Phần 8
Chương 4
Trái tim tự tư với trái tim yêu nước
Nguồn: Mọt sách
Thu gọn nội dung
Một du khách nước ngoài sau khi tham quan hết Cố cung đã tặc lưỡi than rằng : Hoàng đế nhà Thanh đã có trái tim tư hữu quá nặng, một người mà trong cung điện lớn lao có nhiều kiến trúc tinh vi lộng lẫy đến như vậy ! Kỳ thực, vị khách này không biết đó thôi. Đâu chỉ có một Cố cung Bắc Kinh, mà tất cả thiên hạ này cũng đều là tài sản riêng của Hoàng đế cả. Kinh thi nói : Đất dưới gầm trời, đâu cũng là đất của vua, khách trên mặt đất, ai cũng là thần của vua cả. Trong xã hội Coi thiên hạ là nhà của mình của chế độ phong kiến mấy ngàn năm, quyền của vua cao hơn hết. Trẫm tức là Quốc gia, đó là câu danh ngôn chí lý. Năm 1911, Tôn Trung Sơn đã lãnh đạo cuộc cách mạng Tân Hợi, giương cao ngọn cờ Thiên hạ là của chung, xoá bỏ chế độ phong kiến Coi thiên hạ là nhà của mình lập nên Dân quốc. Thế nhưng Tôn Trung Sơn làm lãnh tụ cách mạng, còn chưa kịp thực hiện lý luận của mình thì đã vĩnh biệt cuộc đời. Sau Tôn Trung Sơn, Tưởng Giới Thạch, người tự xưng là Tín đồ trung thực của Tôn Trung Sơn, chiếm giữ địa vị lãnh tụ Quốc dân đảng kéo dài nửa thế kỷ và mấy lần nhậm chức Tổng thống Trung hoa Dân quốc đã đưa vào thực tiễn lời hứa Thiên hạ là của chung như thế nào ? Năm 1954, Chủ tịch Chính phủ tỉnh Đài Loan của Quốc dân đảng lưu vong ở nước Mỹ là Ngô Quốc Trinh đã thẳng thắn chỉ ra những hành vi cử chỉ của Tưởng Giới Thạch : Trái tim tự tư tương đối nặng hơn trái tim yêu nước của ông ta. Trái tim tự tư nặng hơn Trái tim yêu nước, đây chính là bình giá đúng mức của cấp dưới Tưởng Giới Thạch đối với tính cách chính trị của lãnh tụ mình.Nói thực tình, từ những năm trước mặc dù Tưởng Giới Thạch đã có tư tưởng tự phấn đấu, thế nhưng với sự xung kích của trào lưu tư tưởng cách mạng dân chủ, ý thức yêu nước của Tưởng vẫn còn tương đối nồng hậu. Tháng 4 năm 1905, với ảnh hưởng của trào lưu tư tưởng tiến bộ, Tưởng Giới Thạch 18 tuổi đã cắt đi bím tóc, kiên quyết vượt biển Đông sang Nhật bản học tập quân sự. Sau một số năm, khi hồi tưởng đoạn lịch sử này, Tưởng nói : Lúc đó tôi đang học tập ở trường trung học Long Tân huyện nhà, bởi vì hết sức căm phẫn sự hoành hành của bọn thổ hào trong làng, mục kích thấy đất nước của chúng ta chịu sự áp bức của bọn đế quốc. Đặc biệt là lúc đó nhìn thấy Nhật bản là một quốc gia nhược tiểu, có thể phấn đấu quật cường, đánh bại đế quốc Nga, đã đem lại cho tôi sự kích thích rất lớn trên mặt tinh thần. Cho nên tôi học ở trường trung học Long Tân chưa đầy nửa năm, đã xin mẹ tôi cho phép tôi được sang Nhật học quân sự, để làm trọn nghĩa vụ đối với dân với nước để mau chóng tự cường rửa nhục cho đất nước[1]. Tư tưởng nước giàu binh mạnh, chấn hưng Trung hoa này của Tưởng đã đại biểu cho tư tưởng của đông đảo lớp trẻ có ý chí cứu nước quật cường. Cũng chính lần vượt biển Đông sang Nhật bản học này, Tưởng đã thông qua quan hệ của Trần Kỳ Mỹ quen biết với Tôn Trung Sơn, trở thành người sùng bái Tôn Trung Sơn.Với ảnh hưởng của loại tư tưởng cấp tiến này, Tưởng Giới Thạch trẻ trung hăng hái có lúc đã biểu hiện ra rất sôi nổi. Trong thời gian học tập ở trường bổ túc lục quân Bảo Định, một lần sĩ quan quân y Nhật bản lên lớp dạy môn vệ sinh, đặt một miếng đất bùn lên trên bàn dùng để ví với Trung quốc, nói rằng trên miếng đất bùn này có 400 triệu con vi sinh vật, cũng giống hệt như 400 triệu nhân khẩu của Trung quốc. Tưởng Giới Thạch nghe thấy lời nói này liền hăng hái đứng lên rảo cẳng bước tới bục giảng, đem miếng đất bùn đó phân thành 8 miếng, đưa tới trước mặt viên sĩ quan giảng dạy Nhật bản lớn tiếng nói :- Nhật bản có 50 triệu người, phải chăng cũng giống như 50 triệu con vi trùng ăn bám ở trên miếng đất một phần tám tấc khối Anh này ?Người sĩ quan giảng dạy Nhật bản căn bản không nghĩ được rằng ở trên lớp lại có thể có học sinh gan góc đến như vậy, nhất thời kinh ngạc, miệng há hôc, mắt trợn tròn, không biết nên đối phó thế nào cho phải. Sau giây lát ngượng ngùng, người giáo viên trấn tĩnh lại, lên mặt ông thầy, lớn tiếng quở trách Đảng cách mạng của Tưởng. Tưởng liền bực tức trả lời :- Xin hỏi Ngài, ví dụ như vậy có đúng không ? Xin đừng hỏi những chuyện ngoài đề.Người giáo viên Nhật bản chẳng có lời nào để đáp lại, liền lập tức tìm đến người phụ trách nhà trường yêu cầu xử lý Tưởng Giới Thạch thật nghiêm khắc. Hành vi ngang ngược của người giáo viênNhật bản thực sự rất vô lý, ngay cả đến người lãnh đạo nhà trường cũng phải đồng tình với Tưởng Giới Thạch. Cuối cùng việc này cũng phải lờ đi cho xong chuyện. Năm 1907, Tưởng Giới Thạch lại một lần nữa vượt biển sang Nhật vào trường Trấn Vũ học tập quân sự. Sau khi tới Nhật bản, qua giới thiệu cuả Trần Kỳ Mỹ, Tưởng Giới Thạch tinh lực cương cường đã gia nhập Đồng minh hội do Tôn Trung Sơn lãnh đạo, sau đó lại gia nhập Trượng phu đoàn. Cái gọi là Trượng phu đoàn lấy ý ở trong sách Mạnh Tử là Phú quí bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất, thử chi vị Trượng phu. Đây là một tổ chức thanh niên, lấy việc trừ đuổi giặc Talu, xây dựng dân quốc làm tôn chỉ. Trong thời kỳ này, cuốn sách mà Tưởng thích đọc nhất là Quân cách mạng của Châu Dung. Tưởng đã hấp thụ được tư tưởng dân tộc chủ nghĩa từ trong đó. Trong 15 năm Dân quốc của Mao Tư Thành, nói Tưởng đã mê đọc Quân cách mạng, đọc cả sớm cả tối, lúc ngủ còn ôm nó ở trong lòng không nỡ rời tay. Khi nằm mơ, hình như vẫn đang nói chuyện với Châu Dung, còn Cùng nâng ngọn giáo, giết chết giặc Tanu. Lúc đó trên bức ảnh Tưởng gửi cho người anh họ là Đan Duy Tắc đã từng viết một bài thơ Đằng đằng sát khí mãn toàn cầu, lực bất như nhân khẳng thả hưu ? Quang ngã thần châu hoàn ngã trách, đông lai chí khải tại phong hầu ! (Sát khí đằng đằng khắp năm châu, Lực kém xa người phải bảo nhau. Rạng rỡ nôn sông tròn phận sự. Trí vươn đâu phải tại phong hầu ?) - Dựa vào tinh thần này, sau khi Tưởng Giới Thạch được biết cuộc khởi nghĩa Vũ Xương năm Tân Hợi đã nhanh chóng về nước, dẫn đầu một Đội cảm tử hơn trăm người tham gia cuộc khởi nghĩa Hàng Châu. Để thể hiện quyết tâm vì việc nghĩa chỉ tiến không lùi này của mình, Tưởngcòn viết một bức thư vĩnh biệt gửi về Khê Khẩu biểu thị cho gia đình biết Thề hy sinh vì cách mạng là chí quyết tâm cuả mình.Thế nhưng, trái tim yêu nước nàycủa Tưởng Giới Thạch khôngphát huy được mấy lớn lao, theo dòng chảy của thời gian năm tháng , trái tim đó đã biến hoá nhạt nhẽo dần.Trái lại, theo sự bành trướng của dục vọng quyền lực, trái tim tự tư của Tưởng cúng dần dần tăng trưởng lên.Tháng 4 năm 1927, Tưởng Giới Thạch đã phát động cuộc chính biến phản cách mạng ở Thượng hải, rồi thành lập Chính phủ Quốc dân ở Nam kinh vào tháng 10 năm 1928, dựng lên một cớ ở khác ở trong Quốc dân đảng, rồi lại từng bước, từng bước giành đoạt được quyền lực tối cao. Quyền lực là một thứ làm hư hỏng con người, đặc biệt là trong một đất nước có truyền thống phong kiến lâu dài như vậy ở Trung quốc thì hầunhư quyền lực, độc tài và tính chê bai người khác là ba ngôi của một thể.Vừanắm được đại quyền, điều trước tiên Tưởng Giới Thạch nghĩ tới là làm thế nào để duy trì bà bảo hộ được lợi ích đã có.Để duy trì và bảo vệ nền thống trị độc tài thì đầu tiên cầnphải trừ diệt tai hoạ từ bên trong là Đảng cộng sản. Tháng 10 năm 1930, sau khi dẹp yên được phái phản đối trong nội bộ như Phùng Ngọc Tường, Diêm Tích Sơn và Lýa Tông Nhân v.v...liềnphóng tầm mắt chuyển nhập vào các căn cứ địa đỏ, đã bắt đầu cuộc chiến tranh Tiễu cộng. Lúcnày bọn đế quốc Nhật bảnđang như hổ đói rình mồi đối với Đông bắc Trung quốc, những dấu tích phát động cuộc xâm nhập với qui mô lớn đã rất rõ ràng. Đối mặt với dã tâm xâm lược củaNhật bản, Trương Học Lương vô cùnglo lắng, đã nhiềulần cử người tới Nam kinh gặp gỡ Tưởng Giới Thạch thỉnh thị thời cơ thích hợp. Thế nhưng, Tưởng Giứi Thạch đang tập trunglực lượng Tiễu cộng, chỉ sợ phát rq xung đột với quân Nhật, tức thì ngày 16 tháng 8 năm 1931 đã đánh điện mật cho Trương Học Lương : Vô luận là quân đội Nhật từ nay về sau có gây hấn như thế nào đối với Đông bắc, phía ta cũng không nên chống đối, cố gắng tránh xung đột. Người anh em tuyệt đối khôngđược thể hiện sự phẫn nộ nhất thời, mà bỏ mặc khôngchiếu cố tới quốc gia, dân tộc[2]. Ngày hôm sau, Chính phủ Quốc dân đảng, chấp hành ý kiến của Tưởng lại một lần nữa gửi điện cho Trương Học Lương, nói rằng : Trung ương coi việc bình định nội loạn là công việc hàng đầu, các đồng chí ở Đông bắc phải thôngcảm ! Vậy thì thế nào gọi là lợi ích của Quốc gia, dân tộc mà Tưởng Giới Thạch khuyên răn Trương Học Lương ? Ngày 22 tháng 8 Tưởng đã biểu lộ rõ mình : Trung quốc mất bởi chủ nghĩa đế quốc, chúng ta còn có thể làm vong quốc nô, còn có thể thoi thóp, ngắc ngoải, kéo dài hơi thở đã tàn; nếu mất bởi Đảng cộng sản thì có muốn làm nô lệ cũng khônglàm được.[3] Đây chính là chính sách Cướp ngoải tất phải yên trong nước nổi tiếng của Tưởng. Thực chất là duy trì quyềnlực độc tàicủa Tưởng Giới Thạch. Bởi vì trong con mắt của Tưởng, điều uy hiếp quyền lực lớn nhất đối với Tưởng là Đảng cộng sản, chứ không phải là đế quốc Nhật.Do đó tiêu diệt Đảng cộng sản là điều ràng buộc chặt với Lợi ích quốc gia, dân tộc. Lý luận này như cùng một lò sinh ra với luận điệu Thà tặng người ngoài, chứ không bao giờ cho gia nô của Từ Hi Thái hậu.Để củng cố quyền lực mà mình đã cướp được, có thể để cho kẻ địch từ bên ngoài đến xâm lăng mà không đếm xỉa tới, cứ dốc toàn lực ra để làm vững chắc nền chuyên chế độc tài. Ngày 28 tháng 1 năm 1932, quân xâm lược Nhật bản đổ bộ lên Thượng hải, lộ quân thứ 19 của Quốc dân đảng đã chống lại chỉ thị Gánh vác trách nhiệm nặng nề là nhẫn nhục, họ đã đứng lên đánh lại quân Nhật, bùng nổ ra cuộc kháng chiến 28-1. Thượng Hải là một thành phố lớn nhất của Trung quốc, lại là trug tam công nghiệp và tiền tệ, vấp phải sự xâm nhập của quân Nhật, trongnhững ngày này, Tưởng Giới Thạch làm chủ tịch Chính phủ Quốc dân đã làm gì ? Ngày hôm đó, Tưởng Giới Thạch triệu tập Hội nghị chính trị Trung ương lâm thời, tuyên bố 3 quyết định: Thứ nhất, triệt tiêu chức vụ Bộ trưởng Bộ ngoại giao của Trần Hữu Nhân bởi dám công khai phê bình Tưởng Giơí Thạch khôngó chính sách chống Nhật, để răm dạy kẻ khác chớ hùa theo. Thứ hai, khôi phục việc kiểm tra báo chí, cấm chỉ tất cả những ngôn luận nào phê bình Chính phủ và Lãnh tụ dăng trên báo chí, kẻ nào vi phạm nghiêm trị không tha. Thứ ba : cải tổ Chính phủ quốc dân, Uông Tinh Vệ, phái thân Nhật kế nhiệm Viện trưởng Viện Hành chính, Tống Tử Văn được bổ nhiệm chức Phó viện trưởng Viện hành chính kiêm Bộ trưởng Bộ tài chính. Đứng trước quân địch, Tưởng Giới Thạch phụ trách thống lĩnh quân dân toàn quốc giữ đất chông Nhật, lúc này lại đang bận với việc làm trong sạch nội bộ, kiềm chế dư luận, tín nhiệm sử dụng phái thân Nhật, để mong cầu củng cố lấy ách thống trị Phát xít của mình, tình yêu nước với yêu quyền lực của Tưởng, tình nào nặng, tình nào nhẹ ? Có thể nhìn thấy rõ !Tục ngữ nói : Đánh hổ thì giao cho anh em, ra trận thì giao cho cha con người lính. Điều đó nói lên rằng, trong những giờ phút gay go nhất, vẫn là thân thiết với người trong nhà. Tưởng Giới Thạch hiểu sâu đạo lý đó, cho dù khi lợi ích của quốc gia phát sinh ra mâu thuẫn cực kỳ lớn với lợi ích gia tộc thì Tưởng chẳng hề do dự gì mà không đem cán cân nặng về gia tộc. Ngày 19 tháng 8 năm 1948, để cứu vãn nền kinh tế tài chính gần như sắp sụp đổ từ ngày phát động nội chiến tới nay, để bình ổn vật giá, với cương vị Tổng thống, Tưởng Giới Thạch đã công bố Lệnh xử trí tài chính khẩn cấp, thực hành chế độ tiêu tiền quan kim. Đồng thời với việc cải cách tiền tệ, Tưởng đã cử con trai là Tưởng Kinh Quốc tới Thượng Hải nhậm chức đặc phái viên kinh tế, phụ trách việc đánh gian thương, bình ổn vật giá. Đối mặt với giang sơn xã tắc đang gặp cơn nguy biến, đại thái tử Tưởng Kinh Quốc cũng thực sự muốn làm một việc to lớn, chông chii lại với cơn sóng bạc đầu sắp dội tới để cữu vãn lại vương triều họ Tưởng. Vì vậy Tưởng Kinh Quốc đã xây dựng tổ chức Đại đội dẹp loạn bình định , Tổng đội phục vụ của thanh niên Thượng Hải, nêu ra khẩu hiệu Chỉ đánh lão hổ, không đánh ruồi nhặng, trấn giữ ngân hàng trungương Thượng Hải, triển khai phong trào đả kích gian thương, quản chế vật giá rất rầm rộ. Trong vòng thời gian một tháng, Tưởng con liên tục xử lý mấy vụ án lớn, án quan trọng, bắn chết, bắt giữ hàng loạt bọn quan lại và gian thương làm càn làm bậy mưu lợi riêng, khiến cho tên tuổi nổi lên vang dội, được các nhà báo nước ngoài gọi là Sa hoàng kinh tế của Trung quốc. Giữa lúc Tưởng Kinh Quốc đang thuận buồm xuôi gió, đang đánh đuổi truy quét bọn gian thương bất chấp luật pháp, một vụ án tích trữ lớn có can hệ tới Công ty Dương tử đã được khám phá ra. Công ty Dương tử chính là Công ty của con cả Khổng Tường Hy là Khổng Lệnh Khản chủ trì, Tống Mỹ Linh cũng có cổ phần ở trong đó. Như vậy Công ty Dương tử này liền trở thành cửa hiệu buôn của nhà vua, danh phù hợp với thực. Sau khi vụ án Công ty Dương tử tích trữ đầu cơ hàng quí được phát giác, đại thái tử Tưởng Kinh Quốc xuất phát từ suy nghĩ cho lợi ích của Đảng quốc đã thiết diện vô tư, kiên quyết bắt phải xử lý theo pháp luật. Trong lúc tình thế nguy cấp, đại công tử họ Khổng trình báo lên bà dì là Tống Mỹ Linh. Trong cơn thịnh nộ, đệ nhất phu nhân lại gạt sang Tưởng Giới Thạch. Ngày mồng 2 tháng 10, Tưởng cha triệu gọi Tưởng con, gia tăng áp lực, chỉ thị rõ ràng rằng Tưởng Kinh Quốc không được phép can thiệp vào vụ án này. Với lời lẽ thành khẩn, ý tứ sâu xa, Tưởng Giới Thạch nói với đại thái tử và các tùy viên rằng :- Ai ai cũng đều có người thân thích cả. Những sự việc làm cho người thân thích mất mặt, xin mọi người các anh hãy thử nghĩ mà xem, ai có thể thực sự thiết diện vô tư được ! Ta nghĩ rằng, vụ án này hãy bỏ qua là hơn ! [4]. Trong mâu thuẫn lợi ích giữa Quốc và Gia đang rung rinh chực nổ, Tưởng Giới Thạch đã ra uy bức đại thái tử tuyển chọn Gia mà vứt bỏ Quốc. Từ đó việc cải cách chế độ tiền tệ đã triệt để thất bại, vật giá tăng vọt, dân chúng khổ sở điêu linh, những ngày vương triều họ Tưởng còn sống được ở trên đại lục chỉ đếm được ở trên đầu ngón tay.Sau khi chạy trốn tới Đài Loan, theo sự tăng trưởng cuả tuổi tác và sự ổn định của cục thế, Tưởng Giới Thạch bắt đầu suy nghĩ tới vấn đề người kế tục. Chọn ai đứng ra làm người kế tục mình đây ? Đội ngũ Quốc dân đảng lúc đó tuy đã lung tung lộn xộn, đã thất bại khó gượng dậy nổi, thế nhưng chọn ra mấy người tjhông minh tài cán, được nhiều người tin cậy để kế thừa đại tổng thống cũng không khó lắm. Thế nhưng tâm tư của Tưởng cha, muốn đem phần di sản Quyền lực Đảng quốc nqỳ để lại cho con trai. Thế nhưng, thời đại đế chế cuối cùng đã trở về quá khứ rồi. Tưởng Giới Thạch tự coi mình là Tín đồ trung thực của Tôn Trung Sơn, giả côngkhai đem quyền lực trao cho con trai Tưởng Kinh Quốc, há chẳng phải là sẽ chuốc lấy sự thoá mạ của bàn dân thiên hạ hay sao ? Tức thì để đem thiên hạ trao cho con trai, Tưởng cha đã thioết kêkks tỉ mỉ khéo léo một con đường kế tục gấp khúc. Trong thời gian 20 năm, từ năm 1950 đến đầu năm 1970, Tưởng Kinh Quốc từ chủnhiệm chính trị Bộ quốc phòng rồi tới Phó bộ trưởng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng lên thẳng Viện trưởng Viện Hành chính, còn kiêm nhiệm các chức vụ như Phó bí thư trưởng Hội nghị Quốc phòng, Phó bí thư trưởng Hội nghị an toàn quốc gia v.v... Đồng thời với việc liên tục thăng tiến các chức vụ hànhchính, các chức vụ trong Đảng cũng được lên nhanh như gió xoáy, được bầu vào ủy ban thường vụ Trung ương Quốc dân đảng. Đồng thời với việc dốc toàn sức nâng dỡ con trai hoàn thành việc thăng tiến các chức vụ, Tưởng Giới Thạch bắt đầu dùng những nô bộc trùng thành kiên định tuyệt đối với họ Tưởng như Trần Thành, Nghiêm Gia Cán v.v..., hơn thế còn tiến hành đả kích đối với một số nhân vật có khả năng hình thành sự uy hiếp đối với việc kế tục của Tưởng Kinh Quốc như Trần Lạp Phu, Ngô Quốc Trinh, Tôn Lập Nhân v.v... Trải qua hơn hai chục năm khổ tâm xây đắp, Tưởng Giới Thạch đã nhìn thấy xu thế kế tục của con trai đã ổn định, mới yên lòng nhắm mắt xuôi tay trở về với phương Tây. Buổi tối ngày 5 tháng 4 năm 1975, Tưởng Giới Thạch 88 tuổi đã tạ thế tại dinh Sĩ Lâm ở Đài Bắc. Ngày 28 tháng 4, toàn thể ủy ban Trung ương Quốc dân đảng Đài Loan đã triệu tập hội nghị, sửa đổi Điều lệ Đảng, bầu Tưởng Kinh Quốc làm Chủ tịch Trungương Đảng kiêm Chủ tịch ủy ban thường vụ Trung ương. Sau 3 năm, ngày 20 tháng 5 năm 1978, Tưởng Kinh Quốc với danh nghĩa Chủ tịch Quốc dân đảng Đài Loan đã trở thành Tổng thống của Trung hoa Dân quốc Đài Loan. Với bộ áo khoác ngoài Cộng hoà hiện đại, một màn hài kịch giao tiếp quyền lực Quốc gia theo quan hệ huyết thống đã hạ, quyền lực đã trao, nhận riêng tư giữa Tưởng Giới Thạch và Tưởng Kinh Quốc như vậy đó ! Nếu tiên Thủ tướng Tôn Trung Sơn ở trên trời có linh thiêng thì có thể nhìn thấy dâú tích sâu xa Coi thiên hạ là của riêng mình, thế mà Tưởng Giới Thạch vẫn tự khoê là Tín đồ trung thực của Ngài, không biết Ngài đã có cảm tưởng như thế nào?
------------------------
[1] Tưởng Giới Thạch - Bài nói chuyện với học sinh tòng quân tháng 1 năm 1944.
