[center:d3db92bdf3]45. Sau Thâu Thức Ta Nên Làm Gì ?[/center:d3db92bdf3]
Sau khi luyện xong một bài quyền , nên duy trì tình tự như trong lúc đang đi quyền , tinh thần không được tán loạn , chậm rãi đi bộ , và nếu không thật cần thiết , không nên nói chuyện để mà dưỡng khí liễm thần ; sau khi tản bộ được ba hay năm phút , mới trở lại trạng thái hoạt động thường nhật .
Làm như thế có ý nghĩa gì ? Có thể phân tích thành hai điểm :
1. Trong khi luyện quyền , số lượng hô hấp tăng lên , máu tuần hoàn cũng nhanh , các cơ năng sinh lý đều ở trong trạng thái tích cực hoạt động ; cho nên sau thâu thức , đi tản bộ chậm rãi tức làm vận động chỉnh lý , làm cho hoạt động sinh lý của cơ thể dần dần khôi phục lại trạng thái bình thường . Làm như vậy , sức khõe của thân thể mới dễ dàng gia tăng .
2. Trong khi luyện quyền , tinh thần nội liễm , tư tưởng tập trung , đại bộ phận của đại não ở vào trạng thái ức chế , giống như lúc " nhập tĩnh " trong tĩnh tọa ; như vậy mới năng thử xả ,tinh thần hoàn chỉnh nhất khí . Lúc này trong thân thể sinh ra nhiều phản ứng tốt và tác dụng liên đới có điều kiện . Mỗi lần luyện xong bài quyền , loại phản ứng và tác dụng liên đới này vẫn tiếp tục xảy ra , vẫn phát huy tác dụng , và tốt nhất ta làm chúng từ từ dịu lại , có vậy mới cũng cố được hiệu dụng đem lại do phản ứng và tác dụng liên đới nói trên . Nếu không , tinh thần tán loạn , làm giảm đi hiệu quả vận động .
[center:abe667cb99]46. Làm Thế Nào Nâng Cao Tiến Bộ Công Phu ? Ở Mỗi Giai Ðoạn Của Tiến Trình Luyện Tập Nên Chú Ý Ðiều Gì ?[/center:abe667cb99]
TCQ là loại vũ thuật rèn luyện thân thể bắt buộc phải trải qua một quá trình tự luyện tập nhất định mới am hiểu được . Sau khi nắm được rồi , tháng ngày liên trì luyện tập , chất lượng công phu mới gia tăng . Ở mỗi cá nhân , vì sự khác nhau về thể chất , năng lực tiếp thụ và tinh thần nghiên cứu , cho nên sự tiến triển của chất lượng công phu cũng khác nhau .
Nếu căn cứ vào tiến độ công phu bình thường thì có thể nói đơn giản như dưới đây , đồng thời cũng nêu ra các điểm cần chú ý ở mỗi giai đoạn luyện tập , để học viên tham khảo :
1. Giai đoạn sơ học :
Người mới học thật khó mà làm đúng và làm tốt các động tác chậm rãi , đi đường tròn , chiêu thức liên tục , hơn nữa động tác đa dạng khó nhớ , nay nhớ mai quên . Ðây là chuyện thường . Vấn đề là người học phải nhẫn nại học tập , luyện đi luyện lại cho rành rẽ , chớ nên tham học nhiều động tác mới .
2. Giai đoạn nhập môn :
Thông thường theo học được nữa bài quyền tức là có thể dần dà vào cửa , lúc này việc tiếp tục tư thức mới tương đối dễ dàng , và bắt đầu cảm thấy hứng thú . Nhưng lúc này cũng phát sinh hai thiên hướng : một là lòng ham biết quá mãnh liệt , tham đa mạo đắc ; một là thái độ khinh thị , xem TCQ chẳng có chi là ghê gớm , chỉ cần đôi chút thông minh là làm được ngay . Cả hai thiên hướng này đều ngăn trở sự tiến bộ ,người học chớ nghĩ thế mà lầm to .
