Hồi ở Việt Bắc, tôi rất thích đi hái măng. Lúc đầu, tôi cứ nghĩ vào rừng hái măng là một việc dễ, chẳng dè, có đi mới biết là cũng khó khăn lắm. Thứ măng đã trồi lên khỏi mặt đất, tuy có thể kiếm nhanh hơn nhưng ăn lại dở. Ngon nhất hạng vẫn là măng củ, tức là thứ măng thật non, còn năm ở dưới đất, chưa kịp trồi lên. Muốn hái được thứ măng này, trước hết phải biết định hướng măng mọc, sau là còn phải biết ước lượng chính xác khoảng cách từ gốc ra đến chỗ măng lên mà đào. Không biết định hướng đúng, lại cũng không biết ước lượng khoảng cách cho chính xác, thì rốt cuộc, chỉ hao công tốn sức mà hái không được bao nhiêu.
Chuyện hái măng kể cũng lạ. Đã có lần tôi cần mẫn đào bới kiếm tìm đến nát cả một khoảnh lớn, lòng những cầm chắc là mình đã lấy được hết sạch măng rồi, cẳng ngờ ngay sau đó, một cô bé chính gốc Việt Bắc, đào lên liên tiếp thấy củ măng ngon lành. Thấy tôi có vẻ ngơ ngác, cô bé tủm tỉm cười và nói :
- Bộ ngực nhiên lắng hay sao. Kể cả những người hái măng lão luyện và chịu khó nhất cũng không bao giờ dáng chắc là họ đã đào hết sạch măng quanh một bụi tre.
Câu nói của cô bé ấy khiến cho tôi nhớ mãi. Có thể là bạn không ngờ nhưng quả thật là mỗi lần khởi sự biên soạn sách, tôi lại nhớ đến chuyện hái những thuở nào. Tư liệu tản mạn trong kho thư tịch cổ cũng chẳng khác gì những củ măng non còn nằm dưới đất. Tôi đã kiên nhẫn lật từng trang thư tịch cổ, nhặt nhanh từng chút tư liệu nhỏ, lắm lúc ngỡ đã khai thác hết rồi, vây mà khi bình tĩnh coi lại, vẫn thấy nnnh bỏ sót không ít. Đôi khi, tôi bỗng chán ngấy về sự bất tài và tắc trách của mình. Nhưng, cứ mỗi lần như thề, lời của cô bé hái măng quê ở Việt Bắc lại vãng vẳng bên tai tôi. Vâng, “kể cả những người hái măng lão luyện và chịu khó nhất cũng không bao giờ dám nói là họ đã đào hết sạch măng quanh một bụi tre”. Tôi rất thích đi hái măng nhưng chưa bao giờ là nhột người hái măng giỏi chớ đừng nói là lão luyện.
Từ ngày xa Việt Bắc, do sự đẩy đưa của cuộc đời, bỗng dưng, tôi có thêm sở thích khảo cứu sách vở. Mới tập tành đó mà chợt ngoảnh lại, giật mình vì thấy cũng đã được mấy chục năm. Nói cho to tát thì như thể cũng có chút đáng gọi là thâm niên vậy. Nhưng cho dẫu ìa say thê lâu ngày, kết qủa thu được bất qúa cũng chỉ mới tỏ rõ sự cần mẫn mà thôi.
Phải chăng, đây đã là tất cả danh tướng của Lam Sơn. Đọc lại bản thảo lần chót, tôi bỗng thấy băn khoăn và tự hỏi mình như vậy. Nhưng, đời chẳng có gì tuyệt đối cả, vậy thì chu toàn đòi khi chỉ là một cách nói khéo léo, cốt để che đậy sự thiếu dũng khí của mình. Mà, phàm là con dân của một đất nước anh hùng có lịch sử hùng ngàn năm ăn hiến, thiếu gì thì thiếu, lẽ đâu lại thiếu dũng khí bao giờ. Nghĩ vậy, tôi mớì tự tin, hồ hởi đi nạp tập bản thảo thứ hai của bộ Danh tướng Việt Nam.
Mở sách này ra, nếu ban thấy còn có chỗ nào đấy chưa thỏa đáng, thì lỗi ấy là của tôi, người chẫ đủ sức để khai thác và khái quát sử liệu từ kho thư tịch cổ. Gấp sách này lại, nếu bạn thấy có chút đồng cảm với tôi, thì là bởi vì bạn và tôi cùng có chung lòng thành và sự tôn kính đối với anh linh của các đấng hào kiệt thiên cổ.
Các nhà sử học vẫn gọi thế kỷ thứ XVIII của lịch sử nước ta là “thế kỷ của chiến tranh nông dân”. Gần trọn cả thế kỷ này, những người nông dân áo vải ở khắp mọi miền của đất nước, từ đồng bằng đến trung du và rừng núi, từ Đàng Ngoài đến Đàng Trong... đã quả cảm vùng lên “khuấy nước chọc trời”, tấn công không khoan nhượng vào toàn bộ cơ đồ thống trị của giai cấp phong kiến bóc lột đang trên bước đường sa đọa ngày một thảm hại. Hoảng sợ trước sức mạnh quật khởi phi thường ấy, các tập đoàn phong kiến thống trị không chỉ cam lòng phản dân mà còn nhẫn tâm hại nước. Bấy giờ, nếu Nguyễn Ánh phạm tội ác “trời không dung, đất không tha” là rước năm vạn quân Xiêm về giày xéo lên một phần thiêng liêng của lãnh thổ xứ Đàng Trong, thì Lê Chiêu Thống cũng phạm trọng tội đáng để cho “đời đời lên án” đó là đã rước hai mươi chín vạn quân xâm lược Mãn Thanh về chà đạp lên một phần giang sơn gấm vóc của xứ Đàng Ngoài. Vận mệnh dân tộc bị đe dọa nghiêm trọng cả từ bên trong lẫn bên ngoài, cả từ phía Nam lẫn phía Bắc. Trong bối cảnh đặc biệt như vậy, lớp lớp những người nông dân áo vải chẳng những đã hiên ngang đứng lên đấu tranh giành quyền sống cho mình, mà còn khảng khái đảm đương sứ mệnh bảo vệ độc lập dân tộc. Từ trong khói lửa của cuộc chiến đấu một mất một còn chống thù trong và giặc ngoài, tên tuổi của một loạt các bậc danh tướng đã xuất hiện, vừa góp phần làm rạng rỡ truyền thống ngoan cường của cả dân tộc, vừa đóng góp cho kho tàng kinh nghiệm thao lược của tổ tiên những tri thức vô giá.
Với tất cả niềm tự hào mãnh liệt và sâu sắc của mình, tác giả xin dành trọn tập thứ ba của bộ DANH TƯỚNG VIỆT NAM để trân trọng giới thiệu về thân thế và sự nghiệp của các bậc danh tướng trong chiến tranh nông dân thế kỷ XVIII và phong trào Tây Sơn.
Nếu trước đó, tên tuổi của các danh tướng trong sự nghiệp giữ nước từ đầu thế kỷ X đến cuối thế kỷ XIV và danh tướng Lam Sơn1 nhìn chung đều được các bộ chính sử xưa trân trọng ghi chép, do đó, việc tái hiện cuộc đời và sự nghiệp của họ có những thuận lợi nhất định, thì rất tiếc là danh tướng trong chiến tranh nông dân thế kỷ XVIII và phong trào Tây Sơn, hoặc là rất ít được các bộ chính sử cũ chép đến, hoặc là chỉ được chép đến với dụng ý xuyên tạc rất rõ ràng. Nghịch lí này cũng không có gì là khó hiểu, bởi lẽ, sử cũ nói đến ở đây là sử biên soạn vào thời Nguyễn, mà dưới con mắt của hầu hết các sử gia thời Nguyễn, mọi phong trào nông dân đều bị coi là “giặc cỏ”, còn Tây Sơn là “kẻ thù không đội trời chung”. Sự hụt hẫng của chính sử tuy có được bù đắp bởi những trang ghi chép của dã sử và đặc biệt là những lời kể hào hùng phản ánh niềm kiêu hãnh bất diệt của nhân dân, nhưng, việc tập hợp, xác minh và chỉnh lí tài liệu cũng không phải nhờ vậy mà giảm bớt được khó khăn.
Giới thiệu các bậc danh thắng là việc làm rất dễ nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ, nhưng, sắp xếp thứ tự trước sau của các danh tướng trong từng tập sách cụ thể thì thường có nhiều ý kiến khác nhau. Mục đích cao nhất, cũng là mục đích xuyên suốt của tác giả đặt ra cho cả bộ sách 5 tập này là làm sao để có thể tạo ra những mạch vấn đề thật nhất quán, nhằm giúp bạn đọc theo dõi một cách thuận tiện nhất. Vị trí và tầm vóc của từng vị danh tướng không hề phụ thuộc vào thứ tự trước sau của họ trong tập sách này. Xuất phát từ nhận thức ấy, tác giả chia tập 3 của bộ DANH TƯỚNG VIỆT NAM thành bốn phần chính sau đây:
- Những danh tướng xuất thân áo vải đầu tiên: gồm toàn bộ những trang viết về những thủ lĩnh tiêu biểu và xuất sắc nhất, cũng là những danh tướng có nhiều công lao trong phong trào chiến tranh nông dân thế kỷ thứ XVIII như: Nguyễn Hữu Cầu, Nguyễn Danh Phương, Hoàng Công Chất. Có một danh tướng khá đặc biệt cũng được tạm ghép vào phần này, đó là Lê Duy Mật. Sở dĩ gọi là “tạm ghép” bởi vì ông xuất thân từ hoàng tộc chứ không phải từ đội ngũ những người nông dân áo vải, nhưng, cuộc đời và sự nghiệp của ông lại gắn bó mật thiết với nông dân trong cuộc chiến đấu quyết liệt đương thời.
- Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ - ba lãnh tụ của phong trào Tây Sơn, ba danh tướng kiệt xuất nhất của thế kỷ XVIII: là một trong những phần quan trọng nhất của tập 3. Phần này được chia làm bốn nội dung khác nhau như sau:
+ Giới thiệu chung về lai lịch, quê hương và gia đình của ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ. Tất cả được dừng lại khi ba anh em Tây Sơn đồng tâm hiệp lực, dựng cờ xướng nghĩa ở ngay trên quê hương của mình.
+ Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Nhạc.
+ Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Huệ.
+ Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Lữ.
- Danh tướng Tây Sơn: cũng là một trong những phần quan trọng nhất của tập 3. Ở đây, cuộc đời và sự nghiệp của các danh tướng Tây Sơn, những người từng vào sinh ra tử, từng có những cống hiến xuất sắc cho phong trào Tây Sơn sẽ lần lượt được giới thiệu.
- Phụ lục: là phần dành riêng để viết về những nhân vật đặc biệt, như Ngô Thì Nhậm, La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp,... v. v. Họ không hề là võ tướng, nhưng, những ý kiến xuất sắc của họ lại có ảnh hưởng tích cực rất to lớn đối với thắng lợi chung của phong trào Tây Sơn.
Bạn đọc yêu quý.
Trận đánh nào cũng có nhiều võ tướng tham gia, bởi vậy, dẫu đã ý thức một cách đầy đủ và dẫu đã rất cố gắng, tác giả cũng không sao có thể tránh khỏi một vài sự trùng lặp nhất định. Đành rằng, tập 3 là tập chung cho tất cả các danh tướng trong chiến tranh nông dân thế kỷ XVIII và phong trào Tây Sơn, nhưng nếu tách riêng ra, phần viết về mỗi danh tướng lại có tính độc lập rất rõ rệt. Thiết nghĩ, đang đọc ở giữa hay cuối tập mà phải lật ngược trở lại để tra cứu ở đầu tập hoặc đang đọc chuyện danh tướng này lại phải dò tìm thêm tư liệu ở chuyện của danh tướng khác... cũng là điều rất bất tiện. Từ suy nghĩ ấy, tác giả thấy cần thiết phải chấp thuận sự trùng lặp trong một liều lượng và một khuôn khổ cho phép. Suy cho cùng, đấy cũng là sự cần thiết nẩy sinh từ ý định tạo điều kiện thuận lợi nhất cho bạn đọc khi theo dõi những diễn biến phức tạp của các sự kiện xảy ra cách đây trên hai thế kỷ mà thôi.
Khi tập 3 bắt đầu được khởi thảo thì một tin vui lớn đã đến với tác giả, đó là tập 1 và tập 2 của bộ DANH TƯỚNG VIỆT NAM, dù mới được in và phát hành với một số lượng khá lớn, cũng đã được tái bản. Càng vui hơn nữa, khi mà cùng với việc tái bản tập 1 và tập 2 của bộ DANH TƯỚNG VIỆT NAM, Nhà Xuất bản Giáo dục còn cho tái bản lần thứ ba, trọn bộ VIỆT SỬ GIAI THOẠI (8 tập) và THẾ THỨ CÁC TRIỀU VUA VIỆT NAM cũng đều do tác giả biên soạn. Đó thực sự là một hạnh phúc nghề nghiệp của năm 1997 mà tác giả đã may mắn được hưởng. Tác giả chẳng biết nói gì hơn là chân thành cám ơn sự chăm sóc ân cần của Nhà Xuất bản Giáo dục, chân thành cám ơn sự cổ vũ hào hiệp và vô tư của bạn đọc gần xa.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 17-1-1998
NGUYỄN KHẮC THUẦN
Quyển 03
Chương 01 - NHỮNG DANH TƯỚNG XUẤT THÂN ÁO VẢI ĐẦU TIÊN
ĐÀNG NGOÀI Ở ĐẦU THẾ KỶ THỨ XVIII
Nguồn: quansuvn.net
Thu gọn nội dung
I - ĐÀNG NGOÀI Ở ĐẦU THẾ KỶ THỨ XVIII
“Nhân nghĩa mễ mục,
Thanh trung thủ chương.
Chung luận yểm muội,
Mạc tiến minh xương”.
(Nhân nghĩa chỉ như bụi cám trong mắt,
Người thanh cao chỉ ôm giữ từ chương.
Rốt cuộc công luận bị mờ tối, Lời sáng đẹp làm sao chuyển đạt được).
LỊCH TRIỀU TẠP KỶ (quyển 2)(1)
1. Quá trình băng hoại về nhân cách và phẩm giá của tập đoàn phong kiến thống trị.
Lần giở những trang ghi chép của thư tịch cổ, chúng ta có thể kết luận rằng, quá trình băng hoại về nhân cách và phẩm giá của giai cấp phong kiến thống trị đã thể hiện khá rõ ngay từ dầu thế kỷ thứ XVI. Sau khi vua Lê Túc Tông qua đờ(2), cuộc khủng hoảng của nội bộ triều Lê diễn ra với một mức độ ngày càng nghiêm trọng. Bấy giờ, Lê Uy Mục (1505-1509) là một kẻ thất đức, dám cả gan giết chết bà Trường Lạc Thái Hoàng Thái Hậu(3) và nhiều bậc đại thần không cùng phe cánh. Tháng 1 năm Đinh Mão (1507), nhà Minh cử một phái bộ sứ giả sang nước ta để làm lễ tấn phong cho Lê Uy Mục, gồm Chánh Sứ là Thẩm Đào và phó Sứ là Hứa Thiên Tích. Ngay sau khi tiếp xúc với Lê Uy Mục, viên Phó Sứ là Hứa Thiên Tích đã viết rằng:
An Nam tứ bách vận vưu trường,
Thiên ý như hà giáng quỷ vương(4).
(Nghĩa là: Vận đẹp của An Nam những bốn trăm năm dài(5), chẳng rõ ý trời thế nào mà lại giáng sinh tên vua quỷ). Nhân có câu trên của Hứa Thiên Tích mà người đương thời cũng như hậu thế đều gọi Lê Uy Mục là vua quỷ. Cuối năm 1509, Lê Uy Mục bị giết, Lê Tương Dực(6) được đưa lên ngôi và đó là một nhầm lẫn khó tha thứ của những người nắm quyền điều khiển vận mệnh quốc gia đương thời, bởi vì như thế, chẳng khác nào họ đã đổi nỗi khổ này lấy sự bất hạnh khác. Tháng 4 năm 1516, đến lượt Lê Tương Dực bị giết, ngôi vua trên danh nghĩa là thuộc về Lê Chiêu Tông(7) và sau đó là Lê Cung Hoàng8, nhưng thực quyền lại hoàn toàn nằm trong tay Mạc Đăng Dung.
Trên ngai vàng, nếu Lê Uy Mục là vua quỷ thì Lê Tương Dực là vua heo(9) và Lê Chiêu Tông, Lê Cung Hoàng chỉ là những con rối tội nghiệp của Mạc Đăng Dung. Sau, cả Lê Chiêu Tông và Lê Cung Hoàng đều bị Mạc Đăng Dung giết hại(10).
Tháng 6 năm 1527, Mạc Dăng Dung cướp ngôi của nhà Lê, triều Mạc được dựng lên kể từ đó. Triều Mạc(11) cũng là một trong những triều đại chính thống của lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, nhưng, triều Mạc không có may mắn được tồn tại trong bình ổn. Đất nước từ năm 1527 trở đi liên tục bị chấn động dữ dội bởi những cuộc nội chiến ác liệt và triền miên. Cục diện Nam-Bắc triều(12) chưa chấm dứt thì cục diện đàng Ngoài-đàng Trong(13) lại nổi lên. Không khí chết chóc và điêu linh bao trùm lên khắp cõi.
___________________________________
1. Nguyên là Bài châm khá dài của Đặng Đình Tướng và Nguyễn Quý Đức, được Ngô Cao Lãng chép lại trong bộ Lịch triều tạp kỷ.
2. Tên là Lê Thuần, làm vua từ tháng 6 đến tháng 12 năm 1504 thì mất, hưởng dương 16 tuổi. Ông là vị vua thứ bảy của thời Lê sơ.
3. Tên thật là Nguyễn Thị Hằng. Bà là thân mẫu của vua Lê Hiến Tông (1497-1504), tức là bà nội của Lê Uy Mục.
4. Đại Việt sử kí toàn thư (Bản kí thực lục, quyển 14, tờ 43-b).
5. Triều đình phong kiến Trung Quốc xưa chỉ coi ta thực sự là một nước riêng kể từ giữa thế kỷ thứ X nên mới viết như thế.
6. Tên thật là Lê Oánh, làm vua sáu năm (1510-1516).
7. Tên thật là Lê Y, làm vua sáu năm (1516-1522), được đưa lên ngôi lúc mới 10 tuổi.
8. Tên thật là Lê Xuân, làm vua năm năm (1522-1527), được đưa lên ngôi lúc 15 tuổi.
9. Theo ghi chép của Đại Việt sử ký toàn thư (Bản kỷ, thực lục, quyển 15, tờ 19-b), thì vào tháng 1 năm 1513, nhà Minh sai Trạm Nhược Thủy làm Chánh Sứ và Phan Hy Tăng làm Phó Sứ sang nước ta để làm lễ tấn phong cho Lê Tương Dực. Sau khi gặp Lê Tương Dực, viên Phó Sứ Phan Hy Tăng có nói với viên Chánh Sứ Trạm Nhược Thủy rằng: “Quốc vương của nước An Nam tuy gương mặt đẹp nhưng người lại bị lệch, tướng háo dâm như tướng heo, loạn vong tất không còn xa nữa”. Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 26, tờ 19) cũng chép tương tự như vậy. Bởi lời ấy của Phan Hy Tăng, người đương thời cũng như hậu thế đều gọi Lê Tương Dực là vua heo.
10. Lê Chiêu Tông bị Mạc Đăng Dung giết vào tháng 12 năm 1530, hưởng dương 24 tuổi. Lê Cung Hoàng bị Mạc Đăng Dung giết vào khoảng tháng 8 năm 1527, hưởng dương 20 tuổi.
11. Tuy danh nghĩa có dài hơn, nhưng thực chất, triều Mạc chỉ tồn tại 65 năm (từ 1527 đến 1592).
12. Tức cuộc hỗn chiến giữa triều Lê (Nam triều) với triều Mạc (Bắc triều).
13. Tức cuộc phân tranh giữa họ Trịnh (Đàng Ngoài) với họ Nguyễn (Đàng Trong), từ 1558 đến 1786.
Năm 1592, sau nhiều cuộc giao tranh quyết liệt và lâu dài, Nam triều đã đè bẹp được Bắc triều, giành quyền thống trị đối với hầu hết các địa phương trong cả nước lúc bấy giờ(1). Một thời kì mới được mở ra và sử cũ thường gọi đó là Thời Lê trung hưng. Khái niệm này được sử dụng rất phổ biến, nhưng rất tiếc là không chính xác, bởi vì Nam triều thắng thế là điều có thật, nhưng, quá trình thắng thế ấy cũng chính là quá trình mất dần quyền lực của vua Lê, mà một khi vua Lê bị đẩy nhanh vào vị trí bù nhìn thì không thể gọi đó là Thời Lê trung hưng được. Quyền lực thực sự của Nam triều lúc đầu nằm trong tay Nguyễn Kim(2) nhưng chẳng bao lâu sau thì chuyển sang tay con rể của ông là Trịnh Kiểm và kế tiếp hơn hai thế kỷ liền là con cháu của Trịnh Kiểm(3). Nếu Trịnh Kiểm chỉ có tước vị cao nhất là Quốc Công thì tất cả con cháu kế nghiệp của Trịnh Kiểm đều có tước Vương(4). Nước đã có vua lại còn có chúa, mà đâu phải chỉ một chúa?(5) Chính sự rối bời đến độ không thể rối hơn được nữa.