[2] Trương Học Lương với sự biến đương thời 18-9 , Tuyển tập tư liệu văn sử của Hồng Phương,tập 6 trang 24
[3] Vinh Mạnh Nguyên Vương triều họ Tưởng trang 51
[4] Chu Nhất Trí Một bức màn tiền quan kim Thượng Hải, trích trong Tuyển tập tư liệu văn sử tập 81, trang 211
Phần 8
Chương 5
Uy nghiêm cá nhân với tôn nghiêm lãnh tụ
Nguồn: Mọt sách
Thu gọn nội dung
Mặc dù trong cuộc đấu tranh chính trị, Tưởng Giới Thạch hung hãn, độc ác, nhân cách xấu xa, thế nhưng bề ngoài Tưởng là thủ lĩnh của Quốc dân đảng, Nguyên thủ quốc gia của Trung hoa dân quốc và Tổng tư lệnh quân đội, lại luôn chú ý biểu hiện ra sự tôn nghiêm của Lãnh tụ.Muốn đứng trên đầu tất cả mọi người, muốn thao túng tất thảy ở xung quanh, có thể nói, đó là mô hình từ lúc tuổi thơ, Tưởng Giới Thạch đã muốn làm Lãnh tụ. Lúc đó Thụy Nguyên vô lại, mọi sự mọi việc đều đi trước mọi ngườì. Trong những trò chơi trẻ con, Tưởng đã xưng hùng xưng bá, còn tuyên bố sau này mình sẽ làm đại quan mà không ai có thể quản được. Tất cả những điều này tuy không có quan hệ trực tiếp tới đời sống chính trị về sau này của Tưởng, thế nhưng đã di chuyển ngấm ngầm chìm đọng trong mô thức hành vi của Tưởng. Về sau các sự kiện là người dẫn đầu chống đối nhà trường ở trường Phượng Lộc Phụng hoá, là người chất vấn trước mặt giáo viên sĩ quan Nhật bản ở trường quân sự Bảo Định, đã không ngừng hình thành ý thức đứng đầu mọi người trong tất cả các sự việc của Tưởng. Theo sự tăng trưởng của các sự việc đã trừng trải và sự hiểu biết rộng rãi, đặc biệt là khi địa vị của bản thân đã hiển hách, những tính cách này của Tưởng đã ngày càng bộc lộ rõ.Trên thực tế, những mô thức hành vi Lãnh tụ này trong tính cách của Tưởng Giới Thạch có thể phân tích từ hai phương diện. Phương diện thứ nhát là loại mô thức hành vi này thể hiện thành một loại dục vọng muốn Chinh phục, chinh phục cấp dưới, đối thủ, kẻ thù, tất cả mọi người. Loại hành vi này có đặc trưng là phát triển tới cực đoan, rồi dẫn tới độc đoán, chuyên quyền. Điều này đã được kể rõ ở trên. Một phương diện khác là loại mô thức hành vi này thể hiện thành một loại dục vọng muốn Biểu hiện, tức là thông qua những hành vi có ý thức của mình biểu hiện ra những chỗ siêu nhân của mình với cấp dưới, với binh sĩ, với nhân dân, để đạt tới mục đích làm cho người khác phải tỏ lòng cung kính. Đối với đặc chưng của hai phương diện này mà nói, loại trước là một loại chinh phục mang tính chất cưỡng chế theo mô hình bên ngoài kiểu Bá đạo. Loại sau là một loại chinh phục mang tính chất cảm hoá theo mô hình bên trong kiểu Vương đạo. Đạo của văn võ, lúc căng, lúc trùng, đây chính là thuật thống soái chế ngự của đế vương !Tưởng Giới Thạch hiểu rõ, nếu muốn làm cho thiên hạ vui vẻ chân thành qui phục, không thể chỉ dùng súng, dùng gậy mà được, rất cần phải xác lập quyền uy và tôn nghiêm của Lãnh tụ mới có thể khiến cho thiên hạ thần phục.Làm thế nào để có thể sác lập được uy tín và tôn nghiêm của mình? ở Trung Quốc từ xưa tới nay dân chúng tôn sùng nhất là những người không sợ chết. Ai không sợ chết thì người ấy có thể trở thành anh hùng trong tâm mắt mọi người. Lão Tưởng rất hiểu biết tâm lý truyền thống này của dân tộc Trung Hoa. Trong suốt cuộc đời cuả Tưởng, Tưởng đã từng biểu diễn qua trò chơi Thị tử như qui (coi cái chết như đi về nhà mình) vài ba lần. Tháng 10 năm 1925 khi Tưởng Giới Thạch đông chinh gặp nguy hiểm, ông đã từng cao giọng nhắc bản thân mình phải tự sát để thành nhân, đó là một ví dụ, sau được Trần Canh liều chết cứu thoát. Sau việc đó, đối với Trần Canh, Tưởng Giới Thạch biểu lộ đặc biệt cảm tạ, lại đưa lễ vật, lại bổ nhiệm làm tham mưu hậu cần, cả ân, cả sủng đều có cả! Kiểu biểu diễn bất đắc dĩ này của Tưởng tỏ ra vô cùng xấu xa thô tục.Năm 1926, Tưởng Giới Thạch ra nhậm chức Tổng tư lệnh quân Bắc phạt, lúc này về mặt biểu hiện mình củaTưởng Giới Thạch đã lão luyện hơn nhiều. Cuối tháng 8, quân đoàn 4, quân đoàn 7 Bắc phạt nhiều lần tiến đánh thành Vũ Xương mà chưa hạ được, bộ đội thương vong thảm bại nặng nề. Ngày mồng 3 tháng 9, Tưởng triệu tập hội nghị tác chiến ngay dưới chân thành Vũ Xương, ủy nhiệm Lý Tông Nhân chỉ huy việc phá thành, ra nghiêm lệnh cho quân đội trong vòng 48 giờ phải hạ được thành Vũ Xương. Các tướng lĩnh nghe nói, lo sợ, người nọ nhìn người kia, chẳng ai nói một lời. Lúc này đối với phương pháp chỉ huy bất chấp hiện thực vô cùng liều lĩnh của Tưởng Giới Thạch, Lý Tông Nhân uất ức nghẹn lên tới tận cổ. Tưởng thấy rõ, nhưng để bụng, không tỏ thái độ gì. Ngày 5 tháng 9, Lý Tông Nhân tổ chức bộ đội, bắt đầu tấn công thành một lần nữa. Buổi sáng, cuộc chiến đấu đẫm máu đang quyết liệt thì Tưởng Tổng tư lệnh đột nhiên đi tới và yêu cầu Lý Tông Nhân cùng đi vào chân thành thị sát. Trong lúc súng như cây rừng, đạn như mưa vãi, Lý Tông Nhân nhìn thấy thái độ của Tưởng Giới Thạch ung dung trấn tĩnh, rất có phong độ của chủ soái, bất giác Lý Tông Nhân đã ngấm ngầm bái phục Tưởng.Tháng 2 năm 1942, Tưởng Giới Thạch đã nhậm chức chủ tịch Chính phủ Quốc dân, để bàn bạc công việc cùng tác chiến với Nhật, Tưởng đã sang thăm ấn Độ. Sau khi kết thúc cuộc viếng thăm ấn Độ, Tưởng Giới Thạch đã bay tới La-rôn Miến Điện, thị sát tình hình tác chiến của quân viễn chinh Trung Quốc tại Miến Điện. Ngày 20 tháng 2, sau khi máy bay cất cánh từ sân bay La-rôn, trên đường trở về Côn Minh, bỗng nhiên gặp phải máy bay quân Nhật, rồi bị máy bay Nhật đuổi theo sau đuôi. Lúc đó tình hình ở trên máy bay của Tưởng vô cùng căng thẳng, các nhân viên tùy tùng sau khi buộc chắc những chiếc dù cấp cứu, ai nấy đều rất hoảng sợ. Duy chỉ có Tưởng là điềm nhiên trầm tĩnh, sau khi buộc chắc dù rồi, một mình Tưởng mở sách ra đọc, coi như chẳng có sự gì xảy ra, đúng là dáng vẻ gặp nguy biến không kinh sợ. Sau khi máy bay thoát khỏi nguy hiểm, mọi người đều ca tụng Tưởng Chủ tịch lâm nguy không sợ, trấn tĩnh như thường. Sau khi trải qua mấy lần nguy hiểm đều thoát khỏi, nghệ thuật biểu diễn và năng lực khống chế tình cảm trong hoàn cảnh nguy hiểm theo kiểu này của Tưởng Giới Thạch đã có được bước tiến dài.Trong một đời cuả con người, ngoài việc vấp phải tử vong uy hiếp ra, còn có thể gặp phải một số sự việc ngượng ngùng rất xấu hổ mất mặt, các nhân vật lớn cũng không lệ ngoại. Tháng 8 năm 1926, quân Bắc phạt chiếm lĩnh Hồ Nam. Ngày 14 tháng 8 Tưởng Giới Thạch giữ chức Tổng tư lệnh quân Bắc phạt quyết định kiểm duyệt quân đoàn 7, quân đoàn 8 tác chiến dũng mãnh, để tỏ ra sự quan tâm chăm sóc và tỏ ra sự uy nghi trang trọng. Địa điểm duyệt binh đặt tại sân trường lớn ngoài cửa Đông Trường sa, số quân đội tham gia duyệt binh có tới trên hai vạn người. Ngày hôm đó, tiết trời trong sáng, ánh nắng chiếu dọi nơi nơi, trên sân duyệt binh, cờ xí tung bay phần phật, càng tỏ ra quân dung hùng tráng. Đúng 9 giờ sáng, Tưởng Giới Thạch cưỡi một con ngưạ màu đỏ táo, chầm chậm tiến vào vị trí chủ soái, nghe các đơn vị báo cáo số người tham gia duyệt binh. Tư thế của Tưởng trông thật anh hùng lẫm liệt, vô cùng uy nghi.. Sau khi sĩ quan chỉ huy duyệt binh báo cáo xong, với hơn 10 tướng lĩnh cưỡi trên chiến mã hộ vệ, Tưởng Giới Thạch đi từ phải sang trái, kìm cương đi chầm chậm, bắt đầu duyệt binh. Trước hết kiểm duyệt quân đoàn 7, mọi thứ bình thường, thông qua thuận lợi. Khi đoàn tướng lĩnh kiểm duyệt quân đoàn 8, quân đoàn này đã nghĩ ra cái khác hẳn, bỗng nhiên tiếng nhạc kêu vang, lính thổi kèn lại đột nhiên kêu lanh lảnh, âm thanh chói tai. Con ngựa của Tưởng bỗng nhiên sợ hãi, hí dài lên một tràng rồi lồng lên như điên cuồng. Tưởng Giới Thạch đang tập trung tinh thần kiểm tra quân đội, đã không được chuẩn bị tư tưởng trước, cũng không thông thạo thuật cưỡi ngựa, trong nháy mắt đã lộn cổ ngã ngựa. Thế nhưng chân phải vẫn còn móc ở trên bàn đạp, toàn thân kéo lê ở dưới đất, cực kỳ nguy hiểm. Sau khi kéo lê đi một đoạn, cuối cùng Tưởng đã rời khỏi bàn đạp , thoát cảnh nguy hiểm. Các sĩ quan tướng lĩnh bị sự kiện đột xuất làm cho kinh ngạc hoảng hồn, giờ mới định thần tỉnh lại, họ vội vàng xuống ngựa dìu Tổng tư lệnh đứng dậy. Tưởng Giới Thạch bị kinh hồn lạc phách, thở hổn hển. Bộ quân trang mới tinh bị dính đầy bùn đất bẩn thỉu, ủng mất, mũ rơi, thật là ngượng ngùng quá xá! Nếu là người thường trong trường hợp như thế này khẳng định là sẽ xấu hổ nhục nhã tới mức không có lỗ để chui xuống đất. Nhưng Tưởng Giới Thạch thì không như vậy. Sau khi từ dưới đất bò lên, lấy lại tinh thần, chỉnh đốn lại áo mũ, lại tập tễnh dò dẫm chỉ huy các tướng lĩnh kiên trì đi bộ duyệt binh , cẩn thận từng li từng tí một. Sau khi duyệt binh xong, Tưởng còn phát biểu diễn thuyết động viên răn bảo hai quân đoàn, rồi kêu gọi quân đội cần phải phục tùng lãnh tụ cách mạng, phục tùng chủ nghĩa tam dân. Cuộc biểu diễn đặc sắc tuyệt vời này của Tưởng đã giành được bình luận tốt của các sĩ quan và binh lính. Bình tâm mà suy xét, trong những trường hợp vô cùng gay cấn như thế này, Tưởng có thể nhanh chóng xoay chuyển cục diện, cuối cùng đã đem sự việc xấu mất mặt, biến thành sự việc tốt làm tăng thêm uy tín cho bản thân mình. Có thể thấy được, quả thực Tưởng đã có những điểm khác hẳn người bình thường.Ngày 12 tháng 12 năm 1936, vì Tưởng Giới Thạch cứ khăng khăng làm theo ý mình, thực hành chính sách Cướp ngoài tất phải yên bên trong trước, đã ép quân Đông bắc và quân Tây bắc Tiễu cộng, vấp phải binh lính can gián của Trương Học Lương và Dương Hổ Thành, bị bắt giữ ở Tây An. Cho dù đến giờ phút như vậy, lão Tưởng vẫn còn ghi nhớ không quên lên mặt Lãnh tụ. Sự biến sáng sớm ngày hôm đó, khi các binh lính lùng soát tìm thấy Tưởng ẩn thân ở trong hang núi, họ dự định nổ súng. Tưởng sợ các binh lính bắn nên cao giọng hô to :- Tôi chính là Tưởng ẹy viên trưởng đây ! Khi Tưởng nhìn rõ các binh lính không muốn đòi mạng của Tưởng, lại nói :- Nếu các anh bắt tôi làm tù binh, thì có thể nổ súng giết chết tôi đi, thế nhưng không được làm nhục tôi! Khi được chuyển đến ở Đại lầu Tân thành, thái độ của Tưởng Giới Thạch quật cường ngang bướng, cự tuyệt nói chuyện với Trương học Lương, còn đem hành động binh gián của Trương và Dương gọi là phản nghịch. Sau đó trong cuộc tranh cãi với Trương Học Lương, khi Tưởng Giới Thạch nghe thấy Trương nói mình là quật cường ngang bướng như vậy đã bực tức hỏi vặn lại Trương Học Lương :- Thế nào là quật cường ngang bướng? Tên nhãi nhép ngươi thì bắt được cái gì? Ta đại biểu cho phẩm cách của 400 triệu người và khí chất của cả dân tộc Trung Hoa, nếu ngươi có cả gan, thì hãy lập tức nổ súng giết chết ta xem nào!Lúc này, Tưởng Giới Thạch bởi không hiểu rõ động cơ binh gián của Trương và Dương, đã vô cùng hoảng sợ hai vị tướng lĩnh này đòi mạng của mình, do đó vô cùng kinh hãi. Thế nhưng, Tưởng lại săn sóc tới thân phận, sĩ diện, vẻ ngoài cứng rắn, bên trong yếu mềm của Lãnh tụ, trên mặt xỉ vả, kiện cáo một chút cũng chẳng chịu thua. Tất cả những thứ này giống hệt như một con vịt đã được hầm chín - thịt nát nhưng mồm không nát! Trong suốt thời kỳ sự biến Tây An, Tưởng Giới Thạch hầu như đều biểu hiện ra loại thái độ này, ở nơi nào cũng tự coi mình là lãnh tụ, không chịu hạ cái bộ dạng ấy xuống, mọi sự vụ đàm phán, đều dựa vào anh em nhà họ Tống để điều hoà. Sau khi sự biến kết thúc, Tưởng đã về tới Nam kinh. Để lấy lại sĩ diện, Tưởng đặc biệt lấy lý do đối với cấp dưới quản thúc không nghiêm lập tức lại xin từ chức vụ Viện trưởng hành chính và ẹy viên trưởng ẹy ban quân sự rồi trao cho toà án quân sự xét xử Trương Học Lương. Để duy trì sự tôn nghiêm lãnh tụ của mình, thà ta phụ mọi người trong thiên hạ, chứ không để cho người trong thiên hạ phụ ta. Đó chính là tính cách của Tưởng Giới Thạch.Mặc dù lúc trẻ, Tưởng Giới Thạch cũng hút thuốc, uống rượu, chim gái, mọi thứ phong lưu đều đã hưởng thụ qua. Thế nhưng, từ sau khi làm lãnh tụ Trung hoa Dân quốc, Tưởng cũng bắt đầu chú ý tới ảnh hưởng. Đặc biệt là tháng 2 năm 1934, Tưởng Giới Thạch đã đề xuất ra cái gọi là Phong trào đời sống mới. Đồng thời với việc tuyên truyền Lễ nghĩa, liêm xỉ, kêu gọi quốc dân về phương diện ăn, mặc, ở, đi lại cần phải Chỉnh tề, sạch sẽ, đơn giản, chất phác, dùng thứ đó để phối hợp tuyên truyền chống cộng, lung lạc nhân tâm. Đề xướng Phong trào đời sống mới , kêu gọi Giản dị, chất phác, Tưởng Giới Thạch đã dẫn đầu làm trước. Tưởng không hút thuốc, không uống rượu, chỉ uống nước sôi trắng, mỗi bữa cơm cũng hết sức đơn giản. Nói chung, bữa cơm trưa, bữa cơm tối cũng chỉ một bữa mặn, một bữa chay. Khi chiêu đãi khách, cũng chỉ sơ lược thêm hai đĩa thức ăn,làm cho khách căn bản ăn chẳng được no. Hưởng thụ qua tiếp khách chiêu đãi của Tưởng, sau bữa ăn, chẳng hẹn mà ai cũng đều đem loại tiết kiệmnày của Tưởng liên hệ với sự keo kiệt ki bo của Kẻ bần tiện. Có khi ra ngoài, trước tiên Tưởng Giới Thạch đều dặn dò trước những tên lính hầu cận, không cho phép chúng đàn áp lăng nhục chính quyền địa phương. Một lần, hai vợ chồng Tưởng Giới Thạch tới Hàng Châu nghỉ ngơi, Hà Vân, Cục trưởng Công an tỉnh Triết giang phụ trách công tác cảnh vệ, để lấy lòng nhân viên ở bên cạnh Tưởng, đã bày yến tiệc riêng mời bọn sĩ quan hầu cận. Trong lúc mấy tên đang ăn uống nhậu nhẹt, lão Tưởng bước vào, dùng gậy ba-toong đập vỡ hết mọi bát đĩa, cốc chén thức ăn bày ở trên bàn, còn chửi rủa Hà Vân một trận, mới cho qua chuyện. Tưởng Giới Thạch cố tình trang điểm cho mình về phương diện sinh hoạt, không phải là không muốn xác lập ảnh hưởng lãnh tụ, để cho mọi người phải hoảng sợ mà bắt chước mình. Thế nhưng, mọi hiệu quả dẫn đến đâu? Trong cuốn sách Tưởng Giới Thạch mà tôi từng quen biết Phùng Ngọc Tường đã từng vạch trần : Kỳ thực, đời sống mới chỉ là điều nói để lừa người mà thôi.Ví dụ, đời sống mới không cho phép đánh bài, thế nhưng khi nghe thấy nói Tưởng Giới Thạch tới là đem bài mạt chược cất vào trong ngăn kéo. Lại như đời sống mới không cho phép ăn uống nhậu nhẹt, người bình thường ăn một mâm cơm tiêu tốn 8 đồng, các quan lớn ở bên cạnh Tưởng Giới Thạch ăn một mâm cơm tốn hết 60 đồng, thức ăn là yến sào, cá vây quí hiếm. Chẳng những các quan lớn xa xỉ như vậy, đàn bà, các nô tài của quan lớn cũng như vậy cả. Cuộc sống xa xỉ như vậy, chẳng phải là Tưởng Giới Thạch không biết. Tưởng biết rất rõ. Chỉ có điều là Tưởng không thể nói toạc ra, nói toạc ra thì Tưởng không thể lừa được mọi người.Về phương diện mặc, Tưởng Giới Thạch cũng rất chú ý tới thân phận của mình. Ngay từ khi nhận chức hiệu trưởng trường quân sự Hoàng Phố, để lưu lại những ấn tượng sâu sắc cho học sinh, mỗi ngày trước và sau giờ làm việc, Tưởng chỉ khoác chiếc áo chùm đầu không có tay màu đen, di đôi găng tay màu trắng, đôi ủng da đánh xi rất bóng, phía trước có một sĩ quan phụ tá đi mở đường, phía sau có 4 vệ sĩ hộ giá, nghiễm nhiên ra vẻ một thống soái. Về sau khi làm Tổng tư lệnh quân cách mạng quốc dân, ẹy viên trưởng ẹy ban quân sự và Tổng thống, Tưởng lại càng chú trọng tới cách ăn mặc của mình. Tham gia các hoạt động quân sự nói chung, tiếp kiến các tướng lĩnh, thị sát quân đội, vẫn luôn luôn dựa theo mô thức Hoàng Phố ngày trước. Khoác chiếc áo trùm đen, đeo găng tay trắng, đeo hàm tướng quân, đi ủng màu đen để tỏ ra khí phách quân nhân. Nếu dùng thân phận Tổng thống khi xuất hiện trong một số trường hợp, thì Tưởng thích mặc áo ngắn chăn ngựa, áo choàng dài theo kiểu truyền thống Trung Quốc để thích hợp với tập quán tâm lý của quốc dân.Có khi Tưởng còn khéo léo lợi dụng phục trang để hục hặc đả kích kẻ thù chính trị, nâng cao mình, cũng là đời sống tuyệt vời của Tưởng. Tháng 3 năm 1948, Quốc dân đảng trù bị triệu tập Quốc dân Đại hội, bắt đầu tiến hành tuyển cử, bầu ra Tổng thống và Phó tổng thống. Tưởng Giới Thạch thao túng công tác trù bị của Quốc dân Đại hội, hy vọng bầu Tôn Khoa đảm nhiệm chức Phó tổng thống để đạt được mục đích bài xích các phái khác trong Quốc dân đảng. Thế nhưng, thủ lĩnh phái Quảng Tây Lý Tông Nhân không để ý đến trò bày đặt của Tưởng, được sự giúp đỡ của người Mỹ bắt Lý phải ra tham dự tranh cử, mưu cướp lấy chiếc ghế Phó tổng thống. Sau khi trải qua một cuộc bàn tính vụng trộm, quả nhiên Lý Tông Nhân đã trúng cử Phó tổng thống. Tưởng nhìn thấy chủ trương của mình bị trở ngại, Lý Tông Nhân thì vênh vênh tự đắc, bỗng bừng bừng nổi giận chuẩn bị chơi cho Lý Tông Nhân một vố ở trong buổi lễ nhậm chức. Trước lễ nhậm chức một hôm, vị Phó tổng thống mặt đầy hí hửng tới thỉnh thị Tổng thống Tưởng Giới Thạch, hỏi han Tưởng xem tham dự buổi lễ thì mặc quần áo nào. Trước tiên Tưởng bảo Lý ăn mặc âu phục, sau lại thông tri cho Lý ăn mặc quân phục, làm cho Lý không còn hiểu ra sao, đành cứ phải làm theo. Kết quả, ngày hôm sau, khi bắt đầu buổi lễ, Tổng thống Tưởng Giới Thạch mặc áo bào dài, tỏ ra tư thái của bậc trưởng giả, còn Phó tổng thống Lý Tông Nhân thì mặc quân phục là nếp thẳng đứng, từng bước cứ đi theo đằng sau lưng Tưởng Giới Thạch, tỏ ra vô cùng quá khép nép, giống hệt như tên lính cận vệ ở bên cạnh Tổng thống vậy. Nói thực ra thì lão Tưởng giở ngón chơi này ra có thể nói là mưu già tính kỹ. Thân mặc áo choàng dài, trang điểm mình thành một vị trưởng giả nho nhã, đôn hậu mang truyền thống Trung Quốc. Điều này đối với dư luận trong và ngoài nước cùng với tâm lý dân chúng đều tương đối dễ dàng tiếp nhận. Còn Lý Tông Nhân thân mặc quân phục, hoàn toàn không phù hợp với không khí lễ nhậm chức Tổng thống. Điều này trên thực tế có ý ngầm nói rằng, chức vụ Phó tổng thống này sở dĩ giành được là do dựa vào báng súng của Quảng Tây. ở trước mặt đông đảo quần chúng như thế này , Lý Tông Nhân vô cùng bực bội, rõ ràng Tưởng Giới Thạch lấy địa vị Nguyên thủ tôn kính cuả một nước để diễu cợt Lý, làm cho Lý càng giận dữ đành phải câm lặng như ngậm hoàng liên.Nghĩ lại năm xưa, khi Tưởng Giới Thạch theo đuổi cuộc cách mạng của Tôn Trung Sơn, cũng đã từng nói dõng dạc đầy lý lẽ phản đối chuyên chế chủ nghĩa và sùng bái cá nhân. Đương nhiên, chỉ sau một thời gian, khi mình cũng trở thànhlãnh tụ thì Tưởng đã ra sao ? Chẳng những đã tiến hành mạnh mẽ kiểu chuyên chế độc tài, duy ngã độc tôn; hơn thế, trong cách ăn ở đi đứng cùng với nói năng cử chỉ đều cố ý b iểu hiện phong độ và địa vị lãnh tụ của mình, thể hiện ra sự tôn nghiêm của Nguyên thủ. Bệnh Nghiện lãnh tụ của Tưởng có thể nói thật là lớn lao !
