Thành, chỉ ràng buộc quốc vương Chiêm Thành là Bà Tâm hàng năm phải cống nộp. Đến đời Minh vương (Nguyễn Phúc Chu), con truởng là Ngãi vương đem quân đánh Chiêm Thành, bắt chúa Chiêm là Bà Tranh, lấy đất đặt làm trấn Thuận Thành. Năm 1693 chúa Minh lập địa danh hành chính: đạo Phan Rang, thuộc dinh Bình Thuận, sau là Trấn Bình Thuận rồi Thuận Thành. Năm Minh Mệnh thứ 13, Triều Nguyễn bỏ trấn Thuận Thành lập phủ Ninh Thuận và Phủ Hàm Thuận. Phủ Ninh Thuận có hai huyện là Yên Phước và Tuy Phong. Năm Đồng Khánh thứ 3 (1888) huyện Yên Phước nhập vào tỉnh Khánh Hòa.
Ngày 20 tháng 5 năm 1901, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định thành lập tỉnh Phan Rang, tỉnh lị cũng là Phan Rang. Tỉnh Phan Rang gồm phủ (còn gọi là đạo) Ninh Thuận, huyện An Phước, huyện Tân Khai, tách từ tỉnh Khánh Hòa ra. Ngoài ra, Đà Lạt là đại lý hành chính thuộc tỉnh Phan Rang.
Năm 1913, tỉnh Phan Rang bị xóa bỏ, phần phía bắc nhập vào tỉnh Khánh Hòa, còn phần phía nam gọi là đại lý hành chính, thuộc tỉnh Bình Thuận.
Nghị định ngày 10 tháng 5 năm 1914 phân chia đại lý hành chính Phan Rang thành 2 khu vực: khu vực dân tộc thiểu số cư trú (huyện Tân Khai) vẫn thuộc tỉnh Bình Thuận, còn khu vực người Việt và người Chăm cư trú nhập vào tỉnh Khánh Hòa.
Ngày 5 tháng 7 năm 1922, phủ Ninh Thuận được tách khỏi tỉnh Khánh Hòa lập tỉnh Phan Rang, còn gọi là tỉnh Ninh Thuận. Tổ chức hành chánh được chia thành 5 tổng ở đồng bằng (gồm Tổng Mỹ Tường, Đắc Nhơn, Kinh Dinh, Vạn Phước và Phú Quý) 2 tổng ở miền núi (É Lâm Thượng và É Lâm Hạ) và huyện An Phước.
Phong Dinh là một trong 22 tỉnh của Nam Phần được chính quyền Việt Nam Cộng hòa thiết lập theo Sắc lệnh 143-NV của Tổng thống ngày 22 tháng 10 năm 1956, do đổi tên từ tỉnh Cần Thơ. Tỉnh lị: Cần Thơ (được lập làm thị xã ngày 30/9/1970).
Năm 1957, tỉnh Phong Dinh có 5 quận, 10 tổng và 59 xã:
Quận Châu Thành Phong Dinh có 2 tổng: Định An, Định Bảo; quận lị: Tân An.
Quận Phụng Hiệp có 2 tổng: Định Phước, Định Hòa; quận lị: Phụng Hiệp.
Quận Ô Môn có 2 tổng: Định Thới, Thới Bảo; quận lị: Thới An. Ngày 16/10/1958 đổi tên là quận Phong Phú.
Quận Long Mỹ có 2 tổng: An Ninh, Thanh Tuyền; quận lị: Long Trị.
Quận Kế Sách có 2 tổng: Định Khánh, Định Tường; quận lị: Kế An. Ngày 16/9/1968 chuyển quận Kế Sách sang tỉnh Ba Xuyên.
Ngày 18/3/1960 lập thêm quận Đức Long (gồm 7 xã); quận lị: xã Vị Thanh.
Ngày 2/7/1962 lập thêm 2 quận Khắc Trung (quận lị đặt tại Cờ Đỏ), Khắc Nhơn (quận lị đặt tại Bảy Ngàn). Ngày 20/4/1964 đổi tên 2 quận Khắc Trung, Khắc Nhơn thành Thuận Trung, Thuận Nhơn.
Ngày 26/5/1966 lập thêm quận Phong Điền (gồm 5 xã), tách từ phần đất của các quận Châu Thành, Phong Phú và Thuận Nhơn.
Sau lại lập thêm quận Phong Thuận gồm 5 xã.
Tính đến năm 1971, dân số tỉnh là 337.159.
Chính quyền Mặt trận Dân Tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam và sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam cùng với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không công nhận tên gọi "Phong Dinh" mà vẫn gọi theo tên cũ là tỉnh Cần Thơ.
Tháng 2/1976, tỉnh Phong Dinh trở thành một phần của tỉnh Hậu Giang. Năm 1991 tỉnh Hậu Giang tách ra thành 2 tỉnh Cần Thơ và Sóc Trăng như cũ.
Phong Thạnh là tỉnh cũ ở Nam Bộ Việt Nam vào thời Việt Nam Cộng hòa, tồn tại trong năm 1956.
Phong Thạnh được thành lập theo Sắc lệnh 22-NV ngày 17 tháng 2 năm 1956. Đất đai tỉnh Phong Thạnh vốn là phần đất nằm ở bờ trái (bờ bắc) sông Tiền của các tỉnh Châu Đốc, Long Xuyên và Sa Đéc trước kia, bao gồm:
Địa phận quận Hồng Ngự, cù lao Long Khánh, cù lao Cai Vung và cù lao Tây (thuộc tỉnh Châu Đốc.
Địa phận quận Phong Thạnh Thượng và tổng An Bình (thuộc tỉnh Long Xuyên).
Địa phận quận Cao Lãnh (thuộc tỉnh Sa Đéc), trừ phần đất ở phía đông bắc kênh Vĩnh Hạ-Mỹ Tho và kênh số 4 nối dài (nhập vào tỉnh Mộc Hóa).
Phần đất tỉnh Mỹ Tho ở phía tây một đường ranh giới được quy định như sau: kênh số 4 tới vàm kênh Tổng đốc Lộc và kênh Tổng đốc Lộc tới Mỹ Hiệp.
Tỉnh lị tỉnh Phong Thạnh được đặt tại Cao Lãnh.
Về phương diện quân sự, tỉnh Phong Thạnh là một tiểu khu thuộc phân khu Đồng Tháp Mười.
Ngày 22 tháng 10 năm 1956, tỉnh Phong Thạnh được đổi tên thành tỉnh Kiến Phong.
Tháng 2 năm 1976, tỉnh Kiến Phong được sáp nhập với tỉnh Sa Đéc thành tỉnh Đồng Tháp.
Phù Lỗ là một tỉnh cũ của Việt Nam. Tỉnh Phù Lỗ tồn tại từ ngày 6/10/1901 đến ngày 18/2/1904 thì đổi tên thành tỉnh Phúc Yên (tỉnh).
Tỉnh Phù Lỗ bao gồm huyện Yên Lãng của tỉnh Vĩnh Yên, phủ Đa Phúc, huyện Kim Anh, một phần huyện Đông Khê (thuộc phủ Từ Sơn) của tỉnh Bắc Ninh tách ra. Tỉnh lị đặt tại xã Tiên Dược Thượng (Đa Phúc), đến ngày 10/12/1903 chuyển về làng Tháp Miếu, tổng Bạch Trĩ, huyện Yên Lãng.
Ngày 12/2/1902, lập thêm huyện Vĩnh Ninh từ một số tổng của 2 huyện Đông Khê và Yên Lãng.
Ngày 10/4/1903, huyện Đông Khê đổi tên thành huyện Đông Anh.