Các chúa Trịnh không những chỉ nối nhau nắm giữ quyền lực mà trong thực tế, còn nắm cả tính mạng của vua Lê. Bấy giờ, các chúa Trịnh chọn ai trong hoàng tộc nhà Lê lên làm vua thì người đó được làm vua, và bắt vua nào chết thì vua đó cũng phải chết. Từ khi có chúa Trịnh, tính ra, có đến ba vua Lê bị chúa Trịnh giết hại. Đó là:
- Lê Anh Tông (1556-1573) bị chúa Trịnh Tùng (1570-1623) giết hại vào ngày 22 tháng 1 năm 1573.
- Lê Kính Tông (1599-1619) cũng bị chính chúa Trịnh Tùng giết hại vào ngày 12 tháng 5 năm 1619.
- Lê Đế Duy Phường (1729-1732) bị chúa Trịnh Giang (1729-1740) phế truất ngày 15 tháng 8 năm 1732 và giết hại vào tháng 9 năm 1735.
Sau Trịnh Giang mấy chục năm, Trịnh Sâm tuy không giết vua nhưng giết Thái Tử Lê Duy Vĩ - người sắp được kế vị ngôi vua. Sự kiện này xảy ra vào tháng 3 năm 1769. Điều đáng nói là cuộc thanh trừng đẫm máu không phải chỉ có giữa phủ chúa đối với cung vua mà còn diễn ra quyết liệt ngay trong chính nội bộ phủ chúa. Có thể kể ra mấy cuộc “nồi da nấu thịt” nổi bật nhất sau đây:
- Tháng 2 năm 1570, Trịnh Kiểm chết và theo di mệnh thì lẽ ra, con trưởng của Trịnh Kiểm là Trịnh Cối sẽ được lên nối nghiệp. Nhưng, Trịnh Cối chưa kịp nắm quyền thì đã bị em là Trịnh Tùng đem quân đến đánh để giành quyền. Do không chống đỡ nổi, tháng 8 năm 1570, Trịnh Cối phải đầu hàng nhà Mạc. Sau, Trịnh Cối chết trên vùng đất do nhà Mạc quản lí vào ngày 4 tháng 9 năm 1584.
- Tháng 9 năm 1780, Trịnh Khải (con trưởng của Trịnh Sâm, lúc này đang là Thế Tử) bị Trịnh Sâm truất bỏ hết cả ngôi Thế Tử lẫn ngôi con trưởng và tống giam. Con thứ của Trịnh Sâm là Trịnh Cán (lúc này mới lên hai tuổi) được đưa lên làm Thế Tử.
- Tháng 10 năm 1782 (một tháng sau khi Trịnh Sâm mất), Trịnh Khải cùng phe cánh nổi lên, phế truất Trịnh Cán và tự lập làm chúa.
Trên đây chỉ mới là những cuộc thanh trừng lớn, đã xẩy ra, chưa tính những cuộc mưu phản cũng có quy mô không phải là nhỏ(6). Khi mà đạo làm vua và đạo làm chúa bị rẻ rúng thì hẳn nhiên, đạo làm quan cũng chẳng thể được coi trọng. Triều đình liên tục chia bè kết cánh, vu oan, giáng họa và hãm hại lẫn nhau. Thế kỷ thứ XVIII là thế kỷ có rất nhiều vụ đại án của triều đình(7). Dần dần, cương thường và đạo lí buộc phải nhường chỗ cho tham vọng nắm giữ quyền lực.
Cũng trong thế kỷ thứ XVIII, giai cấp phong kiến thống trị Đàng Ngoài đã lao rất nhanh vào con đường ăn chơi xa xỉ. Các bộ chính sử cũng như dã sử xưa đều ghi chép về sự hoang phí của các chúa Trịnh:
* Tuy đã cho xây dựng rất nhiều chùa chiền, nhưng vào năm 1714, Trịnh Cương vẫn bắt nhân dân ba huyện Gia Bình, Lang Tài và Quế Dương đóng góp không biết bao nhiêu tiền của để đại tu chùa Phúc Long. Công việc nặng nhọc và tốn kém này phải kéo dài đến sáu năm mới hoàn tất(8).
* Trong kinh thành Thăng Long, phủ chúa đã được xây cất rất tráng lệ, nhưng, vào năm 1727, Trịnh Cương vẫn cho xây thêm hành cung ở Cổ Bi (Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội). Cũng trong năm này, nhiều cung điện và chùa chiền khác được lệnh tu bổ hoặc xây cất thêm(9).
* Năm 1729, nghĩa là ngay khi vừa lên nối nghiệp chúa, Trịnh Giang đã hạ lệnh cho xây cất rất nhiều công trình tốn kém. Năm 1730, Trịnh Giang đã sai người phá hành cung Cổ Bi để lấy vật liệu trùng tu chùa Quỳnh Lâm và chùa Sùng Nghiêm. Ngoài ra, Trịnh Giang còn cho xây cất nhiều nơi thờ tự cho bà con bên ngoại(10).
____________________________________
1. Tính đến trước thế kỷ thứ XVII, lãnh thổ của nước ta chỉ mới tương ứng với vùng từ Bình Định ngày nay trở ra. Trong phạm vi lãnh thổ đó, ngoài một số nơi họ Mạc còn chiếm giữ được, khu vực từ Quảng Bình trở vào đến Bình Định đang có xu hướng bị Nguyễn Hoàng tách ra để xây dựng cơ đồ riêng.
2. Nguyễn Kim (1467-1545) là người đã tôn lập Lê Ninh lên làm vua ở Thanh Hóa vào năm 1533, tức là người đã có công lập ra Nam triều.
3. Trịnh Kiểm (?-1570), người Thanh Hóa, con rể của Nguyễn Kim, được phong là Lượng Quốc Công (năm 1546).
4. Trịnh Tùng (1570-1623): Bình An Vương. Trịnh Tráng (1623-1657): Thanh Vương. Trịnh Tạc (1657-1682): Tây Vương. Trịnh Căn (1682-1709): Định Vương. Trịnh Cương (1709-1729): An Vương. Trịnh Giang (1729-1740): Uy Vương. Trịnh Doanh (1740-1767): Minh Vương. Trịnh Sâm (1767-1782): Tĩnh Vương... v.v.
5. Ngoài chúa Trịnh, phía Nam còn có chúa Nguyễn.
6. Ví dụ cuộc mưu phản của Trịnh Xuân (con Trịnh Tùng) vào năm 1623, nhằm tranh giành ngôi chúa với anh là Trịnh Tráng.
Năm 1767, một cuộc mưu phản khác đã nổ ra, đó là cuộc mưu phản của Trịnh Đệ (cũng đọc là Trịnh Lệ) - em ruột của Trịnh Sâm.
7. Ví dụ vụ án Nguyễn Công Hãng (1732), vụ án năm Canh Tí (1780) dẫn đến cái chết của một loạt các đại thần. Vụ kiêu binh nhiều lần nổi lên... v.v.
8. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 35 và quyển 36). Lịch triều tạp kí (quyển 2).
9. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 35 và quyển 36). Lịch triều tạp kí (quyển 2).
10. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 36, 37 và 38). Lịch triều tạp kỷ (quyển 2).
Để có đủ tiền của cung đốn cho những cuộc hoang chơi và xây cất tốn kém nó trên, các chúa Trịnh đã đánh thuế rất nặng. Đời sống của nhân dân vì thế mà ngày càng trở nên tồi tệ. Thực tế bi đát nhất của Đàng Ngoài trong thế kỷ thứ XVIII là hàng vạn nông dân bị tước đoạt ruộng đất, bị đuổi khỏi quá trình sản xuất và trở thành lớp người được sử cũ gọi là “dân vong mạng” (dân phải bỏ quê cha đất tổ mà trốn đi nới khác). Đó là thực tế không thể nào tránh khỏi, bởi ở Đàng Ngoài, công điền dần dần trở thành cơ sở nuôi lính của chúa Trịnh. Số ruộng công ít ỏi còn lại không đủ để chia cấp cho xã hội, đã thế lại còn liên tục bị giai cấp địa chủ tìm cách bao chiếm. Sử cũ đã ghi chép được khá nhiều con số cụ thể về mức độ phá sản và phiêu bạt hàng loạt của nhân dân các làng:
* Năm 1730, toàn Đàng Ngoài có 527 làng dân dắt díu nhau bỏ đi phiêu tán gần hết. Chúa Trịnh Giang phải sai 12 viên đại thần đi chiêu tập dân về nguyên quán làm ăn nhưng không thu được kết quả gì đáng kể(1).
* Năm 1741, số làng xã của Đàng Ngoài bị phá sản và phải phiêu tán lên tới 3691 làng, trong đó có 1730 làng được coi là “đặc biệt điêu tàn” vì vắng người, thôn xóm và ruộng đồng đã trở nên hoang dã(2).
* Sang nửa sau của thế kỷ thứ XVIII, theo một bản điều trần của Ngô Thì Sĩ (1726-1780), thì tình hình phá sản và phiêu tán của nông dân các làng xã vẫn còn rất nặng nề:
+ Vùng đồng bằng Bắc Bộ có tất cả bốn trấn và tổng cộng chung là 9668 xã thôn thì đã có tới 1076 xã thôn bị phiêu tán, chiếm tỉ lệ hơn 11%.
+ Trấn Thanh Hóa có 1393 xã thôn thì đã có tới 297 xã thôn bị phiêu tán, chiếm tỉ lệ hơn 21%.
+ Trấn Nghệ An có 706 xã thôn thì đã có tới 115 xã thôn bị phiêu tán, chiếm tỉ lệ hơn 16%.
Bản điều trần nói trên của Ngô Thì Sĩ(3) cho thấy sự phá sản và phiêu tán của nông dân Đàng Ngoài trong thế kỷ thứ XVIII là càng ngày càng nghiêm trọng. Nông dân bị buộc phải rời bỏ nông thôn nông nghiệp, nhưng Đàng Ngoài lúc bấy giờ chưa có các công trường thủ công lớn, càng chưa có những trung tâm công nghiệp để có thể tiếp nhận họ. Đây chính là hiện tượng các Chúa Trịnh tự mình xô đẩy nông dân về phía cực đối kháng gay gắt nhất với chính mình.
Sự tham tàn của giai cấp phong kiến thống trị đương thời là lẽ tự nhiên, bởi một bộ phận rất quan trọng của giai cấp này, từ thế kỷ thứ XVIII, đã được tuyển lựa một cách rất kì lạ. Bấy giờ cả đến học vị và chức tước cũng được đem ra mua bán. Chỉ tính riêng trong khoảng hai mươi năm giữa thế kỷ thứ XVIII, chúa Trịnh Doanh (1740-1767) đã ba lần chính thức hạ lệnh cho dân, rằng: “ai nộp thóc sẽ được làm quan”(4). Phép tuyển lựa quan lại thông qua thi cử Nho học tuy vẫn còn tồn tại, thậm chí là vẫn rất được đề cao, nhưng, “học trò đã quen thói đua nhau chạy chọt, quan trường thì coi nhẹ kỷ cương, công khai gửi gắm (con em cho nhau). Vì thế, người đỗ đạt phần nhiều không có thực học, miệng thế bàn tán rất xôn xao”(5). Nhưng, hiện tượng “gửi gắm” có lẽ cũng không đáng sợ bằng hiện tượng công khai gà bài và thi thay, đặc biệt, nghiêm trọng nhất là hiện tượng mua bán học vị. Chúa Trịnh đã nhiều lần cho phép thu tiền thông kinh. Ai nạp đủ ba quan tiền thông kinh thì sẽ được miễn sát hạch ở huyện. “Vì lẽ này, kẻ làm ruộng, người đi buôn, cho đến cả đám hàng thịt và bọn buôn bán vặt cũng nhất nhất làm đơn xin nạp tiền thi. Đến ngày vào thi, sĩ tử đông đến nỗi dẫm đạp lên nhau, có kẻ chết ở cửa trường. Còn trong trường thi, kẻ mang theo sách, kẻ hỏi chữ, lại có kẻ mượn người thi thay, chúng ngang nhiên làm bậy, chẳng biết kiêng nể phép tắc là gì”(6). Dân đương thời gọi tất cả những người đỗ Sinh Đồ(7) nhờ nạp tiền thông kinh là Sinh Đồ ba quan!
Khi chức quan được đổi bằng thóc lúa thì hẳn nhiên là ngay sau khi nhận chức quan, người ta sẽ tìm đủ mọi mánh khóe để thu lại số thóc đã bỏ ra, để vơ vét mà làm giàu. Khi học vị có được là nhờ mua bán thì cũng hẳn nhiên là ngay sau khi có học vị người ta sẽ tìm đủ mọi thủ đoạn để thu lại số tiền đã bỏ ra, để tính kế vinh thân phì gia.
Quan trên mà vô đạo thì bọn cường hào ác bá trong khắp mọi xã thôn lại càng vô đạo hơn. Chưa bao giờ thân phận của người dân thấp hèn bị đọa đày đến như vậy:
Bắt phong trần phải phong trần,
Cho thanh cao mới được phần thanh cao(8)
Chưa bao giờ nạn đói kém xảy ra khủng khiếp và liên tục như trong thế kỷ thứ XVIII. Năm 1702, nạn đói bắt đầu ở Thanh Hóa mà nguyên do trực tiếp là bởi đê sông Mã, đê sông Chu cùng bị vỡ. Năm 1703, nạn đói lan ra khắp cả bốn trấn vùng Bắc Bộ. Bấy giờ, một tiền chỉ đong được khoảng 4 bát gạo(9). Các năm 1712 và 1713, nạn đói lại xẩy ra trầm trọng hơn, “một đấu lúa nhỏ mà giá những một tiền, trăm họ phải ăn vỏ cây, rau cỏ và lá rừng, thây chết đói chất đầy đường, thôn xóm trở nên tiêu điều kì lạ”(10). Năm 1737, khu vực Sơn Tây vừa bị đói kém lại vừa bị bệnh dịch, người sống sót chỉ còn lại độ một hoặc hai phần mười(11). Đặc biệt nghiêm trọng nhất là nạn đói năm 1741. Năm ấy “dân vong mạng dắt díu bồng bế nhau đi xin ăn đầy đường, giá gạo cao vọt, một trăm đồng tiền không mua nổi một bữa ăn, dân phần nhiều ăn rau cỏ, thậm chí là ăn cả chuột và rắn. Người chết đói ngổn ngang, người sống sót không còn nổi một phần, mười, làng nào có tiếng là trù mật cũng chỉ còn lại độ dăm ba hộ nữa mà thôi”(12). Cũng trong năm 1741 này, ở khu vực Nghệ An, một mẫu ruộng tốt cũng chỉ đổi được một cái bánh đa nướng! Dân nghèo chết đã đành, có những nhà giàu tiền của chất đống mà vẫn cứ phải chết đói vì không tìm đâu ra lương thực(13).
Sự phân hóa và phân cực vốn dĩ đã xuất hiện và trở nên sâu sắc từ rất lâu dài trước đó, đến đây, nạn thiên tai, mất mùa và đói kém triền miên đã khiến cho sự phân hóa và phân cực đó ngày càng trở nên quyết liệt và dữ dội hơn. Con đường tất yếu của những người cùng khổ lúc này là phải cầm lấy vũ khí và nổi dậy.
______________________________________
1, 2. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 36, 37 và 38). Lịch triều tạp kỷ (quyển 2).
3. Dẫn lại của Giáo Sư Phan Huy Lê trong Lịch sử Việt Nam (Tập 2: 1406-1858). Bản in ronéo, đại học Tổng Hợp Tp. Hồ Chí Minh, 1979. Phần tích tỉ lệ phần trăm là của tác giả DANH TƯỚNG VIỆT NAM.
4. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 39, tờ 1, quyển 40, tờ 25 và quyển 42, tờ .
5. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 42, tờ 9).
6. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 44, tờ 27 và 28).
Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí (Khoa mục chí)
7. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí (Khoa mục chí).
8. Nguyễn Du: Truyện Kiều.
9, 10. Ngô Cao Lãng: Lịch triều tạp kỷ (quyển 2).
11. Phạm Đình Hổ: Vũ trung tùy bút.
12. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 39, tờ 16 và 17).
13. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 39, tờ 16).
2. Những nghĩa sĩ tiên phong
Ngay từ những năm cuối cùng của thế kỷ thứ XVII, các cuộc vùng dậy của nông dân nghèo khổ với quy mô khá lớn đã bùng nổ ở nhiều địa phương khác nhau, nhất là những địa phương gần biên giới. Đó là những nghĩa sĩ tiên phong, những người đầu tiên có công nhen lên ngọn lửa đấu tranh một mất một còn với giai cấp thống trị tàn bạo. Trong phạm vi năm năm (từ năm 1690 đến năm 1695), Đàng Ngoài đã liên tục bị chấn động bởi ba phong trào lớn:
* Phong trào của nhân dân vùng Vạn Ninh nổ ra tháng 4 năm Canh Ngọ (1690) do Phương Vân Long và Tân Án Sủng cầm đầu(1). Đất Vạn Ninh từ thời Trần trở về trước là một châu, sang thời thuộc Minh thì đổi làm huyện. Thời Lê sơ, Vạn Ninh lại đổi làm châu. Đến thời Nguyễn, Vạn Ninh được thăng làm phủ, đó là phủ Hải Ninh. Phủ Hải Ninh thuộc tỉnh Quảng Yên, nay là tỉnh Quảng Ninh. Phương Vân Long và Tân Án Sủng đều là người gốc Hoa, vì thế, hai ông chẳng những tập hợp được rất đông người Việt mà còn huy động được không ít người Hoa tham gia. Lực lượng của Phương Vân Long và Tân Án Sủng lúc thì tung hoành ở Vạn Ninh, lúc thì kéo sang tận Trung Quốc, vì thế, chúa Trịnh Căn (1682-1709) phải đàn áp rất vất vả. Sau, Trịnh Căn phải sai quan giữ chức Trấn Thủ Tuyên-Hưng(2) là Lê Huyến sang Trung Quốc, phối hợp với quân của Trấn Tướng Long Môn là Diệp Thắng mới dẹp yên được. Tiếc thay, phong trào của nhân dân Vạn Ninh bị đàn áp, nhưng, chính tướng nhà Thanh là Diệp Thắng lại nhân cơ hội đó, cướp bóc nhân dân ta rất thậm tệ. Sau, hắn bị nhà Thanh xử chém.
* Phong trào của nhân dân vùng Cao Bằng(3) nổ ra vào tháng 3 năm Nhâm Thân (1692). Trước đó, đồng bào các dân tộc ở vùng La Thượng Đàn (tên một vùng đất thuộc Cao Bằng) đã từng nổi dậy. Chúa Trịnh Căn từng phải sai quan giữ chức Trấn Thủ của Cao Bằng là Ngô Sách Tuân(4) đem quân đi đàn áp. Ngô Sách Tuân đã đàn áp rất dã man nhân dân vùng La Thượng Đàn, nhưng, ngọn lửa đối kháng cũng không hề vì thế mà bị dập tắt hẳn. Nhân lòng phẫn uất của dân Cao Bằng, dư đảng của họ Mạc do Mạc Kính Chư cầm đầu đã kéo về hoạt động rất ráo riết ở vùng này. Ngô Sách Tuân chống đỡ rất vất vả, vì thế, chúa Trịnh Căn lại phải điều động thêm một số tướng lĩnh khác như Lê Bật Huân, Bế Công Quỳnh và Nguyễn Công Ban, đem nhiều quân sĩ đến đàn áp. Lực lượng của Mạc Kính Chư tuy không lớn, số dân Cao Bằng tập hợp dưới ngọn cờ của Mạc Kính Chư cũng không phải là quá đông, nhưng, sự trở lại của dư đảng họ Mạc đã khiến cho dư luận đương thời rất chú ý, ảnh hưởng của Mạc Kính Chư vì thế mà trở nên khá mạnh mẽ.
* Phong trào của nhân dân Đa Giá Thượng(5) nổ ra năm Giáp Tuất (1694). Đa Giá Thượng là tên của một xã thuộc huyện Gia Viễn, phủ Trường Yên. Nay, đất Gia Viễn thuộc tỉnh Ninh Bình. Đa Giá Thượng cũng là tên của cả một căn cứ lớn mà các nghĩa sĩ vùng Gia Viễn (Trường Yên) đã dựng lên nhằm chống lại chính quyền thống trị của họ Trịnh ở địa phương lúc bấy giờ. Sử cũ không cho biết cụ thể tên tuổi của lãnh tụ phong trào này, tuy nhiên, từ những dòng ghi chép về quá trình đàn áp của họ Trịnh, chúng ta cũng có thể hình dung được rằng, lực lượng nghĩa sĩ ở Đa Giá Thượng khá đông. Chỉ tính riêng cuộc đàn áp do Thạc Quận Công Lê Hải tiến hành vào tháng 5 năm Giáp Tuất (1694), 290 nghĩa sĩ ở Đa Giá Thượng bị bắt và 52 người trong số đó đã bị xử chém đầu(6).