3. Giai đoạn cũng cố :
Bắt đầu từ lúc học xong một bài quyền là giai đoạn cũng cố . Nên biết rằng tuy học xong bài quyền nhưng đây chỉ là thuộc quyền lộ mà thôi , còn động tác tư thức vẫn cần kiếu chĩnh cho đến khi nào tinh xảo , rồi bước tới việc dụng khí qua sự kết hợp hô hấp , dụng ý làm sao , vận động làm sao , cho đến việc biến hóa hư thực , đổng kính ,v.v... Kinh nghiệm chứng minh cho thấy , muốn nắm được và vận dụng được các yếu lý này ít nhất cũng phải có công phu luyện tập vài năm ; còn những ai chuyên tâm nghiên cứu say mê thì một hai năm là có thể sơ bộ nắm được .
4. Giai đoạn ổn bộ đề cao :
Sau khi sơ bộ nắm được tinh yếu của bài quyền , có thể tập thôi thủ và các loại binh khí (kiếm , đao , thưong) để nâng cao trình độ lên mãi . Con đường tiến trong vũ thuật phải biết là vô tận .
[center:b4465765ef]47. Muốn Phẩm Bình Trình Ðộ Công Phu Cao Thấp Của Một Người , Ta Dựa Vào Tiêu Chuẩn Nào ?[/center:b4465765ef]
Việc nâng cao chất lượng của TCQ không có giới hạn . Yêu cầu về việc nâng cao trình độ ở các nhà các phái cũng không giống nhau , cho nên trong quá khứ không thể đưa ra một hệ thống tiêu chuẩn để xét đoán nào cả .
Các lão tiền bối trong quyền giới , với kinh nghiệm giang hồ đầy mình , chỉ cần liếc một cái là biết được hành lương của công phu của người nào là bao nhiêu , mà thành ngữ vũ thuật gọi là " Hành gia nhất thân thủ , tiên tri hữu một hữu " ( chỉ cần xem con nhà vũ thuật duỗi tay một cái là biết ngay công phu có hay không) , hay là " Hành gia kháng môn đạo " (tức là xem họ xuất phát từ môn phái nào , từ sư trưởng nào) . Do đâu mà biết xét đoán chính xác vậy ? Bởi vì công phu luyện tập 10 năm so với công phu 20 năm tuyệt đối không như nhau . Sự bất đồng này có thể đứng trên vài phương diện mà quan sát so sánh thì rút ra được kết luận rõ ràng , nhất là đối với người ở trong nghề .
Căn cứ vào đặc điểm của TCQ , có thể đưa ra các tiêu chuẩn sau đây :
1. Tư thức chính xác , ý thức tập trung .
2. Ðộng tác hiệp điều , tinh thần quán chủ .
3. Tiến thoái chuyên hoán , hư thực phân minh .
4. Tiền hậu liên quán , thượng hạ tương tùy .
5. Tốc độ quân quần , hô hấp tự nhiên .
Các tiêu chuẩn trên tuy lời lẻ ngắn gọn nhưng ý nghĩa rất toàn diện , rất cụ thể ; thực hiện được các đìểm trên là điều kiện tối thiểu của việc luyện tập TCQ . Dùng chúng làm tiêu chuẩn để phẩm bình cái học của người tập , thực sự rất thích hợp vậy .
[center:2354ed8c6b]48. Thôi Thủ Là Gì ? Thôi Thủ Và Ðiều Gọi Là " Ðổng Kính " Có Quan Hệ Gì ? Ý Nghĩa Và Chúng Loại Của Thôi Thủ ?[/center:2354ed8c6b]
Thôi thủ , còn gọi là đáp thủ hoặc kháo thủ , là phương pháp luyện tập cách dụng chiêu khi cận chiến với đối thủ . Bất luận môn phái quyền thuật nào cũng có phương pháp thôi thủ riêng cho mình .
Ý nghĩa của thôi thủ là gì ? Ở TCQ thôi thủ nhằm mục đích luyện việc đổng kính , tức là tăng cường năng lực cảm giác . Trong khi hai người thôi thủ , do sự tiếp xúc của tay hay bộ phận thân thể nào của đối phương với thân thể của mình , thì ta cảm giác được ngay đường đi nước bước kình lực của đối phương , khinh trọng hư thực ra sao , sau mới có thể triêm hoặc niêm tay của đối phương không để cho thoát , và khéo hơn nữa là dùng kình lực của đối phương trả lại đối phương , giử vững thế chủ động của ta , và tùy ý đẩy đối phương ngã nhào . Như vậy mới là luyện được " Ðổng kính " . Ý nghĩa của thôi thủ chính là đổng kính vậy .