Phần 8
Chương 6
Tác phong chính khách : nuốt lời lật lọng
Nguồn: Mọt sách
Thu gọn nội dung
Vào những năm 80, ở Đài Loan từng xuất bản cuốn sách Tính cách chính trị của cha con Tưởng Giới Thạch trong cuốn sách đó đã bình giá Tưởng Giới Thạch như sau:Ông Tưởng dựa vào vũ lực và quân đội, đã trở thành kẻ mạnh ở trong Đảng. Lúc đó, các trọng thần nguyên lão Quốc dân đảng có rất nhiều, tả có Uông Tinh Vệ, hữu có Hồ Hán Dân, nói về danh tiếng và sự từng trải, ông Tưởng đều kém họ rất xa. Trong Chính phủ Quốc dân thời kỳ đầu, địa vị của ông Tưởng cũng không cao, thế nhưng theo đà cuộc đấu tranh ác liệt giữa Bắc phạt và trong Đảng, địa vị của ông Tưởng đã dần dần được nâng cao. Ông là tư lệnh quân đội Quốc dân đảng, là hiệu trưởng trường quân đội, trong những cục diện hỗn loạn đó, vũ lực là hậu thuẫn lớn nhất, học sinh Hoàng Phố là đồng vốn để ông đánh dẹp thiên hạ.Đó là một thời đại lớn bão to sóng cả, thời thế tạo anh hùng. Thời kỳ đầu, các nguyên lão trong Quốc dân đảng đều đánh giá thấp Tưởng Giới Thạch, cho rằng ông ta chẳng qua chỉ là một kẻ vũ phu không có học vấn cao sâu, chẳng có giáo dưỡng tốt đẹp, không có khẩu khiếu tài năng đặc biệt, chẳng có năng lực chính trị. Về sau, ông ta ngoài việc phát hiện ra sự gan dạ và hiểu biết của mình về mặt quân sự ra, trên mặt chính trị cũng đã bắt đầu biểu hiện ra năng lực về phương diện tổ chức mưu lược. Tức thì những đối thủ chính trị của ông đã phê phán ông nhiều mưu kế, thạo quyền thuật, ngấm ngầm độc tài. Bất luận như thế nào, trong dòng thác lũ lèo lá lật lọng của quân nhân và chính khách, ông Tưởng vẫn có hạt nhân riêng của mình, đặt sách lược kế hoạch mở rộng thế lực của mình. Sau sự biến Tây An nguy nan giữa sống và chết, ông Tưởng đã biến thành lãnh tụ quốc gia được triều đình và dân chúng công nhận.Cuốn sách này tuy không thiếu những ngôn từ đẹp đẽ, thế nhưng trong ngôn ngữ cũng đã ít hoặc nhiều nói ra những điểm già dơ thâm hiểm của những trò chơi quyền thuật trong đấu tranh chính trị của Tưởng Giới Thạch. Chẳng trách một số võ nhân và chính khách trong Quốc dân đảng, sau khi đấu phép với Tưởng Giới Thạch bị thất bại đã xôn xao than vãn rằng: Tưởng Giới Thạch là một kẻ thành công hoàn hảo có tất cả những thủ đoạn quyền thuật của chính khách và quân phiệt từ thời Dân quốc tới nay.Vậy thì, những thuật quyền mưu mà Tưởng Giới Thạch đánh bại kẻ thù chính trị và đối thủ của mình là những gì ? Kỳ thực, mục đích quan trọng của thuật quyền mưu chính là một trong những đặc trưng điển hình trong tính cách hành vi của Tưởng, đó là: gian ngoa xảo xá, nuốt lời lật lọng, không giữ chữ tín.Cuối năm 1926, Tưởng Giới Thạch bắc phạt tiến sâu vào biên giới tỉnh Giang Tây, đã bắt đầu dự tính xây dựng cơ đồ khác ở Trong Quốc dân đảng, lập nên chính quyền của riêng mình. Để lôi kéo Nhật Bản, thoát khỏi Liên Xô, trong tháng 11, Tưởng đã cử Đới Qúy Đào sang Nhật, tìm cầu sự ủng hộ của Nhật Bản đối với chính quyền Tưởng. Trải qua nhiều lần mật đàm, giữa Tưởng và Thiên Hoàng đã thỏa thuận một hiệp nghị bí mật : Sau khi chiếm lĩnh vùng đông nam Trung Quốc, Tưởng bắt đầu Thanh cộng ở trong Quốc dân đảng, sau đó tiếp tục Bắc phạt, thống nhất khu vực phía nam trường thành. Còn Thiên Hoàng, sẽ tiến hành ủng hộ hành động này của Tưởng Giới Thạch, với điều kiện trao đổi là : Nhật Bản được hưởng quyền khống chế đối với các vùng đất phía bắc Trường thành, Đông bắc Mông Cổ v.v. Thế nhưng, họ Tưởng sau khi xây dựng chính quyền, đã không đem Đông Bắc chắp tay trao cho Nhật Bản. Hơn thế, Trương Học Lương trẻ khỏe yêu nước, cũng không chịu nhận sự sắp đặt của Nhật, cuối cùng ngày 29 tháng 12 năm 1928 đã quy phục Chính phủ quốc dân. Sau khi Đông Bắc đổi cờ, Nhật Bản yêu cầu thực thi mật ước, Tưởng liền mời đoàn đại biểu phía Nhật đem bản mật ước tới để đàm phán. Tháng 10 năm 1929, đại sứ Nhật đem mật ước tới Hoa đàm phán, Tưởng sai người chuốc rượu cho say mèm ở trên xe sau đó lấy cắp bản mật ước tiêu hủy. Sứ Nhật bị mất mật ước không còn cách gì để bàn giao nữa, sau khi về nước đã phải tự sát, còn Thiên Hoàng Nhật Bản có miệng cũng khó nói ra lời. Sau sự biến 18-9, thiếu tướng đại đặc vụ Nhật Bản Doihara Futa đã phẫn nộ bất bình nói Tưởng là kẻ qúa vô tín nghĩa với Lý Tông Nhân. Khi Lý hỏi tường tận sự việc, Doihara lại giữ kín miệng bình, giấu kín rất chặt. Kỳ thực cái gọi là bản mật ước chẳng qua chỉ là một cái kế biến ứng của Tưởng Giới Thạch mà thôi. Hễ Tưởng ngồi được vững vàng trên giang sơn rồi thì sự việc đó còn có ý nghĩa gì nữa. Lẽ dĩ nhiên, người viết cuốn sách này tại đây, không đứng trên lập trường của đế quốc Nhật Bản để có ý khiển trách Tưởng không giữ đến tín nghĩa, mà chỉ lấy sự việc này để chứng minh điều lật lọng, không giữ chữ tín của Tưởng Giới Thạch mà thôi.Khảo sát đời sống chính trị thời kỳ đầu của Tưởng Giới Thạch, người ta không khó phát hiện, sự tiến vọt mau chóng về địa vị trong Quốc dân đảng của Tưởng có liên quan tới lập trường tả khuynh của ông ta. Năm 1924, Quốc dân đảng triệu tập Đại hội đại biểu trong toàn quốc lần thứ nhất, Tôn Trung Sơn thực hành ba chính sách lớn Liên Nga, Liên Cộng, phù trợ công nông, được sự giúp đỡ của những người Cộng sản, hình thế cách mạng được phát triển rất rầm rộ. Lúc này, trong tâm Tưởng Giới Thạch hiểu rõ, nếu muốn giành được sự nể trọng của các lãnh tụ Quốc dân đảng như Tôn Trung Sơn, Liêu Xung Khải v.v. thì cần phải thể hiện tả một chút. Do đó, Tưởng đã lợi dụng địa vị hiệu trưởng trường quân sự Hoàng Phố, nói rùm beng về cái gọi là bắt chước Liên xô và tán đồng với ngôn luận của Đảng Cộng Sản. Ngày 9 tháng 4 năm 1925, sau cuộc Đông chinh lần thứ nhất, Tưởng Giới Thạch đã huấn thị đối với các học viên, nói đại nào là chúng ta muốn Đảng thành công, chủ nghĩa thực hiện, nhất định phải bắt chước biện pháp của Đảng cộng sản nước Nga, mới có thể khiến cho mọi người biết được trách nhiệm và bổn phận làm đảng viên. Ngày 13 tháng 9 cùng năm, trên Đại hội bầu cử ẹy ban chấp hành khóa 3 Đảng bộ đặc biệt của trường quân sự Hoàng Phố, Tưởng nhằm thẳng vào tình hình quốc cộng hợp tác lúc đó,nói : Chúng ta cần phải hiểu rõ khẩu hiệu Chống Cộng sản này là do bọn đế quốc dùng để làm trúng thương chúng ta. Nếu chúng ta cũng đề xướng theo khẩu hiệu chống cộng sản này, điều đó chẳng phải là đã trúng phải độc kế của bọn đế quốc hay sao ? ... Thủ tướng dung nạp cộng sản gia nhập Đảng ta, là muốn đoàn kết những phần tử cách mạng. Nếu chúng ta phản đối chủ trương này, thì chính là muốn giải tán đoàn thể cách mạng, há chẳng phải là kẻ có tội với Đảng cách mạng hay sao? ... ý nghĩ của cá nhân tôi, Quốc dân đảng chúng ta, hiện tại chỉ có phái tả và phái hữu, không thể có cộng sản Đảng và phi cộng sản Đảng, càng không thể có Quốc dân đảng và Cộng sản Đảng. Nếu những đảng viên Quốc dân đảng có loại kiến giải này, điều đó chẳng khác gì tước bỏ, làm yếu nguyên khí cách mạng của mình. Từ những ngôn luận này mà xét, Tưởng Giới Thạch qủa thật có thể gọi là phái tả ở trong Quốc dân đảng. Tưởng đã khiêm tốn thận trọng lại thân Xô, thân Cộng, cộng thêm việc chỉ huy học sinh Hoàng Phố Đông chinh, quân công hiển hách, cuối cùng đã giành được tình cảm tốt đẹp của các nhân sĩ lãnh đạo Quốc dân đảng và cố vấn Bôrôtin Liên Xô. Và thế là, cánh cửa lớn của ẹy ban Trung Ương Quốc dân đảng liền được mở rộng đón Tưởng vào tháng 1 năm 1926, Quốc dân đảng triệu tập Đại hội đại biểu lần thứ hai. Trong hội nghị này, Tưởng Giới Thạch được bầu làm ủy viên thường vụ ẹy ban chấp hành trung ương, bước sâu vào hạt nhân lãnh đạo trung ương Quốc dân đảng.Sau khi bước vào hạt nhân lãnh đạo Trung ương Quốc dân đảng, Tưởng Giới Thạch liền bắt đầu đả kích kẻ đối địch về chính trị, bài xích người khác cánh. Muợn hung thủ truy soát vụ án Liên Xung Khải bị đâm chết và đứng ở hậu đài, Tưởng Giới Thạch đã đuổi cút nguyên lão Quốc dân đảng Hồ Hán Dân. Ngày 20 tháng 3 năm 1926, Tưởng lại một tay nã pháo tạo ra Sự kiện hạm Trung Sơn bắt giữ Lý Chi Long, người của Cộng sản bao vây nơi ở của Đoàn cố vấn Liên xô và tiến hành hạn chế đối với những người cộng sản. Ngày 16 tháng 4, trong hội nghị liên tịch giữa Đảng bộ Trung ương với chính phủ Quốc dân, Tưởng Giới Thạch đã được bầu làm Chủ tịch ủy bản quân sự chính phủ quốc dân. Ngày 16 tháng 5, trong Hội nghị lần thứ hai ẹy ban chấp hành trung ương mà Tưởng Giới Thạch làm Chủ tịch lại thông qua Dự án chỉnh lý Đảng vụ, dấn sâu thêm một bước tiến hành bài xích và hạn chế đối với những người cộng sản. Trong thời gian chưa đầy một năm. Tưởng Giới Thạch đồng thời với việc cao hô khẩu hiệu Cách mạng đã đuổi cút các nguyên lão Quốc dân đảng như Hồ Hán Dân, Uông Tinh Vệ v.v. đối với Đảng cộng sản thì từng bước o ép chặt chẽ, hạn chế ở mọi nơi, cuối cùng đã đạt được mục đích bản thân mình độc chiếm đại quyền. Đối với trò bịp nuốt lời lật lọng, sớm Tần tối Sở của Tưởng Giới Thạch, Lý Tông Nhân lão đối thủ của Tưởng đã nhìn rất rõ ràng chính xác: thủ pháp lúc tả, lúc hữu như vậy, không phải là do thay đổi quan điểm chính trị, trên thực tế, đây chỉ là quyền thuật của cá nhân ông ta, với tư thái thực thực hư hư, bài trừ kẻ khác cánh, để đạt tới mục đích độc tài của cá nhân ông ta ![1].Cuộc chính biến 12 - 4 vào tháng 4 năm 1927, chính là màn biểu diễn kiệt suất nhất loại chính trị lưu manh chống cộng này của Tưởng Giới Thạch. Hạ tuần tháng 3 năm 1927 Tưởng Giới Thạch đang ở Thượng Hải rùm beng ầm ỹ trù liệu kế hoạch Thanh cộng nhưng ngoài mặt lại viết hàng loạt văn chương thân cộng.Đối mặt với nguy cơ chưa từng thấy của Quốc Cộng hợp tác, sự tấn công nguy hiểm của phải hữu Quốc dân đảng, Tưởng đã phát biểu bài nói chuyện trên báo chí cho rằng Giữa hai phái tả hữu tuy hơi có khác biệt nhau một chút trên mặt chính kiến, nhưng vẫn làm việc vì một mục đích đều quy về phúc lợi của Đảng quốc. Khi các đại biểu công nhân Thượng Hải yêu cầu Tưởng Giới Thạch làm rõ tin tức đối với việc quân đội tịch thu súng của đội trật tự công nhân, Tưởng biểu lộ: Đội trật tự vốn nên có vũ trang, tuyệt đối không có lí tịch thu khí giới, nếu có người nào có ý muốn tước khí giới, tôi có thể bảo đảm không được tước một khẩu súng nào. (Thời báo ngày 9 tháng 4 năm 1927). Ngày mồng 6 tháng 4 Tưởng Giới Thạch còn đặc biệt cử đội quân nhạc đưa tới cho đội trật tự công nhâm một tấm biển đề Cùng chung phấn đấu, để biểu thị ý kính trọng đối với đội trật tự của công nhân Thượng Hải. Thế nhưng, năm ngày sau, Tưởng liền phát động cuộc chính biến phản cách mạng. Trong cuộc tàn sát Thanh Đảng đẫm máu, Tưởng Giới Thạch nói với cấp dưới là Dương Hổ, Trần Quân: Phàm kẻ nào có thể giết thì nhất loạt giết chết hết, thà có thể giết sai, chứ không được thả sai.Thủ đoạn úp tay thành mưa, ngửa tay thành gió này của Tưởng Giới Thạch, chẳng những dùng để đối phó với Đảng cộng sản mà còn dùng để đối phó với phái thực lực địa phương phản đối bản thân Tưởng nữa. Tháng 8 năm 1928, sau khi Tưởng Giới Thạch ra nhậm chức chủ tịch Chính phủ quốc dân Nam Kinh, để tăng cường quyền lực cá nhân Tưởng đã tước bỏ phụ thuộc cắt giảm quân số. Trong việc cắt giảm quân số, do vì thân sơ chênh lệch qúa lớn, rất không công bằng đã dẫn tới một số thực lực phái địa phương chống lại Tưởng. Tháng 3 năm 1929, bộ tướng Lý Tông Nhân thuộc Quảng Tây trước hết gọi diện chống lại Tưởng, thế là cuộc chiến tranh Tưởng Quế bùng nổ. Đối với loại chiến tranh này, Tưởng Giới Thạch quen sử dụng thủ pháp viễn giao cận công và mua chuộc. Khi chiến tranh bắt đầu, Tưởng đã lừa dối được Phùng Ngọc Tường tham gia chống lại Quế (Quảng tây), liền hứa cho Phùng các địa bàn Hồ Bắc, Sơn Đông v.v. để thúc đẩy Phùng tham chiến. Đồng thời, Tưởng lại dùng vàng bạc mua chuộc các tướng lĩnh quan trọng trong quân đội Quế hệ để phản chiến, nhanh chóng đập tan được quân đội Quế hệ. Sau sự việc, Tưởng Giới Thạch lại lấy danh nghĩa quân đội Phùng Ngọc Tường chưa tham chiến không thực hiện hiệp ước trước. Phùng bị qủa lừa vô cùng bực tức đã chửi rủa Tưởng Giới Thạch là lời nói không giữ chữ tín, rồi chiếm cứ Tây Bắc, chuẩn bị chống lại Tưởng. Giữa lúc Phùng Tưởng đang tuốt kiếm giương cung, các bộ tướng của Phùng là Hàn Phúc Củ, Thạch Hữu Tam, Mã Hồng Qùy v.v. đã bị Tưởng dùng tiền mua chuộc đã đánh điện chống Phùng ủng hộ Tưởng, làm cho Phùng Ngọc Tường không còn biết xoay sở ra sao. Sau đó, Tưởng Giới Thạch lại hạ lệnh tấn công đánh mạnh Phùng Ngọc Tường. Đồng thời với việc thực thi đả kích, Tưởng lại đem chức vụ sĩ quan tư lệnh trưởng biên phòng Tây Bắc của Phùng ủy nhiệm cho Diêm Tích Sơn, dùng nó để ly gián quan hệ giữa Phùng và Diêm. Diêm Tích Sơn thấy chức quan là trợn tròn mắt vội vàng muốn thu thập biên chế quân đội Phùng, lập tức bắt giữ Phùng Ngọc Tường trong chuyến đi thăm Tấn (Sơn tây). Tưởng Giới Thạch đã dùng thủ đoạn lối kéo và chia rẽ như vậy ở giữa các lộ quân phiệt, hết sức lợi dụng mâu thuẫn giữa các phe phái và tâm lý tham tiền tài, quan chức và địa bàn của chúng, dùng quan lộc dụ dỗ, cuối cùng đánh phá lẫn nhau, Tưởng đã chia ra để cai trị. Tới lúc đó bọn Diêm Tích Sơn, Phùng Ngọc Tường, Lý Tông Nhân v.v...mới như bừng tỉnh cơn ác mộng. Những ngân phiếu khống mà Tưởng Giới Thạch lễ tạ cho họ cũng như vậy, chẳng đổi ra được tiền mặt, còn họ thì lại trở thành vật ở trong túi Tưởng Giới Thạch.Trong thời kỳ chiến tranh chống Nhật, trong thời điểm quan trọng mấu chốt giữa sự sinh tử tồn vong của dân tộc Trung Hoa, Tưởng Giới Thạch thân làm Lãnh tụ quốc gia, trong việc lãnh đạo quốc dân kháng chiến, cũng không quên che đậy sai trái, chơi trò quyền thuật. Tháng 5 năm 1938, sau khi Từ Châu bị hãm, quân đội Quốc dân đảng hốt hoảng rút lui, thất bại như núi đổ, bộ thống soái quân Quốc dân đảng đã không còn cách gì tổ chức phòng ngự có hiệu quả khu vựcTrung nguyên. Đối mặt với việc quân Nhật có khả năng men theo đường Lũng Hải tiến về phía tây, bao vây Vũ Hán. Với nguy hiểm của việc quân Nhật tập hợp ở Đông Bắc, Tưởng Giới Thạch vội vàng quyết định cho nổ mìn phá vỡ đê Hoàng Hà ở cửa Hoa viên Hoa Nam, nước Hoàng Hà đổ xuống sẽ làm trở ngại tới việc Tây tiến của quân Nhật ở Từ Châu. Ngày 9 tháng 6 quân Quốc dân đảng nổ mìn phá đê ở cửa Hoa viên Hoàng Hà khiến cho nước sông cuồn cuộn phá đê mà đổ ra, nhất thời nước lụt mênh mông, ven bờ sông Hoàng bỗng chốc biến thành ngập lụt tới ngàn dặm, tạo thành cảnh mấy trăm vạn mẫu hoa mầu bị phá hủy, mấy chục vạn dân chúng sống cảnh lưu lạc không còn chỗ ở. Đối mặt với điều đại nghiệt như vậy do bản thân mình gây ra, Tưởng Giới Thạch không dám thừa nhận trách nhiệm, liền đem sự việc này đổ lên đầu quân Nhật, lu loa lên rằng vỡ đê ở cửa Hoa Viên là do giặc Nhật gây ra, thật là hoang đường quá đáng. Quân Nhật nôn nóng muốn cướp lấy Vũ Hán, vì sao lại tháo nước làm ngập đường đi của mình. Trên thực tế, lần này thủy tai mà tự tay lão Tưởng đạo diễn vẫn chưa đạt tới mục đích cản trở việc Tây Tiến của kẻ địch trên mặt chiến lược. Sau 4 tháng, Vũ Hán mới bị chiếm đóng.Sau sự kiện phóng thủy ở cửa Hoa Viên không lâu, Tưởng Giới Thạch lại tiến hành một lần biểu diễn phóng hỏa rất ác liệt. Sau khi Vũ Hán thất thủ, Tưởng thấy việc Phóng thủy không linh, liền lại tâm sinh kế hiểm, nghĩ ra một chính sách tiêu thổ kháng chiến. Ngày 12 tháng 11 Tưởng Giới Thạch hạ lệnh cho Lâm Uý chủ nhiệm phụ trách hầu cận gọi điện thoại cho Chủ tịch Chính phủ tỉnh Hồ Nam, yêu cầu nhà đương cục Hồ Nam thực hiện chính sách tiêu thổ, đốt cháy Trường Sa. Sau đó, Trường sa đã biến thành đống tro tàn trong những ngọn lửa khổng lồ cháy rừng rực. Sau khi Trường Sa bị thiêu hủy, quân Nhật vẫn chưa chiếm được thành này, còn thị dân vùng đó thì thây chết ngổn ngang, tổn thất thảm hại nặng nề. Sự việc này đã dẫn tới cả triều đình và dân chúng kinh sợ, dân oán ngút trời. Tưởng Giới Thạch lại vội vã phủ nhận việc mình hạ mệnh lệnh, rồi đem viên tư lệnh cảnh vệ Trường Sa là Phong Đễ làm con cừu thế tội đẩy ra bắn chết cho qua chuyện.Các văn thần võ tướng dưới trướng Tưởng Giới Thạch, đối với những thủ đoạn theo kiểu phản phúc vô thường, nói lời không giữ chữ tín, lật lọng tráo trở, giá hoạ cho người khác của ông ta không ai là không giật mình kinh sợ. Tạm thời không nói tới những nhân vật nhỏ bé không đáng đếm xỉa như kiểu Phong Đễ tư lệnh cảnh vệ Trường Sa thường làm những con ma chết oan uổng cho Tưởng, mà ngay cả đến những đại sứ được phong biên cương của chính phủ quốc dân, Lý Tông Nhân đã từng kết nghĩa anh em Kim Lan với Tưởng và Phùng Ngọc Tường, Trương Học Lương từng vái làm huynh đệ cũng thường bị Tưởng chơi xỏ. Họ tiếp xúc với Tưởng, cũng đều có cảm giác phải thận trọng như bước trên lớp băng mỏng, như ngồi trên thảm kim chơi với ông ta như chơi với hổ. Sau sự biến ngày 18-9 Trương Học Lương nhét ở trong bọc bức mật điện bất để kháng của Tưởng, cõng trên lưng mình một tên bị chửi là Tướng quân bất để kháng, chịu tội thay cho Tưởng, cuối cùng đã Vô sinh oanh liệt, thân trong tù tội, uổng phí cả cuộc đời. Còn Phùng Ngọc Tường được Tưởng tôn làm Đại Ca, cuối cùng đã phải đập bàn đứng dậy chửi thẳng vào cái giả dối, gian trá nói lời không giữ tín nghĩa của Tưởng Giới Thạch. Thà ta chịu phụ người trong thiên hạ, chứ không chịu để cho người trong thiên hạ phụ ta. Đây chính là bức vẽ truyền thần chân thực về tính cách lưu manh trong cuộc đấu tranh chính trị của Tưởng Giới Thạch.
