Về viết sử: đã là lịch sử viết bởi con người thì dù thế nào cũng không tránh khỏi sự chủ quan, chủ quan do cách nhìn nhận, do thiếu tư liệu, hay do cố ý bóp méo sự việc, ... Chính sử không có nghĩa là sử hoàn toàn khách quan mà là sử viết theo quan điểm chính thống (của một vị vua, của một quốc gia hay của một dân tộc). Vì thế Đại Việt sử ký (chính sử viết theo quan điểm của triều Lê), hay Thiên Nam ngữ lục ("chính sử" viết theo quan điểm của Chúa Trịnh) đều có những giá trị lịch sử thật sự. Không nên bài bác, mà cần xem kỹ sự khác biệt, vì chưa chắc ai đã đúng hơn ai.
Nam Quan: không nhất thiết phải là ở Lạng Sơn. Nam Quan đơn giản có thể hiểu là cửa Nam, tức là khu vực phía Nam của một tụ điểm dân cư cổ. Thời Triệu Đà, biên giới nước ta đâu có ở vùng Lạng Sơn mà có cửa ải Nam Quan ở đó.
Trong Thiên Nam ngữ lục, khi Triệu Đà đánh An Dương Vương thì đã nhìn thấy rồng bay lên:
Binh phân chi dực hữu chi
Triệu thuyền thẳng tới đỗ kề bên sông
Bỗng đâu thấy rồng nổi lên
Dự mừng thánh chúa lập nên cơ đồ.
Vì thế sau đó mới đổi tên đất thành Thăng Long.
Tất nhiên chuyện thấy rồng là truyền thuyết hoặc là một cách nói biểu tượng, biểu trưng. Triệu Đà hay Lý Công Uẩn đều không thể thấy rồng vì rồng làm gì có thật. Cái thật là sự kiện dựng đô/hành cung và đặt tên đất.
Nhĩ Hà: có thể tên sông không phải là từ thời Triệu Đà. Điều đó chẳng ảnh hưởng gì đến sử liệu cả. Trong sử sách người hoàn toàn có thể dùng tên ngày nay để kể về sự việc trước đây. Về tên gọi Nhĩ Hà theo tôi có thể giải thích như sau: Nhĩ hay Nhị là số 2, con số chỉ phương nóng bức, mùa Hạ, màu đỏ trong Hà thư. Tức là Nhị Hà đồng nghĩa với sông Hồng (màu Đào), sông Thao (=Thiêu cháy), sông Lô (=Lửa). Tất cả chỉ một con sông lớn chảy qua vùng đất Đào hay Hồng Bang thời cổ đại. Còn cách giải thích Nhĩ nghĩa là màng nhĩ, do sông chảy quanh co, thì rõ là suy diễn vô cớ. Sông nào mà chẳng chảy quanh co.
Việt Nam: Gồm 2 phần Việt và Nam. Không phải là An Nam và Việt Thường vì thời chúa Nguyễn làm gì còn có Việt Thường nữa. Phần Việt là Đại Việt, ở Bắc Việt Nam ngày nay, đất cổ từ Lý Trần Lê. Phần Nam là phần đất Chiêm Thành - Chân Lạp. Từ Việt Nam nói rõ nước Việt Nam là quốc gia thống nhất 2 miền Nam Bắc, Việt - Chăm. Sau này nhà Nguyễn đổi thành Đại Nam, có lẽ vì kinh đô đóng ở phần Nam (Huế).