TCQ Luận có nói : " Ðổng kính hậu dũ luyện dũ tinh " , tức là chỉ sau khi tri hành được đổng kính , mà càng luyện tập thì công phu càng tiến bộ rất nhanh , bấy giờ chiêu pháp mới xử dụng được một cách trọn vẹn .
Có nhiều phương pháp thôi thủ , các phương thức thường thấy dùng gồm có :
1. Ðơn đáp thủ pháp : hai người đứng đối diện nhau , mỗi người đạp thực chân phải hoặc trái về phía trước một bước , dùng tay phải hoặc trái niêm nhau ở lún cổ tay , đẩy tới đẩy lui .
2. Song đáp thủ pháp : Tay phải và bộ pháp giống như trên , nhưng mỗi người dùng chưởng tâm trái của mình đở lấy cùi chỏ đối phương , bốn cánh tay cùng đáp , tạo thành một đường tròn .
3. Ðơn thủ bình viên thôi thủ pháp : Tức là mỗi bên dùng một tay đáp nhau ( chạm nhau ) nhưng đẩy đưa theo đường tròn .
4. Lý án thôi thủ pháp : Hai người thôi thủ , chỉ làm hai động tác lý và án .
5. Ðơn thủ lập viên thôi thủ pháp : Mỗi người chỉ dùng một tay đáp nhau , đẩy đưa thành đường tròn theo phương thẳng .
6. Lý tê thôi thủ pháp : hai người chỉ dùng hai động tác lý và tê .
7. Ðơn áp thôi thủ pháp : Mỗi người dùng một tay đưa đẩy mà làm động tác nén cổ tay (áp cản động tác) .
8. Áp cản án trửu thôi thủ pháp : bốn cánh tay cùng đáp nhau , làm động tác áp cản và án trửu .
9. Tứ chính thôi thủ pháp : luyện bốn động tác Bằng , lý , tê , án (chia làm hai cách , định bộ và hoạt bộ) .
10. Tứ ngưng thôi thủ pháp : (thường gọi là đại lý) : luyện bốn động tác thái , liệt , trửu , kháo . Vì bề ngoài giống như chỉ là động tác lý mở rộng , cho nên gọi là đại lý .
[center:769dec8c73]49. Thế Nào Là Triêm , Niêm , Liên , Tùy ? Những Lổi Lầm Nào Dễ Phạm Khi Tập Thôi Thủ ? Thế Nào Thì Biết Là Ðổng Kính Thật Sự ?[/center:769dec8c73]
Trong khi thôi thủ , phải tuân thủ nguyên tắc triêm , niêm , liên , tùy , tức là làm sao cho bàn tay và cánh tay ta cùng với tay của đối phương luôn luôn duy trì sự tiếp xúc , bất luận động tác biến hóa ra sao , không được rời ra . Bốn chữ triêm , niêm , liên , tùy , được định nghĩa như sau :
* Triêm : Có nghĩa là nâng lên , nhổ lên . Trong lúc đáp thủ với đối phương , bằng vào kỹ thuật thôi thủ của mình mà dẩn khởi thủ tý của đối phương , làm đối phương phải bật gót , mục đích là để hất té đối phương .
* Niêm : Bất luận thủ pháp và thân pháp của đối phương biến hóa ra sao , thủ tý của ta không bao giờ rời thủ tý của đối phương , giống như đeo đuổi một cái gì vậy .
* Liên : Cần phải biết làm cho lực của mình liên tiếp với lực của đối phương một cách có ý thức , để hóa giải lực của đối phương .
* Tùy : Cùng đối phương đáp thủ , khi đối phương muốn thoát , ta theo liền tức thì , và đây chính là cơ hội để thủ thắng .
Lúc mới học thôi thủ , chưa thể Ðổng kính được và trong lúc này người học dễ mắc phải các lổi sau :
- Ðình : Hễ khi kình lực đối phương phát sinh là lập tức có phản ứng đề kháng , tức là để xúc ( tiếp xúc có đề kháng ) .
