(tiếp...)
lẽ dĩ nhiên là nước VN ta không phải chờ đến khi Ấn-chàm truyền qua việc thờ cúng Sinh thực khí thì mới nhận linga-yoni là cái chính đáng tôn thờ, nhưng dân tộc ta không thờ phụng đặc biệt như kiểu Ấn-chàm, mà chỉ ảnh hưởng trên một khía cạnh nào đó, như hình ảnh Diên Hựu, nó mơ màng lãng mạn hơn, không cần có đền thờ trong đó những tượng đá tạc linga to tướng để thiện nam tín nữ hì hục cúng lạy cầu phúc, cầu tự , mà thực tế hơn, ông bà ta coi dương vật-âm vật là hành vi giao phối, đã hiện diện trong nhiều nghi lễ nhân gian, mà bằng chứng tối cổ của người Việt là trên nắp thạp Đào Thịnh hình ảnh bốn đôi trai gái làm tình. Như vậy có lẽ từ lâu vùng Bắc Bộ tín ngưỡng phồn thực đã hiện diện.
Việc thờ sinh thực khí ở VN thường xuất hiện nhiều ở vùng trung du và đồng bằng sông Hồng có rất nhiều lễ hội có liên quan đến việc thờ sinh thực khí, cái linga-yoni là nõ-nường của ta, nhưng khác ở chỗ linga-yoni biến thành Thần, được khắc tạc to tướng cho tín đồ xâm lễ tại đền thờ hoặc làm thành đồ trang sức linh thiêng đeo lủng lẳng ở cổ như thánh giá như bùa hộ yểm, còn ở ta cái nõ-nuờng kích thước phỏng theo cỡ của dương vật-âm vật nam nữ làm bằng vật liệu có sẵn ở địa phương như dùi gỗ, mo cau, mu rùa (nỏ ấn định 13cm, nường bằng cái mu rùa) làm lấy có –vi nghệ thuật- chỉ dùng cho đám rước lễ hội tượng trưng sau đó là bỏ, như hội Dị Nậu, Trò Trám ở Vĩnh Phú hay hội Sơn Đông ở Hà Tây. Chỉ có trường hợp cá biệt trong hội rước Ông Đùng Bà Đà ở Hưng yên, hình nợm bện bằng tre, nứa bồi giấy thật lớn hơn hình người bình thường, có đầy đủ tượng trưng cơ thể, đặc biệt bộ phận sinh dục thì lồ lộ, vì trong đám rước vui chơi, nam nữ nhí nhấp nõ-nường của hai ông bà theo nhịp độ í-ới giao hợp mỗi khi có tiếng trống đánh thùng, làm cho đám đông xem hội háo hức, cười rúc rích, vỗ đánh vào nhau thùm thụp kỳ cọ không sao kể xiết.
Nam nữ bị kích thích đến nỗi phải nhập cuộc cụ thể…, câu “nam nữ thọ thọ bất thân” không còn ý nghĩa gì, lời thánh hiền dạy bỏ ngoài tai, đêm rã đám làng thi vỡ òa “ trai gái đem nhau vào nương dâu mà ì ụp…”, tha hồ không cấm đoán. Hằng năm hội đền Gióng và La Khê (Hà Tây) đêm rã đám làng đèn được tắt ngấm, nam nữ thi nhau quấn quít giao hoan .
Bơi Đăm, rước Giá hội Thầy
Vui thời vui vậy, chẳng tầy rã La
Nhà thơ Hoàng Cầm khi còn thiếu thời chắc ông đã có nhiều dịp tham gia vào các lễ hội ở quê ông, Bắc Ninh, hội chen Nga Hoàng đã ghi đậm trong tâm hồn ông cái náo nức của tuổi thanh xuân, trong những ngày đi kháng chiến xa quê bỗng nhiên sực nhớ lại trào ra ý thơ trên ngọn bút lai láng rạo rực nhớ về những kỷ niệm nhảy múa “hòa bình” xa xưa, không có “son lá son lá đố, lá đố đố đố mì…”, du nhập, mà là điệu “gà phủ” của dân gian, trai gái vờn nhau như gà rồi phủ lên nhau khi đèn tắt, mùi mẫn quyện quấn cụp lạc qua các dòng thơ :
Len chèn nguyệt tận
Phụt nửa đêm đèn nến lặn
Ba hồi trống giãi dầm dề
…
Tóc tung tình bờ xôi ruộng mật
Quanh co tỏa bốn hướng đình (để làm tình)
…
Ai gọi… im lìm
Í ới… sao chìm
Đôi đôi ú tim.. tìm
Òa ập… cánh chim… e ấp…
Hỗn mang mê vô cùng
Địa đàng say tới tấp
(H.C.)
Không chỉ tìm trong thơ mà ta còn có thể tìm thấy trong đìêu khắc chạm trổ ở các đình làng Bắc Bộ, xuất phát từ Thăng Long đi tận vào vùng sâu vùng xa ở những thôn làng hẻo lánh, sinh thực khí nõ-nường được chạm trổ không kém phần phô diễn, như Đình Đông Viên xứ Đoài, Đình Hương Lộc xứ Nam cảnh trai gái chòng ghẹo, cọ xát đưa vào những phần nổi hở hang khêu gợi… làm ai nhìn cũng bị kích thích mê tới tấp!?. Đặc biệt nhất là Đình Phù Lão thì không tả sao cho hết cảnh trai gái say sưa ân ái, chạm ngay trên râu rồng hay theo hàng hiên lồ lộ ai cũng có thể trông thấy khi tham dự hội đình, lập lòa sánh nhịp theo nam nữ múa ca hay chơi đô vật vùng vẫy nhập nhòa nhễ nhại mồ hôi như sinh động cùng nhau hẹn hò một thiên đàng trần tục í ới mở toang then cài…
Trong một xã hội mà Nho giáo độc tôn, nhất là Kinh Bắc (Xứ Bắc) là nơi khởi tụ nhiều nhất các ông nghè, ông cống, cửa Khổng sân Trình tấp nập sĩ tử… đâu mà để cho phong hóa dân gian bị suy đồi đến nỗi vậy sao!?.
