Huế - Di tích Đình làng Dương Nỗ
Nguồn: Maxreading
Thu gọn nội dung
Cách Huế 7km về Phía Đông, theo tuyến Quốc lộ 49 Huế - Thuận An, có một vùng quê trù phú và nổi tiếng bởi truyền thống lịch sử - văn hóa lâu đời, đó là Làng Dương Nỗ.
Dân gian ta có câu: ”Cây đa - bến nước - sân đình” đó chính là cội nguồn lịch sử, là truyền thống văn hoá nuôi dưỡng tâm hồn cao đẹp của bao thế hệ con người Việt Nam. Làng Dương Nỗ với ngôi đình bề thế, uy nghi được xây dựng từ đời vua Lê Thánh Tông (1471), toạ lạc bên dòng sông Phổ Lợi, đã gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của làng quê Thừa Thiên Huế qua bao thăng trầm và biến đổi.
Lúc đầu, đình có cấu trúc xây dựng đơn giản bằng tranh, tre, nứa, lá. Trải qua các đời chúa Nguyễn cho tới Triều Tây Sơn, quy mô kiến trúc của đình chỉ gồm một gian hai chái. Mãi đến năm Gia Long thứ 7 (1808), Tri tượng Chánh trưởng Tượng quân kiêm Cai tào vụ giám quân Nguyễn Đức Xuyên đã giúp dân làng xây dựng lại ngôi đình từ tranh, tre thành ngôi đình có quy mô rộng lớn (năm gian hai chái) bằng gỗ lim bền vững.
Ngày nay, Đình Làng Dương Nỗ là một di tích tiêu biểu trong hệ thống di tích lưu niệm về thời niên thiếu của Bác Hồ tại Thừa Thiên Huế. Đặc biệt, trong thời gian Bác Hồ cùng anh trai Nguyễn Sinh Khiêm theo cha về sinh sống, học tập tại Làng Dương Nỗ (1898 - 1900).
Trải qua thời gian và những biến động lịch sử, di tích Đình Làng Dương Nỗ có phần bị hư hỏng, nhưng nhìn chung về mặt tổng thể và cấu trúc, vật dụng bên trong vẫn giữ nguyên trạng như thời gian Bác Hồ về sống ở làng mà thường ngày Người vẫn đến chơi và viếng cảnh.
Ngoài giá trị di tích lưu niệm Bác Hồ, Đình Dương Nỗ còn mang những nét độc đáo, đặc trưng về kiến trúc, nghệ thuật, văn hoá tiêu biểu của thiết chế văn hoá làng, xã Việt Nam trên đất Huế. Cùng với nhà lưu niệm ở Dương Nỗ, Đình làng Dương Nỗ đã khắc ghi trong trí nhớ Bác Hồ bao kỷ niệm tuổi thơ trong sáng, nơi đã có tác động không nhỏ đến đời sống tình cảm và nhận thức của Người.
Đình làng Dương Nỗ được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là Di tích văn hoá nghệ thuật cấp quốc gia theo Quyết định số 3777/QĐ-BT ngày 23 tháng 12 năm 1995
Huế - Di tích Nhà Lưu niệm Bác Hồ ở Dương Nỗ
Nguồn: Maxreading
Thu gọn nội dung
Nhà lưu niệm Bác Hồ ở Dương Nỗ thuộc xã Phú Dương, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế. Đây là ngôi nhà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sống từ năm 1898 - 1900, khi Người cùng anh trai Nguyễn Sinh Khiêm theo cha về đây dạy học.
Năm 1898, sau khi thi Hội lần thứ hai không đỗ, cụ Nguyễn Sinh Sắc (thân sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh) đã được ông Nguyễn Sĩ Độ mời về nhà dạy học (tại làng Dương Nỗ). Hai anh em Khiêm, Cung theo cha về đây, một phần để đỡ gánh nặng kinh tế gia đình cho bà Loan, một phần để cụ Sắc có điều kiện dạy học cho hai con. Tại lớp học chữ Hán của cha trong ngôi nhà này, Người đã được cha chính thức khai tâm cho mình. Hai chữ khai tâm đầu đời là chữ “Nhân, Nghĩa” như một lời răn dạy đầu tiên về đạo đức làm người. Hai năm theo học cùng cha tại đây, Nguyễn Sinh Cung tiếp thu rất nhanh, trở thành cậu học trò thông minh xuất sắc. Và những tri thức mà Người tiếp thu được là nền móng vững chãi cho sự phát triển về học vấn sau này.