------------------------
[1] Lý Nhân Tông hồi ức lục quyển thượng, trang 426
Phần 8
Chương 7
Bụng dạ hẹp hòi, nhỏ nhen tin tiện và giận dữ tất sẽ trả thù
Nguồn: Mọt sách
Thu gọn nội dung
Những người đã lật mở xem qua những ghi chép hồi ức do một số nhân vật cao cấp vốn ở trong chính quyền Quốc dân đảng viết ra, đều không khó phát hiện một đặc điểm chung trong số sách này, đó là: Đối với tính cách trắng trợn đa nghi, bụng dạ hẹp hòi, giận dữ tất sẽ trả thù của Tưởng Giới Thạch có cảm thán khá sâu sắc. Chẳng riêng gì Tưởng Giới Thạch như vậy, mà mọi tên độc tài khác đều có bệnh chung như vậy cả, chỉ có điều là mức độ không giống nhau mà thôi.Nhìn từ trên mặt lý luận, các nhà tâm lý học coi những đặc điểm hành vi có khuynh hướng mang tính chất nhất trí trong những tình cảnh khác nhau của con người gọi là nhân cách, tức là tổng cộng những đặc trưng tính cách, năng lực và khí chất v.v..của một người. Nó do rất nhiều đặc điểm tâm lý cá biệt của con người tức là đặc chất tổ thành. Những đặc chất này ở vào những tổ hợp khác nhau trong nhân cách cá thể đã cấu thành những cá tính khác biệt giữa người và người. Đặc chất có sự phân biệt ra đặc chất bề ngoài và đặc chất căn nguyên. Đặc chất căn nguyên là nguồn gốc cuối cùng dẫn tới hành vi của con người. Nó được bao quát ở rất nhiều mặt, tâm dạ hẹp hòi và tính hoài nghi là một trong số đó. Những biệt loại khác nhau của đặc chất căn nguyên mà mỗi người đều có, thế nhưng mức độ lớn nhỏ mạnh yếu có khác nhau. Nếu dùng tính điểm cao thấp để so sánh thì đặc chất căn nguyên của tính hoài nghi được giá trị điểm càng thấp, thì tính tình của con người càng hiền lành dễ gần, biểu hiện ra đặc trưng dễ hòa thuận gần gũi với mọi người. Người được giá trị điểm cao thì ngược lại, luôn luôn có tâm dạ hẹp hòi, đố kỵ đa nghi, ngang ngạnh bướng bỉnh, khó tin tưởng được bất kỳ ai. Trên mặt tâm lý học thống kê, thì Tưởng Giới Thạch thuộc vào loại người có giá trị điểm tương đối cao.Trong đời sống chính trị suốt đời Tưởng Giới Thạch, những đặc trưng tính cách hẹp hòi, đa nghi, trước tiên được biểu hiện ở trên vấn đề dùng người. Ngay từ thời kỳ ở Hoàng Phố, loại bẩm tính này của Tưởng đã lộ ra đầu mối. Năm 1943, trong bài viết Quan hệ đối với Quốc dân đảng từ năm 1924 đến năm 1926, đối với phương pháp dùng người của Tưởng, Chu Ân Lai đã có sự tổng kết quan trọng. Chu Ân Lai đã chỉ ra: Lúc đó trường quân sự Hoàng Phố có gần 600 học sinh, đại bộ phận là thanh niên tả khuynh tới từ những hoạt động bí mật trong tổ chức Đảng các tỉnh.Trong số đó đảng viên, đoàn viên chiếm tới năm sáu chục người, chiếm một phần mười số học sinh. Đối với số người này Tưởng Giới Thạch rất đề phòng và hạn chế. Tưởng đã để cho Vương Bá Linh, một con người rất vô liêm sỉ phụ trách huấn luyện, giáo dục, năng lực chính của một con người để Tưởng sử dụng đó là nô tài. Đối với Đặng Diễn Đạt có tính ương bướng lại không muốn làm nô tài, thì Tưởng không dùng. Đối với Hà ứng Khâm, con người này là nô tài thứ hai, đã được Vương Bá Linh giới thiệu thì Tưởng vô cùng tin tưởng. Các đội trưởng trong trường quân sự Hoàng Phố đều là người thân tín của Tưởng. Có một lần tôi cử mấy người phái tả làm đội trưởng, Tưởng tỏ ra không bằng lòng đã hủy bỏ sự ủy nhiệm đó. Phương pháp dùng người của Tưởng là tạo ra mâu thuẫn, lợi dụng mâu thuẫn, thao túng mâu thuẫn; dùng một tên phản động quản lý một người tiến bộ, cử một tên chống phái tả kiềm chế một người phái tả, dùng một tên chống cộng kiềm chế những người tin tưởng Đảng Cộng Sản.Mọi người có thể sẽ cảm thấy, đó là thời kỳ đặc biệt Quốc Cộng hợp tác, trên những cơ sở khác nhau về đảng phái và tín ngưỡng chủ nghĩa, phải dùng tới hạ sách này cũng là điều khả dĩ. Kỳ thực, cách nghĩ như thế này là sai lầm lớn trên vấn đề dùng người, những trò láu cá này mà Tưởng Giới Thạch làm, vô luận là cộng sản Đảng hay Quốc dân đảng đều không có gì khác biệt. Ngày 11 tháng 1 năm 1938, Tưởng Giới Thạch triệu tập hội nghị các tướng lĩnh phương Bắc tại Khai Phong Hà Nam, rồi trong hội nghị đã lừa bắt Hàn Phúc Củ, chủ tịch chính phủ Sơn Đông của Quốc dân đảng, phó tư lệnh chiến khu 5 kiêm tổng tư lệnh tập đoàn quân thứ 3. Sau nửa tháng, Hàn Phúc Củ đã bị giết ở Hán Khẩu. Lý do công khai xử quyết Hàn Phúc Củ là: Hàn là Trưởng quan hành chính tối cao địa phương và là tướng lĩnh cao cấp trong quân đội, đứng trước sự tấn công của quân Nhật, không suy nghĩ cách kháng chiến giữ đất, chỉ chăm chú bảo tồn thực lực, tự tiện rút lui. Lẽ dĩ nhiên, Hàn là chủ tịch một tỉnh và tư lệnh tập đoàn quân, không lo lắng tới sự an nguy của dân tộc, vì để bảo tồn thực lực, đã dâng cả đất nước rộng lớn cho giặc Nhật, theo lý nên phải trừng trị. Thế nhưng, lúc đó đứng trước quân Nhật, các tướng lĩnh cao cấp Quốc dân đảng chưa đánh đã tan đâu chỉ có một mình Hàn Phúc Củ. Lưu Ký, Thang Ân Bá v.v..đều là những tay cừ về chạy trốn cả. Chính là đồng thời với lúc Tưởng Giới Thạch bắt giam Hàn Phúc Củ, Lưu Kỳ cũng vừa bỏ mất Bảo Định, Thạch Gia Trang, bỏ chạy xuống phía nam, giống như chim sợ cung nỏ vậy. Thế mà những tướng lĩnh đích hệ của Tưởng lại không bị xử quyết, trái lại còn được phúc tinh cao chiếu, liên tục thăng quan. Kỳ thực, nguyên nhân chủ yếu nhất để Tưởng quyết tâm xử tử Hàn Phúc Củ chính là: Con người này không phải là đích hệ của Tưởng, suốt thời gian dài ngang tàng không thuần phục, từng nhiều lần liên hợp với các phe phái thực lực địa phương khác dự mưu lật đổ Tưởng. Do đó, Tưởng Giới Thạch công khai trả thù riêng đem Hàn ra khai đao xử quyết.Tưởng Giới Thạch đối với võ tướng như vậy, đối với văn thần cũng chẳng lệ ngoại. Ngày 30 tháng 10 năm 1952 là sinh nhật Tưởng Giới Thạch 65 tuổi. Ngày hôm đó, vợ chồng Tưởng Giới Thạch rời Đài Bắc tới biệt thự Thảo Sơn ở ngoại ô tị thọ, đặc biệt mời vợ chồng Chủ tịch tỉnh Đài Loan là Ngô Quốc Chinh lên núi ăn bữa cơm tối, còn thân thiết lưu giữ Ngô qua đêm ở trên núi. Ngày hôm sau, vợ chồng Ngô Quốc Chinh cáo từ ra về. Ngồi xe trên đường trở về, do một nguyên nhân ngẫu nhiên, người lái xe đột nhiên phát hiện trong 4 chiếc bánh xe thì có tới 3 chiếc bị tháo hết đinh ốc, bỗng hoảng sợ mặt tái mét. Nếu không phát hiện ra sớm, khẳng định những người ngồi xe khó tránh khỏi chết oan. Lúc này, Ngô Quốc Chinh mới sực tỉnh giấc mộng, hiểu ra rẳng Tưởng Giới Thạch muốn đòi mạng mình! Từ trước đến nay, Ngô Quốc Chinh được Tưởng trọng dụng, là một trọng thần tâm phúc, từng làm phó bộ trưởng bộ Trung tuyền Quốc dân đảng, thị trưởng Hán Khẩu, Trùng Khánh và Thượng Hải. Sau khi Quốc dân đảng chạy ra Đài Loan, Lão Tưởng lại đem quyền quản lý một tỉnh duy nhất còn lại của chính phủ quốc dân trao cho Ngô Quốc Chinh, có thể nhìn thấy mức độ trung thành của Ngô đối với Tưởng và sự tín nhiệm của Tưởng đối với Ngô như thế nào. Thế nhưng, những biểu hiện của Ngô Quốc Chinh không phải là Ngu Trung - trung thành ngu xuẩn theo kiểu vâng dạ, mà là sự trung thành kiểm thảo thất bại, khuyên can thẳng thắn, những mong đền đáp. Đặc biệt là sau khi nhận chức chủ tịch tỉnh Đài Loan, Ngô cậy mình được sủng ái nên đã kiêu ngạo, đánh giá cao tín nhiệm của Tưởng đối với mình, nhiều lần phê phán nền chính trị của Quốc dân đảng, chủ trương thực thi nền chính trị dân chủ cận đại, thậm chí ngay cả đến sự việc của đại thái tử cũng đưa lời phê bình tới Tưởng Giới Thạch. Đợi đến Ngô Quốc Chinh tỉnh lại, giác ngộ được Trái tim yêu quyền hơn yêu nước, yêu con hơn yêu dân của Tưởng Giới Thạch, thì họng súng đã nhằm trúng sau gáy của mình rồi. Tức thì, ông ta có phúc đã phát hiện ra trong 4 bánh xe đã có tới 3 bánh bị tháo hết đinh ốc ra rồi. Thế nhưng, Ngô cũng không phải là loại người bình thường, vị cao thủ chính trị này được bồi dưỡng từ trường đại học Princeton ra đã không hé ră g nói nửa lời, mà chỉ kiên quyết từ chức Chủ tịch tỉnh rồi ngầm hoạt động với phía Mỹ để mời ông ta sang Mỹ dạy học. Cuối cùng, qua bao trắc trở, Ngô phải đem cha già và con trai ra làm con tin, Ngô mới được phê chuẩn sang Mỹ. Mãi tới tháng năm 1954, Ngô Quốc Chinh mới đem lửa hận trong lồng ngực giận dữ bộc lộ ra ngoài.Trên vấn đề dùng binh, Tưởng Giới Thạch cũng đã luôn luôn đề phòng đối với quân đội không phải là đích hệ, từng bước làm suy yếu quân đội đó đi. Trong cuộc chiến tranh chống cộng trường kỳ, Tưởng đã đưa những đạo quân táp nham trong quân đội Quốc dân đảng đẩy ra tác chiến ngoài mặt trận, mượn tay cộng sản Đảng tiêu diệt những đạo quân không phải là đích hệ này đi. Cuối cùng trong tình hình cả hai cùng bại cùng bị thương, Tưởng ngồi giữa thu lợi. Tháng 9 năm 1935, Trương Học Lương chấp hành chính sách Trước yên trong rồi sau mới cướp ngoài, đã tích cực tiến công Hồng quân công nông Trung Quốc, đã Trường chinh tới Tây Bắc. Hạ tuần tháng 11, trận đánh ở thị trấn Trực La hồng quân đã tiêu diệt sư đoàn 109 quân chủ lực của Trương, giáng cho quân Đông Bắc một đòn đả kích trầm trọng. Vì bán mình cho Tưởng mà bị tổn thất nặng nề như vậy, Trương Học Lương không những không được sự biểu dương của Tưởng mà còn bị Tưởng trừng phạt nghiêm khắc: Không cho phép quân Đông Bắc bổ sung thực lực, xây dựng lại phân hiệu, khiến cho Trương bị tiêu diệt một sư thì thiếu mất một sư, cuối cùng đã trở thành tư lệnh không có quân. Trương Học Lương đã nhìn thấu qủy kế này của Tưởng Giới Thạch, cuối cùng đã tỉnh ngộ, với ảnh hưởng của tư tưởng yêu nước chống Nhật, cuối cùng đã liên hợp với Dương Hổ Thành và hồng quân đạt được hiệp nghị bí mật đình chỉ nội chiến, nhất trí kháng Nhật. Thế nhưng, Tưởng Giới Thạch không dễ dàng bỏ qua. Tháng 10 năm 1939, để bức bách Trương Học Lương, Dương Hổ Thành tiếp tục tác chiến với hồng quân, Tưởng Giới Thạch đã đem mấy chục vạn quân đội kéo vào Đồng Quan, sắp xếp lại hậu phương của quân Đông Bắc và quân Tây Bắc với xu thế nếu không nghe mệnh lệnh thì tước vũ khí ngay tại chỗ. Cuối cùng, đã bức Trương Học Lương, Dương Hổ Thành cùng đường hết lối, đã hợp sức với nhau phát động cuộc binh gián. Lật mở lịch sử tác chiến tiến công và dẹp yên bạo loạn của Tưởng Giới Thạch, những mánh lới quen dùng này của Tưởng khắp nơi cũng đều có cả, các tướng lĩnh quân đội không phải là đích hệ trong quân Quốc dân đảng, không ai là không căm giận đến tột độ. Trong cuộc chiến tranh cách mạng quốc nội lần thứ ba, các tướng lĩnh cao cấp quân Quốc dân đảng như Cao Thụ Huân, Tăng Trịnh Sinh, Ngô Hóa Văn v.v.. dẫn đầu cuộc khởi nghĩa chống Tưởng đều là quân đội không phải là đích hệ. Đúng là người thông minh lại bị người thông minh làm thiệt hại, tâm lý hẹp hòi và thủ đoạn không tha thứ người này của Tưởng Giới Thạch, cuối cùng đã rơi vào tình cảnh quần chúng phản đối, người thân xa rời, cô đơn trơ trọi.Căn cứ vào phân tích của các nhà tâm lý học, tâm lý hẹp hòi với tính cách đa nghi này của kẻ độc tài, bắt nguồn từ ý thức nguy cơ của bản thân. Tuy chúng ở vào địa vị chí tôn, nắm quyền hành chí thượng, thế nhưng không thể không đề phòng dã tâm cướp ngôi và mưu đồ phản nghịch của tầng lớp dưới. Chính là áp lực tâm lý do ý thức về nguy cơ sản sinh ra đã khiến cho bọn độc tài vì phòng ngừa đại quyền bị cướp mất nên đã bước tới cực đoan. Đối với bất kỳ ai chúng đều có ý thức đề phòng cảnh giác luôn luôn làm ra các loại hành động không thích ứng với người khác và với xã hội dưới sự thôi thúc của những nhân cách bất thường cực kỳ ghen ghét đố kỵ và tàn bạo trắng trợn. Bất kỳ những nguy hiểm tiềm tại nào đều có thể xúc động tới thần kinh mẫn cảm của chúng, Thúc giục chúng lợi dụng mọi âm mưu quyền thuật và thủ đoạn bạo lực để tiêu trừ loại nguy hiểm này.Về phương diện quyền lực duy trì bảo vê sự độc tôn của mình, loại tâm lý hẹp hòi tự tư này của Tưởng Giới Thạch rất độc ác. Suốt đời Tưởng từng đã nhiều lần từ chức, thế nhưng mỗi lần từ chức đều là một lần hành động theo sách lược dùng lùi để tiến. Bí quyết tiến thoái thành thạo của Tưởng là ở chỗ: Nắm chắc quyền hành không chịu rời bỏ.Ngày 21 tháng 1 năm 1949, trong sự khốn khó giao nhau nội ngoại, Tưởng Giới Thạch khổng thể không bắt tay vào công việc từ chức lần thứ ba. Ngày 23, Tưởng Giới Thạch về tới Khê Khẩu. Giờ phút này, nhìn về bề ngoài, Tưởng là người ở giới bình dân nhàn tản du chơi, gửi tình ở nơi núi rừng đá suối, kỳ thực, Tưởng chỉ là ở ẩn mà không phải là rút lui, dây trời điện đài ở trên nhà tây Khê Khẩu không ngừng phát sóng, bí mật thao túng thế lực tàn dư Quốc dân đảng ở một nửa Giang Nam. Dựa theo tập quán của Quốc dân đảng, mọi chính sách biện pháp của Chỉnh phủ quốc dân đều cần phải thông qua ẹy ban thường vụ trung ương, rồi mới giao cho đơn vị hành chính chấp hành. Như vậy, Tưởng Giới Thạch tuy không làm Tổng Thống nữa, thế nhưng vẫn làm Tổng tài Quốc dân đảng, chủ trì ẹy ban thường vụ Trung Ương, bao trùm lên trên Lý Tông Nhân. Tưởng chấp chính trong nhiều năm, bố trí dày đặc các môn sinh, thân tín ở trong Đảng, chính quyền, giới quân sự, cứ một Quế hệ nhỏ nhoi bắt đầu có thể khống chế toàn cục. Khi Lý Tông Nhân bước lên vũ đài, thực sự đã vui mừng hớn hở một dạo, thế nhưng không nghĩ được là mình đã bị vồ hụt, thứ mà Lý giành được chỉ là cái hàm Tổng thống hữu danh vô thực. Trước khi Tưởng Giới Thạch rời bỏ chức vụ đã nhiều lần yêu cầu Lý Tông Nhân Kế nhiệm tổng thống, thế nhưng sau khi làm xong văn bản, bên trong không hề mảy may nêu lên sự việc từ chức, rút lui, chỉ nói Lý thay quyền chức vụ tổng thống. Lý Tông Nhân lấy lý do danh bất chính thì ngôn bất thuận yêu cầu sửa đổi là kế nhiệm tổng thống, Tưởng vui vẻ bằng lòng. Thế nhưng, sau khi phát biểu văn bản, Lý Tông Nhân vẫn làm quyền tổng thống. Trong lúc bực tức, Lý hỏi tội bí thư trưởng Phủ tổng thống Ngô Trung Tín, Ngô liền bình tĩnh nói với Lý Tông Nhân:- Thưa đức ông, với tư cách người bạn cũ tôi thành thực khuyên ông, ông đã quá hiểu con người của Tưởng tiên sinh. Ông nên biết chỗ ở hiện tại của ông. ở Nam Kinh hiện tại đặc vụ hoành hành, các vệ sĩ ở bên cạnh ông đều là người của Tưởng tiên sinh. Ông còn tranh giành điều gì nữa? Trong cục diện hiện tại, bất kỳ sự việc nào cũng đều có thể phát sinh. Sự an toàn của bản thân ông, có thể là không có gì bảo đảm được! - Những điều Ngô Trung Tín nói là lời nói thực, từ hơn hai tháng trước, Tưởng Giới Thạch đã bí mật triệu tập tên trùm sỏ hệ thống quân sự Mao Nhân Phượng và Thẩm Túy, đích thân bố trí việc ám sát Lý Tông Nhân. Chỉ tại về sau cục diện biến đổi quá nhanh, Tưởng mới không thể không để cho Lý đứng ra chống đỡ cục diện nguy hiểm.Sau khi Lý Tông Nhân bước lên vũ đài hình như chỉ có tên mà không có thực, mệnh lệnh mà ông ta ký ra tựa như tờ giấy lộn. Ông ta đỏi phải thả Trương Học Lương, Dương Hổ Thành ra, bọn cấp dưới nói: Trương Học Lương đã bị áp giải tới Đài Loan, Dương Hổ Thành đã không biết cầm tù ở chỗ nào. Ông ta muốn điều động quân đội, thế nhưng quân đội đều ở trong tay Tưởng Giới Thạch, bản thân ông ta làm quyền Tổng Thống của chính phủ quốc dân, ngay cả đến việc phòng vệ Trường Giang ở ngay dưới mũi mà cũng không biết làm thế nào. Ông ta muốn chỉnh đốn tiền tệ, khống chế vật giá, thế nhưng Tưởng Giới Thạch đã đem toàn bộ tiền của, vàng bạc ở trong kho ngân hàng Trung Ương đều vận chuyển hết tới Đài Loan, làm cho vật giá tăng vọt tốc độ nhanh như bay, trăm nghề đình đốn, thị trường tiền tệ hoàn toàn đổ vỡ. Để bảo đảm quyền lực của mình, Tưởng Giới Thạch đã bỏ mặc, không quan tâm tới cục diện nguy nan của Đảng quốc, coi Hiến pháp như trò đùa của con trẻ, đối với quyền Tổng thống Lý Tông Nhân thì nơi nơi đề phòng, bước bước hạn chế, cuối cùng đã không ngần ngại dùng biện pháp rút hết củi dưới đáy nồi, làm tăng nhanh tới độ tan rã thất bại của chính quyền Quốc dân đảng ở đại lục.Tâm lý tự tư hẹp hòi này của Tưởng Giới Thạch, ngoài việc biểu hiện không dễ tha thứ cho người ra, còn biểu hiện ở chỗ đa nghi và giận dữ tất sẽ trả thù. Tháng 1 năm 1949 sau khi Tưởng Giới Thạch từ chức đi qua Hàng Châu rồi về Khê Khẩu. Để trọn vẹn tình thân của bọn địa chủ, Chủ tịch tỉnh Triết Giang Trần Nghi đã mượn khách sạn Lầu ngoại Lầu để thết tiệc tẩy trần. Trong bàn tiệc Trần Nghi nhìn thấy Tưởng bởi tâm tình phiền muộn mà không động đũa, liền khuyên mời các vị khách Cần phải nâng lên đặt xuống. Nào ngờ lời nói này đã làm tổn thương tới lòng tự tôn của Tưởng Giới Thạch rồi dẫn tới cái họa sát thân sau này. Kỳ thực, đối với quyền lực Tưởng vĩnh viễn nâng lên chứ không bao giờ chịu đặt xuống. Lời nói này đã xúc phạm tới thần kinh đa nghi dễ dàng nổi giận của Tưởng. Sau bữa ăn, Tưởng không trú ở biệt thự Trừng Lư nữa mà đến ở sân bay Kiển kiều, trên thực tế đã có sự đề phòng đối với Trần Nghi. Sau đó, Thang Ân Bá mật báo với Tưởng, nói rằng Trần Nghi đã từng lập kế hoạch khởi nghĩa đầu hàng cộng sản. Tức thì, Tưởng đã bí mật ra lệnh cho Mao Nhân Phượng bắt giữ Trần Nghi rồi giải tới Đài Loan. Tháng 6 năm 1950, Trần Nghi đã bị Tưởng Giới Thạch bắn chết. Cái chết của Trần Nghi quả thực là họa tòng khẩu xuất .Trong mấy chục năm Tưởng Giới Thạch xưng hùng trên vũ đài chính trị Quốc dân đảng, phàm những người đắc tội với Tưởng, vô luận là xuất phát từ công tâm hay là tư tâm, vô luận là đích hệ hay là phi đích hệ đều có kết cục chẳng tốt lành. Những người xuất phát từ công tâm, như Trương Học Lương, Dương Hổ Thành, vì đại nghĩa của dân tộc mà khẳng khái binh gián, kết quả là một người bị sát hại thảm hại, một người suốt đời phải cầm tù. Những người xuất phát từ tự tâm, như phái thực lực địa phương Hàn Phúc Củ, Lưu Tương v.v..hòng phất riêng một ngọn cờ đối lập với Tưởng, cuối cùng, một người bị bắn chết, một người vấp phải nguy hại ngấm ngầm. Ngô Quốc Chinh, Tôn Lập Nhân v.v..là đích hệ trong văn thần võ tướng, chỉ vì lời nói không khiêm tốn, thái độ ngạo mạn, gây trở ngại tới lợi ích của họ Tưởng, tức thì một người lưu vong ở ngoài đảo, còn một người cầm tù ở trong đảo. Lý Tông Nhân suốt đời đi lại giao hảo với Tưởng Giới Thạch, cuối cùng đã phải giận dữ bỏ đi, từng nhiều lần cảm khái bình luận: Tưởng tiên sinh là con người đa nghi hễ tức giận là sẽ trả thù, chỉ trong nháy mắt những người tâm phúc như chân với tay đã biến thành kẻ thù ngay !