Nhưng xét sâu xa, ta không ngạc nhiên gì, hãy đi ngược thời gian, không gian mần mò theo dấu vết thi ca của thời Cổ Đại, có giống dân ở phương Nam Trung Quốc gọi là Bách Việt đã làm những bài thi ca nơi thôn dã mà Khổng Tử san định trong Kinh Thư cho vào một chương gọi là “Quốc Phong”, mở đầu có bài thật đáng chú ý :
Quan quan Thư Cưu
Tại Hà chi châu
Yểu điệu thục nữ
Quân tử hảo cầu
(Quan quan đôi Thư Cưu
Trống mái trên gò cao giữa sông
Dịu dàng người thục nữ
Quân tử được cầu gieo)
Thư Cưu là giống chim nước, ăn cặp đôi khắn khít bên nhau- biểu tượng cho tình tự nõ-nường- sống ở hai miền Dương Tử Giang và Hoài Giang ta nhận ra ngay giống chim nầy cũng sinh sống trên đất Việt, nó lại được xác tín lại lần nữa khi đọc tiếp đến bài “Hán Quảng” thì không nghi ngờ gì nữa:
Hán quảng chi hĩ
Bất khả vịnh ti
Giang chi vĩnh hĩ
Bất khả phương ti
(Hán giang xa chi vậy
Cùng nhau sao hát ngâm
Sông ơi hờn ly cách
Phương nào qua với nhau)
Sông Hán là chi nhánh của Dương Tử giang, nằm trong vùng Châu Kinh, Châu Dương, Châu Hoài của nước Việt cổ đại, là vùng phát xuất ra những bài thi ca mà Khổng tử đã thâu thập vào Kinh Thi để giáo dục con người tính “Nhân” bằng vào những bài thơ mang tính tình-tự đằm thắm của trai gái yêu nhau để nuôi dưỡng lòng nhân ái con người trong cái đại ngã huyền đồng vũ trụ…
Như vậy thì người Việt ta từ cổ đại xem tình yêu trai gái qua lại là việc hợp với lẽ tự nhiên đạo trời, và Khổng tử xem trọng nên mới đưa vào Kinh Thi chương đầu Cổ Phong để giáo huấn con người trọng nhân nghĩa, không có gì bài bác cho là xấu, tục…khi nói đến chuyện của nõ-nường, như vậy nho giáo nguyên thủy xem sinh thực khí là chuyện nghiêm trang đầy nhân tính, còn chuyện sau nầy nho sĩ lánh né, dè biểu coi giao hoan là dâm bôn tội lỗi, suy đồi… đó là chuyện bôi bác theo lối của các hủ nho xu thời vào thời Hán Vũ Đế(HVĐ) đã cho tu sửa bóp méo lợi dụng nho học vào mưu đồ chính trị để nhà vua dễ cai trị, làm xa dần tính cách nhân bản của đạo nho chân thực phát xuất từ cỗi nguồn Việt tộc phương Nam.
Những viện dẫn nêu trên cho ta cái nhìn tổng thể Kinh Bắc, nơi tộc Việt quần tụ sinh sống lâu đời trước cả Thăng Long, nên văn hóa Việt cổ đại đã ăn sâu trong máu di truyền nội tại luân chuyển phát ra bên ngoài cộng hưởng với môi trường sống, nơi mà lũy tre làng khép kín, những tập tục cổ truyền đời đời tiếp nối không dễ gì nho giáo biến thể -từ thời HVĐ- có thể đánh đổ được.
Thế mới biết “Chính Dzì Dzương” mới là chính Đạo, đạo làm người phải làm sao vuông tròn, cái sinh thực khí nó từ đâu có, xét cho tận cùng cái lẽ sống nó từ đó mà ra, dân Ấn-chàm đã ngộ được cái lẽ huyền diệu trong tín ngưỡng phồn thực – sinh sôi nẩy nở nhiều- cần thiết cho nền kinh tế nông nghiệp lâu đời suốt cả vùng Nam Á cần sinh tồn, cho nên họ thờ phụng kính trọng linga-yoni tôn nghiêm như một tôn giáo…, còn ta thì Thần nõ-nường là sự chiêm nghiệm riêng rẽ…, cũng thờ, nhưng thờ cái “ mê mẩn “ trong cung cách chơi “cho lăn lóc đá cho mê mẩn đời!(ND)”, và thơ Hồ Xuân Hương có bảo “nường” là túi càn khôn, hay chi chi nữa… cũng chỉ là một thái độ vô tư, thoải mái theo chiều một cách tự nhiên trong sự tuần hoàn của Tạo Hóa, mà Tạo Hóa thì vẫn mang một hàm ý mỉa mai, nhảm nhí trong cái nhìn của một dân tộc bi đè nén, chèn ép…qua nhiều thời đại- Ông Xanh!.