Được về sống ở Làng Dương Nỗ, một làng quê yên ả, thanh bình, giàu truyền thống văn hoá, Nguyễn Sinh Cung có điều kiện hoà nhập với đời sống cộng đồng làng xã, được bao bọc bởi tình cảm yêu thương chan hoà, nhân hậu bao dung của những người dân quê chất phác, thuỷ chung; được chứng kiến cuộc sống lao động cần cù của những người nông dân lam lũ. Đời sống đó đã góp phần hình thành nên cội nguồn nhân bản trong tâm hồn Người.
Nhà lưu niệm Bác Hồ ở Làng Dương Nỗ là một ngôi nhà tranh ba gian, hai chái, vách ghép ván. Đồ đạc trong nhà đơn sơ, giản dị, ở gian giữa kê bộ phản gỗ gõ để cụ Sắc ngồi dạy học, hai bộ phản khác kê hai bên dành cho học trò ngồi học; ở góc trong, gian bên trái có kê giường gỗ, dát tre là nơi Nguyễn Sinh Khiêm, Nguyễn Sinh Cung thường ngủ; góc trong gian bên phải kê một chiếc rương để đựng đồ đạc. Hai chái hai đầu là nơi sinh hoạt và cất trữ thực phẩm của ba cha con. Nối với nhà chính là ngôi nhà ngang ba gian, mái lợp tranh, vách trát đất được sử dụng làm bếp sinh hoạt của gia đình.
Ngôi nhà đã được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là Di tích lịch sử Văn hoá cấp quốc gia theo Quyết định 296/QĐ-BT ngày 26.03.1990.
Huế - Di tích Lưu niệm thời niên Thiếu của Bác Hồ tại 112 -Mai Thúc Loan
Nguồn: Maxreading
Thu gọn nội dung
Di tích Lưu niệm thời Niên thiếu Bác Hồ tại ngôi nhà 112 - Mai Thúc Loan
Nhà lưu niệm Bác Hồ ở 112 Mai Thúc Loan, phường Thuận Lộc, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Đây là ngôi nhà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sống khi theo gia đình vào Huế lần thứ nhất từ 1895 - 1901.
Năm 1894, cụ Nguyễn Sinh Sắc (thân sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh) thi đỗ Cử nhân ở kỳ thi Hương Nghệ An, năm 1895 vào Huế thi Hội nhưng không đỗ. Để chuẩn bị cho kỳ thi sau, cụ xin vào học Trường Quốc Tử Giám - Huế và được chấp nhận. Khi được nhận vào học ở Trường Quốc Tử Giám, cụ Sắc được cấp học bổng, nhưng rất ít, nên không đủ để sinh sống tại đất Kinh Đô. Vì vậy, cụ về quê bàn với gia đình đưa vợ con cùng vào Huế để gia đình có điều kiện giúp đỡ ông học hành, và ông cũng có thời gian chăm sóc, nuôi dạy các con. Cuối năm 1895, ông cùng vợ (bà Hoàng Thị Loan) và hai con trai Nguyễn Sinh Khiêm, Nguyễn Sinh Cung ( Chủ tịch Hồ Chí Minh) lên đường vào Huế, gửi lại con gái đầu lòng là Nguyễn Thị Thanh cho bà ngoại. Đến Huế nhờ người quen giới thiệu, cụ đã thuê được một gian nhà nhỏ ở đường Đông Ba (là ngôi nhà di tích hiện nay).
Tại đây, Cụ Nguyễn Sinh Sắc hằng ngày đi nghe giảng sách, thức khuya dậy sớm chuyên tâm học hành, Bà Hoàng Thị Loan quán xuyến việc gia đình, quay tơ dệt vải, chăm sóc con cái, giúp chồng yên tâm học hành. Hai anh em Khiêm, Cung được cha, mẹ hướng dẫn, dạy bảo làm việc nhà, quen với cuộc sống lao động. Nếp sống sinh hoạt gia đình giản dị, thanh bạch, chan hoà tình nhân ái, yêu thương. Những năm tháng sống ở đây, cậu bé Nguyễn Sinh Cung đã được học bài học đầu tiên về lòng yêu nước, về nỗi đau của một dân tộc bị mất nước qua lời kể của cha hàng đêm về sự kiện thất thủ Kinh đô (23.5.Ất Dậu). Đặc biệt ngôi nhà này là nơi bà Hoàng Thị Loan sinh người con thứ tư là cậu bé Nguyễn Sinh Xin và cũng là nơi bà đã trút hơi thở cuối cùng ở tuổi 33 vào ngày 22 tháng Chạp năm Canh Tý (10.2.1901).