3. Bốn phương rầm rộ khởi binh
Ở một trong những bộ sách lớn của mình gồm đến sáu mươi quyển là Tư trị thông giám cương mục, triết gia vĩ đại của Trung Quốc đời Tống là Chu Hy (1130-1200) có viết đại để rằng: những ai từng vì việc nghĩa mà nổi dậy thì gọi là khởi binh, còn những ai tuy không phải hoàn toàn là vì việc nghĩa mà nổi dậy, nhưng, kẻ đối địch với họ lúc ấy cũng không có tư cách gì để gọi họ là giặc, thì những người nổi dậy ấy gọi là binh khởi(7). Các nhà viết sử của nước ta thuở xưa, nói chung, đều theo cách gọi nói trên của Chu Hy. Bởi lẽ này, phần lớn các phong trào đấu tranh của nhân dân ta trong thế kỷ XVIII ở Đàng Ngoài đều được các bộ sử cũ chép là khởi binh hoặc binh khởi. Ở một chừng mực nào đó chúng ta cũng có thể nói rằng, trong nửa đầu của thế kỷ thứ XVIII hiện tượng nổi bật nhất của cả xứ Đàng Ngoài là bốn phương rầm rộ khởi binh. Nếu ở những năm cuối cùng của thế kỷ thứ XVII, phong trào đấu tranh của nhân dân ta nổ ra chủ yếu ở miền biên giới, thì sang nửa đầu thế kỷ thứ XVIII, phong trào đã lan rộng khắp mọi nơi, dồn dập và quyết liệt chưa từng thấy, trong đó, nổi bật lên mấy phong trào lớn sau đây:
* Đợt sóng dữ thứ hai ở Yên Quảng:Bởi cuộc đàn áp đẫm máu của Lê Huyến vào tháng 4 năm Canh Ngọ (1690), cuộc nổi dậy của nhân dân Yên Quảng mà trung tâm là vùng Vạn Ninh, do Phương Vân Long và Tân Án Sủng cầm đầu buộc phải tạm lắng xuống. Đến đây, sau hơn hai mươi năm âm ỉ, một đợt sóng dữ thứ hai ở Yên Quảng lại nổi lên. Sử cũ không cho biết thủ lĩnh của nhân dân Yên Quảng lúc này là ai, nhưng lại ghi chép khá rõ về sự lo lắng của triều đình vua Lê Dụ Tông (1705-1729) và chúa Trịnh Cương (1709-1729). Bấy giờ, Trịnh Cương đã phải nhiều lần đốc thúc quan giữ chức Lưu Thủ ở Yên Quảng là Văn Đình Nhậm về việc tập trung lực lượng để đánh dẹp. Tháng giêng năm Canh Ngọ (1714), Văn Đình Nhậm đã dốc toàn bộ lực lượng, tổ chức một cuộc đàn áp có quy mô rất lớn, bắt sống và giết được hơn 70 người, chiêu dụ được hơn 300 người khác. Yên Quảng đến đó mới tạm yên(8).
* Thủ lĩnh người họ Đèo lại cầm quân xuống núi:Thời vua Lê Dụ Tông và chúa Trịnh Cương, vùng Tây Bắc nước ta ngày nay gọi là phủ An Tây. Phủ An Tây quản lĩnh ba châu, đó là Chiêu Tấn Châu, Lai Châu và Quỳnh Nhai Châu. Chiêu Tấn Châu đại để tương ứng với đất đai của hai tỉnh Lao Cai và Yên Bái ngày nay. Ở Chiêu Tấn Châu, họ Đèo là một dòng họ lớn, có ảnh hưởng khá mạnh đối với nhân dân địa phương. Khi Trịnh Cương mới lên cầm quyền, Thổ Tù người họ Đèo là Đèo Mỹ Lâm đã nổi dậy, chẳng những chiếm Chiêu Tấn Châu mà còn đánh chiếm cả Lai Châu và cũng không ngần ngại cho quân tràn sang đánh cả vào Quỳnh Nhai Châu. Chúa Trịnh Cương hoảng sợ, sai Nguyễn Công Chính và Bùi Sĩ Tiêm đem cả một lực lượng lớn đi đàn áp. Nhưng, vừa đến Chiêu Tấn Châu, Nguyễn Công Chính đã bị giết chết, cuộc đàn áp kể như thất bại, Bùi Sĩ Tiêm buộc phải kéo quân về.
Tháng 3 năm Nhâm Dần (1722), con của Đèo Mỹ Lâm là Đèo Mỹ Ngọc lại tập hợp nghĩa sĩ, tiến xuống tấn công dữ dội vào quan quân của chúa Trịnh trấn giữ ở vùng này. Trịnh Cương vội sai quan Lưu Thủ Hưng Hóa là Nguyễn Thành Lý huy động lực lượng các địa phương lân cận đến đàn áp. Đèo Mỹ Ngọc liền rút lui lên các căn cứ ở trên núi cao. Sau, vì quá mệt mỏi với cuộc đánh dẹp xa xôi này, Trịnh Cương bèn hạ lệnh cho Nguyễn Thành Lý lui quân(9).
* Quách Công Thi xướng nghĩa ở Lạc Thổ:Quách Công Thi nguyên là Thổ Tù ở vùng Lạc Thổ, người có uy tín rất lớn trong nhân dân địa phương. Lạc Thổ là tên huyện. Huyện này thuộc phủ Thiên Quan, trấn Thanh Hoa. Thời Nguyễn, Lạc Thổ đổi là Lạc Yên. Huyện này nay thuộc tỉnh Ninh Bình. Bấy giờ, nhân lòng căm phẫn của nhân dân đối với chính sách bóc lột thậm tệ của chúa Trịnh Cương, Quách Công Thi đã dựng cờ xướng nghĩa, trước là chống lại chế độ thuế khóa nặng nề, sau là trừng trị bọn tham quan ô lại. Tháng giêng năm Giáp Dần (1734), hoạt động của nghĩa quân Quách Công Thi đã lan khắp vùng Lạc Thổ. Quan giữ chức Lưu Thủ của chúa Trịnh Cương ở Lạc Thổ lúc này là Nguyễn Thọ Trường đã dốc toàn lực đánh dẹp mãi vẫn không xong. Đứng trước tình thế đó, Nguyễn Thọ Trường liền làm tờ khải tâu lên chúa Trịnh Cương, cốt để xin quân cứu viện. Chúa Trịnh Cương cho là Nguyễn Thọ Trường không làm tròn bổn phận, bèn xuống lệnh nghiêm trách và bắt phải đánh dẹp cho bằng được mới thôi. Sau, Nguyễn Thọ Trường mất ở Lạc Thổ bởi những cuộc hành quân mệt mỏi này(10).
* Nhà sư Nguyễn Dương Hưng nhập cuộc:chính sách cai trị của tập đoàn phong kiến Đàng Ngoài lúc này tàn bạo đến nỗi, cả đến các bậc tu hành từ bi cũng không thể nào chịu nổi. Đầu năm Đinh Tị (1737), trên khắp một địa bàn rộng lớn, tương ứng với các tỉnh Hà Tây, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Tuyên Quang và Thái Nguyên ngày nay, có một cuộc khởi nghĩa rất lớn do nhà sư Nguyễn Dương Hưng cầm đầu. Nguyễn Dương Hưng đặt bản doanh tại khu vực Tam Đảo. Ông đã tập hợp được một đội quân đông đến hàng ngàn người. Những trận tập kích đầu tiên của nghĩa quân Nguyễn Dương Hưng đã khiến cho chúa Trịnh Giang (1729-1740) rất lo sợ. Bấy giờ, kinh thành Thăng Long cũng phải náo loạn, dù Nguyễn Dương Hưng chưa hề tấn công vào. Sử cũ cho biết: “Khi ấy, dân không hiểu biết việc binh, chợt nghe có tin báo nguy cấp thì xa gần đều lo sợ, người trong kinh đô dắt díu ra ngoài thành, dân ngoài thành thì đào hố chôn giấu của cải và sắp sẵn lương khô để phòng khi có biến. Giá thử như “giặc” mà kéo đến thì sợ về nỗi lòng dân không bền”(11). Tháng 9 năm Định Tị (1737), Trịnh Giang sai quan giữ chức Đốc Đồng Sơn Nam là Nguyễn Bá Lân, cùng vội một số tướng lĩnh khác như Nguyễn Lịch, Nguyễn Trọng Côn, đem đại quân đi đàn áp rất khốc liệt mới tạm dẹp yên được lực lượng của Nguyễn Dương Hưng(12).
* Cuộc khởi binh ở Ngân Già:Ngân Già là tên làng. Xưa, làng này thuộc huyện Nam Chân, sau, thuộc huyện Nam Trực (Nam Định). Năm Canh Thân (1740), dân Ngân Già dưới sự chỉ huy của Vũ Đình Dung, Đoàn Danh Chấn và Tú Cao, đã nổi dậy đánh phá quyết liệt khắp cả một vùng rộng lớn ở khắp miền đồng bằng và duyên hải Bắc Bộ. Nghĩa quân đã giết được một số tướng lĩnh của chúa Trịnh như Đốc Lãnh Hoàng Kim Trảo cùng hai viên tướng dưới quyền của Hoàng Kim Trảo là Nguyễn Thế Siêu và Trần Danh Quán(13). Hoảng sợ trước sự phát triển nhanh chóng của lực lượng Vũ Đình Dung, dẫu vừa mới được lên ngôi chúa, Trịnh Doanh cũng lập tức vạch kế hoạch và tự mình cầm quân đi đàn áp. Tháng 12 năm 1740, với quân số áp đảo, Trịnh Doanh đè bẹp được cuộc khởi nghĩa này. Vũ Đình Dung cùng nhiều tướng lĩnh và đông đảo nghĩa sĩ đã anh dũng hi sinh. Làng Ngân Già từ đó bị Trịnh Doanh đổi gọi là làng Lai Cách.
* Cuộc phản kháng quyết liệt mới của đồng bào các dân tộc ít người: Vào những năm bốn mươi của thế kỷ thứ XVIII, đồng bào các dân tộc ít người đã nhất loạt nổi dậy. Mở đầu rầm rộ nhất là cuộc nổi dậy của nhân dân Lạng Sơn dưới sự chỉ huy của tù trưởng Toản Cơ từ năm 1740 đến năm 1742. Chúa Trịnh là Trịnh Doanh phải điều viên tướng khét tiếng tàn bạo là Nguyễn Đăng Hiển đến đàn áp mới tạm yên được(14).
Gần như đồng thời với Toản Cơ, đầu năm 1740, hai vị tù trưởng ở sách Đông Quang là Thoan và Thiều cũng tập hợp nhân dân chống lại triều đình. Sách Đông Quang khi ấy thuộc huyện Trấn An, trấn Hưng Hóa. Nay, đất này thuộc về huyện Trấn An, tỉnh Yên Bái. Các nghĩa sĩ dưới quyền chỉ huy của tù trưởng Thoan và tù trưởng Thiều chẳng những hoạt động ở sách Đông Quang mà còn tiến sang đánh phá cả địa phận trấn Tuyên Quang. Tháng 7 năm 1741, bởi cuộc tấn công quyết liệt của Lưu Thủ Văn Đình Dận, nghĩa quân do hai vị tù trưởng Thoan và Thiều mới bị tiêu diệt(15).
Đầu năm 1744, tại vùng Vĩnh Đồng, huyện Mỹ Lương (nay thuộc vùng Mỹ Đức của Hà Tây và vùng Lương Sơn của Hòa Bình), nhân dân địa phương đã tập hợp dưới ngọn cờ của thủ lĩnh Tương. Tuy chiến đấu ở khu vực cách kinh thành Thăng Long không xa, nhưng nghĩa quân của thủ lĩnh Tương cũng đã anh dũng cầm cự được tám năm trời (1744-1752)(16).
Chẳng bao lâu sau thất bại của thủ lĩnh Tương, chính quyền Trịnh Doanh lại phải một phen lao đao bởi một cuộc khởi nghĩa khác ở vùng Sơn Tây và Hưng Hóa do thủ lĩnh Thai cầm đầu. Trịnh Doanh phải huy động một lực lượng quân sĩ rất đông đến mới đàn áp được. Thủ lĩnh Thai bị bắt và bị giết hại cùng với hơn một trăm nghĩa sĩ trung thành khác vào năm 1764(17).
___________________________________
1. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 34, tờ 25).
2. Tuyên-Hưng là tên gọi tắt của Tuyên Quang và Hưng Hóa.
3. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chánh biên, quyển 34, tờ 29).
4. Ngô Sách Tuân người làng Hoài Bão, huyện Tiên Du (nay thuộc huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh), đỗ Tiến Sĩ năm 1673.
5, 6. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên. quyển 34, tờ 33).
7. Chu Hy: Tư trị thông giám cương mục (Quyển thủ, mục Phàm lệ).
8. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 85, tờ 15).
9. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 86, tờ 3).
10. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 37, tờ 29 và 30).
11, 12. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 38, tờ 6).)
13. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 38, tờ 25).
14. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 38, tờ 26).
15. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 39, tờ 13).
16. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 41, tờ 16).
17. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 42, tờ 21).
Quyển 03
Chương 01 - NHỮNG DANH TƯỚNG XUẤT THÂN ÁO VẢI ĐẦU TIÊN
LƯỢC TRUYỆN NHỮNG DANH TƯỚNG XUẤT THÂN ÁO VẢI ĐẦU TIÊN
Nguồn: quansuvn.net
Thu gọn nội dung
01. NGUYỄN TUYỂN VÀ NGUYỄN CỪ
Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ là hai anh em ruột.
Hai ông người làng Ninh Xá, huyện Chí Linh, phủ Nam Sách
(nay thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương).
Cầm gươm rửa thẹn
Từ thế kỷ thứ XVIII trở đi, chính sự Đàng Ngoài ngày một rối ren và đen tối đến độ thảm hại. Bấy giờ, nếu chúa Trịnh Cương (1709-1729) chỉ tiếp tục đẩy mạnh xu hướng chung của Nhà chúa là ra sức lấn át quyền hành Nhà vua, khiến cho vua Lê Dụ Tông (1705-1709) chỉ còn là một hư vị tội nghiệp, thì đời chúa kế tiếp là Trịnh Giang (1729-1740) còn bạo ngược khủng khiếp hơn nhiều. Chính Trịnh Giang đã vu cho vua Lê Đế Duy Phường (1729-1732) tội gian dâm với vợ của Trịnh Cương rồi phế Lê Đế Duy Phường làm Hôn Đức Công và sau đó đã giết Nhà vua vào tháng 9 năm Nhâm Tí (1732)2. Sau khi phế Lê Đế Duy Phường, Trịnh Giang đã làm một việc trước đó chưa từng có, đó là:
“Lúc ấy, (Trịnh) Giang bắt dẫn mười hai người con của vua Lê Dụ Tông vào phủ đường của mình để xem mặt. Lê Duy Đường là con trưởng, thấy đáng được làm vua, (Trịnh) Giang liền sai quan hộ vệ Lê Duy Đường đến ở riêng tại cung Thọ Phúc”3.
Trước đó, Lê Duy Đường từng bị mất ngôi Thái Tử, đến đây, cha là vua Lê Dụ Tông mới mất, em là vua Lê Đế Duy Phường bị phế để rồi bị giết, Lê Duy Đường mới được đưa lên ngôi, đó là vua Lê Thuần Tông (1732-1735). Nhưng, vua Lê Thuần Tông cũng chỉ ở ngôi được ba năm thì mất. Em ông là Lê Duy Thận được đưa lên thay, đó là vua Lê Ý Tông (1735-1740). Cả Lê Thuần Tông và Lê Ý Tông đều rất giống nhau ở chỗ ở ngôi rất ngắn và hoàn toàn không có một tí thực quyền nào.
Sau khi đã hoàn toàn vô hiệu hóa những ảnh hưởng của Nhà vua đối với guồng máy chính trị đương thời, Trịnh Giang đã không ngừng tìm cách củng cố thêm ngôi vị của mình. Tháng 10 năm Giáp Dần (1734), Trịnh Giang tự phong cho mình là Đại Nguyên Soái, Tổng Quốc Chính, Thượng Sư Thái Phụ, Thông Đức Anh Nghị Thánh Công Uy Vương. Tháng 9 năm Kỷ Mùi (1739), Trịnh Giang lại giả thác có chiếu thư của Thiên Tử nhà Thanh phong cho mình làm An Nam Thượng Vương. Sự kiện hài hước này đã được chính sử xưa ghi chép như sau:
“(Trịnh) Giang vượt phận, tiếm quyền, không còn biết kiêng sợ là gì nữa. Hắn tự xưng là Bác Đạt Mậu Hòa, Tuy Du Dụ Nghĩa Trịnh Vương.
Lúc ấy, (Trịnh) Giang đang chơi ở làng Quế Trạo, trấn Kinh Bắc, là quê hương của viên hoạn quan Hoàng Công Phụ. (Trịnh) Giang cho xây dựng phủ đệ tại đó để ở. Hắn mật sai tay chân thân tín là bọn Nguyễn Trác Luân và Trần Văn Hoán, từ kinh sư chạy ngựa trạm lên, phụng trình sắc văn tấn phong và ấn tỉ, giả thác nói rằng đó là do sứ giả nhà Thanh sang nước ta phong cho (Trịnh) Giang làm An Nam Thượng Vương”4.
Chép xong đoạn trên, các sử gia nhà Nguyễn đã hạ bút viết ngay lời phê rằng: “Không cướp ngôi vua thì thôi, muốn thì gì mà chẳng được, cần gì phải giả dối. Thật là điên cuồng và đáng chê cười”.5
Điều đáng tiếc là cả hai nhân vật cùng tham gia vào vở hài kịch nói trên - Nguyễn Trác Luân và Trần Văn Hoán, đều đỗ đạt đại khoa, cũng là người có chút văn tài và nắm trong tay những chức vị rất quan trọng của phủ Chúa6. Ngoài Nguyễn Trác Luân và Trần Văn Hoán, Trịnh Giang còn có một tay sai rất đắc lực đó là hoạn quan Hoàng Công Phụ7. Tháng 5 năm Bính Thìn (1736), chính viên hoạn quan hiểm độc này đã xúi giục Trịnh Giang giết hại Trấn Thủ Nghệ An là Trương Nhưng, mặc dù Trương Nhưng vốn nổi tiếng là người ôn hòa, lại là em ruột của Trương Thái Phi8.
Để phế truất và sau đó là giết hại Lê Đế Duy Phường, Trịnh Giang đã vu cho Lê Đế Duy Phường tội gian dâm với vợ của Trịnh Cương, nhưng người làm việc tồi bại này lại chính là Trịnh Giang, cho dẫu vợ của Trịnh Cương cũng chính là mẹ kế của hắn. Điều này đã được dã sử xưa ghi chép khá tỉ mỉ, xin lược thuật như sau: Trịnh Giang là kẻ dâm loạn, từng tư thông với bà Kỳ Viên Phi Đặng Thị (người xã Trà Đổng, huyện Tiên Du, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh), vốn là vợ lẽ của chúa Trịnh Cương (cha Trịnh Giang). Việc này bị bà Vũ Thái Phi (mẹ đẻ của Trịnh Giang) phát giác. Bà ép Kỳ Viên Phi Đặng Thị phải tự tử. Một hôm, chẳng hiểu vì sao Trịnh Giang bị sét đánh gần chết, nhân đó mà mắc bệnh kinh quý, hễ nghe có sấm sét là kinh hồn bạt vía. Bọn hoạn quan liền nói với Trịnh Giang rằng, duyên do chẳng qua vì dâm dục quá nên bị ác báo, muốn chữa, chỉ có cách đào hầm làm nhà ở dưới đất. Trịnh Giang bèn dựng cung Thường Trì để ở, không dám đi ra ngoài như trước nữa9.
Chính sử cũng chép tương tự như vậy, nhưng đoạn cuối có phần chi tiết hơn. Xin được trích lục một đoạn cụ thể như sau:
“Từ ngày làm việc bạo nghịch giết vua (chỉ việc Trịnh Giang truất phế rồi giết chết vua Lê Đế Duy Phường - NKT), Trịnh Giang càng ngày càng tiếm quyền, ăn chơi dâm loạn không còn chừng mực gì nữa, cho nên về sau mới mắc bệnh kinh quý, sợ sấm sét lắm. Bọn hoạn quan là Hoàng Công Phụ đánh lừa, đào đất làm cung Thưởng Trì cho (Trịnh) Giang ở. Từ đấy, (Trịnh) Giang không còn dám bước chân ra ngoài. (Hoàng) Công Phụ cùng đồ đảng liền nhân đó mà lộng quyền, các đại thần nối nhau bị hại, kẻ thì bị giết, kẻ thì bị phạt, ai ai cũng lo sợ không giữ nổi tấm thân của mình, chính sự trái ngược mà thuế khóa thì nặng nề, dân chỉ còn mong sao cho chóng có loạn lạc”10.