- Kháng : so với xúc thì trầm trọng hơn , tức là luôn luôn có phản ứng đề kháng kình lực của đối phương .
- Biển : động tác không kịp thời , mất liên , mất tùy .
- Ðâu : không những không kịp thời , mà còn tách rời tay của đối phương , mất niêm .
Muốn đạt được tình trạng đổng kính thực sự , phải trải qua một thời kỳ tập luyện , lúc bấy giờ mới đi thôi thủ theo hình thức cố định sang thôi thủ không câu nệ hình thức , có thể tùy ý mà biến hóa động tác ; bất luận tiến thoái chuyển hoán , lên xuống nhanh chậm đều có thể tùng tâm sở dục , thuận lợi , cơ hồ như bộ phận nào của thân thể cũng đều sẳn sàng tiếp ứng với hai tay .
[center:33cd4eba51]50. Có Bao Nhiêu Dộng Tác Thôi Thủ ?[/center:33cd4eba51]
Nội dung của thôi thủ có tám động tác : băng , lý , tê , án , thái , liệt , trửu , kháo . Thường được phân biệt làm tứ chính thôi thủ bao gồm bốn động tác đầu , và tứ ngưng thôi thủ gồm bốn động tác sau .
1. Băng ( quen đọc là bằng ) : Có ý nghĩa nâng lên trên , lúc đáp thủ , phát kình nghịch đối phương , làm kình lực đối phương không thể đi xuống , gọi là bằng , nếu làm đúng phép có thể làm đối phương bay bổng lên .
2. Lý : Lúc đáp thủ , nếu đối phương dùng thế bằng hoặc thế tê đối với ta , thì ta thuận thế mà lý về đàng sau bên dưới ; nếu làm đúng thế có thể làm đối phương ngã nhào về đàng trước .
3. Tê : Lúc đáp thủ ta dùng bàn tay hoặc cánh tay ngăn đẩy đối phương , làm đối phương không thể động thủ , rồi sau đó đẩy đối phương ra .
4. Án : Lúc đáp thủ , nếu đối phương dùng thế tê đối với ta , thì ta liền dùng tay hạ án phá thế tê .
5. Thái : Lúc đáp thủ , hễ nén (chế) đối phương , nắm bắt (thái : hái lấy) lực của đối phương ngay sát thân của đối phương , đều gọi là thái . Người giỏi dùng thế thái không kể lực của đối phương công kích tới như thế nào chăng nữa , đều có thể thái mà phá giải , và chọn chổ nhược của đối phương mà phản công lại .
6. Liệt : Có nghĩa là làm xoay chuyển (nửu chuyển) ; lúc đáp thủ nếu ta dời được , hóa giải được lực của đối phương và tấn công đối phương , gọi là liệt , mà trong lực học gọi là phân giải lực lượng đối phương , rối từ trắc diện tấn công thì có thể châu chấu đá voi .
7. Trửu : Là quan tiết ở giữa cánh tay . Trong TCQ , dùng chỏ đánh địch gọi là dùng thế trửu .
8. Kháo : Dùng vai và mé ngoài của lưng đánh địch gọi là kháo ; lúc tiếp cận thân địch chính là cơ hội thích hợp để dùng kháo , chớ xem thường .
51. Trong Môn Thái Cực Quyền Có Binh Khí Nào ? Các Bài Binh Khí Ðó có Những Ðặc Ðiểm Gì ?
Trong môn phái TCQ , trừ quyền ra còn có dùng binh khí là Thái Cực kiếm , Thái Cực đao , Thái Cực thương , Luyện tập các món binh khí này phải giử nguyên tắc như khi luyện quyền .