Nhà lưu niệm Bác Hồ tại 112 - Mai Thúc Loan là một ngôi nhà gỗ kiến trúc theo kiểu nhà rường truyền thống Huế, rộng ba gian, gồm bốn vài cột, mái lợp ngói liệt, tường bao quanh bằng gạch vồ, phía trước là hệ thống cửa bản khoa “thượng song, hạ đố”. Nối với nhà chính là nhà bếp, vách trát đất, mái lợp tranh. Ngôi nhà nằm trong một tổng thể nhà - sân - vườn hoàn chỉnh.
Ngôi nhà đã được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia theo Quyết định số 74 /VH-QĐ ngày 02.02.1993.
Đặc điểm: Tại phiên họp lần thứ 17 của Uỷ ban Di sản thế giới (DSTG) từ ngày 6 đến 11/12/1993, UNESCO đã quyết định công nhận quần thể Di tích Huế là tài sản văn hoá chung của nhân loại.
Ngày 2/8/1994, lễ trao văn bản công nhận đã được tổ chức trọng thể tại Hoàng cung Huế. Một sự kiện trọng đại trong lịch sử văn hoá Việt Nam, tài sản đầu tiên của Việt Nam được ghi tên vào danh mục Di sản thế giới, khẳng định giá trị mang tính toàn cầu của quần thể di tích Huế.
Trong biên bản phiên họp lần thứ 17, Uỷ ban Di sản Thế giới đã ghi về di sản Cố đô Huế như sau:
“Quần thể Di tích Huế là kinh đô của nước Việt Nam thống nhất được xây dựng vào đầu thế kỷ 19. Nó kết hợp triết lý Đông Phương và truyền thống Việt Nam. Được hoà quyện vào môi trường thiên nhiên, vẻ đẹp và sự phong phú đặc biệt của kiến trúc và trang trí ở các toà nhà là một phản ánh độc đáo của đế chế Việt Nam ngày xưa vào thời cực thịnh của nó”.
Quần thể Di tích Huế trở thành Di sản Văn hoá Thế giới đã góp phần tích cực và xứng đáng trong việc đem lại vận hội mới cho ngành du lịch Thừa Thiên Huế nói riêng và du lịch Việt Nam nói chung. Sức hấp dẫn của một công trình dẫu được ca ngợi bằng bao ngôn từ đẹp đẽ cũng không thể thay thế cho một lần đến chiêm ngưỡng. Bạn hãy một lần đến Huế để được tận mắt chứng kiến thành quả lao động của con người trên từng chi tiết chạm khắc hay những công trình đồ sộ đứng đó với thời gian hàng trăm năm...
Núi Bân hiện ở tại xứ Cồn Mồ, thuộc xóm Hành, thôn Tứ Tây, xã Thủy An, thành phố Huế. Núi có độ cao 41m, chiều dốc 25o và cách kinh thành Huế trên 3km. Phía đông, núi Bân tiếp giáp với Động Trọc và núi Ngự Bình, hai phía tây và bắc giáp thôn Trường Cỡi, xã Thủy Bằng, phía nam là khu vực cư trú của dân làng Tứ Tây.
Núi Bân vốn có nhiều tên gọi khác nhau, nhân dân địa phương thường gọi là Đông Tầng, Ba Tầng, Tam Tầng hoặc Ba Vành. Trong Hoàng Lê Nhất thống chí, bản dịch của Ngô Tất Tố năm 1942 gọi là núi Sam hoặc có lúc gọi là núi Bân. Tài liệu của Pirey trong B.A.V.H năm 1941 gọi là hòn Thiên.
Núi Bân gắn liền với sự kiện Nguyễn Huệ lập đàn Nam Giao tế trời đất và tuyên bố lên ngôi Hoàng đế lấy niên hiệu là Quang Trung. Trong khí thế tưng bừng của đội quân bách chiến bách thắng, chỉ trong vòng 5 tuần lễ, quân Tây Sơn đã vượt qua gần 700km đường rừng núi hiểm trở, trèo đèo vượt suối hành quân thần tốc, tiêu diệt đạo quân xâm lược Mãn Thanh, thu giang sơn về một mối.