Và một trong những người sớm hiểu được lòng dân chính là Nguyễn Tuyển. Tài liệu dân gian cũng như sử cũ11 đều nói rằng, Nguyễn Tuyển vốn là gia nhân của Hoàng Công Phụ. Đó chính là điều kiện để ông hiểu rõ hơn, đầy đủ và sâu sắc hơn, bản chất xấu xa của Hoàng Công Phụ nói riêng và của tập đoàn thống trị Đàng Ngoài nói chung. Càng hiểu rõ, ông càng chán chường và phẫn uất, do đó, ông đã từ bỏ Hoàng Công Phụ, cùng với em là Nguyễn Cừ và cháu là Nguyễn Diên, phát động và lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa ngay trên quê hương Ninh Xá của mình. Các sử gia thời Lê trung hưng gọi nghĩa quân của Nguyễn Tuyển là “giặc Ninh Xá”, nhưng, các sử gia thời Nguyễn lại thẳng thắn bác bỏ và phê phán cách viết này:
“Cuối thời Lê, Trịnh Giang làm việc bạo nghịch giết vua, cho nên, Nguyễn Tuyển và (Vũ) Trác Oánh (tên lãnh tụ một cuộc khởi nghĩa nhỏ khác ở vùng Mộ Trạch, nay cũng thuộc tỉnh Hải Dương - NKT) mới nhân lòng oán giận của dân, mượn danh nghĩa (trừ bạo) rồi lợi dụng cơ hội mà nổi lên, tuy việc làm không tránh khỏi hành vi của giặc, nhưng cốt là để đối địch với Trịnh Giang, thế mà người viết phần Tục biên của sử thời Lê lại gọi là “giặc”. Họ chẳng biết rằng tai họa loạn lạc do (Trịnh) Giang gây ra. (Trịnh) Giang chính là giặc của nhà Lê, thế thì người đối địch với (Trịnh) Giang có lẽ nào lại gọi là “giặc” được?”12.
Khi dựng cờ xướng nghĩa, Nguyễn Tuyển gặp được khá nhiều thuận lợi. Bấy giờ, ở vùng Mộ Trạch, có khởi nghĩa của Vũ Trác Oánh, ở vùng Sơn Nam có khởi nghĩa của Hoàng Công Chất..., chúa Trịnh bối rối vì phải phân tán lực lượng để đối phó với nhiều cuộc tấn công khác nhau. Trước khi xuất quân, Nguyễn Tuyển xưng là Minh Chủ, Vũ Trác Oánh xưng là Minh Công. Lúc đầu tuy Nguyễn Tuyển và Vũ Trác Oánh là hai lãnh tụ của hai lực lượng riêng, nhưng, không bao lâu sau khi khởi nghĩa, hai ông đã gặp nhau ở Ninh Xá, cùng liên kết với nhau và cùng nhau giương cao khẩu hiệu “phù Lê”. Sử cũ chép rằng:
“Dân khắp vùng phía Đông và phía Nam (kinh thành) cùng nhất tề hưởng ứng. Kẻ vác cày, người cầm gậy để đi theo, nơi nhiều có đến hàng vạn, nơi ít cũng có đến hàng ngàn hoặc hàng trăm, họ quấy rối cướp bóc (các nhà giàu) ở các làng, vây đánh khắp mọi ấp, mọi thành, triều đình không sao ngăn cản được”13.
Với Nguyễn Tuyển, đây vừa là cuộc vùng dậy để góp phần cứu nguy cho trăm họ lầm than, vừa là một phen “cầm gươm rửa thẹn” cho non sông, bởi theo ông, thời ông đang sống là thời trớ trêu, thời quyền lực nằm trong tay những kẻ nhân cách tầm thường nhất.
___________________________________
1. Thủ bút Vịnh sử của tác giả.
2. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 37, tờ 26).
3. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 37, tờ 25.
4. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 38, tờ 13).
5. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 38, tờ 14).
6. Nguyễn Trác Luân (1700- ?) người làng Bình Lao, huyện Cẩm Giàng (nay thuộc thị xã Hải Dương, tỉnh Hải Dương), đỗ Tiến Sĩ năm 1721, làm quan trải phong dần đến chức Phó Đô Ngự Sử.
Trần Văn Hoán (1690-?) người làng Từ Ô, huyện Thanh Miện (nay thuộc thôn Từ Ô, xã Tân Trào, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương), đỗ Tiến Sĩ năm 1724, làm quan trải phong dần tới chức Thừa Chỉ.
7. Thảng hoặc cũng có người nhầm Hoàng Công Phụ là hoạn quan với Hoàng Công Phụ là Tiến Sĩ. Hoàng Công Phụ là Tiến Sĩ sinh năm 1567, mất năm 1640, người làng Yên Ninh, huyện Yên Dũng (nay là thôn Yên Ninh, xã Ninh Sơn, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang). Lí lịch khác hẳn.
8. Trương Thái Phi là vợ của Trịnh Bính, mẹ của Trịnh Cương và là bà nội của Trịnh Giang. Như vậy, Trương Nhưng là vai ông cậu của Trịnh Giang.
9. Phạm Đình Hổ: Vũ trung tùy bút.
10, 13. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 38. tờ 15).
11. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 38, tờ 17).
12. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 38, tờ 15 và 16)
Trong chỗ không ngờ, đối thủ tạo cơ may cho Nguyễn Tuyển
Từ Ninh Xá, ngọn lửa quật khởi đã cháy bùng lên rất dữ dội, nhưng, các phe đảng trong phủ chúa Trịnh vẫn không ngừng xâu xé lẫn nhau. Bấy giờ, hai phe mạnh nhất là:
- Phe Trịnh Giang với đám tay chân thân tín do Hoàng Công Phụ cầm đầu.
- Phe Trịnh Doanh (em ruột của Trịnh Giang) với một loạt văn thần và võ tướng, do Nguyễn Quý Cảnh và Nguyễn Công Thái1, cầm đầu. Sát cánh với những nhân vật này là bà Thái Phi Vũ Thị2 và nhiều người khác, như Trương Khuông3, Giáp Nguyễn Khoa4... v.v.
Hoàng Công Phụ cho rằng, muốn lấn lướt được phe cánh của Nguyễn Quý Cảnh và Nguyễn Công Thái, trước hết, mình phải lập được công to, sau đó, cậy công mà ăn nói. Biết rõ Nguyễn Tuyển vốn dĩ là gia nhân cũ của mình, cho nên, hắn tin chắc là có thể tự mình cầm quân đi đánh dẹp một cách dễ dàng. Nguyễn Quý Cảnh là kẻ nham hiểm, vì thế, đã khôn khéo tìm cách khích lệ để cho Hoàng Công Phụ đem quân ra khỏi kinh thành Thăng Long. Hoàng Công Phụ vừa dại dột cất quân thì lập tức, Nguyễn Quý Cảnh cùng với phe đảng đem hết lực lượng ra, thực hiện một cuộc truất phế rất ngoạn mục. Trịnh Giang được nhẹ nhàng bố trí làm lễ nhường ngôi chúa cho em là Trịnh Doanh để lên làm Thái Thượng Vương. Thái Thượng Vương vẫn ở trong cung Thưởng Trì nhưng tất cả bọn hầu cận tin cậy do Hoàng Công Phụ đưa đến đều bị giết. Nói khác hơn, Trịnh Giang thực sự bị giam lỏng, bị cô lập hoàn toàn.
Lúc sự biến xảy ra thì Hoàng Công Phụ đang đóng quân tại Văn Giang5, phải mất mấy ngày sau hắn mới hay tin dữ này. Sử cũ cho biết:
“Hoàng Công Phụ đóng quân tại Văn Giang, biết được tin này thì lập tức đem theo khoảng hơn một chục thủ hạ chạy trốn”6.
Về sau, việc sống chết của Hoàng Công Phụ thế nào, sử cũ không chép rõ. Tuy nhiên, điều đáng nói là bởi có cuộc tranh giành quyền lực này, nghĩa quân của Nguyễn Tuyển đã tránh được một đợt tấn công không nhỏ. Đó là cơ hội thuận tiện xuất hiện trong chỗ không ngờ. Cùng với em và cháu, Nguyễn Tuyển đã nhanh chóng bổ sung lực lượng, chuẩn bị chu đáo cho cuộc đối đầu lâu dài với tập đoàn thống trị Đàng Ngoài.
Trận Bình Ngô: quân của chúa Trịnh đại bại. Các tướng Nguyễn Hữu Nhuận, Đặng Đình Sắt và Phạm Hữu Tá hoảng hốt chạy dài, Thống Lĩnh Nguyễn Trọng Uông bị giết.
Khi Hoàng Công Phụ bỏ trốn, đạo quân của chúa Trịnh ở vùng Văn Giang kể như tan rã, Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ quyết định nhân cơ hội đó, cho nghĩa binh tràn sang khu vực Hưng Yên ngày nay để rồi từ đấy, chia quân làm hai cánh, tấn công và uy hiếp kinh thành từ mặt Đông và Đông Bắc. Ở mặt Đông Bắc, nghĩa quân Nguyễn Tuyển đã từ đất Văn Giang tiến đến Bắc Ninh. Tình hình Thăng Long trở nên rất nguy cấp. Trịnh Doanh sai Nguyễn Trọng Uông làm Thống Lĩnh, trực tiếp chỉ huy các tướng như Nguyễn Hữu Nhuận, Đặng Đình Sắt và Phạm Hữu Tá, cầm quân đi đàn áp. Nguyễn Trọng Uông và các tướng hăm hở lên đường. Tháng 2 năm Canh Thân (1740), một cuộc đụng độ lớn giữa lực lượng do Nguyễn Trọng Uông cầm đầu với nghĩa quân của Nguyễn Tuyển đã diễn ra tại khu vực Bình Ngô7. Chính sử xưa đã ghi chép về trận này như sau:
“Nguyễn Trọng Uông là người khỏe mạnh, quả cảm và giỏi chiến trận, thường một mình một ngựa, xông pha trong chốn tên đạn (mà không chút nao núng). Đến đây gặp Nguyễn Tuyển, (Nguyễn) Trọng Uông đã đem hết sức bình sinh mà đánh. Thế trận rất gay go. (Đúng lúc đó), thuộc tướng của Nguyễn Trọng Uông là Nguyễn Hữu Nhuận bỏ chạy, khiến cho quân sĩ phải hoảng sợ mà tan tác. Quân của Đặng Đình Sắt và Phạm Hữu Tá đi sau, vừa chợt thấy thế cũng lập tức bỏ chạy theo. Giặc (đây chỉ nghĩa quân của Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ - NKT) liền dốc hết lực lượng ra bao vây. Bị thân cô thế cô, Nguyễn Trọng Uông kiệt sức nên bị giết. Trịnh Doanh thương xót, truy tặng (Nguyễn Trọng Uông) hàm Thái Bảo, tước Quận Công”8.
Ngoài việc truy tặng rất trọng hậu cho Nguyễn Trọng Uông, Trịnh Doanh còn bổ dụng con của Nguyễn Trọng Uông là Nguyễn Đức Thân, giao cho Nguyễn Đức Thân chức Thống Lĩnh mà trước đó Nguyễn Trọng Uông đã giữ. Trịnh Doanh cũng hạ lệnh đem Nguyễn Hữu Nhuận ra chém đầu. Các tướng Đặng Đình Sắt và Phạm Hữu Tá thì bị lột hết chức tước và bị đem đi đày viễn xứ.
Bình Ngô là trận thắng có ý nghĩa rất to lớn đối với toàn bộ quá trình phát triển sau đó của lực lượng Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ. Từ trận đánh đặc biệt quan trọng này, Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ đã tự tỏ rõ khả năng tổ chức những đợt tấn công có quy mô lớn. Cũng từ trận Bình Ngô, tinh thần chiến đấu và lí tưởng chiến đấu của các nghĩa sĩ Ninh Xá mỗi ngày một lên cao, nhân dân các địa phương rộng lớn ở chung quanh Thăng Long cũng rất nô nức. Họ sẵn sàng đóng góp sức người, sức của cho Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ.
___________________________________
1. Nguyễn Quý Cảnh người làng Thiên Mỗ, huyện Từ Liêm, là con của Tiến Sĩ Nguyễn Quý Ân (1673-1722) và là cháu của Thám Hoa Nguyễn Quý Đức (1648-1720). Lúc bấy giờ, Nguyễn Quý Cảnh đang giữ chức Bồi Tụng.
Nguyễn Công Thái (1684-1758) người làng Kim Lũ, huyện Thanh Trì (nay thuộc Hà Nội), đỗ Tiến Sĩ năm 1715. Bấy giờ ông cũng đang giữ chức Bồi Tụng.
2. Mẹ của Trịnh Giang và Trịnh Doanh.
3. Trương Khuông người xã Như Kinh, huyện Gia Lâm (nay thuộc Hà Nội) là ngoại thích (họ hàng bên ngoại) của chúa Trịnh.
4. Giáp Nguyễn Khoa người làng Thiết Thượng, huyện Yên Dũng (nay thuộc tỉnh Bắc Giang). Ông là hoạn quan và là người hầu cận thân tín của Trịnh Doanh.
5. Khu vực đóng quân của Hoàng Công Phụ xưa ở huyện Văn Giang, nay thuộc huyện Mỹ Văn, tỉnh Hưng Yên.
6. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên. quyển 38, tờ 19).
7. Bình Ngô nay thuộc huyện Gia Lương tỉnh Bắc Ninh.
8. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 38, tờ 26 và 27.
Trận Phú Xuyên: tháng 5 năm Canh Thân (1740)
Sau trận Bình Ngô, Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ bí mật lui quân về phía Nam kinh thành Thăng Long và chuẩn bị một trận tấn công bất ngờ vào khu vực này. Nhưng, kế hoạch này bị bại lộ. Không còn cách nào khác hơn được nữa, nghĩa quân liền chủ động đánh chiếm một số địa phương ở phía nam Thăng Long. Cuối mùa xuân năm Canh Thân (1740), Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ đã hoàn toàn làm chủ đất hai huyện Phú Xuyên và Thượng Phúc. Đất Phú Xuyên thời Lê Thánh Tông (1460-1497) gọi là Phù Vân, thời Lê Chiêu Tông (1516-1522) gọi là Phú Nguyên và từ thời Mạc trở đi thì gọi là Phú Xuyên. Huyện Phú Xuyên xưa thuộc phủ Thường Tín, nay tương ứng với các huyện Phú Xuyên và Thường Tín của tỉnh Hà Tây. Thượng Phúc xưa cũng là một huyện của phủ Thường Tín, nay cũng thuộc tỉnh Hà Tây.
Bấy giờ, nhân thấy quân của Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ phải phân tán trên một dải đất quá rộng, tướng của chúa Trịnh là Nguyễn Đăng Hiển cho rằng cơ hội tấn công tiêu diệt đã đến. Nguyễn Đăng Hiển vội vàng dốc hết binh sĩ dưới quyền, đánh quyết liệt vào Phú Xuyên. Trước cuộc đàn áp bất ngờ và khốc liệt này, Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ có phần lúng túng. Hai ông quyết định rút lui khỏi Phú Xuyên và Thượng Phúc. Nguyễn Đăng Hiển tuy nhanh chóng giành được ưu thế, nhưng, vẫn không dám truy đuổi. Hai tướng khác của chúa Trịnh là Đốc Lãnh Trương Khuông và Đốc Lãnh Lê Công Chiêm lập tức đem quân đi yểm trợ nhưng không kịp vì Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ đã rút lui về Hải Dương một cách an toàn.
Cuộc tập kích bất ngờ vào phía nam kinh thành Thăng Long tuy không thành, nhưng, lực lượng của Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ nhìn chung vẫn được giữ vững, vùng chiếm đóng của nghĩa quân vẫn được tiếp tục mở rộng. Sử cũ cho biết:
“Bấy giờ, Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ và Nguyễn Diên dấy quân đã lâu ngày, thanh thế rất lừng lẫy. Họ đã tập hợp dân chúng, quạt mạnh cho ngọn lửa chiến tranh bùng lên dữ dội ở khắp các phủ Từ (tức Từ Sơn, nay thuộc Tiên Sơn, Bắc Ninh - NKT), Thuận (tức Thuận An, nay thuộc Thuận Thành và Gia Lương, Bắc Ninh - NKT), Hồng và Sách (tức Hồng Châu và Nam Sách, nay tương ứng với phần lớn đất đai của hai tỉnh Hải Dương và Hưng Yên - NKT). Họ đi đến đâu là dân ở đó nô nức hưởng ứng theo. (Nguyễn) Cừ chiếm đất Đỗ Lâm huyện Gia Phúc (nay là huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương - NKT) còn (Nguyễn) Tuyển chiếm đất Phao Sơn thuỷ huyện Chí Linh (nay là huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương - NKT). Đồn lũy của họ san sát nhau, mỗi người đều có tới vài vạn quân. Các tướng (của triều đình) nhiều phen đem quân đi đánh dẹp mà không sao thắng được”1.
Đánh gục cuộc tấn công do hai viên đại tướng của chúa Trịnh là Vũ Tất Thận và Hoàng Công Kỳ chỉ huy (6-1740)
Sau trận Phú Xuyên, Trịnh Doanh rất tức tối. Hắn quyết tâm phải đàn áp cho bằng được nghĩa quân Ninh Xá. Để thực hiện quyết tâm này, Trịnh Doanh đã tiến hành hai kế hoạch chuẩn bị cụ thể như sau:
- Xuống lời hiểu dụ, hòng chia rẽ hàng ngũ của nghĩa quân. Lời hiểu dụ này có đoạn: “Nhà nước dùng lễ để đối đãi với sĩ phu, dùng nhân nghĩa để nuôi dưỡng trăm họ. Lo rộng mở điều vui giáo hóa thì nào có khác gì lời Thanh nga (tên một bài trong thiên Tiểu nhã của Kinh Thi - NKT). Xoa dịu sự đau thương thì ân cần thổ lộ có khác gì lời Hồng nhạn (tên một bài trong thiên Tiểu nhã của Kinh Thi - NKT). Thế mà trước đây bọn giặc ở Chí Linh (chỉ nghĩa sĩ của Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ - NKT) dám trái danh phận, khiến cho dân một cõi Đông Bắc bị chúng ức hiếp, dỗ dành. Có kẻ thân tuy là học trò, được triều đình giáo hóa thành tài, vậy mà cũng nỡ vì chúng phơi gan dâng sức. Có kẻ là thường dân, được triều đình cho sống yên vui vườn ruộng, vậy mà cũng đành xông vào giáo mác nước sôi. Trong số ấy, thế nào chẳng có người mong không làm liên lụy đến gia đình, thế nào chẳng có kẻ chỉ vì nông nổi mà theo vội? (Những người đó) tuy là cúi đầu theo gượng, nhưng, lòng dạ đâu đã đến nỗi mê muội mà quên cả đường quay lại đâu. Vậy, nếu ai biết bỏ nghịch theo thuận, vứt bỏ binh khí về đầu hàng, thì nhất nhất đều được cho cải hóa, ai lập được công thì chẳng những được tha tội mà còn được thưởng. Nay, hiểu dụ để mọi người cân nhắc, nhận rõ chỗ sáng mà bỏ chỗ tối”2.
- Ra lệnh tịch thu hết chuông, khánh bằng đồng trong chùa chiền, đền miếu để có thêm kim loại đúc vũ khí trang bị cho quân sĩ3. Việc này được Trịnh Doanh ban hành quy chế thực hiện rất rõ ràng. Ngoài việc tịch thu chuông khánh ở khắp các chùa chiền và đền miếu, Trịnh Doanh còn hạ lệnh cho các địa phương rằng: “Ai nộp đồng hoặc chì thì sẽ tùy theo số lượng nhiều ít mà xét cất nhắc để ban cho quan chức”4.
Với hai kế hoạch chuẩn bị nói trên, Trịnh Doanh tin chắc là Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ sẽ khó lòng chống đỡ nổi. Tháng 6 năm 1740, hai viên đại tướng của Trịnh Doanh là Vũ Tất Thận và Hoàng Công Kỳ được lệnh cầm quân tiến thẳng đến Đường An5.
Vũ Tất Thận tức Bính Quận Công, vốn là một trong những người có công tôn Trịnh Doanh lên ngôi chúa. Để trả ơn, tháng 1 năm 1740 (tức là ngay sau khi được lên ngôi chúa), Trịnh Doanh đã xếp Vũ Tất Thận vào hàng công thần, mũ và đai của Vũ Tất Thận được trang sức bằng vàng, tương tự như mũ và đai của các bậc thân vương.
Hoàng Công Kỳ tức Trình Quận Công, cũng là một trong những võ quan cao cấp của Trịnh Doanh. Cùng với Vũ Tất Thận, Hoàng Công Kỳ đem quân đến làng An Nhân. Làng này tục danh là làng Bần, nay thuộc tỉnh Hưng Yên. Tới nơi, vì thấy lực lượng của Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ quá mạnh, Vũ Tất Thận và Hoàng Công Kỳ chần chừ không dám đánh. Đúng lúc đó thì Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ cho quân ồ ạt tấn công. Vũ Tất Thận và Hoàng Công Kỳ chống đỡ không nổi, đành phải tháo chạy tán loạn. Nhân đó, Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ cho quân đốt trụi phủ đệ và từ đường Mi Thữ6.
_________________________________
1. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 38, tờ 32).
2, 3. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 38, tờ 31 và tờ 34).
4. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 38, tờ 34 và 35).
5. Huyện Đường An thời Lê thuộc phủ Thượng Hồng, thời Nguyễn thuộc phủ Bình Giang. Nay, đất huyện này thuộc tỉnh Hải Dương.