1. Về mặt động tác : liên quán có hệ thống , tốc độ đều đặn , hư thực phân minh , kết hợp hô hấp .
2. Về mặt tư thế của thân thể : đầu dung đoan trực ,vĩ lư trung chính , hàm hung bạt bối , trầm kiên trụy trửu .
3. Về mặt tâm lý : tinh thần quán chú , tinh thần nội liểm , tư tưởng tập trung , dụng ý bất dụng lực .
Ngoài còn có mấy điểm cần nói rõ :
1. TCQ cổ truyền không hề dùng binh khí , các bài kiếm , đao , thương do người sau dựa vào nguyên lý của TCQ mà đặt ra .
2. Trước tiên thì phải học quyền trước đã , sau khi có cơ sở vững vàng rồi mới học đến đao , kiếm , thương .
3. Luyện tập các môn binh khí phái TCQ rất dễ phạm lổi là không còn giử đúng nguyên tắc , phong cách TCQ , mà rơi vào tình trạng giống như múa binh khí theo như các môn phái khác . Muốn tránh lổi này , phải học hỏi cho kỹ yếu lĩnh của các bài binh khí , tuần tự mà học , mỗi lần đi bài nên đi song song cùng với bài quyền , chớ nên chỉ tập riêng các môn binh khí mà thôi .
[center:ca78be1a05]52. Những Người Yếu Ðuối Hay Bệnh Hoạn , Khi Luyện TCQ Nên Lưu Tâm Ðiều Gì ?[/center:ca78be1a05]
Những người yếu đuối hoặc bệnh hoạn mà luyện TCQ , nên căn cứ vào thể chất , bệnh tình và lòng say mê mà ấn định cho mình thời gian , số lần và lượng vận động . Tình huống thể chất mỗi người khác nhau nên ở đây không thể ấn định rõ , mà chỉ căn cứ vào tình huống thông thường để nêu ra một vài đề nghị để người học tham khảo .
1. Những người yếu đuối nhưng không có bệnh có thể mỗi ngày luyện tập tương đối nhiều lần , nhưng mỗi lần tập không nên lâu , làm động tác tư thức nên cố gắng làm cho chính xác ; khi nào thấy người khõe hơn thì mới gia tăng lượng vận động một cách tương ứng .
2. Sáng tinh sương là lúc tốt nhất để các cụ già luyện tập TCQ , nếu tinh thần sãng khoái thì nên tập nhiều hơn , nếu uể oải thì tập đôi chút thôi ; buổi chiều có thể tập chốc lát , buổi tối nên đi ngủ sớm thì tốt , có thể không tập .
3. Nếu ở bệnh viện hoặc dưỡng viện nên tập theo sự hướng dẩn của y sĩ . Khi luyện tập nếu có phản ứng đặc biệt nào nên thông báo ngay cho y sĩ , chớ nên nín lặng . Nếu như muốn thay đổi giờ giấc luyện tập hoặc lượng vận động , nên hỏi ý kiến y sĩ .
4. Ðối với những người có bệnh mạn tính không nặng lắm và không cần vào bệnh viện để điều trị , vẫn có thể tập một mình , nhưng cũng cần phải ấn định thời gian và lượng vận động .
* Những ai suy nhược thần kinh thì nên sớm hôm tập luyện , đặc biệt là đối với giờ tập buổi tối , nên kiên trì không xao lãng , bởi lẻ , qua sự luyện tập , tinh thần nội liễm , vỏ đại não ở trạng thái ức chế , thân thể trở nên thấm mệt , các điều này làm cho người suy nhược thần kinh có giấc ngủ ngon hơn .
* Những ai bị viêm quan tiết , trong phạm vi khả năng của mình , nên tập mỗi ngày nhiều lần , tuy mỗi lần không lâu . Mỗi lần tập xong , nên xoa bóp nhè nhẹ các quan tiết , để xúc tiến sự tuần hoàn của máu và cải tiến cơ năng của quan tiết .
* Những ai có áp huyết cao thì đi quyền phải thật chậm rãi và nhất là tâm phải tĩnh .
* Những ai bị bệnh bao tử , ruột , nên tùy nghi gia tăng số lần tập và lượng vận động , tập rồi chà xát bụng , lâu ngày cơ quan tiêu hóa sẽ khõe khoắn , bụng thèm ăn nhiều hơn , việc đại tiện sẽ rất thoãi mái .
* Những ai bệnh phổi mới kết hạch hoặc đã calcium hóa , khi hô hấp nên tự nhiên , không dùng lực , nên tập luyện ở chổ không khí trong lành .