Phần 8
Chương 8
Quái thai của nền văn hóa phong kiến và tư tưởng phátxít
Nguồn: Mọt sách
Thu gọn nội dung
Nhìn tổng quát cuộc đời của Tưởng Giới Thạch từ thói ngang ngạnh, ương bướng, cố chấp ở thời kỳ thanh niên đến thói độc đoán chuyên quyền sau khi chấp chính, đã thực thi nền thống trị phát xít; Từ kẻ vô lại ở tuổi trẻ con đến những lời nói không giữ chữ tín trong cuộc đấu tranh chính trị, đều thể hiện bản chất gian hùng; Từ việc tiêm nhiễm thói xấu trong gia đình buôn muối tới tính bẩm sinh tích trữ hàng qúy, bề ngoài Tưởng đạo mạo nghiêm trang luôn thể hiện hình tượng lãnh tụ, thế nhưng trong xương trong tủy lại thể hiện ra tính đa nghi trắng trợn và giận giữ tất sẽ báo thù. Tưởng phất cờ gióng trống rùm beng khẩu hiệu Thiên hạ là chung của Tôn Trung Sơn, thế nhưng ngấm ngầm thì trái tim tự tư nặng hơn trái tim vì việc chung. Nói tóm lại, biểu tượng của những hành vi ngang ngạnh ương bướng, cố chấp, xảo trá, tư tự, tàn ác hung bạo, coi mình là cái rốn của vũ trụ, nói lời không giữ chữ tín, hẹp hòi đa nghi v.v..đã cấu thành những đặc trưng tính cách khác với người thường của Tưởng Giới Thạch.Lý luận khoa học tâm lý cho rằng tính cách của con người là những đặc trưng tâm lý tương đối ổn định, có tác dụng hạt nhân trong cá tính. Những đặc trưng tâm lý này quyết định phương thức thái độ và hành vi tương đối ổn định của một người đối với hiện thực hoàn cảnh xung quanh. Thế nhưng, những đặc trưng tâm lý cấu thành tính cách của con người không phải sinh ra một cách vô căn cứ, nó là kết tinh của bối cảnh văn hóa đặc định và hoàn cảnh, kinh nghiệm của cuộc sống. Đối với Tưởng Giới Thạch mà nói, nền văn hóa Trung Quốc truyền thống cổ lão với lý luận phát xít cận đại Tây Phương, đã cấu thành cơ sở tư tưởng trong hành vi tính cách của Tưởng.Trong việc hình thành đặc trưng tính cách của Tưởng Giới Thạch, nền văn hóa truyền thống Trung Quốc đối với Tưởng đã phát sinh ra những ảnh hưởng sâu sắc nhất. Còn căn cứ vào cách nói của bản thân Tưởng, nhân sinh quan của ông ta được hình thành sau khi đọc xong cuốn Đại học năm 1914, lúc đó Tưởng mới hơn hai chục tuổi. Đối với cuốn hạ Đại học chi đạo, Tưởng nói: Mãi tới khi 28 tuổi, Thủ tướng đã giảng cho tôi nghe biết đạo của đại học, mới hiểu được bộ sách này là một bộ triết học chính trị rất có giá trị... sau đó tôi đã không ngừng nghiên cứu, mới cảm thấy mỗi câu nói trong đó, đều có đạo lý sâu sắc, tức thì nhân sinh quan của tôi đã được xây dựng từ đây. Trong bộ sách này, Tưởng rút ra được đạo lý làm việc cần phải áp đảo người trước, đây chính là Hiểu biết tường tận nơi phát sinh ra sự vật ban đầu, nghiên cứu kỹ khi tâm ý mới phát sinh ra hành động. Miếng võ áp đảo người trước này đã sử dụng rất nhiều lần, vui vẻ không biết mệt mỏi. Tưởng Giới Thạch đã dùng nó để đối phó với Đảng Cộng Sản và phái phản đối Tưởng về sau này.Trên mặt chính trị, Tưởng Giới Thạch chủ trương tự cường tự lập lấy Đại học, Trung Dung làm lý luận chính trị cơ bản, thực hành nền chính trị chuyên chế phong kiến. Trong bài viết Trách nhiệm và sự tu dương tất yếu của học sinh đại học lục địa Tưởng Giới Thạch đã nói: Chương thứ nhất của Đại học chẳng qua chỉ có hơn hai trăm chữ, nói rõ ràng minh bạch đạo lý nhất quán trước sau của việc làm việc, làm người cho đến việc tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Thiên chức của quân nhân chúng ta tức là trị quốc, bình thiên hạ. Muốn trị quốc bình thiên hạ thì cần phải bắt đầu từ việc tu thân đức sáng. Cho nên đạo của đại học chẳng những là triết học cơ bản của nhân sinh và chính trị, cũng hoàn toàn là triết học cơ bản của quân sự.[1]. Những nguyên tắc chính trị phong kiến này cộng thêm việc hấp thụ tư tưởng của khoa học kỹ thuật tiên tiến ngoại quốc, đã khiến Tưởng Giới Thạch trở thành phái sính Tây của thời đại mới. Tưởng tôn sùng Tằng Quốc Phiên, chủ trương Cướp ngoài trước hết phải yên trong, cho rằng sự uy hiếp lớn nhất đến từ nội loạn.Tính cách ngang ngạnh ương bướng và ý chí phấn đấu cá nhân của Tưởng Giới Thạch chủ yếu bắt nguồn từ sự giáo dục nghiêm khắc của gia đình, trước hết xuất phát từ sự giáo dục của người mẹ từ thời thơ ấu và hoàn cảnh phấn đấu cô đơn gian khổ của cả hai mẹ con. Đúng như bản thân Tưởng đã nói: Lừa đảo lăng nhục, uy hiếp, áp bức, không ngày nào được yên... đã trở thành đạo lí dạy cho tôi biết khắc khổ tự lập... Mẹ tôi chỉ kiên trì một niềm tự tin, coi việc xây dựng lại gia đình là trách nhiệm duy nhất. Mẹ tôi thường nói: gian nan, khốn khổ, nguy hiểm, tai nạn... là điều thường xảy ra ở trên đời, chỉ có tự lập tự cường mới có thể khiến ta khắc phục được hết. Cho nên gia đình càng khó khăn thì lễ phép càng không thể thiếu được; phúc của gia đình càng mỏng thì chí khí càng không thể không kiên trì phấn đấu. Những người cô quả yếu đuối muốn tồn tại được, chỉ có phấn đấu tự lập khắc khổ tự cường, ngoài ra không có con đước nào khác [2] Người mẹ của Tưởng Giới Thạch là một người phụ nữ truyền thống điển hình nhẫn nhục gánh vác trách nhiệm nặng nề, bà đã dồn hết hy vọng gửi gắm cả vào trên thân con trai, dùng luân lý phong kiến để dạy dỗ con trai, đã có ảnh hưởng rất to lớn đối với tư tưởng và tính cách của Tưởng.Điều rất có thể phản ánh được hương vị văn hóa truyền thống đó trong xương thịt Tưởng Giới Thạch, chính là Phong trào đời sống mới mà Tưởng thi hành rộng rãi. Tháng 2 năm 1934, Tưởng Giới Thạch đã thành lập Hội xúc tiến phong trào đời sống mới tại Nam Xương, Tưởng tự nhận chức Hội trưởng. Kỳ thực ngay từ tháng 4 năm 1932, Tưởng đã đề xuất quan điểm dùng lễ nghĩa liêm xỉ để cứu vãn nhân tâm.Tưởng cho rằng : Hiện tại ngoài việc tinh thần thành thực thân ái ra còn phải cộng thêm bỗn chữ Lễ Nghĩa Liêm Xỉ nữa. Mọi người không được cho rằng đó là tư tưởng cũ kỹ hủ bại.... Tới ngày nay chúng ta không lấy Lễ Nghĩa Liêm Xỉ cộng thêm vào, thì không thể cứu vẫn được dân đức và nhân tâm đã sa đọa lạc hậu, không thể xác định đước cơ sở cách mạng của chúng ta. Tháng 6 năm 1934, Tưởng lại để suất tám đức Trung Hiếu, Nhân ái, Tín nghĩa, Hòa bình và coi đó là cơ sở chính trị của Tam dân chủ nghĩa. Tháng 5 năm 1935, khi Tưởng Giới Thạch nói chuyện với học sinh tại Côn Minh lại đem tứ duy Lễ Nghĩa Liêm Xỉ và bát đức Trung hiếu, Nhân ái, Tín nghĩa, Hòa bình này vẽ một dấu ngang bằng với Chủ nghĩa Tam dân.Mặc dù Tưởng Giới Thạch đem phong trào đời sống mới rùm beng ba hoa khoác lác, đem phong trào đó với chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung Sơn gộp làm một, khoác lên chiếc áo ngoài hiện đại, trên thực chất, phong trào này là một phong trào phục hồi lễ giáo phong kiến, cũng là phong trào giáo dục đế chế đề sướng trung thần hiếu tử. Mục đích phổ biến rộng rãi phong trào này là giáo hóa dân chúng trong toàn quốc bỏ nhận dục, tồn thiện lí trên mặt tinh thần, sống và làm việc có quy tắc quy củ, phục tùng nền thống trị của vương triều họ Tưởng, làm một người dân thuận theo phi lễ vật động phi lễ vật thính, phi lễ vật thị, phi lễ vật hành .Những cơ sở tư tưởng trong tính cách hành vi của Tưởng Giới Thạch, ngoài tư tưởng truyền thống Trung Quốc rễ sâu thân chắc ra, lí luận phát xít Tây Phương cũng là vũ khí lí luận mà Tưởng tôn sùng. Tháng 5 năm 1931, trong hội nghị quốc dân triệu tập ở Nam kinh, Tưởng Giới Thạch nói: Quan sát tổng hợp hiện tại chính phủ thống trị các nước trên thế giới, tuy hình thức có khác nhau, còn lập trường lí luận của chúng đại khái có thể chia làm ba... thứ nhất là lý luận chính trị cuống phát xít vốn là tinh thần của chủ nghĩa siêu tượng dựa vào học thuyết cơ thể quốc gia làm căn cứ, dùng tổ chức công đoàn để vận dụng. Cho rằng quốc gia là thực thể chí cao vô thượng, quốc gia phải đòi hỏi bất kỳ sự hy sinh nào của quốc dân, để kéo dài sinh mệnh của dân tộc, không thể dùng phúc lợi trước mặt làm chuẩn tắc, quyến thống trị phải được cùng tồn tại với xã hội mà không có thứ nào trước thứ nào sau, kẻ thao túng nó chính là nền thống trị có hiệu năng nhất trong giai đoạn của hệ tiến hóa. Thứ hai là lí luận chính trị của chủ nghĩa cộng sản... Thứ ba là lí luận chính trị của chủ nghĩa tự do dân trị... Sau khi phân tích và so sánh 3 loại chủ nghĩa kể trên, Tưởng Giới Thạch đã làm lóe sáng lên quân át chủ bài của mình. Tưởng nói: Cứu vãn nguy nan của đất nước không thể chờ đợi được nữa, lãnh đạo dân tộc mà không có kinh nghiệm chính trị thì không thể thi hành quyền thống trị tương đối có hiệu năng được. Sau đó Tưởng lại làm ra vẻ tuân theo ý dân nói: Hiện tại điều yêu cầu đối với cả nước là thi hành quyền thống trị có hiệu năng, để đạt tới mục đích giải trừ sự thống khổ của dân chúng. Rất rõ ràng, Tưởng Giới Thạch chủ trương dùng chủ nghĩa phát xít thống trị có hiệu năng nhất để cai trị Trung Quốc.Khi nghiên cứu lịch sử, người ta đã đem những chủ trương Trung học là thể, tây học là dụng, gọi những người duy trì và bảo vệ vương triều phong kiến hòng dùng kỹ thuật làm thày các dân tộc man di là Phái sính Tây, còn đối với tầng lớp sau này thì không đượng tôn trọng như vậy. Kỳ thực, lấy cơ sở tư tưởng mà nói Tưởng Giới Thạch cũng có thể gọi là Phái sính Tây. Tưởng đã tiến dẫn lý luận phát xít, còn đem giống cỏ độc này cấy rễ trên cặn bã phong kiến của tư tưởng mình, khiến cho chúng kết hợp Trung quốc và Tây phương, hợp tác chặt chẽ, rồi trở thành cơ sở tư tưởng trong tính cách hành vi của Tưởng.
---------------------------
[1] Tưởng Trung Chính ngôn luận tập, tập thứ ba trang 80
[2] Tưởng Trung Chính ngôn luận tập Tập thứ nhất, trang 1-2
Phần 9
Chương 1
Trước và sau khi Tưởng Giới Thạch qua đời
Nguồn: Mọt sách
Thu gọn nội dung
Tưởng Giới Thạch đã chết, chết bởi già yếu hay chết bởi thất bại, hoặc chết bởi cả hai lẽ ? Tưởng Giới Thạch chết mà không có điều gì nuối tiếc hay là chết mà không nhắm được mắt ? Tại sao quan tài lại quàn tạm tại Từ Hồ ? Sau khi Tưởng Giới Thạch chết, sấm chớp giao nhau, gió mưa tầm tã, có người nói trời đất cùng buồn, lại có người nói ông là một tinh rùa. Vậy thì ai đúng, ai sai ?
Ngày mồng 5 tháng 4 năm 1975, Tưởng Giới Thạch qua đời. Tưởng Giới Thạch chết bởi già yếu, chết bởi đau ốm, đó là điều chẳng còn gì để nghi ngờ. Thế nhưng có ai lại có thể phủ nhận rằng ông không phải đã bị chết bởi những đòn đả kích nặng nề tới tấp do những thất bại cay đắng liên tiếp nảy sinh trong những sự kiện quốc tế? Đối với Tưởng Giới Thạch, năm 70 là một năm đen tối bởi rất nhiều tai biến, bệnh họa liên tiếp xảy tới. Tai họa thậm chí không phải bắt đầu từ đầu năm này mà đã bắt đầu một cách từ tháng giêng năm 1969.
Tháng giêng năm 1969, Ních-sơn - tổng thống đương nhiệm của nước Mỹ - lên cầm quyền lập tức tuyên bố chính sách đối với đại lục Trung Quốc, sẽ là một bộ phận chủ yếu trong chính sách ngoại giao mới của nước Mỹ. Ních-sơn lại chỉ thị Hội nghị an toàn quốc gia nghiên cứu lại chính sách đối với Trung Hoa, đề xuất lý thuyết cân bằng thế giới. Ních-sơn chuẩn bị giao hảo với nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Nói rằng thế lực tàn dư của Tưởng Giới Thạch ở Đài Loan lúc này đã bắt đầu thời kỳ chao đảo của gió mưa vần vũ là điều không quá đáng.
Ngày 26 tháng 12 năm 1970, Tổng thống Rumani Ceausêscu tới thăm nước Mỹ, trong cuộc nói chuyện với ông ta, Ních-sơn đã nhờ vị lãnh đạo có quan hệ hữu hảo với Trung Quốc này chuyển lời với Bắc Kinh rằng: nước Mỹ hy vọng rằng quan hệ Trung - Mỹ được bình thường hóa. Trong diễn văn chào mừng tại bữa tiệc chiêu đãi hoan nghênh tổng thống Ceausescu, lần đầu tiên Ních-sơn gọi Trung Quốc là Nước Cộng hòa nhân dân Trung hoa. Đồng thời với điều này trong đại hội lần thứ 25 của hội đồng Liên hợp quốc khi biểu quyết đề án của Anbani, ủng hộ nước Cộng hòa nhân dân Trung hoa khôi phục lại địa vị ở Liên hiệp quốc, lần đầu tiên số phiếu đã vượt mức quá bán, địa vị của thế lực Tưởng Giới Thạch ở Liên hiệp quốc đã vô cùng nguy nan như trứng để đầu đẳng.
Ngày 21 tháng 6 năm 1971, tổng thống Ních-sơn tuyên bố xóa bỏ cấm vận kéo dài suốt 21 năm đối với nước Cộng hòa nhân dân Trung hoa, Kít-sinh-giơ trợ lí đặc biệt của Ních-sơn lại đột nhiên từ Pakistan bí mật tới thăm Bắc Kinh từ 9 đến 11 tháng 7, bàn định với Thủ tướng Chu Ân Lai để Ních-sơn tới thăm Trung Quốc.
Ngày 16 Ních-sơn lại phát biểu công báo tới thăm Trung quốc, công khai biểu lộ ủng hộ nước Cộng hòa nhân dân Trung hoa khôi phục lại địa vị ở Liên hiệp quốc. Trước tình thế này, Tưởng Giới Thạch đã phát biểu thông cáo Trang nghiêm kính cẩn tự cường nổi tiếng. Thông cáo nói rằng: Cổ nhân thường nói: Việc trong thiên hạ, do con người làm; quyết không thể vì sóng gió nhất thời mà tự hủy diệt tráng trí của mình... Chỉ cần tất cả mọi người trang nghiêm kính cẩn tự cường, gặp tai biến không kinh sợ, thận trọng tìm mưu kế phán quyết, kiên trì giữ vững tinh thần độc lập tự cường của quốc gia và quốc dân, thế thì bất kỳ thử thách nào cũng đều vượt qua tất!. Thông cáo này của Tưởng Giới Thạch tuy đã cổ vũ mình, đồng viên người, nhưng làm sao có thế che giấu được nỗi đớn đau, khổ sở, buồn nản và bất lực ở trong lòng ông già này. Tưởng Giới Thạch biết rằng Chính phủ Mỹ bất đắc dĩ mới phải chuyển sang ủng hộ việc khôi phục địa vị ở Liên hiệp quốc của nước Cộng hòa nhân dân Trung hoa, chiếc ghế và đại biểu ở Liên hiệp Quốc của ông sắp sửa bị quét ra khỏi cửa rồi.
Ngày 10 tháng 10 năm này, trong Ngày Quốc khánh, Tưởng Giới Thạch lại phát biểu bài Thư gửi đồng bào trong toàn quốc. ông đau đầu buốt óc nói rằng: Ngày nay thế giới đang ở vào một thời đại đớn đau thê thảm ở trong thời đại này, sự phân biệt giữa chính nghĩa và cường quyền, thiện và ác, đen và trắng, ngày một tiêu tán đi; sự tham lam, giả dối và hỗn loạn đã bao trùm tất thảy... Tưởng Giới Thạch đã không phải là với tinh thần tuy có muôn vàn bi ai sầu khổ nhưng vẫn trấn tĩnh tự kiềm chế được như trong Thông cáo, mà do vì trong tâm can tràn đầy phẫn nộ uất hận, không thể tự nhịn được mà đã mở rộng miệng chửi ầm lên, ông đã chửi kẻ thù, chửi bè bạn, chửi thế giới, chửi thời đại, suýt nữa ông đã chửi cả mình.
Sau nửa tháng (ngày 25-10-1971) đại hội lần thứ 26 Liên hiệp quốc đã chính thức tiếp nạp nước Cộng hòa nhân dân Trung hoa, đuổi cút đại biểu của Tưởng Giới Thạch. Bức thư viết gửi từ Đài Loan công khai nhục mạ chửi bới Liên Hiệp Quốc Đã trở thành một tổ chức lưu manh, để cho thế lực tà ác hỗn loạn nắm quyền, mất hết công bằng và chính nghĩa, không thể cứu vãn được! Điều này có lẽ nào chẳng phải là sự căm giận và uất nghẹn của Tưởng Giới Thạch.
Vậy mà sự việc lại không chỉ dừng ở đây. Ngày 21-2-1972 Ních-sơn tổng thống nước Mỹ đã tới thăm Trung Quốc, ngày 28 đã phát biểu Thông cáo chung Trung - Mỹ nổi tiếng tại Thượng Hải. Ngày 25-9-1972, Thủ tướng Nhật Bản Tanaka Kakuci đã tới thăm Trung Quốc. Ngày 29, chính phủ hai nước đã tuyên bố quan hệ hai nước Trung Nhật bình thường hóa. Tiếp liền theo sau đó phần lớn các nước bè bạn liên minh ngày xưa của chính quyền Tưởng Giới Thạch đã dồn dập cắt đứt quan hệ ngoại giao với ông ta. Tháng 10 năm 1970, các quốc gia xây dựng quan hệ ngoại giao với chính quyền Quốc dân đảng Đài Loan có 68 nước, đến tháng 2 năm 1972, chỉ còn 39 nước vẫn giữ quan hệ ngoại giao với họ, hơn thế còn có 19 nước đang suy nghĩ cắt đứt quan hệ ngoại giao với họ, để lập quan hệ ngoại giao với nước Cộng hòa nhân dân Trung hoa. (đến tháng 1 năm 1974, các quốc gia vẫn giữ quan hệ ngoại giao với chính quyền Quốc dân đảng Đài Loan đã giảm xuống còn 20 nước). Sấm chớp của thế giới nhấp nhô, gió mưa của Đài Loan chao đảo. Tưởng Giới Thạch vung gậy đập bàn ở Đài Bắc, chửi rủa om xòm Liên hiệp quốc và người Mỹ là bội tín bỏ nghĩa, lấy bạo lực rải đường, chửi bới người Nhật Bản là vong ân phụ nghĩa, lật mặt bỏ người, phát ra lời thề Hơn lúc nào hết càng phải tự dựa vào mình, xin thề với trời xanh sẽ làm cho Thế giới này rất nhanh chóng trở lại mảnh đất chính nghĩa, tự do và hòa bình...Nếu nói năm 1949 sự thất bại toàn diện ở đại lục là một đòn đả kích trầm trọng của nhà chính trị gia hùng tâm vững chí, thế thì năm 1970 mở đầu sự thất bại trên võ đài quốc tế là một đòn đánh chí mạng đối với một lão già đã bước vào những năm tàn như ngọn nến lét leo trước gió.