Lợi dụng một quả đồi không cao lắm, đàn được xẻ làm ba tầng, tạo thành ba khối hình nón cụt chồng lên nhau. Ngay giữa đỉnh đồi là tầng thứ ba, bề mặt rất phẳng, chu vi 52,75m. Theo bốn hướng đi của đàn là 4 con đường, bề rộng của các con đường này càng lên đến đỉnh càng nhỏ hẹp lại.
Là một vị trí nằm ở phía Nam thành Phú Xuân, dựa vào địa thế của quả đồi không cao nên dễ vận động và có thể xây dựng đàn hoàn thành nhanh chóng, xung quanh là cánh đồng khá rộng, đủ sức tập kết hàng vạn quân. Chính vì những yếu tố địa lý và quân sự đặc biệt của khu vực này nên Nguyễn Huệ đã chọn núi Bân để lập đàn Nam Giao, trịnh trọng tuyên bố lên ngôi Hoàng đế và phát binh thần tốc ra Bắc.
Khu di tích này đã được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia năm 1988
Huế - Di tích Lưu niệm Danh nhân
Nguồn: Maxreading
Thu gọn nội dung
Khu di tích lưu niệm Phan Bội Châu:
Phan Bội Châu là nhàyêu nước, nhà tư tưởng, đồng thời là nhà thơ, nhà văn nổi tiếng của Việt Nam đầu thế kỷ XX. Sau nhiều năm bôn ba ở nước ngoài tìm đường giải phóng dân tộc, năm 1925 Phan Bội Châu bị thực dân Pháp bắt ở Thượng Hải (Trung Quốc) lén lút đưa về Hà Nội. Trước áp lực phong trào đấu tranh của nhân dân cả nước, thực dân Pháp buộc phải ân xá, đưa về giam lỏng ở Huế. 15 năm ở Huế (1925-1940), tên tuổi, con người và hoạt động của Phan Bội Châu đã cổ vũ rất lớn tinh thần đấu tranh yêu nước của quần chúng nhân dân. Hình ảnh “Ông Già Bến Ngự” gắn liền với những di tích lịch sử văn hóa liên quan đến cuộc đời và sự nghiệp của Phan Bội Châu: Ngôi nhà tranh dốc Bến Ngự, nhà thờ, lăng mộ và nghĩa địa mang tên Phan Bội Châu và một số di tích liên quan khác. Nhà bia thờ Ấu Triệu Lê Thị Đàn, lăng mộ Tăng Bạt Hổ, dãy bia con Ky, con Vá... Hệ thống di tích này ngày càng được bảo tồn và phát huy tác dụng.
Thành phố Huế nơi Phan Bội Châu đã đặt những bước chân đầu tiên trên con đường vận động cứu nước và cũng là nơi nhà chí sĩ đã sống qua những năm tháng cuối đời. Trải qua bao biến đổi, nhưng các di tích lưu niệm Phan Bội Châu được bảo tồn và phát huy ở Huế đã có những giá trị rất lớn về mặt lịch sử, văn hóa và là một di sản vô cùng quý giá đã được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử lưu niệm danh nhân quốc gia năm 1990.
Huế - Di tích Trường Quốc học Huế
Nguồn: Maxreading
Thu gọn nội dung
Trường Quốc Học tọa lạc bên bờ Sông Hương, trên đường Lê Lợi, thuộc phường Vĩnh Ninh, thành phố Huế. Là địa chỉ hấp dẫn và thuận lợi cho khách tham quan từ muôn nơi về với Huế.
Trường Quốc Học được thành lập theo dụ ngày 17 tháng 9 năm Thành Thái thứ 8 (23.10.1896) và Nghị định ngày 18.11.1896 của phủ Toàn quyền Đông Dương. Đây là một ngôi trường Pháp - Việt chính yếu của toàn xứ Đông Dương. Lúc đầu trường chỉ là những dãy nhà tranh vốn là trại lính thuỷ quân hoàng gia được cải tạo lại.
Sau khi thi đỗ Phó Bảng (1901), tháng 5 năm 1906 cụ Nguyễn Sinh Huy (Nguyễn Sinh Sắc) vào Huế nhậm chức Thừa biện bộ Lễ và đã mang theo hai con trai của mình là Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Tất Đạt cùng vào đây sinh sống, học tập. Lần này cụ Huy đã cho hai con vào học trường Pháp - Việt Đông Ba. Sau đó Nguyễn Tất Thành đã thi vượt cấp và được tuyển vào Trường Quốc Học.