* Phụ nữ có kinh nguyệt không điều hòa , không nên vận động quá nhiều , quá lâu , nên ngưng tập những ngày có kinh .
Tóm lại , những ai có bệnh mạn tính , khi tập TCQ nên giử cho tinh thần lạc quan , tươi vui , quên đi bệnh tật , và kiên trì luyện tập . Ðối với bệnh mạn tính thông thường , chỉ trên dưới một tháng luyện tập là đã có biến chuyển tốt , và nếu cứ kiên trì luyện tập như thế , có tập cả khí công càng tốt , thì hiệu quả dưỡng thân rất là vững chắc .
[center:754a32804c]53. TCQ Trần Gia Và TCQ Dương Gia Khác Nhau Ở Chổ Nào ?[/center:754a32804c]
Trong tương quan giữa tất cả các bài TCQ hiện đang lưu truyền khắp nơi thì bài TCQ Trần Gia là cổ xưa nhất , nhưng bài TCQ Dương Gia thì phổ biến nhất . Tuy hai bài quyền này có chung cơ sở là thập tam thế , nhưng đặc điểm vận động và hình tượng lại khác nhau rõ rệt , Sự khác nhau đó là :
1. Về động tác tư thức :
Bài Trần Gia có một số động tác đặc hữu như : Kim Cương Ðảo Trủy , Lãn Trác Y , Yếm Thủ Quăng Trùy , Phục Hổ Thế , Huyền Cước Linh (tức Nhị Khởi Cước) , Thủ Ðầu Thế , Tước Ðịa Long , Triều Thiên Ðẳng , Ðương Ðầu Pháo, v.v... Còn một số động tác tương đối lớn , khó ước lượng , như Tảo Ðường Cước , Nhị Khởi Cước , Toàn Phong Cước , Bãi Cước Ðiệt Xoa , và một số động tác tương đối nhiều như Ðơn Chấn Cước và Song Chấn Cước . Bài này có khá nhiều động tác rất giống động tác của Thiếu Lâm quyền , nên có người nhận lầm nó là Thiếu Lâm quyền .
Bài Dương Gia có một số động tác đặc hữu như : Lãm Tước Vĩ , Lâu Tất Ảo , Ban Lan Trùy , Bảo Hổ Quy Sơn , Ðảo Niện Hầu , Tả Hửu Phân Cước , Tả Hửu Ðả Hổ Thế , Ngọc Nữ Xuyên Thoa , Phiến Thông Bối .v.v... Toàn bộ bài quyền không hề có động tác chấn cước (dẫm chân) , đằng không (bay bổng) , khiêu được (nhảy nhót) , và hư tọa (ngự xổm) trên mặt đất .
2. Về phương diện dụng kình :
Các động tác dụng cước , phát quyền trong bài Trần Gia được thực hiện một cách cương nhu tương tế , trong một trạng thái toàn thân buông lỏng - quan tiết và cơ nhục đều buông lỏng - được vậy mới có thể phát cương kình (thốn kính) . Kình phát ra từ cột sống eo (yêu tích) , chứa kình thì chậm , phát kình thì nhanh . Phàm các động tác đường tròn hay đường cung đều đòi hỏi phát kình xoắn theo hình trôn ốc (la toàn hình đích triền ty kính) .
Ðộng tác Dương Gia thì khinh linh , trầm trước , khinh tung , nhu hòa , dụng ý bất dụng lực , tốc độ đều đều , không nhanh không chậm , như mây trôi nước chảy . Các động tác đường tròn hay đường cung không tạo thành kính xoắn hình trôn ốc .
3. Về các mặt khác :
Yêu cầu của bài Trần Gia đối với sự luyện tập động tác tư thức , hô hấp , vận kình rất cao , nên khó học . Sự truyền thụ không được rộng rãi bằng bài Dương Gia .
Bài Dương Gia rất được phổ biến , vì đường quyền khinh tung linh hoạt , thư triển rộng rãi , không dụng cương kình , không có các động tác khó như bay nhảy , chém chỉa , cho nên thích hợp với người có thể lực yếu đuối , trung niên , và vãn niên hơn là bài Trần Gia .[/center]