Năm 1972, Tưởng Giới Thạch đã mang bệnh nặng trên thân. Đầu tháng 3 năm ấy ông đã phải tiến hành cuộc phẫu thuật lớn bởi bệnh phì đại tiền liệt tuyến. Thế nhưng hậu qủa không tốt, đã chuyển sang viêm tiền liệt tuyến mạn tính, rồi sức khỏe của Tưởng Giới Thạch bắt đầu suy thoái toàn diện. Trong tháng 7, Tưởng Giới Thạch mắc bệnh cảm nặng phải nằm viện, bệnh tình xấu đi nhanh chóng, phát triển thành viêm phổi, giới y học đã tổn phí biết bao công sức mới khống chế nổi bệnh trạng của ông. Thế nhưng, họa vô đơn chí, ngày 6 tháng 8, trên đường đi điều dưỡng ở bệnh viện Vinh Dân ( Đài Bắc), tại ngã tư đường dinh quan Song Khê ngoài Sĩ Lâm núi Dương Minh, ông ngồi trên xe bị xe hơi của một viên thiếu tướng phóng nhanh đụng phải, ông đã bị nạn bất ngờ. Từ đó, thân thể của Tưởng Giới Thạch không gượng dậy nổi, phải tuyên bố từ chối không tiếp khách, đã bắt đầu một lịch trình gian nan và dai dẳng giành giật với tử thần.Thế nhưng, Tưởng Giới Thạch với chí khí kiên cường nổi tiếng tràn đầy niềm tự tin phấn đấu đã không cam chịu sự sắp đặt của vận mệnh. Tết Nguyên đán năm 1973, theo thường lệ ông vẫn gửi thư thăm hỏi đồng bào. Ông nói: Hơn 70 năm qua, quốc dân ta đã dốc sức làm cách mạng dân chủ và thống nhất, coi đó là mục tiêu duy nhất của cách mạng mà chưa hề có một ngày gián đoạn. Trong bức thư đó ông đề xướng làm người Trung Quốc đường đường chính chính cần phải phấn đấu tới cùng vì nền dân chủ và thống nhất.
Ngày Quốc khánh năm 1973 ông lại phát biểu thông báo: Cho dù quyền lợi của chúng ta có phải phủ lên một bức màn bi ai đau khổ, bầu không khí của chúng ta tạm thời bị chất độc hóa học bao phủ bầu trời. Chúng ta quyết không nản chí, chúng ta không thể lạc đường mất phương hướng. Trước đó vào tháng 2 năm 1972 Hội nghị lần thứ 5 tiến hành Quốc đại cứ 6 năm triệu tập một lần tại Đài Loan, để bầu cử Tổng thống. Tưởng Giới Thạch tuy đã có đại chứng tiền liệt tuyến phì, ông vẫn tráng tâm bất khuất ông nói, ông tuổi tác đã cao, không tham gia tranh cử Tổng Thống nữa, lại nói, nếu như mọi ngừơi không chê ông già, ông vẫn tình nguyện dốc sức lực tiếp tục làm việc. Ngày 21 tháng 3, ông một lần nữa trúng cử với số phiếu 1308 trong tổng số phiếu 1316, Nghiêm Gia Cán trúng tuyển Phó tổng thống.Sau khi Trúng cử , Tưởng Giới Thạch lại phát biểu thông báo: Duy chỉ có chính phủ và nhân dân chúng ta mới có thể nghiêm chỉnh dốc sức giành lại lãnh thổ đã mất, cứu vớt lấy ngàn triệu đồng bào ở đại lục. Chúng ta mới có thể cùng đứng dưới ngọn cờ Tam dân chủ nghĩa, giành hưởng âm trạch của tự do với quyền lợi. Đặt cơ sở trên những lí do này, bản thân tôi mới có thể dốc hết lòng hăng hái và hạ quyết tâm, hơn thế chẳng quản tuổi cao và đối mặt với sứ mệnh cực kỳ to lớn, trách nhiệm vô cùng nặng nề mà đảm nhận chức vụ này... dốc hết sức chống lại bọn Mao cộng bán nước, quyết chí hoàn thành đại nghiệp, thề đem quân Bắc phạt lần thứ hai thống nhất nước Trung hoa dân quốc... Tôi xin thề... không phụ lòng mong đợi của toàn dân tộc, mang hết tinh thần trách nhiệm... chỉ cần bọn Mao cộng và bọn đồng đảng bán nước còn tồn tại một ngày, nhiệm vụ cách mạng của chúng ta không thể ngừng trệ, cho dù chúng ta có phải chịu ngàn vạn đòn đả kích và dày vò, cũng quyết không từ nan, quyết không thối chí.
Trong đời sống chính trị của Tưởng Giới Thạch, đây là lần làm Tổng thống cuối cùng. Không may, ngày 20 tháng 5 năm 1972, khi Tưởng Giới Thạch cùng Nghiêm Gia Cán tuyên thệ nhậm chức, đã xảy ra một sự cố không lớn không nhỏ, giống hệt như trong bữa ăn nhìn thấy một con ruồi chết ở trong mâm, sự tởm lợm không nói ra được trong tâm lý cũng bùng lan ra. Buổi sáng hôm đó, sau nghi thức tuyên thệ nhậm chức, hai người bước lên lan can phủ tổng thống tiếp nhận sự hoan hô của hai mươi vạn dân chúng, đài vô tuyến truyền hình sẽ phát sóng trực tiếp tới toàn thế giới. Thế nhưng không biết làm thế nào, khi truyền những nét mặt hoan hô của dân chúng, ở góc dưới màn hình đã xuất hiện những chữ Hán không biết từ đâu tới dòng chữ là Đại ca không tốt rồi... một câu viết như vậy, có khác gì ai đó cố ý lăng mạ, chửi rủa tổng thống. Về sau do người cháu thứ hai của Tưởng Giới Thạch là Tưởng Hiếu Vũ đích thân tra xét ra, đây là do nhân viên đài truyền hình bỏ sót, chứ không phải là cố ý dụng tâm. Thế nhưng ở trong tầm mắt những người mê tín bao gồm một số nguyên lão quốc đảng, điều này quyết không phải là điều lành. Sau đó một loạt bệnh cảm mạo nặng, viêm phổi, tai nạn xe v.v... liên tiếp kéo đến đã khiến cho họ càng tin chắc rằng những hàng chữ Hán không biết từ đâu đến kia đã là một điềm ác đối với ông, cũng giống như Tuyên Thống hoàng đế khi đăng cơ còn nhỏ đã khóc ré lên, khi Nhiếp chính vương Tải Phong vỗ về hoàng đế nói: Sắp rồi! Sắp rồi! Sắp hết rồi! đã bị rất nhiều người nói đó là điều dự báo triều Thanh sắp sửa bị tiêu vong. Tưởng Giới Thạch tuy là một tín đồ đạo Cơ đốc, thế nhưng cũng có tư tưởng mê tín phong kiến rất sâu nặng, sau khi được biết tin này liền nói: Xúi quẩy! Xúi quẩy!.
Tháng 7 năm 1972, sau khi Tưởng vì cảm mạo nặng dẫn tới viêm phổi phải nằm viện, tuyệt đối giữ bí mật với mọi người, không để cho một ai được biết. Trong tình trạng ốm lâu không được tiếp xúc với sự việc, ông vốn nên từ chức, để cho phó tổng thống thay mặt ông giữ chức, thế nhưng ông đã không làm như vậy, ông muốn để cho người kế tiếp ông là Tưởng Kinh Quốc tranh thủ được thời gian nhiều hơn. Tới tháng 7 năm 1973 trên báo chí đã công khai đăng tải ông chụp ảnh chung cùng với mọi người trong buổi lẽ kết hôn của người cháu thứ tư là Tưởng Hiếu Dũng, là lần thứ nhất lộ mặt công khai sau một năm ông bị bệnh, cũng là dịp công khai chứng tỏ với dân chúng tình trạng sức khỏe của ông và cũng kín đáo nói rằng ông đã chữa bệnh tốt. Sức khỏe của Tưởng Giới Thạch quả thật có chuyển biến tốt. Đến mùa hè năm 1974, mỗi ngày ông đã có thể tới vườn hoa đi dạo, cùng với người trong gia đình và các chính khách thảo luận những vấn đề chính trị v.v... Ngày 10 tháng 10 năm đó, theo thường lệ ông lại phát biểu Diễn văn quốc khánh vẫn vọng đàm tới việc Quang phục đại lục. Ngày 31 tháng 10, khi chúc thọ Tưởng, nhà đương cục Đài Loan đã đúc ra khối lượng lớn huy chương Tưởng Tổng thống vạn tuế, hơn thế còn dùng khí cầu cực lớn thả dù xuống đại lục 10 triệu tấm ảnh Tưởng Giới Thạch. Nghe nói chỉ riêng năm này nhà Đương cục Đài Loan đã thả dù xuống đại lục 280 triệu tấm ảnh của họ Tưởng, có ý đồ khiến cho mọi người ở đại lục đừng có quên Tưởng Giới Thạch. Thế nhưng chuyển biến tốt và sự khôi phục sức khỏe của Tưởng Giới Thạch đã không tiếp diễn được lâu, mà ngày càng suy kiệt, bệnh đã ăn sâu vào xương tủy không thể chữa được nữa.
Tháng 12 năm 1974, Tưởng Giới Thạch lại mắc bệnh cúm một lần nữa chuyển sang viêm phổi. Do sức khỏe của ông đã cực kỳ suy yếu, cũng bởi tại sử dụng kháng sinh lâu, dẫn tới vi khuẩn chống lại thuốc tăng mạnh, có điều trị cũng phí thuốc, bệnh tình của ông không thấy có chuyển biến tốt. Kéo dài tới mồng 9 tháng giêng năm sau, trong giấc ngủ ban đêm ông đã phát sinh ra bệnh tâm cơ thiếu ôxy, tuy đã được cấp cứu chuyển nguy thành an, thế nhưng sau đó viêm phế quản vẫn chưa thể hoàn toàn chữa khỏi sốt nóng lâu không suy thoái.Ngày 29 tháng 3 năm 1975, có lẽ Tưởng Giới Thạch cảm thấy bản thân mình không thể sống lâu ở nhân gian nữa, ông đã tiện khẩu truyền di chúc, do phó bí thư trưởng ủy ban trung ương Đảng dân quốc là Tần Hiếu Nghi ghi lại. Sau khi di chúc lập xong, Tưởng Giới Thạch đã bước vào một tuần lễ cuối cùng của cuộc đời ông, sức khỏe lúc lành lúc xấu, thần trí khi tỉnh khi mê. Dần dà gắng gượng bước vào tháng 4, theo cách nói dân gian của những người già Trung Quốc - Tết thanh minh đối với những người bệnh có nguy cơ trầm trọng đã tới. Tưởng Giới Thạch với sức sống vô cùng suy yếu, cuối cùng đã gắng gượng qua được ngày tảo mộ tế tổ, điếu niệm vong linh và đã chết trong Tết thanh minh ngày 5 tháng 4 này.
Đối với cái chết của Tưởng Giới Thạch, trong cuốn sách của mình, người Nhật Bản ông Furuya đã ghi thuật tường tận tỉ mỉ như sau:Ngày 5 tháng 4 năm 1975, trên cuốn lịch bàn vừa đúng là tết Thanh Minh - một buổi sớm trời trong vạn dặm, thích hợp với thời tiết. Ngày Tết này, ở Trung hoa dân quốc gọi là Tết dân tộc tảo mộ, được nhà nước định là ngày nghỉ, để cho tất cả mọi người đi quét dọn sửa sang phần mộ của tổ tông, an ủi những linh hồn ở trên trời. Lúc này, ở Nhật Bản vẫn đang là mùa hoa anh đào nở rộ, còn Đài Loan thì đã bước vào đầu hạ. Còn nhớ buổi sáng sau khi ngủ dậy đã phải mở máy điều hòa khí lạnh ở trong phòng. Tám giờ sáng ngày hôm đó, Tưởng Tổng thống ngủ dậy ở trong dinh thự Sĩ Lâm Đài Bắc.Đêm hôm qua, cụ Tưởng ngủ yên giấc, cho nên tinh thần sảng khoái! - Đây là lời ghi chép trong sổ theo dõi sức khỏe của một bác sĩ trong tổ phục vụ điều trị. Tưởng Công tử - ông Tưởng Kinh Quốc (Viện trưởng viện hành chính) vẫn tới dinh thự thăm cha như mọi ngày. Tưởng tổng thống đã rửa mặt đánh răng xong, ngồi ở trên ghế nằm bên cạnh giường.Lúc này, Tưởng tổng thống căn dặn Tưởng Kinh quốc lời như sau:
- Từ nay về sau bản thân con phải nghỉ ngơi nhiều!
Sau khi nghe lời này. Tưởng kinh Quốc cảm thấy ông đã đón nhận một niềm cảm xúc đặc biệt không nói ra được, như một đòn xâm kích, suốt ngày lởn vởn những ý nghĩ bất an... Sự bất an của ông Tưởng Kinh Quốc đã trở thành hiện thực. Buổi chiều hôm đó, Tưởng tổng thống đột nhiên cảm thấy cồn cào trong bụng. Sự trải qua sau đó, trong thư báo cáo của tổ điều trị có thuyết minh như sau:Trong bụng khó chịu, đồng thời lượng tiểu tiện giảm ít. Tổ điều trị cho rằng công năng tâm trạng của cụ Tưởng không tốt, do đó sự tuần hoàn mạch máu không thông suốt, các tổ chức trong cơ thể có khả năng có hiện tượng tích nước; tức thì đã truyền cho một ít thuốc lợi tiểu, lúc này cụ Tưởng đã thải ra được lượng nước tiểu là 500 cc. Buổi chiều đúng 4 giờ, ngủ được chút ít. Sự biến hóa của bệnh tình phát sinh vào khoảng trên dưới 8 giờ 15 phút buổi chiều. Các bác sĩ phục vụ phát hiện, Tưởng tổng thống vừa chợp mắt ngủ mạch đập lại đột nhiên chuyển sang chậm, lập tức tiến hành xoa bóp vùng tim và hô hấp nhân tạo, đồng thời tiêm thuốc cấp cứu. Sau một hai phút, tim đập và hô hấp lập tức trở lại bình thường. Thế nhưng sau bốn năm phút, tim lại ngừng đập, lập tức lại tiến hành xoa bóp tim, hô hấp nhân tạo và tiêm thuốc cấp cứu. Thế nhưng hiệu quả lần này không tốt đẹp, tim tuy lúc đập lúc ngừng, thế nhưng hô hấp không khôi phục lại được, kim trong máy đo áp huyết đã ngừng, mạch đập, áp huyết đã không thể đo được nữa.Đúng 11 giờ 30 phút, con ngươi của đôi mắt cụ Tưởng đã giãn. Công tác cấp cứu vẫn tiếp tục tiến hành, đã tiêm mấy ông thuốc kích thích tim. Sau cùng đã ứng dụng cực điện trực tiếp kích thích cơ tim, kích thích buồng tim, thế nhưng vẫn vô hiệu. Đúng 11 giờ 50 phút buổi chiều mùa hè tại Đài Bắc, Tưởng tổng thống đã vĩnh biệt thế gian, hưởng thọ 89 tuổi. Lúc này trên bầu trời thành phố Đài Bắc bỗng nhiên sấm chớp kinh người, mưa như trút nước. Vào mùa này rất ít khi có mưa có sấm như vậy, đúng như trong nhật ký ông Tưởng Kinh Quốc đã ghi Phong vân dị sắc, thiên địa đồng ai - gió mây khác tiết, đất trời buồn thương. ở Đài Loan có người truyền thuyết: Linh hồn của Tưởng tổng thống đã cưỡi gió cưỡi sấm bay lên trên trời, cụ đã ra đi theo tiếng gọi của Chúa trời. (thế nhưng Giang Nam tiên sinh phản bác nói: Điều đó cũng có khác gì nói một cách nhảm nhí xằng bậy: ông là con tinh rùa, vô căn cứ!)
Tưởng phu nhân - nữ sĩ Tống Mỹ Linh và ông Tưởng Kinh Quốc chăm sóc chiếu cố ở bên gối cụ mãi cho tới lúc lâm chung.Mọi người được lần lượt triệu đến dinh quan...Di chúc đã có sự chuẩn bị trước, Tưởng tổng thống hình như đã dự biết được mình sắp sửa lìa khỏi thế gian, cho nên ngày 29 tháng 3, một tuần lễ trước đã truyền miệng cho phó bí thư trưởng Quốc dân đảng Tần Hiếu Nghi ghi chép lại.Trước mặt Tưởng tổng thống, mở bản di chúc ra đọc nội dung như sau:...Thực hiện tam dân chủ nghĩa, khôi phục lại toàn bộ lãnh thổ đại lục, phục hưng nền văn hóa dân tộc, kiên trì giữ gìn đội hình chiến đấu dân chủ, đó là chí nguyện suốt đời của tôi... Đầu tiên là Tưởng phu nhân, tiếp đó là phó tổng thống Nghiêm Gia Kiềm, Viện trưởng Viện hành chính Tưởng Kinh Quốc và Viện trưởng Viện lập pháp Nghê Văn á, Viện trưởng Viện tư pháp Điền Quýnh Cẩm, Viện trưởng Viện thi cử Dương Lượng Công, Viện trưởng Viện giám sát Từ Tuấn Hiền.... các ông bà đều run rẩy cầm bút lông ký tên trên tờ di chúc.
Một đêm trôi qua. Sau khi trời sáng, trên bầu trời Đài Bắc bao phủ một tầng mây mờ dày đặc. Các tờ báo buổi sáng đều đem khuôn bản màu hồng thường ngày, nhất loạt đổi thành mặt đen, báo tin Tưởng Tổng thống qua đời. Đài vô tuyến truyền hình cũng đình chỉ phát các băng ghi hình màu sắc và các tiết mục văn nghệ vui chơi. Các công sở cơ quan quan trọng, ở những nơi trải thảm màu đỏ đều được phủ lên mảnh vải đen, biểu thị sự tưởng niệm tiếc thương. Các hiệu vải trên phố đều tự động cung cấp miễn phí những băng vải đen. Những chiếc khăn quàng màu đỏ và những bộ quần áo sặc sỡ đều không còn nhìn thấy bóng dáng nữa, ngay đến cả dầu mực dấu dùng để đóng dấu đều cải thành màu xanh. ở Trung Quốc, màu đỏ được coi là tượng trưng của sự chúc tụng vui mừng, mọi người bởi tâm tính buồn bã tiếc thương, do đó đã vứt bỏ màu đỏ đi, đến nỗi chỉ trong một đêm ở khắp các phố to ngõ nhỏ đều tiêu tan hết toàn bộ màu đỏ. Điều này đối với người nước ngoài mà nhìn, sẽ có thể cảm thấy có một phản ứng gì đó không phải là bình thường.
Tuân theo điển lễ, việc chôn cất sẽ cử hành vào ngày 16 tháng 4. Phó tổng thống Mỹ đặc sứ của tổng thống nước Mỹ Rokefeller, thủ tướng Hàn Quốc Kim Jong Pil và các đoàn đại biểu của 23 nước đều tới Đài Loan tham dự. Nhật Bản tuy không có sự bang giao cũng có các ông như Sato Ei saku, KShinobusuke ...vài vị tới Đài Bắc. Trung hoa dân quốc đãi ngộ đoàn đại biểu Nhật Bản theo tiêu chuẩn tiếp tân quốc tế, ở trong khách sạn và trên chuyến xe riêng đều treo cờ trướng Nhật Bản. Kể từ năm 1972 tuyệt giao mối liên bang đến nay, đây lại là lần đầu tiên nhìn thấy quốc kỳ Nhật Bản ở Đài Loan.Vòng hoa viếng của ông Sato Eisaku, chỉ có tên của ông, mà không thêm bất kỳ phẩm hàm gì; Lúc đầu ông định lấy tên là Đại biểu Đảng Tự dân; thế nhưng bởi dính vào phía đại lục, nên lại đổi là Đại biểu người bạn.....
Sau khi di hài của Tưởng Tổng thống được tiến hành ướp lạnh, tạm thời chôn cất tại bờ hồ Từ Hồ cách phía nam Đài Bắc ước khoảng 60 cây số. Nơi này chính là chỗ Tưởng tổng thống đã trú ngụ sau khi đã rút khỏi đại lục tháng 6 năm 1949, phong cảnh rất giống Khê Khẩu Trấn của Phụng Hóa, Triết Giang, nơi cố hương của tổng thống. Để tưởng nhớ Vương Thái phu nhân, Tưởng tổng thống đã đích thân đặt tên nơi đây là Từ Hồ, rồi xây dựng một dãy hành quán. Hiện tại Tưởng tổng thống mặc bộ đại lễ áo dạ cưỡi ngựa, trước ngực đeo huân chương, yên nghỉ trong quan tài nổi áo quan và quách bằng đá hoa cẩm thạch màu đen ở chính sảnh hành quán. Nếp nhà ngang tiếp liền chính sảnh giữ nguyên trạng phòng ngủ của Tưởng tổng thống, trên bàn trà ở mặt chếch còn lưu lại mấy chữ viết tay trên mảnh giấy ghi lời nhắn bằng bút chì đỏ: Năng khuất năng thân !{Có thể cong cũng có thể thẳng}ý nghĩa là: Thuận theo hoàn cảnh, cần nhẫn thì nhẫn, phải cong thì cong, để chờ thời cơ duỗi thẳng.
Furuya là một nhà văn Nhật Bản thân Tưởng, trong các sách của ông tràn đầy những từ tán dương ca ngợi Tưởng Giới Thạch, đối với cái chết của Tưởng Giới Thạch ông đã biểu hiện ra đớn đau và thương tiếc. Thế mà đa số dư luận thế giới đã biểu đạt những cảm thụ và bình giá khác.Đông Kinh Tân Văn Nhật Bản nói: Cái chết của Tưởng Giới Thạch chứng tỏ rằng điều hư cấu Chính phủ quốc dân là chính phủ chính thống của Trung Quốc từng thống trị thời đại chiến tranh lạnh sau cuộc chiến đã sụp đổ tan tành một cách danh phù hợp với thực của nó.
Đô rơn đô Canađa Báo bưu điện hoàn cầu nói: Nói một cách rộng lượng khoan hồng nhất Tưởng Giới Thạch là một vị lãnh tụ từ trước tới nay chưa hề đuổi kịp thời đại. Ông từ trước chí sau vẫn là một người hiểu được quyền lực nhiều hơn hiểu được sự cải cách cơ bản.
Tin tức hôm nay của Thụy Điển: Một con ma qủy đã chết đi. Tin tức về sự qua đời của Tưởng Giới Thạch, khiến cho người ta nhất thời khó nhớ được, trong thần thoại lịch sử mà ông ta biên soạn viết ra ở phương Tây, chính ông ta đã diễn trò của một nhân vật chính. Đối với lớp người trước, mấy năm lại đây, ông ta đã xuất hiện với thân phận lãnh tụ, Trung Quốc bị nước lớn Nhật Bản điên cuồng xâm chiếm, trà đạp; được người ta tôn sùng, tự cho rằng mình là một chính trị gia xuất chúng. E rằng, còn đòi hỏi một số thời gian nữa, loài người mới có thể nhận thức được. Kỳ thực, ông ta chỉ là Nguyễn Văn Thiệu của thời đại đó.