6. Mi Thữ là tên làng, quê hương của bà Thái Phi Vũ Thị (mẹ của Trịnh Giang và Trịnh Doanh). Tại đây Trịnh Giang đã cho xây phủ đệ và nhà từ đường rất nguy nga. Việc xây cất này mới hoàn tất vào tháng 5 năm 1736. Làng Mi Thữ xưa thuộc huyện Đường Hào, nay thuộc đất huyện Mỹ Văn, tỉnh Hưng Yên.
Một trận nghi binh nhỏ khiến kế lớn của Trịnh Doanh bất thành
Tháng 10 năm 1740, Trịnh Doanh thấy đã đến lúc phải tự mình cầm đại quân đi đàn áp các cuộc khởi nghĩa ở vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng. Đó quả là một quyết tâm rất lớn. Biết không thể đồng thời trấn áp tất cả các cuộc khởi nghĩa, vì thế, Trịnh Doanh bèn áp dụng kế sách dùng sức mạnh đại binh, lần lượt đè bẹp từng cuộc khởi nghĩa một, để rồi cuối cùng là đè bẹp tất cả.
Tháng 11 năm 1740, đại binh của Trịnh Doanh đóng tại khu vực Vũ Điện1, sau đó, chuyển sang đóng tại Hiến Doanh2. Mục tiêu đầu tiên của Trịnh Doanh là khép kín vòng vây, tiêu diệt cho bằng được lực lượng của Vũ Đình Dung ở Ngân Già3, lấy chiến thắng Ngân Già cổ vũ quân sĩ xông lên đánh thắng lực lượng Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ.
Đại quân của Trịnh Doanh do các tướng Đinh Văn Giai, Nguyễn Đình Hoàn, Vũ Tất Thận và Trương Khuông làm tiên phong đã tấn công rất quyết liệt vào Ngân Già. Nghĩa quân Vũ Đình Dung tuy chiến đấu rất ngoan cường, nhưng không sao chống đỡ nổi. Trịnh Doanh chiếm được Ngân Già, giết hại không biết bao nhiêu người ở đây, sau đó, sai đổi gọi Ngân Già là Lai Cách4.
Mất Ngân Già, Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ mất hẳn một lực lượng liên minh, một chỗ dựa hết sức quan trọng. Trước tình thế đó, hai ông cho rằng, nếu đánh nhau với Trịnh Doanh khi Trịnh Doanh đang có đủ trong tay cả binh hùng lẫn tướng mạnh, thì thật khó mà giành được thắng lợi. Hai ông quyết định dùng kế nghi binh, buộc Trịnh Doanh phải lập tức quay về kinh thành Thăng Long như cũ. Nguyễn Cừ được lệnh cùng với tướng Trần Diệu, đem một cánh quân nhỏ tiến thẳng vào Bồ Đề (Gia Lâm, Hà Nội ngày nay). Cánh quân này vừa tiến vừa nói phao lên rằng sẽ đánh thẳng vào tận kinh thành Thăng Long. Lúc này, đại quân đã đi xa, Thăng Long đang trống rỗng, khả năng chống trả bị suy giảm rất nghiêm trọng. Mẹ của Trịnh Doanh (bà Thái Phi Vũ Thị) liền sai viên tì tướng là Trịnh Đạc phân chia lực lượng quân sĩ ít ỏi còn lại ở trong cung đi trấn giữ các cửa thành, đồng thời, sai các quan văn như Phạm Kinh Vĩ5, Nguyễn Bá Quýnh6… huy động dân ra phía ngoài thành, xếp thành đội ngũ chỉnh tề để nghi binh, xong thì cấp báo cho Trịnh Doanh.
“Lúc ấy, Trịnh Doanh vừa đánh dẹp được Ngân Già, chợt nghe tin cấp báo từ kinh thành Thăng Long chuyển đến, vội hạ lệnh cho các đạo quân phải về Thăng Long để cứu lấy đất căn bản. Nhưng, khi đại quân mới về đến xã Kim Lan thì giặc (chỉ quân của Nguyễn Cừ - NKT) đã rút lui rồi. Kinh sư nhờ đó vẫn được yên ổn”7.
Kế hoạch lớn của Trịnh Doanh đến đó kể như sụp đổ. Lực lượng của nghĩa quân Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ cùng với vùng căn cứ rộng lớn vẫn được bảo toàn.
Sử cũ có nói đến trận thắng của quân Trịnh Doanh do tướng giữ chức Thống Lãnh là Hoàng Nghĩa Bá chỉ huy tại Phao Sơn8, nhưng đó chỉ là chiến thắng nhỏ, không có ý nghĩa làm thay đổi, dù chỉ là thay đổi một phần tương quan thế trận giữa đôi bên.
Trận Khoái Châu (12-1740): tướng của chúa Trịnh là Đốc Đồng Trần Viêm bị giết
Trịnh Doanh đem đại binh về Thăng Long rồi, vùng đất rộng lớn của đồng bằng châu thổ sông Hồng hầu như nằm hết dưới quyền kiểm soát của Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ. Chính quyền địa phương ở vùng này bị bao vây, bị cô lập, và do đó, rất lo sợ. Để xoay chuyển tình thế, quan giữ chức Đốc Đồng là Trần Viêm9 đã tự mình làm tướng, liều lĩnh đem quân đánh nhau với Nguyễn Tuyển ở Khoái Châu. Cùng liều lĩnh với Trần Viêm trong trận này còn có Đoàn Kiêm Vinh. Nhưng, vừa xuất quân, cả Trần Viêm và Đoàn Kiêm Vinh đều bị đánh cho tả tơi, phải chạy thục mạng. Đến khu vực hai xã Đồng Lạc và Canh Hoạch, Trần Viêm và Đoàn Kiêm Vinh đều bị giết. Đạo quân do họ chỉ huy cũng hoàn toàn tan tác. Tin cấp báo truyền về Thăng Long, Trịnh Doanh lấy làm thương xót, truy tặng Trần Viêm hàm Đông Các Đại Học Sĩ, tước Hải Thọ Bá, cấp cho mười lăm mẫu đất làm tự điền10.
Trận Đông Triều (1-1741): ba viên tướng của chúa Trịnh bị bắt
Sau trận thắng lớn ở Khoái Châu, uy thế của nghĩa quân Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ ngày một lên cao. Trịnh Doanh rất căm tức nhưng cũng không dám mạo hiểm đem đại quân đi đàn áp như trước nữa. Tuy nhiên, để hạn chế bớt những ảnh hưởng ngày càng rộng lớn và mạnh mẽ của Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ, Trịnh Doanh liền sai đem quân ra án ngữ ở mạn Đông Triều. Tham gia bộ chỉ huy đạo quân khá lớn này gồm có:
- Võ quan cao cấp, Đốc Lãnh Thượng Đạo Hải Dương là Đặng Đình Luận11 làm tổng chỉ huy.
- Văn quan giữ chức Hiệp Đồng là Trần Trọng Liêu12 và Nhữ Trọng Thai13.
Có quân số khá đông, lại được trang bị đầy đủ, các tướng chỉ huy đạo quân này rất chủ quan. Bấy giờ, Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ chỉ chủ trương đánh cầm chừng, để cho quân của chúa Trịnh có thể dễ dàng tiến ra Đông Triều như kế hoạch chúng đã dự kiến. Điều này khiến cho Đặng Đình Luận đã chủ quan lại càng thêm chủ quan. Sau vài ba trận giả thua, Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ liền cho người tới giả vờ xin hàng. Đặng Đình Luận tưởng thật, cho nên, không hề phòng bị gì cả. Chẳng dè, nhân đêm tối, Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ tung quân đánh gấp. Toàn bộ các tướng Đặng Đình Luận, Trần Trọng Liêu và Nhữ Trọng Thai đều bị bắt sống14.
Cuộc đụng độ lần thứ hai với Thống Lãnh Hoàng Nghĩa Bá ở Phao Sơn và Ninh Xá (2-1741): khúc tráng ca cuối cùng!
Trong tất cả các võ quan cao cấp của Trịnh Doanh từng cầm quân đi đàn áp Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ thì Hoàng Nghĩa Bá là người duy nhất có học vị Tạo Sĩ (Tiến Sĩ của võ ban). Tháng 7 năm 1740, chính Hoàng Nghĩa Bá đã đem quân đến đánh Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ ở Phao Sơn (Chí Linh, Hải Dương). Đó là trận thắng đầu tiên của viên tướng này, nhưng là trận thắng nhỏ, vì thế, Hoàng Nghĩa Bá không được khen thưởng gì đáng kể. Đến đây, Hoàng Nghĩa Bá lấy chức quyền là Thống Lãnh, cầm quân đi đánh Phao Sơn lần thứ hai. Nghĩa quân của Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ, cùng với quân của Vũ Trác Oánh đánh trả rất quyết liệt, nhưng không sao cản nổi bước tiến của đạo quân hùng mạnh này. Phao Sơn thất thủ, Hoàng Nghĩa Bá cho quân nhân đà thắng lợi, đánh thẳng vào khu căn cứ Ninh Xá. Vì quá bất ngờ, đội ngũ của Nguyễn Tuyển ở đây chiến đấu rất khó khăn. Nguyễn Tuyển đành phải lui quân và chẳng may đã mất trên đường tháo lui. Cái chết đột ngột của Nguyễn Tuyển là một tổn thất rất lớn đối với nghĩa sĩ Ninh Xá.
Hoàng Nghĩa Bá lập tức cho quân đánh mạnh vào lực lượng của Vũ Trác Oánh và Nguyễn Cừ ở Gia Phúc. Một trận ác chiến đã diễn ra tại đây. Vũ Trác Oánh và Nguyễn Cừ liệu thế khó chống nổi, bèn quyết định rút lui. Sử không cho biết Vũ Trác Oánh sau đó ra sao, còn Nguyễn Cừ thì chạy lên Lạng Sơn15.
Những ngày cuối cùng của Nguyễn Cừ và Nguyễn Diên
Nguyễn Diên là cháu, gọi Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ bằng chú ruột. Cùng với hai chú, Nguyễn Diên đã tham gia cuộc khởi nghĩa ở Ninh Xá ngay từ những ngày đầu tiên. Chính Nguyễn Diên là một trong những tướng chỉ huy giàu tài năng của bộ chỉ huy cuộc khởi nghĩa. Khi Phao Sơn và Ninh Xá lần lượt thất thủ, Nguyễn Diên lui về hoạt động ở vùng Hà Tây và Vĩnh Phú ngày nay. Trịnh Doanh liền hạ lệnh cho Lê Lệ16 và Nguyễn Quai17 đem quân đi đàn áp. Một trận đụng độ khá lớn đã diễn ra tại An Lạc. Nguyễn Diên vừa đánh, vừa bí mật cho binh thuyền xuôi xuống Bến Cốc18 và dự định sẽ bất ngờ từ Bến Cốc đánh ngược lên, dồn Lê Lệ và Nguyễn Quai vào thế khó bề chống đỡ. Nhưng, kế hoạch này chẳng may bị bại lộ, tương kế tựu kế, Nguyễn Quai đã cho quân mai phục, đánh tan tác lực lượng của Nguyễn Diên. Nguyễn Diên chạy vào Nghệ An và sau đó phối hợp với nghĩa quân Nguyễn Hữu Cầu, hoạt động thêm một thời gian khá dài nữa.
Nguyễn Cừ trong thời gian chạy lên Lạng Sơn, được thủ lĩnh Toàn Cơ19 giúp đỡ và tạo điều kiện để có thể trở về tiếp tục chiến đấu ở vùng đồng bằng quê hương. Tháng 7 năm 1741, Nguyễn Cừ về đến Ngọa Vân Sơn, và tại đây, ông bị tướng của chúa Trịnh là Phạm Đình Trọng bắt đem về Thăng Long xử tử.
*
* *
Từ tháng 12 năm 1739 đến tháng 7 năm 1741, Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ đã có công tập hợp và huy động sức mạnh của hàng vạn nông dân nghèo khổ, vùng lên tấn công không khoan nhượng vào toàn bộ cơ đồ thống trị của họ Trịnh ở Đàng Ngoài. Từ quê hương Ninh Xá của mình, hai ông đã kiên trì nhen nhúm và thổi bùng lên ngọn lửa đấu tranh chống áp bức bóc lột khắp cả vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng rộng lớn. Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ thực sự xứng đáng là người đại diện xuất sắc của ý chí ngoan cường, bất khuất, xứng đáng được tôn vinh là những vị anh hùng nông dân của thế kỷ thứ XVIII.
Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ, cùng với cháu là Nguyễn Diên, không chỉ là những điểm hội tụ của khí phách hiên ngang mà còn là hiện thân độc đáo của tài mưu lược. Chính Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ, những người chưa từng học qua một trường đào tạo võ quan nào, đã khiến cho hàng loạt tướng lĩnh cao cấp, được đào tạo chính quy của họ Trịnh, kể cả chính chúa Trịnh Doanh, phải bao phen thất điên bát đảo. Thống Lĩnh Nguyễn Trọng Uông và Đốc Đồng Trần Viêm tử trận, Đốc Lãnh Đặng Đình Luận cùng với hai quan Hiệp Đồng là Tiến Sĩ Trần Trọng Liêu và Bảng Nhãn Nhữ Trọng Thai bị bắt, bản thân Trịnh Doanh cũng mắc mưu của Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ mà buộc phải lui quân... đó là những sự kiện kết tinh tài năng quân sự của Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ, của những người kề vai sát cánh với hai ông như Nguyễn Diên, Trần Diệu, và của hàng vạn nghĩa sĩ đương thời.
_____________________________________
1. Vũ Điện là tên làng, xưa thuộc huyện Nam Xang, trấn Sơn Nam, nay thuộc huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam.
2. Hiến Doanh tức Phố Hiến, nay thuộc tỉnh Hưng Yên.
3, 19. Xin vui lòng tham khảo thêm mục 3-Bốn phương rầm rộ khởi binh, thuộc phần I-Đàng Ngoài ở đầu thế kỷ thứ XVIII.
4. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 38, tờ 38).
5. Phạm Kinh Vĩ tức Phạm Công Liêu, người làng Thổ Hào, huyện Thanh Chương, nay là xã Thanh Giang, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An, đỗ Tiến Sĩ năm 1724.
6. Nguyễn Bá Quýnh, người làng Hoa Lâm, huyện Nam Đường, nay thuộc huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An, đỗ Tiến Sĩ năm 1733.
7. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 38, tờ 38). Xã Kim Lan nói đến ở đây về sau đổi gọi là Kim Quan, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội.
8. Phao Sơn là tên núi. Núi này nay thuộc địa phận huyện Chí Lính, tỉnh Hải Dương.
Hoàng Nghĩa Bá người làng Hoàng Vân, huyện Kim Động, nay thuộc huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên, đỗ Tạo Sĩ (tức là Tiến Sĩ của võ ban).
9. Trần Viêm người làng Hải Thiên (tục danh là làng Hới) huyện Tiên Lữ, nay là xã Hải Triều, huyện Phù Tiên, tỉnh Hưng Yên. Đoàn Kiêm Vinh là Giám Sinh, người đồng hương của Trần Viêm.
10. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 38, tờ 41).
11. Đặng Đình Luận người làng Lương Xá, huyện Chương Đức (nay thuộc huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây), con trai của Gia Quận Công Đặng Đình Lân.
12. Trần Trọng Liêu người xã Văn Giáp, huyện Thượng Phúc (nay là huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây), đỗ Tiến Sĩ năm 1733, làm quan tới chức Đông Các Đại Học Sĩ.
13. Nhữ Trọng Thai (tức Nhữ Trọng Đài), người xã Hoạch Trạch, huyện Đường An (nay thuộc huyện Cẩm Bình. tỉnh Hải Dương), đỗ Bảng Nhãn năm 1733, làm quan đến chức Hiến Sát Sứ.
14. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 39, tờ 5 và 6)
15. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 39, tờ 7).
16. Lê Lệ người làng Phú Hào, huyện Lôi Dương (nay là huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa), lúc này Lê Lệ đang giữ chức Đốc Lãnh.
17. Nguyễn Quai tức Nguyễn Tông Quai (1693-1767) người làng Phúc Khê, huyện Ngự Thiên (nay là xã Hiệp Hòa, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình), đỗ Tiến Sĩ năm 1721.
18. Bến Cốc ở xã Vân Cốc, nay thuộc huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ.
Quyển 03
Chương 01 - NHỮNG DANH TƯỚNG XUẤT THÂN ÁO VẢI ĐẦU TIÊN
LƯỢC TRUYỆN NHỮNG DANH TƯỚNG XUẤT THÂN ÁO VẢI ĐẦU TIÊN
Nguồn: quansuvn.net
Thu gọn nội dung
02. NGUYỄN HỮU CẦU (? - 1751)
Đôi lời về lai lịch
Nguyễn Hữu Cầu là con một gia đình nông dân nghèo, quê ở làng Lôi Dương, huyện Thanh Hà (nay thuộc Hải Dương). Ông sinh vào năm nào chưa rõ, tuy nhiên, thư tịch cùng truyền thuyết dân gian đều nói rằng ông là bạn học của Phạm Đình Trọng (1714-1754). Kết hợp với sự cân nhắc thêm vài chi tiết trong hành trạng cuộc đời của ông, chúng ta cũng có thể ước đoán rằng, Nguyễn Hữu Cầu sinh cùng hoặc muộn hơn Phạm Đình Trọng một chút.
Cuối năm 1739, khi Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ cùng với cháu là Nguyễn Diên dựng cờ khởi nghĩa ở Ninh Xá, Nguyễn Hữu Cầu là một trong những người hăng hái hưởng ứng đầu tiên. Ông là con rể của Nguyễn Cừ và cũng là một trong những bộ tướng tin cậy của Nguyễn Cừ. Nhờ những năm tháng anh dũng chiến đấu và lập được khá nhiều công lao, góp phần đáng kể vào những thắng lợi quan trọng của nghĩa quân Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ, uy tín của Nguyễn Hữu Cầu đã được khẳng định.
Khi Nguyễn Tuyển qua đời còn Nguyễn Cừ thì chạy lên Lạng Sơn, Nguyễn Hữu Cầu vẫn kiên trì ở lại, cố gắng bảo toàn lực lượng còn lại để chờ thời. Hay tin này, từ đất Lạng Sơn, Nguyễn Cừ đã tìm đường trở về, dự tính sẽ cùng với con rể gây dựng lại phong trào.
Khi Nguyễn Cừ bị bắt ở Ngọa Vân Sơn để rồi sau đó không bao lâu thì bị xử tử, Nguyễn Hữu Cầu nghiễm nhiên trở thành lãnh tụ mới của nông dân vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng. Như vậy, về quan hệ họ hàng, Nguyễn Hữu Cầu là con rể của Nguyễn Cừ, còn về quan hệ sự nghiệp thì khởi nghĩa Nguyễn Hữu Cầu chính là sự tiếp nối dưới một dạng thức đặc biệt của khởi nghĩa Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ.
Chiếm Đồ Sơn và đánh mạnh vào các vùng lân cận (1742)
Ngay sau khi Nguyễn Cừ bị bắt và bị giết hại, Nguyễn Hữu Cầu liền đem lực lượng của mình đánh thẳng xuống Đồ Sơn. Cuộc tấn công này tuy gặp không ít khó khăn, nhưng cuối cùng, Đồ Sơn cũng đã phải lọt vào tay nghĩa quân của ông. Từ đầu năm 1743, Đồ Sơn đã trở thành căn cứ vững chắc của Nguyễn Hữu Cầu. Bấy giờ, đồng thời với Nguyễn Hữu Cầu, ở vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng còn có khởi nghĩa do Hoàng Công Chất2 lãnh dạo. Tuy không hợp nhất, nhưng, Nguyễn Hữu Cầu và Hoàng Công Chất đã liên minh khá chặt chẽ với nhau. Điều này khiến cho Trịnh Doanh rất lo sợ:
“Vùng Đông Nam là nơi sản sinh ra của cải, là nguồn thu thuế lớn của quốc gia, vậy mà bị (Nguyễn) Hữu Cầu và (Hoàng) Công Chất liên kết với nhau, mặc sức ngày ngày đánh phá, cướp bóc. Vậy, trước hết phải làm sao để quét cho sạch vùng Đông Nam, gỡ mối lo nguy cấp”3.
Ngoài ra, với những hoạt động táo bạo và thông minh của mình, nghĩa quân của Nguyễn Danh Phương4 ở vùng Sơn Tây cũng đã khiến cho Trịnh Doanh không thể an tâm. Đấy là chưa kể đến cuộc khởi nghĩa do Lê Duy Mật5 lãnh đạo, hoạt động rất mạnh mẽ ở vùng Thanh Hóa ngày nay. Tất cả những điều kiện thuận lợi này đã được Nguyễn Hữu Cầu triệt để tận dụng. Từ Đồ Sơn, những cuộc tấn công ra các vùng lân cận liên tiếp được tổ chức.