Trong thời gian học ở trường này, cậu học trò Nguyễn Tất Thành đã có điều kiện tiếp thu nền văn minh phương Tây và hiểu rõ hơn bản chất khai hoá mị dân của thực dân Pháp xâm lược, với khẩu hiệu “Tự do - Bình đẳng - Bác ái”. Đặc biệt trong khoảng thời gian này, các phong tràoyêu nước của các sỹ phu nổ ra rầm rộ đã cuốn hút và tác động rất lớn đến nhận thức của Nguyễn Tất Thành. Tháng 4 năm 1908, phong trào chống thuế của nông dân miền Trung nổ ra mạnh mẽ. Không ngần ngại, Nguyễn Tất Thành đã tham gia phong trào chống thuế cùng với nông dân. Sự kiện này đánh dấu bước khởi đầu cho sự nghiệp đấu tranh yêu nước của Nguyễn Tất Thành. Từ đó cậu học trò Nguyễn Tất Thành đã tạm biệt mái Trường Quốc Học đi dần vào Phía Nam để tìm đường cứu nước.
Trường Quốc Học Huế đã chứng kiến những tháng ngày miệt mài học tập và hoạt động sôi nổi của Nguyễn Tất Thành, đồng thời là chiếc nôi đào tạo, bồi dưỡng biết bao lớp nhân tài cho đất nước.
Ngày nay Trường Quốc Học Huế cũng là một trong ba ngôi trường phổ thông trung học dẫn đầu sự nghiệp giáo dục quốc gia.
Chính vì thế, Trường Quốc Học Huế đã được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là Di tích Lịch sử Văn hoá cấp quốc gia theo Quyết định ngày 26.3.1990.
Vị trí: Kinh thành Huế nằm ở bờ bắc sông Hương và thuộc địa phận Tp. Huế, tỉnh Thừa Thiên - Huế.
Đặc điểm: Kinh thành Huế được xây dựng theo kiến trúc của phương Tây kết hợp một cách tài tình với kiến trúc thành quách phương Đông.
Huế từ xa xưa đã được các chúa Nguyễn chọn làm thủ phủ của xứ "Ðàng Trong" và chính thức trở thành kinh đô dưới triều Tây Sơn. Trong gần 4 thế kỷ, Huế đã trở thành một quần thể di tích kiến trúc và thắng cảnh vĩ đại, tổng thể di tích này đã được UNESCO công nhận là di sản văn hoá thế giới.
Kinh thành Huế - tổng thể kiến trúc của Cố đô Huế được xây dựng trên một mặt bằng diện tích hơn 500ha và được giới hạn bởi 3 vòng thành theo thứ tự ngoài lớn, trong nhỏ: Kinh Thành, Hoàng Thành và Tử Cấm Thành.
Tổng thể kiến trúc này dùng núi Ngự Bình làm tiền án và dùng hai hòn đảo nhỏ trên sông Hương là Cồn Hến và Dã Viên làm 2 yếu tố phong thuỷ rồng chầu hổ phục (Tả Thanh Long, Hữu Bạch Hổ) để bảo vệ Cố đô.
Kinh Thành Huế: Do vua Gia Long xây dựng từ năm 1805 và sau này được vua Minh Mạng tiếp tục hoàn thành vào năm 1832. Tại đó các vua triều Nguyễn đã cho xây dựng khá nhiều thành quách, cung điện và các công trình của hoàng gia. Trải qua gần 200 năm khu kinh thành hiện nay còn hầu như nguyên vẹn với gần 140 công trình xây dựng lớn nhỏ.
Kinh thành hình vuông với chu vi 10km, cao 6,6m, dày 21m, gồm có 10 cửa để ra vào. Xung quanh và ngay trên thành có thiết lập 24 pháo đài để phòng thủ. Ngoài ra còn có một cửa phụ thông với Trấn Bình Ðài gọi là Thái Bình Môn.
Hoàng Thành (Ðại Nội): Nằm ở khoảng giữa kinh thành là nơi đặt các cơ quan cao nhất của chế độ quân chủ và là nơi thờ tự các vua chúa đã quá cố. Hoàng Thành có mặt bằng gần vuông, mỗi bề khoảng 600m, xây bằng gạch, cao 4m, dày 1m, xung quanh có hào bảo vệ, có 4 cửa để ra vào, riêng Ngọ Môn chỉ dành để cho vua đi. Ðại Nội gồm có hơn 100 công trình kiến trúc đẹp được chia ra nhiều khu vực:
Từ Ngọ Môn đến Điện Thái Hoà: nơi cử hành các lễ lớn của triều đình.