Thời báo Niu ooc nước Mỹ nói: cái chết của Tưởng Giới Thạch đã kết thúc một loại ảo giác cho rằng thực tế ông ta vẫn thống trị Trung Quốc. Con trai của ông và những người kế thừa của Đài Loan suốt thời kỳ dài đến nay đã thích ứng với loại ảo giác này. Hai mươi nhăm năm cuối cùng của cuộc đời ông, ẩn nấp ở trên hòn đảo Đài Loan này, trước sau chỉ làm một giấc mộng mê muội về sự phản công. Cái chết của ông có khả năng tăng cường tốc độ cho nước Mỹ rút ra khỏi Đài Loan cùng với việc tăng nhanh công việc bình thường hóa quan hệ giữa họ và Bắc Kinh.
Báo Manila của Philippin nói: Cái chết của Tưởng Giới Thạch đã kết thúc một kỷ nguyên trên lịch sử Trung Quốc, mộng tưởng của ông trở về đại lục vẫn chỉ là một giấc mộng mà không có cách gì có thể thực hiện được.
Phần 9
Chương 2
Di chúc của Tưởng Giới Thạch viết những gì?
Nguồn: Mọt sách
Thu gọn nội dung
Phần trên đã nói, ngày 29 tháng 3 năm 1975, Tưởng Giới Thạch dự cảm thấy mình sắp sửa vào quan tài, không ở lâu trên thế gian được nữa, liền đọc lời di chúc cho Tần Hiếu Nghi ghi chép. Di chúc của Tưởng Giới Thạch viết những gì? Tôi tự buộc tóc đến nay, đã đeo đuổi cuộc cách mạng của Thủ tướng, không lúc nào không tự cho mình là một tín đồ của Jêsu Cơ đốc và của ngài Thủ tướng, không ngày nào là không phấn đấu gian khổ để tiêu trừ những trở ngại của Chủ nghĩa Tam dân, xây dựng một quốc gia với nền chính trị dân chủ. Hơn hai chục năm nay, những căn cứ tự do ngày càng lớn mạnh một cách tinh túy thực chất, hơn thế đã không ngừng triển khai cuộc chiến tranh chính trị với sự tàn ác của Đảng Cộng sản đại lục. Đại nghiệp chống Cộng phục Quốc, ngày càng đổi mới, ngày càng hưng thịnh, quân dân trong toàn quốc, các đồng chí trong toàn Đảng, quyết không thể vì sự ra đi của tôi mà lo âu nhụt chí khí ! Mọi người cần phải thành tâm đoàn kết nhất trí phục tùng sự lãnh đạo của Đảng và chính phủ mình, phụng thời chủ nghĩa vì ngài Thủ tướng vô hình lấy việc phục quốc làm mục tiêu chung. Còn tinh thần của Trung Chính, tự tất sẽ ở bên cạnh đồng chí đồng bào mình. Thực hiện Tam dân chủ nghĩa, thu phục hết quốc thổ đại lục, phục hưng nền văn hóa dân tộc, kiên trì giữ vững đội hình chiến đấu dân chủ, đó là sự nghiệp ý chí suốt đời của tôi, thực tế cũng là ý chí cách mạng và quyết tâm chiến đấu nhất trí của quân dân đồng bào hải nội hải ngoại. Mong muốn người người ngày càng kiên trì bách nhẫn, phấn đấu tự cường, không hoàn thành được trách nhiệm của cách mạng quốc dân quyết không dừng lại: thề cần lao, thề dũng cảm, đừng lười biếng, chớ chểnh mảng.Ngày 29 tháng 3 năm Trung hoa Dân quốcthứ 4.Tưởng Trung Chính
Sau khi bản di chúc bao gồm hơn 200 chữ này của Tưởng Giới Thạch được phát biểu, lập tức đã gây nên rất nhiều điều chê trách. Có người nói nó đã loạn dùng điển cố thành ngữ, Văn lý thiếu thông suốt, đọc lên khiến cho người ta có cảm giác khôi hài, về căn bản không giống một tờ di chúc. Có người nói nó đã loạn sắp xếp ngôi thứ, đem Jêsu xếp đặt ở trước Thủ tướng Tôn Trung Sơn, thực sự đâu có thể như vậy được. Lại có người nói Tưởng Giới Thạch thực ra chưa hề ký tên trên tờ di chúc. Các đại viên như Tống Mỹ Linh và Tưởng Kinh Quốc v.v... cũng chỉ là ký bổ sung vào sau khi Tưởng Giới Thạch chết, căn cứ theo Pháp luật của nhà đương cục Đài Loan thì đó là bản Di chúc vô hiệu.
Trong bài viết Cái chết của Tưởng Giới Thạch với Tưởng Kinh Quốc của một người Hương Cảng có nói: Bản di chúc của Tưởng, những văn tự vừa mở đầu đã không thông, chẳng những không phù hợp với sự thực, mà hàm ý cũng hoang đường vô lý. Câu đầu tiên của bản di chúc nói: Tôi tự buộc tóc đến nay, đã đeo đuổi cuộc cách mạng của thủ tướng, không lúc nào không tự cho mình là một tín đồ của Jêsu Cơ đốc và của ngài thủ tướng.... Theo văn pháp Trung Quốc Tôi tự buộc tóc đến nay nên viết là Từ khi tôi buộc tóc đến nay mới được gọi là thông thuận. Đối với buộc tóc tới nay đã đeo đuổi cuộc cách mạng của thủ tướng thì lại càng là chỗ không thông. Buộc tóc chính là những năm ở tuổi nhi đồng. Tưởng Giới Thạch được gặp Tôn Trung Sơn, căn cứ theo niên biểu mà Trần Bố Lôi biên soạn cho Tưởng, là khi 23 tuổi (năm 1909 sau công nguyên, trong niên biểu viết rõ Lần đầu tiên yết kiến thủ tướng, đã dốc bầu tâm sự bàn việc nước. Trong di chúc của Tưởng Giới Thạch nói Buộc tóc đến nay đã đeo đuổi cuộc cách mạng của thủ tướng, điều này chẳng phải là khoác lác hay sao? Tạm thời không bàn tới việc đem chúa Jêsu kéo ngang hàng với Tôn Trung Sơn là tầm bậy, tự cho mình là một tín đồ, những chữ này thật đủ nực cười. Hai chữ Tự cư (tự cho mình) là để chỉ vốn dĩ không phải là sự việc này, nhưng lại cứ cứng nhắc mạo xưng . Ví dụ rõ ràng là một kẻ xấu xa, nhưng lại tự cư (tự cho mình) là người tốt. Câu đầu tiên trong bản di chúc của Tưởng thừa nhận tuy bản thân mình nói là tín đồ của thủ tướng, thế nhưng trên thực tế đâu có phải như vậy, ngụy trang mà thôi, thực sự đã khiến cho người ta cười rụng cả răng.
Lời nói sau cùng trong số 5 năm 1975 Tạp chí Trung Hoa do Hồ Thu Nguyên ủy viên ủy ban lập pháp Đài Loan chủ biên nói, tạp chí này. đã nhận được mấy bài đoản văn và thông tấn, có bình luận và phê phán đối với nghi lễ đại điển quốc tang lần này và sự mạch lạc của văn chương chính thức. Lời nói sau cùng của ban biên tập viết rằng: Sự việc xảy ra vội vàng lật đật, hơn nữa lại ở trong sự đau thương, có chỗ suy nghĩa chưa chu đáo, cũng chẳng có gì là lạ. Thế nhưng ở trong đó còn có câu Những chỗ chưa thông suốt... mong các phái hữu quan từ nay về sau hãy nên thận trọng hơn. Phàm làm việc gì hãy nên hỏi han những người thạo việc trong ngành, mới là cái đạo an toàn.
Đường Nhân tiên sinh tác giả Kim Lăng Xuân Mộng đối với hành văn và nội dung bản di chúc của Tưởng Giới Thạch cũng không cho là như vậy. Ông viết: Buộc tóc, là từ xưng hô đối với kiểu tóc thời Cổ đại, cuối đời Thanh, Tưởng Giới Thạch đã là cái đầu văn minh, ở thế giới hỗn độn Thượng Hải, đến Nhật Bản giang hồ đây đó, càng không thể có cái gọi là buộc tóc được, vào trường quân đội cạo đầu trọc thì làm gì còn tóc để có thể buộc. Trước và sau khi chết càng chẳng có tóc để mà nói, Cấp bách bàn về kiểu tóc chăng? Tần Hiếu Nghi cầm bút làm văn hộ bản di chúc, mở đầu bản di chúc đã viết tới hai chữ buộc tóc, bàn việc thì đầu trâu mõm ngựa, luận nội dung thì cổ hủ rã rời. Tức thì ông cho rằng, bản di chúc của Tưởng thực ra không phải tự thân lời căn dặn của Tưởng Giới Thạch, mà là Tống Mỹ Linh dùng Anh ngữ khẩu thuật, sau khi ghi chép bằng bút rồi lại dịch ra Hán Ngữ, vai trò của Tần Hiếu Nghi chỉ là đem bản thảo dịch ra tiếng Hán của Tống Mỹ Linh truyền miệng, làm cái việc nhuận sắc, sang sửa mà thôi. Đại để là dưới những tiền đề mà Tống Mỹ Linh đã gật đầu, gọt bỏ đi một số quá ư Tây hóa, khiến cho nó tỏ ra một chút phong thái văn hóa Trung Hoa. Do vì bản di chúc của Tưởng Giới Thạch không phải là tự bản thân Tưởng khởi thảo, sau khi Tần Hiếu Nghi ghi chép xong, Tưởng Giới Thạch cũng không ký tên chính thức, mà là do Tần Hiếu Nghi ký thay, cho nên ngài Lý Ngạo, một học giả nổi tiếng ở Đài Loan có rất nhiều điều nghị luận. Trong bài Bản di chúc của Tưởng Giới Thạch vô hiệu đối với pháp luật ông đã viết: Căn cứ vào điều 1194 Dân pháp Đài Loan quy định: viết thay di chúc, do người di chúc chỉ định từ ba người trở lên làm chứng, do người di chúc kể miệng, di chúc những mục đích, do một trong những người làm chứng viết lại, tuyên đọc, giảng giải, sau khi được người di chúc bằng lòng, ghi rõ ngày tháng năm cùng với tên tuổi người viết thay, được toàn thể những người chứng kiến cùng với người di chúc đồng thời ký tên. Nếu người di chúc không thể ký tên được thì phải in dấu ngón tay để thay thế. Ngày tháng trên bản di chúc của Tưởng Giới Thạch đề ngày 29 tháng 3, là sự việc trước khi chết 7 ngày, lúc đó tại sao không chỉ định ba người trở lên tới chứng kiến, Cùng ký tên vào ? . Tại sao lại chờ sau khi Tưởng Giới Thạch chết rồi mới mạo xuất người chứng kiến tới ký bổ sung ? Đã vừa vi phạm luật pháp lại vừa khó thông. Còn đối với bản di chúc vô hiệu đối với pháp luật này, Quốc dân đảng đã ra lệnh cho thiên hạ Theo Tưởng mà ca tụng ông, điều này chẳng phải là quá lừa dối xỉ nhục dân chúng hay sao ?
Đối với sự việc sau khi Tưởng Giới Thạch chết mới ký bổ sung vào bản di chúc, trong sách của ông Furuya có ghi thuật như sau: Từ trong hồi ức của ông Điền Quýnh Cảm Viện trưởng Viện tư pháp Đài Loan có thể nhìn thấy được một vết vằn. Điểm Quýnh Cẩm viết: Đúng 1 giờ sớm ngày mồng 6 tháng 4, bầu trời mưa cuồng gió giật sấm chớp đùng đoàng, bỗng nhiên ông nhận được điện thoại đánh từ dinh thự của Tưởng Giới Thạch tới, buộc ông phải lập tức đến ngay. Khi ông tới nơi, lập tức được mời lên lầu hai. Ông nhìn thấy Tưởng Giới Thạch nằm ở trên giường, đắp một tấm chăn đơn, dáng vẻ rất ung dung. Tưởng Kinh Quốc đớn đau khôn xiết chẳng nói nên lời. Khi Điền Quýnh Cẩm với Nghê Văn á, Dương Lượng Công, Dư Tuấn Hiền v.v..cúi mình vái lạy di thể của Tưởng Giới Thạch. Tưởng Kinh Quốc đã từng qùy xuống đáp lễ. Họ đã nhiều lần ngăn cản, Tưởng Kinh Quốc vẫn kiên trì không chịu. Tống Mỹ Linh thì ngồi ở trên chiếc ghế bên cạnh giường, tinh thần đau đớn xót thương, nhưng đã trấn định lạnh lùng, khuyên giải Tưởng Kinh Quốc không được quá đau đớn xúc động. Khi họ hành lễ xong, Tống Mỹ Linh gật đầu đưa ý gửi lời chào hỏi. Điền Quýnh Cẩm trong quá trình chưa nói tới việc ký tên trong văn bản, cũng không bàn tới có sự việc ký tên ngày 29 tháng 3, cho nên ngoại giới nói chung cho rằng, bản di chúc của Tưởng Giới Thạch là bản ký tên bổ xung sau khi đã chết.
Đối với vấn đề sắp xếp thứ tự giữa Jêsu và Tôn Trung Sơn tiên sinh, các tin đồn có rất nhiều tranh luận. Nghe nói lúc đầu Tưởng Kinh Quốc đã từng phản đối phương thức viết thuật này, thế nhưng Tống Mỹ Linh đã Kiên định bất di, Tưởng Kinh Quốc cũng đành phải bãi bỏ. Đường Nhân tiên sinh căn cứ vào những tin đồn hữu quan, trong cuốn sách Thảo sơn tàn mộng của mình, đã viết:Tưởng Kinh Quốc nhìn thấy Mẫu hậu đặt Jêsu ở trên Tôn Trung Sơn đã lo sợ vội nói rằng:
- Thưa mẹ, Jêsu là ...
- Không sao ! Tống đáp - có rất nhiều nhân vật vĩ đại ở Tây Phương, trên di chúc đều có những câu từ cảm kích đối với thượng đế. Cha của anh là một tín đồ Cơ đốc cuồng tín, tự mình tìm người dịch lại Kinh thánh, tự mình có nhà thờ để làm lễ. Một năm bốn mùa còn mời mục sư đến dinh thự giảng đạo. Mấy năm nay chỉ cần có người tới thăm ổng, khi sắp đi là ổng lại tặng khách một bộ kinh thánh. Tình hình này, hẳn anh cũng đã biết, có phải không ?
- Thưa mẹ, vâng ạ.
- Tốt, nay mẹ nói để anh biết, Tôn Trung Sơn là Quốc phụ , là người sáng lập ra Đảng ta, là tác giả của cuốn sách Tam dân chủ nghĩa, thế nhưng cha anh đã mấy lần in lại Tam dân chủ nghĩa để tặng cho mỗi vị khách một quyển. Cho dù ở trong Đảng bộ các cấp lại đã có ai đọc nó, lễ bái chưa có ? Có phải không?
- Điều này ...là, thưa mẹ.
- Vậy thì, đặt thượng đế lên trên, có điều gì không thoả hử?
Thái tử không nói gì. Ông quá hiểu rõ, Đài Loan từ nay về sau đều là đất trời của ông. Thế nhưng, trong quá trình Chế tạo ra bản di chúc này, ông không đủ sức tranh giành với Mẫu hậu được, tất thảy đều phải nghe theo bà. Đường Nhân tiên sinh đã đem những tin đồn viết thành câu chuyện, do đó đã có những chi tiết sinh động. Bất kể là Tống Mỹ Linh và Tưởng Kinh Quốc có như vậy hay không, đem Jêsu viết vào và đặt lên trước Tôn Trung Sơn tiên sinh là kết quả của sự kiên trì của Tống Mỹ Linh. Điều này đã được đồn đại rất nhiều và rất rộng.
Rõ ràng là trong di chúc của Tưởng Giới Thạch văn lý không thông, có những chỗ điên đảo vô lối, ngoài một số sai lầm và đã được phê phán ở trên vẫn còn có thể chỉ ra được nhiều chỗ nữa. Thế nhưng dựa vào ý thức tư tưởng mà xét thì cũng đã rõ cả. Một là thổi phồng rùm beng ca ngợi mình, nói bản thân mình là tín đồ trung thực của Tôn Trung Sơn, suốt đời phấn đấu để thực hiện Tam dân chủ nghĩa, thực hiện một quốc gia có nền chính trị dân chủ v.v..Hai là gào thét phản công đại lục giành lại toàn bộ đất đai đại lục, phục hưng văn hóa dân tộc, kiên trì đội hình chiến đấu dân chủ Tinh thần chống cộng đến cùng, dù chết không thay đổi của bản thân ông, còn cần ở bên cạnh đồng chí và sự nghiệp của mình. Trong dinh lũy của Tưởng Giới Thạch có một số lớn phái ngoan cố chống cộng cứng nhắc, Trần Thành đã từng đảm nhiệm qua chức phó tổng thống chính là một trong số đó. Chúng ta từng nói tới có người đã dùng sáu chữ Trung Tưởng, Phản Cộng, ái Quốc để bình giá tương đối chuẩn xác cuộc đời của ông ta, mặc dù vậy, trong bản di chúc mà trước khi Trần Thành chết cũng không thấy nhắc lại Phản công đại lục nữa, còn Tưởng Giới Thạch thì không như vậy, ông coi việc thất bại của đại lục xem như là mối hận mất nước, không phản công đại lục thì không đủ để bình phục nỗi phần hận trong trái tim ông. Chỉ có điều là Sự nghiệp vĩ đại mà trong suốt 25 năm, nửa đời người phần sau của ông vẫn chưa thể làm được, liệu còn có ai có thể thay ông thực hiện được đây ? Trên điểm này, Tưởng Giới Thạch khẳng định là di hận thiên cổ ?
Phần 9
Chương 3
Trong quan tài của Tưởng Giới Thạch đặt những cuốn sách nào ?
Nguồn: Mọt sách
Thu gọn nội dung
11 giờ 50 phút ngày 5 tháng 4 năm 1975, Tưởng Giới Thạch đã qua đời sau khi ốm. Nhà đương cục Đài Loan quy định Quốc tang một tháng bắt đầu từ ngày 6 tháng 4. Ngày 9 tháng 4, linh cữu của Tưởng được chuyển vào Quốc phụ kỷ niệm quán, để cho dân chúng được chiêm ngưỡng dung nhan thi hài trước sau 5 ngày. 8 giờ 5 phút ngày 16 tiến hành nghi thức truy điệu và an táng. Sau nghi thức, linh cữu của ông được chuyển đến Từ Hồ. 12 giờ 50 phút an quàn tại Hành quán chính sảnh.Khi nhập liệm cho Tưởng Giới Thạch, ông mặc áo bào dài và áo ngắn cưỡi ngựa, trên thân phủ Đảng kỳ Quốc dân đảng và Quốc kỳ. Những thứ đem theo vào trong quan tài có 3 tấm huân chương cao nhất khi sinh thời ông được nhận : Huân chương Thái Ngọc, Huân chương Thanh thiên bạch nhật và Huân chương Quốc Quang. Còn có cả mấy cuốn sách mà sinh thời ông thích đọc. Đối với việc trong quan tài đặt mấy quyển sách, là những quyển sách nào, ai đặt những quyển sách ấy, từ ấy đến nay, cách nói không giống nhau. Tưởng Kinh Quốc trong bài ký Một tháng bên linh cữu cha đã viết : Khi phương Đông bừng sáng, tại Tổng y viện Vinh Dân, theo phong tục quê hương, tôi đã mặc quần áo cho cha rồi khoác áo bào dài, áo ngắn cưỡi ngựa, rồi gắn huân chương. Đúng 10 giờ, mẹ tôi đem 4 quyến sách mà cha tôi thích đọc là Tam dân chủ nghĩa , Thánh kinh , Hoang mục cam tuyền và Đường thi, tự tay để vào trong linh cữu, ngoài ra còn có một chiếc mũ dạ pha len và một chiếc ba toong.
Năm năm sau, tháng 4 năm 1980, trong cuốn sách Một năm khó quên, khi hồi ức lại tình hình lúc khâm liệm cho Tưởng Giới Thạch, Tưởng Kinh Quốc viết : Đến Tổng y viện Vinh Dân mặc quần áo cho cha, đây là một lần làm việc cuối cùng của người con có thể được bên cạnh cha. Theo tục lệ quê hương, phải mặc 7 chiếc quần, 7 chiếc áo, bao gồm cả áo bào dài và áo chẽn chăn ngựa. Trên người ông có quấn vải tơ, đi bít tất đen, giày da màu đen, đeo huân chương và còn kèm theo 4 bộ sách mà sinh thời cha tôi thích đọc. Đó là các quyển Tam dân chủ nghĩa , Thánh kinh , Hoang mạc cam tuyền và Thơ Đường đặt vào trong quan tài. Ngoài ra còn có mũ dạ, mũ nỉ mỗi thứ một cái, găng tay một đôi, khăn tay một chiếc, ba toong một chiếc. Đây là những vật mà thường ngày cha tôi thường dùng. Trong Một năm khó quên của Tưởng Kinh Quốc, những quyển sách được đặt vào trong quan tài vẫn là mấy quyển sách đó, thế nhưng người đặt sách lại từ Tống Mỹ Linh biến thành bản thân Tưởng Kinh Quốc.