Tại Đồ Sơn, để có danh nghĩa tập hợp nhân dân, Nguyễn Hữu Cầu xưng là Đông Đạo Tổng Quốc Bảo Dân Đại Tướng Quân. Trận đánh có quy mô lớn đầu tiên do đích thân Đông Đạo Tổng Quốc Bảo Dân Đại Tướng Quân chỉ huy là trận đánh vào Lão Phong6. Tướng chỉ huy thủy quân của Trịnh Doanh ở vùng này là Trịnh Bảng vội đem chiến thuyền tới đàn áp. Nguyễn Hữu Cầu cho quân đem thuyền chiến loại nhỏ ra khiêu chiến rồi vờ thua và bỏ chạy. Trịnh Bảng hung hăng cho quân đuổi theo. Đuổi mãi đến Giai Môn7 thì gặp lúc thủy triều lên. Chiến thuyền của Trịnh Bảng to lớn cồng kềnh, ngược dòng thủy triều lên rất vất vả. Trước tình hình đó, Trịnh Bảng liền cho quân tạm nghỉ. Đúng lúc đó Nguyễn Hữu Cầu liền cho hơn một trăm chiến thuyền bất ngờ từ bến Cát Bạc8 đổ ra tấn công. Thủy quân Trịnh Bảng nhanh chóng tan vỡ, bị giết và bị bắt không biết bao nhiêu mà kể. Bản thân Trịnh Bảng cũng bị hơn mười vết thương, bị bắt và sau đó là bị giết.
Chiến thắng này đã khiến cho thanh thế của Nguyễn Hữu Cầu trở nên rất lừng lẫy. Ông mở rộng phạm vi tấn công và chẳng bao lâu sau đó thì chiếm được cả một vùng rộng lớn, tương ứng với Hải Phòng và phần lớn Quảng Ninh ngày nay.
_________________________________
1. Nguyễn Hữu Cầu: Chim trong lồng (thơ viết trong ngục trước ngày bị xử tử)
2. Xin tham khảo thêm mục 3-Hoàng Công Chất (? - 1769) ở sau.
3. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 38, tờ 28).
4. Xin tham khảo thêm mục 4-Nguyễn Danh Phương (? - 1751) ở sau.
5. Xin tham khảo thêm mục 5-Lê Duy Mật (?-1770) ở sau.
6. Lão Phong là tên xã. Xã này xưa thuộc huyện Nghi Dương phủ Kinh Môn, tỉnh Hải Dương, nay thuộc địa phận Hải Phòng.
7. Tên cửa biển. Cửa biển này cũng thuộc huyện Nghi Dương (nay thuộc Hải Phòng).
8. Cát Bạc là tên bến, thuộc khu vực cửa Giai Môn đã nói ở trên.
Chống trả cuộc đàn áp của Hoàng Công Kỳ và Hoàng Ngũ Phúc (từ tháng 2 đến tháng 6 năm Quý Hợi - 1743)
Hoàng Công Kỳ xuất thân là hoạn quan. Sử cũ cho biết viên hoạn quan này vốn người làng Trình Xá, huyện Thần Khê1. Đầu năm 1740, Hoàng Công Kỳ đã được lệnh cầm quân đi đàn áp cuộc khởi nghĩa của Hoàng Công Chất ở Sơn Nam2. Cuối năm 1742, Hoàng Công Kỳ được thăng chức Thống Tướng Chánh Đạo, chỉ huy cuộc đánh dẹp phong trào nổi dậy của nhân dân vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng. Hoàng Công Kỳ đã cố sức hoàn thành phận sự nhưng không sao có thể hoàn thành được.
Trong lúc Hoàng Công Kỳ đang lúng túng và sa lầy thì viên hoạn quan thứ hai của phủ chúa là Hoàng Ngũ Phúc lại dâng sớ lên chúa Trịnh Doanh, trình bày mười hai điều về binh pháp. Hoàng Ngũ Phúc người làng Phụng Công, huyện Yên Dũng, nay huyện này thuộc tỉnh Bắc Giang. Là một trong những tay chân thân tín của Trịnh Doanh, Hoàng Ngũ Phúc được thăng quan tiến chức rất nhanh. Đầu năm 1740, Hoàng Ngũ Phúc được trao chức Tả Thiếu Giám, sau đó không bao lâu lại được sung chức Nội Sai của Hình Phiên. Mười hai điều binh pháp của Hoàng Ngũ Phúc được Trịnh Doanh tán thưởng, vì thế, Trịnh Doanh vừa hạ lệnh thi hành, vừa phong cho Hoàng Ngũ Phúc chức Thống Lĩnh đạo kì binh3, cùng với Hoàng Công Kỳ đi đánh Nguyễn Hữu Cầu. Sử cũ chép rằng:
“Lúc (Hoàng) Ngũ Phúc mới nghe được mệnh lệnh (của chúa) thì rất lấy làm lo sợ, vì từ trước đến đó, (Hoàng Ngũ Phúc) chưa từng ra chiến trận bao giờ. Khi ấy, có một người khách (chỉ người Trung Quốc - NKT) đến khuyên:
- Tướng công nên vay một vạn quan tiền trong kho công của nhà nước để dùng mà mộ tráng sĩ cho mình.
Hoàng Ngũ Phúc nói:
- Nay nếu vay tiền trong kho công của nhà nước thì đến một ngày nào đó cũng phải trả, mà trả thì lấy đâu ra.
Người khách ấy nói tiếp:
- Tục ngữ có câu rằng “Tướng vô tài, sĩ bất lai”, nghĩa là người làm tướng mà không có của cải thì dũng sĩ chẳng bao giờ tìm đến cả. Nếu như tướng công thật lòng nghe kế sách của tôi, thì tráng sĩ đều hết sức vì tướng công và quyết thắng địch. Thắng rồi thì tướng công đã sang lại còn giàu, lo gì khoản nợ một vạn quan tiền? Còn như nếu lỡ bị sa cơ đến chỗ không thể nói được nữa (ý nói là nếu có chết - NKT) thì còn ai nỡ trách cứ món nợ? Mà trách cứ vào đâu được chứ?
Hoàng Ngũ Phúc cho là phải, bèn làm theo lời ấy”4.
Trong lúc Hoàng Ngũ Phúc đang lo bỏ tiền để chiêu mộ quân sĩ thì Hoàng Công Kỳ được lệnh đem quân đến đàn áp Nguyễn Hữu Cầu trước. Lần này, Hoàng Công Kỳ trực tiếp chỉ huy bộ binh. Lực lượng thủy binh tham gia vào cuộc đàn áp có quy mô lớn này được giao cho tướng Trần Cảnh cầm đầu. Ngoài ra, một đạo quân khác của tướng Võ Tá Liễn5 cũng được huy động.
Người trực tiếp cầm quân đi đánh Nguyễn Hữu Cầu là Hoàng Công Kỳ, nhưng, người trực tiếp vạch kế hoạch cho cuộc tấn công đàn áp này lại là chúa Trịnh Doanh. Sử cũ xác nhận rằng: “Trước lúc ra đi, Trịnh Doanh thân hành trao mưu kế và phương pháp”6. Tuy lực lượng thủy bộ đã rất hùng hậu, nhưng, Hoàng Công Kỳ vẫn chưa yên tâm nên cố nài Trịnh Doanh cho thêm một đạo thủy binh nữa:
“Hoàng Công Kỳ dâng tờ khải, nói rằng: giặc (chỉ quân của Nguyễn Hữu Cầu - NKT) bám vào núi và nương vào biển để làm chỗ dựa kiên cố, mà nước biển lên xuống không nhất định, cho nên, muốn phá Đồ Sơn mà ta không tranh chiếm địa lợi trước là không thể được. Muốn tranh chiếm địa lợi thì phải dùng thủy binh. Vậy, xin giữ đạo thủy quân Tứ Trạch lại để phòng bị”7.
Trịnh Doanh chuẩn y lời đề nghị ấy. Bấy giờ, tướng chỉ huy đạo thủy quân Tứ Trạch là Nguyễn Đăng Hiển. Chính viên tướng này đã từng tham gia đàn áp nghĩa quân Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ. Ngay sau khi có thêm đạo thủy binh của Nguyễn Đăng Hiển, Hoàng Công Kỳ hạ lệnh đánh thẳng vào Đồ Sơn. Trước thế mạnh của đối phương như vậy, Nguyễn Hữu Cầu chủ động rút lui, và do đó, Hoàng Công Kỳ không thể nào đánh theo cách đánh của mình. Về phần mình, Nguyễn Đăng Hiển tự cho là đã hoàn tất phận sự, kéo đạo thủy binh của mình về thẳng Thăng Long.
Nguyễn Đăng Hiển đi rồi, Nguyễn Hữu Cầu lập tức cho quân quay lại bao vây Hoàng Công Kỳ ở Thanh Hà. Tình thế rất nguy cấp, Hoàng Công Kỳ buộc phải cho quân cảm tử mở đường máu về xin quân cứu viện. Bấy giờ, Hoàng Ngũ Phúc cũng vừa chiêu mộ xong lực lượng, liền tiến đến giải vây cho Hoàng Công Kỳ. Nhưng, đến khu vực Vĩnh Lại, quân của Hoàng Ngũ Phúc bị Nguyễn Hữu Cầu đánh chẹn lại, không sao vượt qua được.
Đang lúc khốn quẫn, Hoàng Công Kỳ được quan Tán Lý là Vũ Khâm Lân8 bàn mưu tính kế giúp. Sử cũ9 cho biết, đại để, Vũ Khâm Lân đã nói với Hoàng Công Kỳ rằng:
- Quân từ kinh sư (chỉ quân Hoàng Ngũ Phúc - NKT) thì chưa thể tới ngay được mà nếu cứ ngồi đợi, ắt khó kịp, chi bằng, nhân khi giặc (chỉ quân Nguyễn Hữu Cầu - NKT) đang lo đối phó với đạo kì binh (chỉ đạo quân của Hoàng Ngũ Phúc - NKT), ta hãy nhanh tay cướp lấy mặt sau, cùng với đạo kì binh phối hợp trước sau đánh tới, thế nào cũng sẽ phá được.
Hoàng Công Kỳ nghe theo kế ấy, kéo quân ra cửa Ngư Đại10, thấy lực lượng của Nguyễn Hữu Cầu ở đây không nhiều, liền tung quân vừa đánh vừa tìm đường tiến về khu vực sông Tranh11 để hội nhập với quân Hoàng Ngũ Phúc. Trong trận kịch chiến với quân của Hoàng Ngũ Phúc và Hoàng Công Kỳ, nghĩa quân Nguyễn Hữu Cầu đã giết được một viên tì tướng của họ Trịnh là Trịnh Bá Khâm12 cùng nhiều binh sĩ của hắn.
____________________________________
1. Tác giả chưa xác định được vị trí cụ thể của làng Trình Xá trên bản đồ hiện nay.
2. Xin tham khảo thêm mục 3-Hoàng Công Chất (?-1769) ở sau.
3. Đạo binh chuyên lo việc bất ngờ đánh úp ở phía sau, khác với chính binh là đạo quân chuyên lo đánh trực diện với đối phương.
4. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 39, tờ 29).
5. Trần Cảnh người làng Điền Trì, huyện Chí Linh (nay là thôn Trực Trì, xã Quốc Tuấn, huyện Nam Thanh, tỉnh Hải Dương), đỗ Tiến Sĩ năm 1718.
Võ Tá Liễn người làng Hà Hoàng, huyện Thạch Hà (nay là xã Thạch Môn, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh). Võ Tá ở Hà Hoàng là dòng võ tướng nổi tiếng, với nhiều nhân vật được sử ghi tên như Võ Tá Sắt, Võ Tá Kiên, Võ Tá Lý, Võ Tá Quán, Võ Tá Đoan.. v.v.
6, 7. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 39, tờ 32).
8. Vũ Khâm Lân tức Vũ Khâm Thận (1703 -?) người làng Ngọc Lặc, huyện Tứ Kỳ (nay là thôn Ngọc Lặc, xã Ngọc Sơn, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương), đỗ Tiến Sĩ năm 1727.
9. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 39, tờ 33).
10. Tên cửa sông thuộc xã Ngư Đại, huyện Thanh Hà (nay thuộc Hải Dương).
11. Tên sông ở huyện Vĩnh Lại xưa, nay thuộc Hải Dương.
12. Hiện chưa rõ lai lịch của Trịnh Bá Khâm.
Bất ngờ đánh chiếm Kinh Bắc, khiến cả Thăng Long phải một phen hoảng loạn (5-1744)
Mưu kế của Vũ Khâm Lân kể cũng khá hiểm, chỉ tiếc cho Vũ Khâm Lân là Nguyễn Hữu Cầu còn có mưu kế hiểm hơn. Sau khi giết được Trịnh Bá Khâm, Nguyễn Hữu Cầu vừa bí mật bố trí nghi binh ở khu vực cửa Ngư Đại, vừa lặng lẽ kéo quân về Kinh Bắc1. Chỉ trong một thời gian rất ngắn, nghĩa quân Nguyễn Hữu Cầu đã chiếm được sông Thọ Xương2. Tại đây, ông gấp rút cho đắp lữy để chống cự, đồng thời, bày chiến thuyền theo thế trận rất sẵn sàng.
Bấy giờ, Kinh Bắc là một trong những trọng trấn, vì thế vào năm 1741, chúa Trịnh Doanh đã cho hai võ quan cao cấp là Nguyễn Huy Nhuận và Trần Đình Cẩm làm Chưởng Đốc, chỉ huy lực lượng quân sự ở trấn này. Đến tháng 5 năm 1744, không rõ vì lí do gì, trấn Kinh Bắc chỉ còn một Chưởng Đốc là Trần Đình Cẩm3 nữa mà thôi. Nghe tin nghĩa quân Nguyễn Hữu Cầu mới kéo tới, Trần Đình Cẩm lập tức giành thế chủ động tấn công. Từ đất Thiết Sơn4, Trần Đình Cẩm tiến đến Trai Thị5 và tại đây, một trận kịch chiến đã xảy ra. Trần Đình Cẩm đại bại, phải lui về Thị Cầu6 còn nghĩa quân Nguyễn Hữu Cầu thì nhân đà thắng lợi đã đánh đuổi rất gấp. Cùng đường, Trần Đình Cẩm phải rút quân vào thành Kinh Bắc, nhưng một lần nữa, Nguyễn Hữu Cầu cho quân quyết đánh đến cùng. Thành Kinh Bắc bị hạ. Quan Đốc Đồng Kinh Bắc là Vũ Phương Đề7 cùng với Trần Đình Cẩm đã phải hoảng hốt vất bỏ cả ấn tín mà tháo chạy. Tất cả dinh trại của quân đội chúa Trịnh ở đây đều bị thiêu trụi.
Tin Kinh Bắc thất thủ chẳng mấy chốc mà bay vào Thăng Long. Đang lúc nửa đêm mà nhân dân trong khắp kinh thành đều nhốn nháo sợ hãi, dắt díu nhau chạy trốn tán loạn. Do đại binh đã điều đi xa, chúa Trịnh Doanh bèn hạ lệnh chia mấy đội vệ binh còn lại, cấp tốc đi trấn giữ ở bốn vị trí hiểm yếu, đó là khu trường bắn (nay là khu Giảng Võ, Hà Nội), xã Vân Canh (nay thuộc huyện Từ Liêm, Hà Nội), xã Nhân Mục (nay thuộc Từ Liêm, Hà Nội) và cầu Yên Quyết (tức là khu Cầu Giấy, Hà Nội). Mặt khác, Trịnh Doanh cũng gấp sai người đi triệu Hoàng Ngũ Phúc. Nghe tin Kinh Bắc thất thủ, Hoàng Ngũ Phúc cũng kinh hoàng, liền bỏ Vĩnh Lại, đưa quân về chiếm giữ Võ Giàng (vùng đất tiếp giáp giữa Hà Nội với Bắc Ninh ngày nay).
Chống trả cuộc tấn công đàn áp đại quy mô của quân đội chúa Trịnh vào Kinh Bắc (từ tháng 7 đến tháng 11-1744)
Sự lúng túng và bị động của Hoàng Ngũ Phúc khiến cho Trịnh Doanh rất bực tức. Vừa được tin Hoàng Ngũ Phúc kéo quân về Võ Giàng, Trịnh Doanh đã sai người đến quở trách Hoàng Ngũ Phúc rất thậm tệ. Sử cũ chép:
“Vừa đem quân đến Võ Giàng, (Hoàng) Ngũ Phúc đã bị Trịnh Doanh sai người tới quở trách rằng:
- Các ngươi đi đánh dẹp đã hơn một năm, đã tiến sát đến Đồ Sơn những năm sáu tháng mà sao lại phòng bị sơ hở, khiến cho tên giặc hung hãn kia (chỉ Nguyễn Hữu Cầu - NKT) có thể rời khỏi sào huyệt của chúng? Tại sao giặc bỏ đi được những bảy tám ngày rồi mới đuổi theo, khiến cho đồ đảng của chúng có thể đột ngột xâm phạm (Kinh Bắc), gây náo động cả lòng người? Thử hỏi, như thế có đáng là đã làm được phận sự của tướng trấn giữ ngoài cõi hay không. Ngươi phải cố sức lên mới mong chuộc được lỗi lầm.
(Hoàng) Ngũ Phúc dâng tờ khải, nói rằng:
- (Nguyễn) Hữu Cầu sau khi bị thua, phải trốn tránh đó đây, quân đã ít mà phải phân tán... thiết nghĩ, việc đánh dẹp cũng dễ dàng. Nay nếu tôi có thêm voi chiến trợ uy thì tôi sẽ dùng voi chia cắt lực lượng chúng, khiến chúng trước sau không tiếp ứng cho nhau được, tất sẽ toàn thắng thôi. Vả chăng, chúng bất quá chỉ có ý định liên kết với các đám giặc cỏ khác nên mới tiến lên quấy phá vùng sông Nhị. Nay, tôi đóng giữ Võ Giàng, nếu chúng đem hết quân ra mặt trước thì sợ tôi đánh mặt sau, cho nên, nhiều lắm thì chúng cũng chỉ dám liều chết cố thủ, không làm gì hơn được cả.
Nhận tờ khải của Hoàng Ngũ Phúc, Trịnh Doanh mừng lắm, lòng người bấy giờ mới tạm yên”8.
Một cuộc đàn áp đại quy mô được gấp rút tổ chức. Trịnh Doanh quyết định cử Cổn Quận Công là Trương Khuông đem binh lực lớn tới hỗ trợ cho Hoàng Ngũ Phúc. Mục tiêu hàng đầu của cả Hoàng Ngũ Phúc và Trương Khuông là phải làm sao nhanh chóng chiếm lại cho bằng được thành Kinh Bắc. Về phần mình, Nguyễn Hữu Cầu lại thấy rằng, nếu cố thủ trong thành Kinh Bắc là mắc mưu của đối phương, cũng là tự giam mình vào chỗ chết, vì thế, đã khôn khéo rút ra ngoài, linh hoạt bám giữ vùng đồng bằng phì nhiêu, giàu sức người và sức của.
Sau khi lấy lại được thành Kinh Bắc, Hoàng Ngũ Phúc và Trương Khuông rất hí hửng. Chúng dốc toàn lực, quyết tiêu diệt cho bằng được nghĩa quân Nguyễn Hữu Cầu. Sử cũ cho hay, 64 hiệu quân gồm 12.700 người do mười đại tướng chỉ huy9 đã được điều động vào cuộc truy quét này. Tất cả quân số nói trên được chia làm năm đạo, cùng đánh vào khu vực Yên Dũng. Năm đạo đó cụ thể như sau:
- Đạo thứ nhất đánh thẳng vào phía trước, do Trương Khuông cầm đầu.
- Đạo thứ hai đánh vào phía trái do Nguyễn Trọng Thận chỉ huy.
- Đạo thứ ba đánh vào phía phải do Lê Lệ quản lĩnh.
- Đạo thứ tư đánh vào mặt sau do Võ Tá Liễn thống suất.
- Đạo thứ năm do chính Hoàng Ngũ Phúc điều hành, chặn hết các ngả đường sông dẫn ra biển để đề phòng nghĩa quân Nguyễn Hữu Cầu trốn thoát10.
Cuộc càn quét mang ý nghĩa quyết định này bắt đầu từ tháng 4 năm 1744, nhưng liên tục trong hơn nửa năm trời, nghĩa quân Nguyễn Hữu Cấu chẳng những không hề bị tiêu diệt mà còn hiên ngang bám trụ được ngay giữa vùng đồng bằng Kinh Bắc. Trong lúc đó, nhân cơ hội xuất chinh, quân sĩ của chúa Trịnh tìm đủ mọi cách để sách nhiễu nhân dân, khiến cho ai ai cũng oán giận. Bấy giờ, chỉ có đạo quân do Lê Lệ quản lĩnh là ít xâm phạm đến tài sản của dân hơn cả11, còn bốn đạo quân khác, hễ tiến tới đâu là của cải nhà dân tan hoang tới đó.