Triệu Miếu, Thái Miếu, Hưng Miếu, Thế Miếu và Điện Phụng Tiên: nơi thờ các vua chúa nhà Nguyễn.
Phủ Nội Vụ: nhà kho tàng trữ đồ quý, xưởng chế tạo đồ dùng cho hoàng gia.
Vườn Cơ Hạ và Điện Khâm Văn: nơi các hoàng tử học tập và chơi đùa.
Tử Cấm Thành: là vòng thành nằm trong Hoàng Thành ngay sau lưng Điện Thái Hoà. Tử Cấm Thành dành riêng cho vua và gia đình vua. Tử Cấm Thành được xây dựng năm 1804. Thành cao 3,72m xây bằng gạch, dày 0,72m, chu vi khoảng 1.230m, phía trước và phía sau dài 324m, trái và phải hơn 290m, bao gồm gần 50 công trình kiến trúc lớn nhỏ và có 7 cửa ra vào. Ðại Cung Môn là cửa chính ở mặt tiền chỉ dành cho vua đi vào. Cần Chánh (nơi vua làm việc hàng ngày). Càn Thành (nơi vua ở), Cung Khôn Thái (chỗ ở của Hoàng Quý Phi). Duyệt Thị Ðường (nhà hát), Thượng Thiện (nơi nấu ăn cho vua), Thái Bình Lâu (nơi vua đọc sách)…
Ngoài ra Huế còn nổi tiếng bởi khu lăng tẩm của các vua nhà Nguyễn. Bảy lăng, mỗi lăng mang một sắc thái riêng nhưng đều là những kỳ công tạo tác của con người phối hợp với cảnh trí thiên nhiên hùng vĩ tươi đẹp và thơ mộng của xứ Huế.
Cố đô Huế với sông Hương, núi Ngự và các cung điện lâu đài, lăng tẩm, đền, miếu, chùa chiền đã có hàng mấy trăm năm lịch sử giờ đây đang được nhân dân Việt Nam cùng cộng đồng Quốc tế đóng góp công sức và tiền của để tôn tạo tu bổ giữ cho kiến trúc cố đô Huế mãi mãi là di sản văn hoá của nhân loại
Khánh Hoà - Khu tưởng niệm bác sĩ Alexandre Yersin
Nguồn: Maxreading
Thu gọn nội dung
Địa điểm: Tỉnh Khánh Hoà có 3 khu tưởng niệm bác sĩ Alexandre Yersin tại thành phố Nha Trang và huyện Diên Khánh.
Ðặc điểm: Khu tưởng niệm bác sĩ Alexandre Yersin là công trình xây dựng để tưởng niệm nhà bác học tài ba - Alexandre Yersin (1863 - 1943), đã sống và cống hiến hết mình cho khoa học của nhân loại.
Ba khu tưởng niệm bác sĩ Alexandre Yersin:
- Thư viện của Bác sĩ Yersin tại viện Pasteur Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa.
- Chùa Linh Sơn, xã Suối Cát, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa (phòng làm việc của Bác sĩ ở Suối Dầu trước đây).
- Phần mộ của Bác sĩ Yersin, xã Suối Cát, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa.
Năm 1891 ông đến Nha Trang xây dựng cơ sở nghiên cứu, thí nghiệm vi trùng học đầu tiên ở Việt Nam. Ðầu năm 1899 nơi đây đã trở thành Viện Pasteur Nha Trang.
Sau hơn 50 năm sống và làm việc vì khoa học ở Viện Pasteur Nha Trang (1891 - 1943) Yersin đã cống hiến cho khoa học 55 công trình nghiên cứu có giá trị.
Các chức vụ ông đã đảm nhận:
- Viện trưởng Viện Pasteur Nha Trang.
- Viện trưởng Viện Pasteur Ðông Dương.
- Hiệu trưởng Trường Ðại Học Y Khoa Hà Nội.
- Tổng thanh tra các Viện Pasteur Ðông Dương.
- Viện sỹ Viện Hàn Lâm Khoa Học Pháp.
- Chủ tịch danh dự Hội Ðồng Y Khoa Viện Pasteur Pari