Điều thú vị là, Báo cáo lễ tang chính thức của nhà đương cục Đài Loan ngày 9 tháng 4 lại hoàn toàn khác với những điều đã kể trên :Linh cữu của cụ Tưởng Tổng thống quyết định chuyển đến Quốc phụ kỷ niệm quán vào chính ngọ ngày hôm nay. 6 giờ sáng tại Tổng y viện Vinh Dân sẽ cử hành tiểu liệm. Tưởng Viện trưởng tuân theo cổ lễ đã mặc áo bào dài màu xanh và áo chăn ngựa chẽn màu đen cho Tổng thống, ngực đeo huân chương lớn Thái Ngọc, bên trái, bên phải là huân chương Quốc Quang và huân chương Thanh thiên bạch nhật. Phu nhân đích thân đem những quyển sách Kinh thánh , Tứ thư , Đường thi , Tam dân chủ nghĩa , Hoang mạc cam tuyền là những quyển sách thường nhật cụ Tưởng thích đọc, cùng với một số vật thường dùng như mũ lễ, ba toong đặt vào trong quan tài, những người trong gia quyến xếp hàng quì xuống vái lạy, khóc tế trước linh cữu. Trong báo cáo Quốc tang này, người mặc quần áo thọ là Tưởng Kinh Quốc, người đặt sách vào là Tống Mỹ Linh. Có người nói, đây là Dao thái đậu phụ - hai mặt sáng. Vấn đề là trong Báo cáo lễ tang chính thức có độ tin cậy rất cao này, 4 quyển sách đã biến thành 5 quyển sách, thêm lên một quyển Tứ thư, một trước tác tiêu biểu cho sự tinh tuý của nền văn hoá Trung hoa.Báo cáo lễ tang là sáng tác tập thể của các nhân sĩ hữu quan phía Nhà nước, đúng ra so với ghi chép cuả Tưởng Kinh Quốc lúc đó ngũ tạng suy tàn tê liệt phải có độ tin cậy cao hơn. Thế nhưng trong tường thuật của Báo cáo lễ tang ngày 16 tháng 4 lại phát sinh mâu thuẫn với tường thuật ngày 9 tháng 4, đó là : 8 giờ tiến hành lễ đại liệm, do Nghiêm Tổng thống chủ tế, các đại viên lễ tang bồi tế, những người dự tế đứng nghiêm tại chỗ, cử ai nhạc, mặc niệm (đồng bào trong toàn quốc thì đứng nghiêm tại chỗ mặc niệm một phút). Sau khi dâng hoa và kính cẩn đọc văn tế, phu nhân, Tưởng công tử Kinh Quốc, thứ công tử Vĩ Quốc và hai tôn công tử Hiếu Vũ, Hiếu Dũng trong đớn đau khổ sở đậy chặt nắp quan tài (khi đậy nắp quan tài, lại đặt thêm một bộ Tứ thư vào trong). 8 đại viên phủ cờ là Trương Quần, Hà ứng Khâm, Cốc Chính Cương, Hoàng Thiếu Cốc, Hoàng Kiệt, Tạ Đông Mẫn, Trần Lập Phu và Tiết Nhạc, cung kính đem cờ Đảng phủ lên trên quan tài. Lại do 8 đại viên phủ cờ là Nghiêm Tổng thống, Nghê Văn á, Điền Quýnh Cẩm, Dương Lượng Công, Dư Tuấn Hiền, Từ Khánh Chung, Vương Vân Ngũ và Vu Vân cung kính đem Quốc kỳ phủ lên trên Đảng kỳ. Toàn thể các nhân viên dự tế hành 3 lần cúc cung vái lễ, lại cử ai nhạc, lễ đại liệm chấm dứt.Trong đoạn tường thuật này, mấu chốt là ở chỗ Khi đậy nắp quan tài, lại đặt thêm một bộ Tứ thư vào trong. Đối chiếu với điều ghi ngày 9 tháng 4 đó, tựa hồ như vốn dĩ ở trong quan tài đã có một quyển Tứ thư rồi, mà nay đặt thêm vào một bộ nữa. Nếu quả thật như vậy thì tại sao lại đặt những 2 bộ Tứ thư vào trong quan tàI ? Là một tín đồ của Thủ tướng, Tam dân chủ nghĩa của Thủ tướng chỉ đặt có một quyển; Là một Tín đồ Cơ đốc cuồng tín, Kinh thánh của Cơ đốc cũng chỉ đặt có một quyển, thế mà Tứ thư lại phải đặt hai quyển, lúc tiểu liệm đặt một quyển, khi đại liệm lại đặt một quyển? Có người từng chỉ trích nói rằng : Có lẽ nào lại đặt thừa một bộ, để cho cụ Tưởng ăn hay sao? Tình hình thực tế có khả năng là, lúc tiểu liệm ngày 9 tháng 4, sách đặt vào chỉ có 4 quyển, không có quyển Tứ thư, đến khi đại liệm ngày 16 tháng 4 đã đặt thêm quyển Tứ thư này. Sách ở trong quan tài của Tưởng Giới Thạch tới ngày 16 tháng 4 mới biến thành 5 quyển.Thế thì tại sao khi tiểu liệm ngày 9 tháng 4 trong quan tài không có Tứ thư mà lại viết là có Tứ thư. Tại sao lúc đại liệm ngày 16 tháng 4 lại đặt thêm một quyển Tứ thư vào trong quan tài? Có người bình luận nói : Tưởng Giới Thạch luôn luôn rùm beng bản thân mình là đại biểu của nền văn hoá Trung Hoa, suốt đời dốc sức cho việc phục hưng nền văn hoá dân tộc. Nếu như trong những quyển sách mà ông thích đọc lúc sinh thời, lại không có quyển Tứ thư đại biểu cho nền văn hoá chính thống Trung quốc, hoá chẳng phải là chuyện nực cười tày trời hay sao? Cho nên đem quyển Tứ thư liệt vào một trong những quyển sách mà Tưởng Giới Thạch thích đọc nhất lúc sinh thời, vội vội vàng vàng nhét vào trong quan tài, quả thật là muốn lừa dối công chúng, cũng là muốn bổ sung thêm hình tượng cho Tưởng Giới Thạch. Giả định đúng là khi đại liệm ngày 16 tháng 4 có đặt thêm một quyển Tứ thư vào, vậy thì ai đặt ? Ai khi đậy nắp quan tài đã đem bộ trước tác quan trọng này đặt vào trong quan tài của Tưởng Giới Thạch?
Trong cuốn Ghi chép thực về nỗi đau buồn của cụ Tưởng Tổng thống do Trung ương nhật báo Đài Loan xuất bản có điều viết về ngáy 16 tháng 4 như sau : Hôm nay là một ngày đại lễ an táng thi thể cụ Tưởng Tổng thống .Sáng sớm, hai vị công tử của cụ Tưởng, Tưởng Kinh Quốc Viện trưởng và Tưởng Vĩ Quốc Tướng quân dẫn toàn thể gia thuộc là ái tôn Hiếu Vũ, Hiếu Dũng của cụ Tưởng, đem một bộ sách Tứ thư mà sinh thời cụ Tưởng rất thích đọc, yên lặng đặt ở bên cạnh cụ Tưởng, đồng thời còn mặc áo bào màu xanh, áo chẽn màu đen và đeo huân chương lên thi hài của cụ, lại phủ thêm vải liệm màu trắng cho cụ. Sau đó họ đều quì trước linh cữu, cung kính cử hành đại lễ 3 lần quì, 9 lần vái. Sau khi đứng dậy diễu quanh quan tài 3 vòng, những dòng nước mắt nóng hổi nhỏ xuống, cuối cùng đã phát thành tiếng khóc đau khổ, nức nở. Kể từ khi cụ Tưởng tạ thế, trong 10 ngày lại đây, trước linh cữu này đã tuôn trào những dòng lệ nóng hổi của hơn 2 triệu quần chúng tới chiêm ngưỡng cụ. Hiện tại, những giây phút trước khi cử hành đại lễ , hơn 2.800 vị nhân sĩ trong và ngoài nước lần lượt tiến vào linh đường, chỉ có sự tĩnh mặc của sự trầm lắng sâu xa...Đúng 8 giờ sáng, Tưởng phu nhân do Tưởng Viện trưởng và Tưởng Vĩ Quốc tướng quân dìu, chầm chậm từ phía đông tiến lên lễ đài. Lễ đại liệm chôn cất cụ Tưởng Tổng thống đã long trọng bắt đầu.
Đoạn tường thuật này đã chứng tỏ một cách rõ ràng, Tứ thư là do Tưởng Kinh Quốc và Tưởng Vĩ Quốc v.v...cùng bỏ vào trong quan tài. Vấn đề là ở chỗ, trong Ghi chép một tháng bên linh cữu cha và Một năm khó quên của Tưởng Kinh Quốc đều không thấy nêu ra việc đặt bộ Tứ thư vào, cho nên cuối cùng có đặtTứ thư vào hay không vẫn còn là một nghi án, một câu đố. Một vấn đề khác nữa là, trong bài báo tường thuật ở trên, người đặt sách tuy đã được ghi chép rõ ràng, thế nhưng thời gian đặt sách vào là ở buổi sớm, với thời gian đậy nắp quan tài mà Báo cáo tang lễ kể thì đã có sự thêm bớt không khớp rất lớn, bởi vì khi đậy nắp quan tài cần phải phủ đậy Đảng kỳ, phủ đậy Quốc kỳ, có rất nhiều đại viên bận rộn trước sau, có các vị tân khách trong và ngoài nước, vây trái, quây phải, Tống Mỹ Linh không thể không có mặt ở đó, mà trong bài tường thuật ở đoạn trên lại nói sáng sớm bỏ sách Tứ thư vào. Đúng 8 giờ sáng Tống Mỹ Linh mới tới trước linh cữu, có ý nói là lúc đặt sách vào, Tống Mỹ Linh thực tế đá không có mặt ở đó.
Nói tóm lại trong quan tài của Tưởng Giới Thạch, cuối cùng đặt 4 quyển sách hay là đặt 5 quyển sách? đặt vào ngày nào ? ai đặt vào ? là một mớ hồ đồ khó hiểu. Chẳng trách Hồ Thu Nguyên đã hoà nhã có lời khuyên : Mong các phía hữu quan từ nay về sau hãy nên thận trọng hơn để tránh cho ngoại giới cho rằng Trung Quốc tự do là vô nhân. Các học giả đại lục và các nhân viên nghiên cứu phần lớn đều sử dụng cách nói của Tưởng Kinh Quốc, tức là chỉ đặt vào trong quan tài có 4 quyển sách là Tam dân chủ nghĩa , 300 bài thơ Đường , Thánh kinh và Hoang mạc cam tuyền.Đối với các độc giả đại lục mà nói, trong các sách kể trên, tương đối xa lạ là Hoang mạc cam tuyền. Từ trong tên của cuốn sách có chút vị tản văn này, không ít người đã cho rằng nó là một cuốn sách kể lể như loại du ký mang tính chất khu vực, kỳ thực đó là một cuốn sách tuyên truyền giáo nghĩa đạo Cơ đốc, một cuốn sách mang tính triết lý tương đối mạnh, nó là một quyển sách được tổ thành do từng câu nói giàu tính triết lý bà ra la liệt, hành văn và cách thức đều rất giống như Luận ngữ. Nọi dung của nó phần lớn là động viên con người không ngừng phấn đấu, dũng cảm vươn lên trong mọi nghịch cảnh.Tháng 7 năm 1944 Tưởng Giới Thạch có được quyển sách Hoang mạc cam tuyền này, chuyên tâm miệt mài đọc nó, yêu thích không lúc nào rời tay. Sau khi tới Đài Loan càng đòi hỏi mình mỗi ngày đều phải đọc. Tưởng muốn dùng quyển sách này để tu dưỡng linh hồn và tính cách của mình, tận mọi khả năng để nâng cao năng động tính của con người, từ đó chiến thắng mọi cửa ải khó khăn gian khổ, trăm nghìn trắc trở cũng không sờn lòng. Ngày 3 tháng 1 năm 1945, trong lời phê và ghi chú khi đọc sách, Tưởng đã nói về ảnh hưởng của cuốn sách này đối với ông như sau : Cuối năm ngoái, chịu đựng đủ mọi nỗi gian nguy, mà vẫn kiên nhẫn không đổ ngã, vẫn bình tĩnh vượt qua, thực sự sức mạnh từ trong sách này không ít...Trong cuốn Tưởng Giới Thạch truyện, Vương Phủ Dân tiên sinh nói : Tưởng Giới Thạch không những hấp thụ được sức mạnh tinh thần từ trong Hoang mạc cam tuyền, mà năm 1965 đã đem cuốn sách này truyền cho Tưởng Kinh Quốc và còn bắt Tưởng Kinh Quốc sao chép toàn bộ tất cả những lời phê phán, bình chú của mình ở trong quyển sách này.
Phần 9
Chương 4
Tại sao Tưởng Giới Thạch không an táng xuống đất mà lại quàn tạm ở Từ Hồ ?
Nguồn: Mọt sách
Thu gọn nội dung
Trong tục chôn cất truyền thống ở Trung Quốc, chôn xuống đất là an, mà đem quan tài quàn tạm ở một chỗ gọi là đặt linh cữu (quàn) đợi táng. Ngày 16 tháng 4 năm 1975,s au nghi thức đại liệm, linh cữu của Tưởng Giới Thạch được quàn tạm ở chính sảnh hành quán của Từ Hồ, mà chưa an táng xuống đất.
ở Đài Loan, Tưởng Giới Thạch có 47 tòa hành quán, Từ Hồ là một trong những hành quán mà ông thích nhất.Từ Hồ nằm ở huyện Đào Viên cách phía nam Đài Bắc 60 cây số, ở chỗ giáp giới thị trấn Đại Khê với làng Phục Hưng. Từ Hồ trước kia gọi là Bì Vĩ, mà Bì Vĩ sở tại được dân làng gọi là Động Khẩu.
ở Đài Loan, bờ biển phía Tây, phía Bắc, phía Nam phần lớn là những bãi cát bằng phẳng hoặc những đồi núi thấp phẳng; bờ biển phía tây phần lớn vách núi dựng đứng. Miền trung lại là tầng tầng lớp lớp dãy núi lấy dãy núi Ngọc Sơn làm chủ thể, cách trở đông tây, giao thông vô cùng bất tiện. Nhà đương cục Đài Loan, vì cải thiện việc giao thông ở khu vực miền trung, tăng cường sự liên hệ giữa hai miền đông tây, bắt đầu từ giữa năm 1950 trở di đã đại tu đường quốc lộ xuyên ngang miền trung đảo Đài Loan, trước sau tổng cộng đã tu sửa thành 8 con đường. Bì Vĩ sở dĩ được gọi là Động Khẩu (cửa hang) chính là bởi vì nó nằm ở chỗ cửa vào đường hầm đường quốc lộ xuyên ngang đoạn phía bắc. Đường hầm được đặt tên là Bách Cát, thế nhưng dân chúng lại gọi nơi đây là Động Khẩu, hơn nữa tên gọi cũ này vẫn được bảo lưu, công ty vận chuyển khách quốc lộ Đào Viên đã xây dựng một trạm nhỏ ở đây, tên trạm được gọi là Động Khẩu.Trên mặt quản lý hành chính, Bì Vĩ thuộc Phúc An Lý cuả thị trấn Đại Khê. Phúc An Lý nằm ở trong một dãy núi thấp xen kẽ thú vị, núi Thảo Lĩnh kề bên, núi Bạch Thạch ở phía đông, núi Thạch Ngưu ở phía Nam, cùng với các núi như núi Sáp Thiên, núi Giác Bản, núi Lạp Lạp v.v.. ở xa hơn một chút vây tròn bốn xung quanh. Làng Phúc An (Phúc an lý) có hơn một ngàn cư dân, chủ yếu làm nghề nông. ở trong những hẽm núi xa gần đều là tầng tầng ruộng bậc thang, trong những khoảng không của ruộng bậc thang trồng rất nhiều trúc, cây long não, nhà nông nửa ẩn nửa hiện, dưới khe núi nước chảy róc rách trong suốt nhìn thấy đáy, cảnh trí cực kỳ u nhã tĩnh mịch. Bì Vĩ vốn là cái hồ ở dưới chân núi Giác Bản làng Phúc An, Hồ trước tương đối lớn ước độ 5 héc ta, hồ sau hơi nhỏ, tương đối hẹp và dài. Giữa hai hồ trước sau vắt ngang một dãy núi xanh thẳm nhưng lại có một dòng nước nối liền. Hồ như ở trong núi, luôn luôn bao phủ một tầng sương mù, đỉnh núi xanh thắm xuyên sương mù xuất hiện ra, trên đỉnh núi thường hiện ra quang cảnh như cánh thuyền nổi trên biển mây. Sườn phía nam hồ lớn có một con đê dài, thẳng liền với quốc lộ vắt ngang. Đầu năm 1960, khi Tưởng Giới Thạch đánh xe tới thăm núi Giác Bản qua làng Phúc An, nhìn thấy một khoảnh đất linh thiêng tú lệ như vậy, vô cùng yêu thích. Đặc biệt là ở chỗ cao con đường quốc lộ giữa núi đưa mắt nhìn thấy thị trấn Đại Khê ở cạnh con suối Đại Hán, có cảm giác như từ trên vách đá cao ngàn trượng của Phụng Hóa nhìn sang thị trấn Khê Khẩu, không những có cảnh sắc cuả Thủy Hương Giang Nam, hơn thế còn lờ mờ một ảo giác chỗ ở cũ Khê Khẩu. Ông ngước mắt nhìn thắng cảnh non xanh hồi tưởng đến bà mẹ Vương Thái phu nhân của mình, do đó đã đem Bì Vĩ đổi tên thành Từ Hồ và xây dựng hành quán ở đây. Trong Một tháng coi sóc linh cữu cha Tưởng Kinh Quốc đã từng viết: Tấm thân này trú ngụ ở Từ Hồ Đài Loan, con tim này lại tưởng nhớ tới từ am của tổ mẫu ở cố hương ...cha tôi đã đặt tên công trình kiến trúc nhỏ này là Từ Hồ, ý tứ của người là để kỷ niệm tổ mẫu đó vậy.
Từ Hồ hành quán ba mặt là núi vây quanh, trong rừng cây xanh rậm rạp có một góc Hồng Lâu. Cửa chính là hai cánh cửa lớn sơn đen, trên cửa khắc một đôi vòng đồng đầu sư tử, sắc cổ hương cổ, ở chính giữa khuôn cửa treo tấm biển gỗ Từ Hồ tự tay Tưởng Giới Thạch viết, biển hồng thẫm như vàng.Sau khi vào cửa phân ra hai đường hành lang bước lên từng bậc, hai bên là nhà ngang, phía trước sân chơi là chính sảnh, hai bên nhà sảnh đều có hai gian phòng trên. Trước và sau hành quán, mỗi bên đều có một chiêu đãi sở, là nơi cho các tân khách nghỉ ngơi, phía trước là nhà băng, phía sau là nhà lầu, lưng đều dựa vào núi giác bản mặt nhìn ra hồ nước. Sau khi hành quán của Tưởng Giới Thạch xây dựng xong, Bì Vĩ cũng được tu chỉnh, trên bờ hồ đều trồng hoa cỏ, đa cọ, liễu rủ, cong thẳng thông u, trên hồ có con thuyền gỗ hai mái chèo, cũng có ca nô chạy. Trên sân chơi hành quán của Tưởmg có một con đường núi mòn có thể chạy thẳng ra bờ hồ, những năm cuối Tưởng thường đi dạo chơi, đọc sách, thủng thẳng nhàn tản giữa cảnh nước non này. Phong cảnh Từ Hồ tú lệ, thế nhưng nguyên nhân chủ yếu khiến cho Tưởng chú tâm vào nơi này còn là cảnh đẹp núi xanh suối biếc của Từ Hồ gần giống như Khê Khẩu làng cũ của Tưởng.
Năm 1930, khi Tưởng Giới Thạch trùng tu mộ của Mẫu vương Thái ngọc, ông đã từng nói bản thân mình phải chọn một mộ địa ở Khê Khẩu, chuẩn bị cho sau khi trăm tuổi. Được biết như vậy, có người nói sau khi Tưởng Giới Thạch chết sở dĩ còn quàn tạm tại Từ Hồ chính là vì để sau này có thể lại đem linh cữu của mình chuyển về Phụng Hóa, chôn ở bên cạnh người mẹ đã sinh ra ông. Vậy mà, trước khi lâm chung Tưởng Giới Thạch căn dặn rõ ràng Linh cữu tạm thời quàn tại Từ Hồ, đợi sau khi quang phục sẽ táng tại lăng Trung Sơn, sẽ cùng với Tôn Trung Sơn tiên sinh coi sóc lẫn nhau. Thế mà, trong quyết nghị của ủy ban thường vụ Trung ương ngày 7 tháng 4 Quốc dân đảng, lại nói chờ sau khi quang phục sẽ an táng tại đại lục, không hề nói rõ an táng cụ thể ở chỗ nào. Nên nói rằng, cả ba cách nói kể trên, đại để đều là đúng cả, bởi vì chúng đều khẳng định, sở dĩ Tưởng Giới Thạch chôn tạm quan tài ở Từ Hồ là vì trong tương lai phản công đại lục, quang phục đại lục, là quyết kế đem mình chôn ở đại lục mà không phải ở Đài Loan.Trong Tưởng Kinh Quốc truyện, Giang Nam tiên sinh nói: Phản công đại lục chỉ là một truyện thần thoại, từ đầu chí cuối, ông Tưởng không có dự định này, thế nhưng do vì những thần thoại chính trị này, những lời hứa công trái này, những con người thần thoại này, có lợi cho nền thống trị của tập đoàn Quốc dân đảng, nên ông mới hết sức lợi dụng. Lời kết luận của Giang Nam tiên sinh có từ tháng 3 năm 1984, trong lời nói chuyện của ông trong lần tới thăm Ngô Quốc Chinh tiên sinh ở châu Maiami bang Florida. Ngô Quốc Chinh nói với Giang Nam, ông ấy cho rằng đầu năm 50 Đài Loan chỉ có thể công, không thể thủ, trường kỳ đối địch cuối cùng sẽ bị thất bại; Tháng 12 năm 1950, chí nguyện quân nhân dân Trung Quốc xuất quân sang Triều Tiên, sau khi công bố tin tức này, Ngô Quốc Chinh Chủ tịch tỉnh Đài Loan đương nhiệm lập tức tới gặp Tưởng Giới Thạch, yêu cầu triển khai hành động quân sự với đại lục, phái cử quân đội tiến lên đảo Hải Nam, Tưởng Giới Thạch bằng lòng suy nghĩ kỹ rồi sẽ nói. Sau ba ngày nhắc lại chuyện cũ, Tưởng Giới Thạch nói sơ sài qua quýt với Ngô: Ông không phải là quân nhân, không hiểu được việc quân sự. Tức thì Ngô Quốc Chinh cho rằng vịệc phản công đại lục của Tưởng Giới Thạch chỉ là điều nói suông mà thôi, từ trước tới sau, ông ta không có dự định này. Kỳ thực, cách nói này rất có chỗ xoay sở để thương lượng. Năm 1950, thậm chí suốt cả năm 1950, quân đội Quốc dân đảng qua thất bại thảm hại ở đại lục mà đã mất hết nguyên khí. Công cuộc khôi phục kinh tế và phát triển xã hội của đại lục đã sôi sục hàng ngày, Tưởng Giới Thạch muốn phản công đã không có điều kiện vững mạnh lại chẳng có cơ sở xã hội tương ứng. Cho nên điều Tưởng Giới Thạch phê bình Ngô Quốc Chinh không hiểu quân sự lúc đó phải nên nói là điều đã tự biết rõ mình rồi, thế nhưng điều này không thể nói rõ Tưởng Giới Thạch không dự định phản công đại lục. Di chúc của Tưởng Giới Thạch và các công việc tiến hành điều tra, thăm dò, bao vây, phá hoại mà ông chỉ đạo quân đội đối với đại lục đều nói rõ ông luôn luôn khắc cốt ghi xương muốn phản công chiếm lại đại lục, quàn tạm quan tài đợi chôn cất cũng là biểu hiện nội dung chủ yếu trong bản di chúc chính trị của ông già chính trị này. Không phản công chiếm lại đại lục, không giành lại giang san đã mất, thì Tưởng Giới Thạch có chết cũng không nhắm được mắt. Về điểm này, trong nhật ký ngày 4 tháng 5 năm 1975 của Tưởng Kinh Quốc cũng đã có thể được chứng minh.Trước buổi trưa, từ núi Giác Bản trên Từ Hồ, hai bên đường tuy cây xanh trúc thắm, núi biếc lúa non, ở đây thực sự là cảnh tự nhiên tuyệt đẹp. Thế nhưng nhìn thấy bạn nhà nông chai tay chai chân làm việc đồng áng, tôi đặc biệt cảm thấy họ vô cùng gian khổ. Ngồi lặng lẽ trên mai đài, nhìn núi non đồng ruộng trùng trùng điệp điệp, làng xóm thưa thớt, bỗng tôi hồi tưởng lại người cha năm ấy (chỉ năm 1967-người viết ghi chú) ... đã dạy con rằng: Thù riêng có thể không trả, thù lớn không thể không trả. Bởi vì thù riêng là thù của cá nhân, thù lớn là thù của đất nước, của nhân dân, của dân tộc. Đại trượng phu có thể không tính đến thù riêng, nhưng không thể không báo trả đại thù của dân tộc của đất nước được !. Điều nung nấu mộng mỵ cầu đạt trong suốt nửa cuộc đời sau của Tưởng Giới Thạch chính là chiếm lại đại lục, xây dựng lại vương triều nhà Tưởng. Thế nhưng không những khi ông qua đời, nguyện vọng này chưa thực hiện được, khi con trai ông là Tưởng Kinh Quốc qua đời cũng chưa thực hiện được, lịch sử có thể bảo cho ông biết điều sau cùng. Công việc Quang phục đại lục của ông là một giấc mộng không thể viên mãn được ! Có điều linh cữu của Tưởng Giới Thạch sẽ có một ngày có thể an táng tại đại lục được, đó chính là sau khi tổ quốc được hòa bình thống nhất.