Khi quân sĩ của chúa Trịnh đã mệt mỏi, khi lòng căm giận của nhân dân đã lên cao, Nguyễn Hữu Cầu quyết định chủ động tấn công để phá thế bị bao vây. Trong năm đạo quân nói trên, Nguyễn Hữu Cầu quyết định chọn đạo quân do Trương Khuông cầm đầu làm đối tượng tiêu diệt và xã Ngọc Lâm12 được chọn làm địa điểm của trận đánh quan trọng này. Sử cũ chép rằng:
“Khi ấy, (Trương) Khuông tự mình dẫn quân bản bộ đánh thẳng vào mặt trước. Tướng Trịnh Phương được cử làm tiên phong. (Về phần mình, Nguyễn) Hữu Cầu giữ nơi hiểm trở rồi đặt quân mai phục, bề ngoài thì phô trương quân gầy ốm để vờ làm thế yếu khiến cho Trương Khuông tưởng thật, hăm hở cho quân tiến lên. (Nguyễn) Hữu Cầu giả vờ thua, bỏ hết cả đồn lũy mà chạy, cốt nhử quân Trương Khuông vào chỗ hiểm. Tướng sĩ của (Trương) Khuông sau trước bám chặt lấy nhau, xa trông như những xâu cá, đang tiến thì thình lình thấy quân mai phục nổi dậy. (Nguyễn) Hữu Cầu tự mình chỉ huy sĩ tốt, liều chết đánh rất hăng. Quân của (Trương) Khuông thua to. Nghe tin ấy, quan quân bốn đạo khác không bị đánh cũng hoảng hốt mà tự tan vỡ. Thế giặc (chỉ quân Nguyễn Hữu Cầu - NKT) lại lên cao ngất. Lính ở các hỏa đài (những đài cao trên núi xa, hễ có biến thì nổi khói đen vào ban ngày hoặc nổi lửa vào ban đêm để cấp báo - NKT) ùn khói và đốt lửa cả ngày lẫn đêm để truyền tin. Từ bên này sông Nhị (tức Thăng Long - NKT), Trịnh Doanh hay được, giận dữ gửi thư quở trách Trương Khuông, đồng thời, hạ lệnh triệu hồi Trương Khuông về kinh thành”13.
Như vậy là, chỉ với một trận mai phục, Nguyễn Hữu Cầu đã khiến cho đạo quân lớn, do viên võ quan thuộc hàng cao cấp nhất của triều đình chỉ huy, phải nếm mùi thất bại nhục nhã. Thất bại của Cổn Quận Công Trương Khuông - phó tổng chỉ huy cuộc càn quét đại quy mô này - đã lập tức ảnh hưởng mạnh mẽ đến tinh thần chung của trên một vạn quân ở tất cả các đạo khác. Sự hoảng hốt của quân sĩ cộng với tin cấp báo của các hỏa đài, một lần nữa đã gây nhốn nháo kinh thành Thăng Long.
Để mong cứu vãn tình hình, Trịnh Doanh liền bổ dụng Thượng Tướng Đinh Văn Giai14 làm Thống Suất, quan giữ chức Bồi Tụng là Ngô Đình Oánh15 làm Tán Lí, tổng chỉ huy cả bốn đạo quân, quyết đánh bại Nguyễn Hữu Cầu.
Thượng Tướng Đinh Văn Giai đã quyết định kế sách mới như thế nào? Sử cũ chép:
“Đinh Văn Giai đến nơi, đóng quân một chỗ chứ không dám tiến, nhiều người lấy làm ngờ. Hay tin đó, Nguyễn Hữu Cầu liền tính kế như sau: đêm đến, sai người khiêng một cái kiệu không từ ở ngoài vào, lát sau lại khiêng ra. Xong, Nguyễn Hữu Cầu giả vờ mừng rỡ, nói phao lên với thủ hạ của mình rằng:
- Đinh Văn Giai đã ước hẹn xin hàng, nhưng nếu đến đây công khai xin đầu hàng thì sợ liên lụy đến gia quyến, vì thế mới bí mật đến hẹn trước là ngày sau ra trận sẽ giả vờ để cho bị bắt, cốt che lấp miệng thế gian ở ngoài. Nay mai giao chiến, các ngươi cứ theo hướng chỉ của ta mà cố bắt lấy hắn, được vậy thì việc bình định thiên hạ lo gì mà không xong?
Đồ đảng của (Nguyễn) Hữu Cầu ai cũng tin lời ấy là thật. Kịp khi giao chiến, quân giặc (chỉ quân Nguyễn Hữu Cầu - NKT) cứ tranh nhau nhằm chỗ con voi trên có hiệu cờ của Đinh Văn Giai mà xông tới, hăng hái đến độ tưởng như một người có thể địch nổi cả trăm người. Quân của Đinh Văn Giai chẳng mấy chốc mà tan vỡ”16.
Được tin đại bại của Đinh Văn Giai, Trịnh Doanh nổi giận, xuống lệnh quở trách nghiêm khắc, đồng thời, triệu hồi Đinh Văn Giai về. Cả Đinh Văn Giai và Ngô Đình Oánh đều bị giáng chức. Quyền tổng chỉ huy lực lượng quân sĩ đi đàn áp Nguyễn Hữu Cầu, một lần nữa lại được trao cho Hoàng Ngũ Phúc. Phụ tá cho Hoàng Ngũ phúc còn có một số tướng lĩnh cao cấp khác, như Đàm Xuân Vực Nguyễn Danh Lệ, Phạm Đình Trọng17... v.v.
Một kế hoạch đàn áp tàn bạo mới lại được xây dựng.
_____________________________________
1. Kinh Bắc là vùng trên đại thể tương ứng với hai tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh ngày nay.
2. Tên sông ở xã Thọ Xương, huyện Bảo Lộc xưa. Hạ lưu của sông này thông với sông Lục Đầu.
3. Cũng tức là Trần Đình Miên. Hiện chưa rõ lai lịch.
4, 5. Nay thuộc huyện Yên Dũng tỉnh Bắc Giang.
6. Thị Cầu nay thuộc tỉnh Bắc Ninh.
7. Vũ Phương Đề (1698-?) người làng Mộ Trạch, huyện Đường An, nay là thôn Mộ Trạch, xã Tân Hồng, huyện Cẩm Bình, tỉnh Hải Dương, đỗ Tiến Sĩ năm 1736. Ông làm quan được thăng tới Đông Các Đại Học Sĩ. Vũ Phương Đề là tác giá của Công dư tiệp kí.
8. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 40, tờ 5).
9, 11. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 40, tờ 6).
10. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 40, tờ 6). Lịch triều tạp kỷ. (quyển 4).
12. Ngọc Lâm nay thuộc huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang.
13. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 40, tờ 9). Lịch triều tạp kỷ (quyển 4).
14. Đinh Văn Giai người làng Hàm Giang, huyện Cẩm Giàng (nay thuộc Hải Dương).
15. Ngô Đình Oánh nguyên tên là Ngô Đình Chất, người làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai (nay là thôn Tả Thanh Oai, xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh Trì, Hà Nội), đỗ Tiến Sĩ năm 1721. Sau khi đỗ ông mới đổi tên là Ngô Đình Oánh. Ông là em của Tiến Sĩ Ngô Đình Thạc (đỗ Tiến Sĩ năm 1700).
16. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 40, tờ 9).
17. Đàm Xuân Vực là hoạn quan, người làng Tương Trúc, huyện Thanh Trì (nay thuộc Hà Nội). Nguyễn Danh Lệ thì chưa rõ lai lịch. Phạm Đình Trọng người làng Khinh Dao huyện Giáp Sơn (nay thuộc Hải Dương), vốn từng là bạn học của Nguyễn Hữu Cầu.
Từ Xương Giang rút về Hạc Động. Bình tĩnh đối phó với âm mưu vừa đàn áp vừa mua chuộc của Trịnh Doanh (mùa thu 1745 đến mùa thu năm 1746)
Tháng 8 năm 1745, Trịnh Doanh lại hối thúc các tướng Hoàng Ngũ Phúc và Phạm Đình Trọng đàn áp nghĩa binh của Nguyễn Hữu Cầu. Một trận ác chiến đã diễn ra tại Xương Giang1. Tại đây, lực lượng của Nguyễn Hữu Cầu bị tổn thất khá nặng nề, vì thế, Nguyễn Hữu Cầu lại quyết định lui quân về vùng đồng bằng duyên hải Đông Bắc. Dọc đường rút lui, một vị tướng thân cận và giàu tài năng của ông tên là Thông2 cùng với hơn mười thuộc hạ đã bị Hoàng Ngũ Phúc và Phạm Đình Trọng bắt giết. Đây là một tổn thất lớn đối với Nguyễn Hữu Cầu, bởi “Thông là người nhanh nhẹn, có cơ mưu, được (Nguyễn) Hữu Cầu coi như là người ruột thịt”3. Tuy nhiên, cuối cùng thì gần như toàn bộ nghĩa quân Nguyễn Hữu Cầu cũng đã an toàn đến được nơi họ cần đến. Nguyễn Hữu Cầu quyết định đặt đại bản doanh mới của mình tại Hạc Động4. Bám vào thế lợi hại của địa hình sông nước vùng duyên hải, nghĩa quân Nguyễn Hữu Cầu chẳng những khôn khéo tránh được những đòn tấn công hiểm hóc của Hoàng Ngũ Phúc và Phạm Đình Trọng, mà còn tổ chức nhiều trận đánh bất ngờ, gây kinh hoàng cho hai viên tướng sừng sỏ này.
Tháng 3 năm 1746, để góp phần phân hóa, chia rẽ nội bộ kẻ thù, cũng là để có cơ hội củng cố lực lượng, Nguyễn Hữu Cầu đã bí mật sai người đến liên lạc với hai viên đại thần của Trịnh Doanh là Đỗ Thế Giai và Nguyễn Phương Đĩnh để nhờ hai viên đại thần này nói lời “cầu hòa” của mình. Và, Trịnh Doanh đã chấp thuận. Nguyễn Hữu Cầu được Trịnh Doanh phong cho chức Ninh Đông Tướng Quân, tước Hương Nghĩa Hầu. Tất cả các tướng của Nguyễn Hữu Cầu cũng đều được Trịnh Doanh phong cho quan chức. Ngay sau đó, Trịnh Doanh hạ lệnh triệu Nguyễn Hữu cầu về kinh thành Thăng Long!
Biết rõ đó là kế “điệu hổ li sơn” của Trịnh Doanh, cho nên, Nguyễn Hữu Cầu quyết không về Thăng Long, lấy cớ là bị Phạm Đình Trọng đánh chặn đường đi. Sử cũ chép:
“Trịnh Doanh sai quan Thiêm Tri là Nguyễn Phi Sảng đem lệnh chỉ đến phủ dụ và triệu (Nguyễn Hữu Cầu) về, mặt khác, khuyên (Phạm) Đình Trọng hoãn lại, chớ đánh (Nguyễn Hữu Cầu) vội.
Trước đó, (Nguyễn) Hữu Cầu nhiều lần bị (Phạm) Đình Trọng đánh nên tức giận mà đào mả mẹ (Phạm) Đình Trọng, lấy hài cốt vất xuống sông. (Phạm) Đình Trọng khóc lóc tố cáo việc đó với Trịnh Doanh, thề quyết chí giết Nguyễn Hữu Cầu. Trịnh Doanh rất khen ý chí của (Phạm) Đình Trọng. Nay, thấy (Nguyễn) Phi Sảng đem lời phủ dụ đến, (Phạm) Đình Trọng nói:
- Người làm tướng ở ngoài chiến trường, có khi không chịu nhận mệnh lệnh của vua. Tôi đã nói trước Chúa Thượng là thề không đội trời chung với (Nguyễn) Hữu Cầu. Nay, ông nhận mệnh đi chiêu dụ, tôi nhận mệnh đi đánh giết, nếu gặp tình thế có thể đánh được thì tôi cũng chẳng thể vì cớ có ông đến mà ngần ngại.
(Nguyễn) Phi Sảng và những người cùng đi nghe vậy thì thất sắc, liền từ giã đi ngay. Đến dinh cơ của Nguyễn Hữu Cầu, nói rõ lời phủ dụ của chúa Trịnh, lại cũng nhân đó nói luôn cả những lời của Phạm Đình Trọng cho (Nguyễn) Hữu Cầu hay. Chuyện chưa dứt thì (Phạm) Đình Trọng đã đem quân đến đánh úp. (Nguyễn) Hữu Cầu sai người dẫn (Nguyễn) Phi Sảng theo đường tắt trở về rồi đưa quân ra đánh trả (Phạm) Đình Trọng”5.
Cuộc tấn công bất ngờ này có gây cho Nguyễn Hữu Cầu một số thiệt hại, nhưng nhìn chung, lực lượng của ông vẫn được giữ vững. Trong lúc đó, để mong có thế lực áp đảo, Phạm Đình Trọng đã phải liên tiếp mộ thêm quân sĩ. Điều này khiến cho Đỗ Thế Giai (người nhận chuyển đạt lời cầu hòa của Nguyễn Hữu Cầu lên Trịnh Doanh) khó chịu. Đỗ Thế Giai mật tâu với Trịnh Doanh rằng: “Phạm Đình Trọng cầm quân ở ngoài, tự ý đặt cơ ngũ riêng, sợ là sẽ có ý khác”6. May cho Phạm Đình Trọng là Trịnh Doanh không tin lời ấy.
Lại táo bạo đánh vào Bồ Đề7. Kinh thành Thăng Long thêm một phen hoảng loạn (từ 9-1748 đến10-1749)
Đầu tháng 9 năm 1748, Trịnh Doanh lại sai người đến dụ hàng Nguyễn Hữu Cầu. Lần này, người di chiêu dụ là Nguyễn Thế Khải8. Nguyễn Hữu Cầu chẳng những không chịu nhận lời phủ dụ mà còn cho quân băng qua Duyên Hà9, đánh mạnh vào Sơn Nam10. Tướng của chúa Trịnh nắm chức Trấn Thủ ở đây là Võ Tá Sắt đánh trả rất quyết liệt nhưng vẫn không sao dập tắt được. Trịnh Doanh buộc phải điều Phạm Đình Trọng đến Sơn Nam cứu nguy cho Võ Tá Sắt. Phạm Đình Trọng cất quân đi rồi, Trịnh Doanh vẫn thấy chưa yên tâm, vì thế, ra lệnh cho Hoàng Ngũ Phúc phải sẵn sàng phối hợp.
Sử cũ chép rằng:
“Trịnh Doanh dụ bảo (Hoàng) Ngũ Phúc rằng:
- Sơn Nam Hạ là vùng dân cư đông đúc, sản vật phong phú, cũng có thể ví là đất Quan Trung (vùng Thiểm Tây của Trung Quốc ngày nay - NKT) và Hà Nội (vùng phía Bắc sông Hoàng Hà của Trung Quốc ngày nay - NKT) của nước nhà vậy. Nay, bè đảng giặc đầy rẫy ở đấy, thế đang rất nguy cấp. Nếu Sơn Đông (vùng Hưng Yên và Hải Dương ngày nay - NKT) đã tạm ổn thì ngươi nên cùng (Phạm) Đình Trọng hợp sức thúc quân càn quét để giữ cho bằng được vùng đất chẳng khác gì Quan Trung và Hà Nội ấy của nước nhà”11.
Tất nhiên, với ưu thế áp đảo về quân số, Phạm Đình Trọng đã giành được một số thắng lợi nhất định. Điều này khiến cho Trịnh Doanh lại một lần nữa tỏ ra chủ quan. Và, Nguyễn Hữu Cầu đã không bỏ qua cơ hội đó. Ông nói với các tướng của mình rằng:
- “Ta mới thua vài trận nhỏ, tin ấy đưa về tất nhiên sẽ khiến cho việc phòng bị kinh sư trở nên lơ là. Nhân cơ hội này mà đánh úp thì thế nào phần thắng cũng về ta”12.
Nói là làm. Ông hạ lệnh cho quân sĩ nhân đêm tối, tìm đường tiến gấp về Bồ Đề, hẹn đến khoảng canh năm thì sẽ từ bến Bồ Đề, vượt sông đánh thẳng vào Thăng Long. Nhưng, rất tiếc là cuộc chuyển quân này có phần chậm trễ hơn so với kế hoạch đã định. Quân của Nguyễn Hữu Cầu tập kết ở bến Bồ Đề không phải là canh năm13 mà là vào lúc trời đã sáng rõ. Được tin cấp báo, Trịnh Doanh một mặt thì sai người đi triệu Phạm Đình Trọng về cứu nguy, mặt khác thì tự mình làm tướng, cầm quân ra đối địch với Nguyễn Hữu Cầu. Nguyễn Hữu Cầu buộc phải lui quân nhưng kinh thành Thăng Long lại thêm một lần hoảng loạn.
Bấy giờ, do thấy Hoàng Ngũ Phúc và Phạm Đình Trọng từng có kinh nghiệm nhiều năm trực tiếp cầm quân đi đàn áp, tuy thắng lợi thu được chưa đáng là bao nhưng sự am tường địa hình vùng đồng bằng Đông Bắc thì khó ai sánh kịp, vì thế, Trịnh Doanh quyết định phong Hoàng Ngũ Phúc làm Thống Lãnh và Phạm Đình Trọng làm Hiệp Thống Lãnh, được quyền tùy ý điều động binh mã đi càn quét khắp nơi. Hoạt động của nghĩa quân Nguyễn Hữu Cầu ngày càng gặp nhiều khó khăn hơn trước.
___________________________________
1. Xương Giang nay thuộc Bắc Giang.
2. Hiện chưa rõ họ.
3. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 40, tờ 16).
4. Hạc Động xưa thuộc huyện Nghiêu Phong, nay là vùng giáp giới giữa Hải Phòng với Quảng Ninh.
5. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 40, tờ 19 và 20).
6. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 40, tờ 20).
7. Nay thuộc Gia Lâm, Hà Nội.
8. Nguyễn Thế Khải người làng Nhân Lý, huyện Thanh Lâm, nay là thôn Nhân Lý, thị trấn Nam Sách, huyện Nam Thanh, tỉnh Hải Dương. Ông đỗ Tiến Sĩ năm 1736. Lúc này, ông đang giữ chức Hiệu Lý.
9. Nay thuộc tỉnh Thái Bình.
10. Trấn này xưa rất lớn, nhưng khu vực Nguyễn Hữu Cầu đem quân tới đánh lần này ở vào khoảng Nam Định và Hà Nam ngày nay.
11. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 40, tờ 27).
12. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 40, tờ 28).
13. Canh năm tương ứng với khoảng từ 3 đến 5 giờ sáng.
Từ Mã Não và Hương Nhi đến Lộng Khê và Quang Dực, anh hùng lỡ vận vẫn hiên ngang
Sau khi rút lui khỏi Bồ Đề, Nguyễn Hữu Cầu về hoạt động tại các huyện Thần Khê và Thanh Quan1. Tại đây, ông liên kết với nghĩa quân của Hoàng Công Chất để vừa tăng cường sức mạnh cho mình, vừa phân tán đội quân đàn áp hung hãn của Hoàng Ngũ Phúc và Phạm Đình Trọng. Bấy giờ, hễ Nguyễn Hữu Cầu đi tới đâu là tướng sĩ của chúa Trịnh hoảng sợ tới đó. Sử cũ chép rằng:
“Nguyễn Hữu Cầu là người mạnh khỏe, nhanh nhẹn và rất hăng hái, cơ mưu trăm nẻo khó ai lường. Nhiều phen bị vây đến mấy vòng, (Nguyễn Hữu Cầu) chỉ một mình một ngựa vượt được ra ngoài, thế mà chỉ vài hôm sau đã có quân đông đến hàng vạn. Khi ra trận, (Nguyễn Hữu Cầu) cưỡi ngựa, cầm siêu đao, tiến như bay, quân sĩ ai ai cũng phải sợ mà chạy dạt, đến cả các tướng cũng phải tránh uy phong của hắn. Khi ấy chỉ có (Phạm) Đình Trọng là thề quyết chí giết Nguyễn Hữu Cầu cho bằng được. Triều đình do vậy đã đặt hết niềm tin ở (Phạm) Đình Trọng”2.
Nhưng, do việc phối hợp với Hoàng Công Chất chưa thật chặt chẽ, lại cũng do đạo quân trấn áp của Hoàng Ngũ Phúc và Phạm Đình Trọng quá mạnh, Nguyễn Hữu Cầu bị thua liên tiếp mấy trận liền. Ông cho nghĩa quân rút lui về Nam Xang3 và Bình Lục4.
Tháng 2 năm 1751, Hoàng Ngũ Phúc và Phạm Đình Trọng tiến quân dọc theo dòng Hoàng Giang5 đánh tới tấp vào khu căn cứ mới của Nguyễn Hữu Cầu ở Nam Xang và Bình Lục. Tại Mã Não6 và Hương Nhi7, Nguyễn Hữu Cầu thua to, phải chạy về Quang Dực8 và Lộng Khê9. Và tại Quang Dực cũng như Lộng Khê, một lần nữa, Nguyễn Hữu Cầu lại bị thua trận. Ông đem tàn quân chạy vào Nghệ An.
Bấy giờ, Nghệ An là địa bàn hoạt động của nghĩa quân Nguyễn Diên10. Là người cùng chí hướng, lại cũng là chỗ thân tình, Nguyễn Diên đã giúp cho Nguyễn Hữu Cầu một ít lương thực, thực phẩm và quân lính. Ông tạm đóng quân tại Hương Lãm11 để chờ thời.
Cũng trong tháng 2 năm 1751, Phạm Đình Trọng đem đại quân đánh gấp vào Hương Lãm. Ở đây, sau nhiều năm chiến đấu mệt mỏi, thế đã cùng, lực đã kiệt, Nguyễn Hữu Cầu không sao chống đỡ nổi. Ông bí mật cho quân lui ra vùng cửa biển, dùng thuyền men theo duyên hải mà tiến ra Bắc. Nhưng, thật không may cho Nguyễn Hữu Cầu, ông và các nghĩa sĩ kiên trung vừa ra đi chưa được bao lâu thì bão biển nổi lên, thuyền vỡ chìm gần hết. Không còn cách nào khác hơn được nữa, Nguyễn Hữu Cầu và tàn quân đành dắt nhau vào ẩn náu tạm trong dãy Hoàng Mai12. Chưa kịp dựng trại thì đã bị tướng của Phạm Đình Trọng là Phạm Đình Sĩ 13 bất ngờ dẫn quân đánh ập vào. Nguyễn Hữu Cầu thua trận, bị bắt và bị đóng cũi giải về Thăng Long.
Trong những ngày bị giam cầm tại Thăng Long, Nguyễn Hữu Cầu đã có ý định tổ chức vượt ngục nhưng không thành. Anh hùng lỡ vận vẫn hiên ngang! Nơi ngục tối, Nguyễn Hữu Cầu vẫn giữ vững khí phách quật cường của mình. Ông có để lại cho đời bài thơ Chim trong lồng với lời lẽ rất cảm động.
Tháng 3 năm 1751, Nguyễn Hữu Cầu bị Trịnh Doanh xử tử cùng một lần với Nguyễn Danh Phương14. Ông được coi là vị anh hùng nông dân Đàng Ngoài lớn nhất thế kỷ thứ XVIII. Trong ký ức bất diệt của nhân dân, tên tuổi của Nguyễn Hữu Cầu mãi mãi tỏa sáng. Ông được các thế hệ nhân dân yêu nước trìu mến gọi với tên gọi thật thân thương là Quận He.
________________________________
1. Đất hai huyện Thần Khê và Thanh Quan nay đều thuộc tỉnh Thái Bình.
2. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 41, tờ 5).
3. Huyện Nam Xang xưa thuộc phủ Lý Nhân, nay đất đai của huyện này trên đại thể tương ứng với huyện Lý Nhân tỉnh Hà Nam.
4. Huyện Bình Lục nay cũng đại thể tương ứng với huyện Bình Lục tỉnh Hà Nam.
5. Hoàng Giang là tên của khúc sông Hồng chảy qua huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định.
6. Mã Não là tên xã thuộc huyện Bình Lục.
7./color] Hương Nhi là tên xã thuộc huyện Bình Lục.
8. Quang Dực là tên xã thuộc huyện Vĩnh Lại của Hải Dương xưa. Nay, tác giả chưa xác định được vị trí cụ thể trên bản đồ mới.
9. Lộng Khê là tên xã thuộc huyện Phụ Dực, nay thuộc về tỉnh Thái Bình.
10. Xin vui lòng tham khảo thêm mục 1-Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ (thuộc phần II của sách này).
11. Tên xã. Xã này nay thuộc huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An.
12. Dãy Hoàng Mai ở xã Hoàng Mai, huyện Quỳnh Lưu (Nghệ An).
13. Lai lịch Phạm Đình Sĩ hiện chưa sưu tầm được.
14. Xin vui lòng tham khảo thêm mục 4-Nguyễn Danh Phương (thuộc phần II, cũng trong sách này).
Quyển 03
Chương 01 - NHỮNG DANH TƯỚNG XUẤT THÂN ÁO VẢI ĐẦU TIÊN
LƯỢC TRUYỆN NHỮNG DANH TƯỚNG XUẤT THÂN ÁO VẢI ĐẦU TIÊN
Nguồn: quansuvn.net
Thu gọn nội dung
03. HOÀNG CÔNG CHẤT (? - 1769)
Nơi chôn nhau cắt rốn
Hoàng Công Chất còn có tên khác là Hoàng Công Thư và trong thư tịch cổ, đôi khi tên ông còn được chép là Hoàng Văn Chất. Hiện chưa rõ Hoàng Công Chất chào đời vào năm nào. Cũng có tài liệu nói rằng Hoàng Công Chất người làng Vân Hoàng, huyện Phú Xuyên (nay thuộc Hà Tây), lại cũng có tài liệu nói ông người huyện Thư Trì (nay là huyện Vũ Thư của tỉnh Thái Bình), nhưng, phần lớn các tài liệu xưa đều nói Hoàng Công Chất người làng Đại Lan, huyện Đông Yên (nay là xã Đại Quán, huyện châu Giang, tỉnh Hưng Yên).
Xưa Đông Yên là một trong số bốn huyện2 của phủ Khoái Châu. “Đất này đời Hán và đời Đường thuộc Châu Diên, mãi đến đời Trần mới đổi là Đông Kết, sang đời Lê, khoảng niên hiệu Hồng Đức (tức là khoảng từ năm 1470 đến năm 1497 - NKT) thì đổi gọi như hiện nay”3.
Phủ Khoái Châu nói chung và huyện Đông Yên nói riêng là vùng đồng bằng sông nước, dân nơi đây rất giỏi nghề chài lưới và bơi lội. Đây là nơi gặp gỡ kỳ thú giữa Công Chúa Tiên Dung với chàng trai nghèo Chử Đồng Tử4, nơi có những tên đất rất cổ như đầm Dạ Trạch, bãi Tự Nhiên, bãi Mạn Trù... v.v. Đây cũng là đất có truyền thống bất khuất lâu đời mà một trong những biểu tượng tuyệt vời của truyền thống đó chính là Dạ Trạch Vương Triệu Quang phục (? - 571):
“Triệu Quang Phục cầm cự với Trần Bá Tiên (lúc này là tướng của nhà Lương - NKT), thế chưa phân thắng bại. Thấy quân của Trần Bá Tiên quá đông, (Triệu) Quang Phục liệu thấy chưa thể phá nổi, bèn lui về giữ đầm Dạ Trạch. Đầm này ở Chu Diên, chu vi không biết bao nhiêu là dặm, cây cỏ mọc um tùm, bụi rậm che kín mọi chỗ. Giữa đầm có một nền đất cao có thể ở được, bốn phía là bùn lầy, người và ngựa đều khó đi, chỉ có thể dùng thuyền độc mộc loại nhỏ, chống sào lướt trên cỏ và nước mới đi được. Nếu không quen rất dễ bị lạc, chẳng thể tìm được lối về. Nếu lỡ rơi xuống nước là lập tức bị rắn độc cắn chết. (Triệu) Quang Phục thuộc rõ đường đi lối lại, đem hơn hai vạn binh sĩ vào đóng ở nền đất trong đầm, ban ngày thì tuyệt không để lộ khói lửa và dấu người, ban đêm thì dùng thuyền độc mộc đem quân ra đánh doanh trại của Trần Bá Tiên, giết và bắt sống được rất nhiều tên, lại còn lấy được lương thực dùng cho kế cầm cự lâu dài. (Trần) Bá Tiên theo đánh mãi mà không sao đánh được. Người trong nước gọi (Triệu Quang Phục) là Dạ Trạch Vương”5
Khi Hoàng Công Chất lớn lên, mâu thuẫn của xã hội Đàng Ngoài đã trở nên rất gay gắt. Hàng loạt những cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ đã liên tiếp nổ ra6. Một trong những trung tâm sôi động của cuộc chiến đấu quyết liệt đương thời chính là quê hương ông. Hoàng Công Chất đã tham gia một cách rất tự nhiên vào phong trào chung ấy.
Bốn năm chiến đấu quyết liệt đầu tiên (1739-1743)
Năm 1739, khi Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ khởi nghĩa ở Ninh Xá7, Vũ Trác Oánh khởi nghĩa ở Mộ Trạch8 thì Hoàng Công Chất cũng dựng cờ xướng nghĩa ở Đông Yên. Chỉ trong một thời gian rất ngắn, ảnh hưởng của Hoàng Công Chất đã lan rộng khắp vùng Sơn Nam9. Phát huy khả năng giỏi thủy chiến của các nghĩa sĩ, bám chặt và triệt để tận dụng địa hình lợi hại của vùng đầm lầy sông nước, Hoàng Công Chất đã khôn khéo tổ chức nhiều trận tấn công hiểm hóc gây cho tập đoàn thống trị họ Trịnh nhiều tổn thất rất nặng nề.
Tháng 1 năm 1740, ngay sau khi giành được ngôi chúa một cách khá êm thấm từ tay anh ruột là Trịnh Giang, Trịnh Doanh đã hạ lệnh thẳng tay đàn áp tất cả các cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ. Binh lính được cấp tốc tuyển thêm. Những nhân vật thân tín nhanh chóng được đưa tới các vùng trọng yếu:
- Trần Đình Miên (cũng tức là Trần Đình Cẩm) được bổ làm Đốc Lãnh, cùng với quan Bồi Tụng là Nguyễn Bá Lân đem quân đi đánh Sơn Tây10.
- Hoàng Kim Trảo11 được bổ làm Đốc Lãnh, cùng với một số tướng lĩnh khác như Nguyễn Thế Siêu, Trần Danh Quán,... cầm quân đi đàn áp vùng Hải Dương và Hưng Yên12.
- Ngô Đình Thạc13 được bổ làm Tổng Phủ cầm quân lên Lạng Sơn.
- Nguyễn Trọng Uông14 được bổ làm Thống Lãnh, đưa quân đi trấn áp vùng Hải Dương.
- Võ Tá Lý15 được bổ làm Chinh Tây Đại Tướng Quân, đi Sơn Tây phụ giúp cho Trần Đình Miên.
- Ngay sau khi Võ Tá Lý xuất quân, Hoàng Công Kỳ16 là hoạn quan cũng được bổ làm Chinh Tây Đại Tướng Quân, sẵn sàng tiếp ứng cho Trần Đình Miên và Võ Tá Lý bất cứ lúc nào
- V.v.
Đại để một vòng vây quân sự hùng mạnh đã được thiết lập và ngày càng xiết chặt. Các lãnh tụ nghĩa quân đương thời như Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Cầu17, Nguyễn Danh Phương18, Hoàng Công Chất... gặp rất nhiều khó khăn. Trước tình thế đó họ quyết định liên minh với nhau, nhằm tăng cường sức mạnh cho mình và làm phân tán, làm suy yếu bớt lực lượng của quân đội chúa Trịnh. Năm 1741, khi cuộc khởi nghĩa do Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ lãnh đạo đã bị thất bại, Hoàng Công Chất đã liên kết với nghĩa quân do Nguyễn Hữu Cầu cầm đầu. Điều này khiến cho Trịnh Doanh thực sự lo ngại. Hoàng Ngũ Phúc được cử làm tướng chỉ huy toàn bộ lực lượng quân đội chúa Trịnh đi đàn áp ở vùng Đông Bắc, quyết bình định cho được miền đất trọng yếu này. Tháng 3 năm 1743, quan Tham Tụng là Nguyễn Công Thái19 được Trịnh Doanh điều đi làm Trấn Thủ Sơn Nam nhằm tăng cường thêm sức mạnh cho guồng máy chính quyền thống trị ở đây.
Tháng 11 năm 1743, do thấy mức dộ ác chiến ngày một căng thẳng, lại cũng do muốn mở thêm những mặt trận tấn công mới hơn, Hoàng Công Chất đã chủ động dâng thư xin hàng lên chúa Trịnh. Bức thư đó đã khiến cho nội bộ phủ chúa Trịnh bị phân hóa khá gay gắt. Bấy giờ phủ chúa bị chia làm hai phe. Phe thứ nhất chủ trương quyết đánh đến cùng chứ không chịu nhượng bộ. Phe này gồm tuyệt đại đa số các quan cả văn lẫn võ. Phe thứ hai chủ trương chấp nhận để rồi tìm cách dụ dỗ, mua chuộc và dần dần sẽ thủ tiêu. Phe này có Nguyễn Đình Hoàn20, Trần Huy Mật21 và cả chính chúa Trịnh Doanh nữa. Tất nhiên, phe thắng thế là phe của Trịnh Doanh. Trịnh Doanh hạ lệnh cho Hoàng Công chất (và các lãnh tụ nông dân khác) ở yên tại chỗ, được chính thức trao cho quan chức để cai trị dân trong vùng đã chiếm đóng của mình:
“Trịnh Doanh cũng đã chán nản việc dùng binh đánh dẹp lâu năm, bèn nhân đấy, trao cho chúng được quan chức và cho chiếu theo từng vùng chiếm đóng mà cai quản lấy”22.
Hoàng Công Chất có dâng thư xin hàng nhưng trong thực tế, ông chưa bao giờ hàng. Giữa nghĩa quân Hoàng Công Chất với Trịnh Doanh cũng gần như chưa bao giờ có được một khoảng thời gian hòa hoãn đáng kể nào.
____________________________________
1. Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái: Đại Nam quốc sử diễn ca (áng sử thi bằng chữ Nôm, thế kỷ thứ XIX).
2. Đó là các huyện: Đông Yên, Kim Động, Phù Cừ và Thiên Thi.
3. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam nhất thống chí (tỉnh Hưng Yên).
4. Lý Tế Xuyên và Trần Thế Pháp: Lĩnh Nam Chích quái.
5. Đại Việt sử kí toàn thư (Ngoại kỷ, quyển 4, tờ 17 a-b).
6. Xin vui lòng tham khảo thêm phần I-Đàng Ngoài ở đầu thế kỷ thứ XVIII (thuộc chương thứ nhất của sách này).
7. Xin vui lòng tham khảo thêm mục lục 1-Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ (thuộc phần II, chương thứ nhất của sách này).
8. Xin vui lòng tham khảo thêm mục 3-Bốn phương rầm rộ khởi binh (thuộc phần I, chương thứ nhất của sách này).
9. Vùng đại để tương ứng với các tỉnh Hưng Yên, Hải Dương và Thái Bình ngày nay.
10. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 38, tờ 24).
11. Hoàng Kim Trảo người làng Đơn Dương Hạ, huyện Bạch Hạc (nay thuộc Phú Thọ), đỗ Tạo Sĩ (tức Tiến Sĩ võ).
12. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 38, tờ 25).
13. Ngô Đình Thạc người làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai (nay là thôn Tả Thanh Oải, xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh Trì, Hà Nội), đỗ Tiến Sĩ năm 1700. Ông là anh của Ngô Đình Oánh (tức Ngô Đình Chất), đỗ Tiến Sĩ năm 1721.)
14. Nguyễn Trọng Uông người làng Quế Ổ, huyện Quế Dương (nay thuộc Bắc Ninh), đỗ Tạo Sĩ (Tiến Sĩ võ).
15. Võ Tá Lý người làng Hà Hoàng, huyện Thạch Hà (nay là xã Thạch Môn, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh).
16. Hoàng Công Kỳ người làng Trình Xá, huyện Thần Khê.
17. Xin vui lòng tham khảo thêm mục 2-Nguyễn Hữu Cầu (ở phần II của chương thứ nhất trong sách này).
18. Xin vui lòng tham khảo thêm mục 4-Nguyễn Danh Phương (ở phần II của chương thứ nhất trong sách này).
19. Nguyễn Công Thái (1684-1758) người làng Kim Lũ, huyện Thanh Trì (nay là thôn Kim Lũ, xã Đại Kim, huyện Thanh Trì, Hà Nội), đỗ Tiến Sĩ năm 1715.
20. Nguyễn Đình Hoàn người làng Hương Duệ, huyện Kỳ Anh (nay thuộc huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh). Ông là võ quan cao cấp, khác với Nguyễn Đình Hoàn người Thăng Long, đỗ Tiến Sĩ năm 1688.
21. Trần Huy Mật hiện chưa rõ lai lịch, chỉ biết ông là võ quan cao cấp.
22. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 39, tờ 35).
Chiếm Khoái Châu (1743), liên tục tấn công khiến cho chúa Trịnh Doanh nổi giận, bãi chức của Nguyễn Đình Hoàn
Cuối năm 1743, ngay sau khi dâng thư xin hàng, do thấy sức ép quân sự của chúa Trịnh vẫn không giảm, Hoàng Công Chất chủ trương phá thế bị bao vây bằng cách bất ngờ cho quân tấn công. Và, Hoàng Công Chất đã hoàn toàn đúng. Các tướng của chúa Trịnh bị thua liên tiếp mấy trận liền, đất Khoái Châu bị nghĩa quân Hoàng Công Chất đánh chiếm, đồng thời, trở thành sào huyệt tin cậy của Hoàng Công Chất. Từ Khoái Châu, một loạt những cuộc tấn công lớn nhỏ đến các vùng chung quanh dồn dập được tổ chức. Điều này khiến cho Trịnh Doanh rất tức tối.
Bấy giờ, các tướng Đinh Văn Giai và Nguyễn Đình Hoàn có thắng được một trận nhỏ ở Đỗ Xá1. Nhưng, thắng lợi đó không đủ để vực dậy tinh thần chung của đông đảo quân sĩ chúa Trịnh, càng không đủ để làm nhụt chí Hoàng Công Chất. Nhân thấy nước sông Hồng bỗng dưng lên cao, Nguyễn Đình Hoàn tâu với Trịnh Doanh, xin phá đê sông Hồng để nhận chìm lực lượng của Hoàng Công Chất. Nhưng, lời tâu ấy không được Trịnh Doanh chấp thuận, “lấy cớ rằng nếu làm như thế sẽ gây hại cho nhân dân ở các huyện lân cận”2.
Để đàn áp nghĩa quân Hoàng Công Chất, các tướng lĩnh của chúa Trịnh mà đặc biệt là Nguyễn Đình Hoàn đã ra sức tình đủ mọi cách để bắt lính và vơ vét tài sản của nhân dân. Khắp nơi náo loạn bởi hành vi này của Nguyễn Đình Hoàn. Nhân dân biểu lộ sự phản kháng bằng nhiều hình thức khác nhau, hoặc đùm bọc chở che, hoặc góp tiền góp của, hoặc trực tiếp cầm vũ khí tham gia vào lực lượng chiến đấu của nghĩa quân Hoàng Công Chất. Biết được điều này, Trịnh Doanh rất tức tối. Sử cũ viết:
“Nguyễn Đình Hoàn tự cho mình có trách nhiệm chuyên lo khống chế mặt Nam (kinh thành) cho nên đã thiên tiện bắt dân phu đi đánh giặc, làm náo động khắp vùng. Nghe tin này, Trịnh Doanh giận lắm, vừa xuống lệnh nghiêm trách, vừa lập tức bãi chức Nguyễn Đình Hoàn”3.
Cùng với việc nghiêm trách và bãi chức của Nguyễn Đình Hoàn, Trịnh Doanh còn ra lệnh triệu Đinh Văn Giai về kinh tâu trình rõ mọi điều. Sau đó không bao lâu, Đinh Văn Giai lại được lệnh trở lại vùng đồng bằng sông Hồng, đốc thúc các đạo quân đi đàn áp Hoàng Công Chất. Không may cho Đinh Văn Giai, mọi cố gắng lúc này hầu như không mang lại hiệu quả đáng nói nào:
“Giặc cỏ (chỉ nghĩa quân Hoàng Công Chất - NKT) tung hoành bạo ngược, càng ngày càng dữ. Dân vùng Hải Dương và Kinh Bắt không ngày nào được yên”4.
Để cứu vãn tình hình, Trịnh Doanh sai hoạn quan Hoàng Công Kỳ đi làm Trấn Thủ của trấn Sơn Nam. Hoàng Công Kỳ còn được kiêm giữ chức Thống Lãnh, chỉ huy cuộc đàn áp ở vùng này. Tuy xuất thân là hoạn quan nhưng Hoàng Công Kỳ rất được Trịnh Doanh tin cậy, ủy thác nhiều trọng trách ở triều đình và nhiều phen giao việc cầm quân. Chính Hoàng Công Kỳ là kẻ đã dàn áp khốc liệt nghĩa quân của Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ và Nguyễn Hữu Cầu. Cùng với hoạn quan Hoàng Ngũ Phúc và một loạt tướng lĩnh cao cấp khác như Đinh Văn Giai, Phạm Đình Trọng... Hoàng Công Kỳ là một trong những chỗ dựa quan trọng của Trịnh Doanh. Cũng do từng trải nhiều năm cầm quân đi trấn áp, Hoàng Công Kỳ rất thông thạo địa hình vùng đồng bằng sông Hồng. Tóm lại, đối mặt với một tướng sừng sỏ như Hoàng Công Kỳ là khó khăn không nhỏ của nghĩa quân Hoàng Công Chất.
Bắt giết Hoàng Công Kỳ (1745), đánh cho Đinh Văn Thản phải hoảng sợ mà chết (1761)
Tháng 12 năm 1745, Hoàng Công Kỳ lấy danh nghĩa là quan Trấn Thủ kiêm Thống Lãnh, trực tiếp đi kiểm tra việc xây dựng đồn lũy và kế hoạch bố phòng của các địa phương trong trấn Sơn Nam. Cứ như nhận xét của sử cũ thì Hoàng Công Kỳ tuy là tướng có tài nhưng bản tính rất chủ quan. Hoàng Công Chất cũng biết rất rõ điều đó cho nên đã khôn khéo bố trí một trận mai phục, quyết trừng trị đích đáng viên tướng đầu sỏ này. Và cơ hội tốt đã đến với Hoàng Công Chất vào tháng 12 năm 1745.
Bấy giờ, nhận được tin Hoàng Công Kỳ cưỡi voi đi kiểm tra các địa phương, lính theo hầu chỉ có độ vài chục tên, Hoàng Công Chất lập tức cho quân bất ngờ tấn công. Hoàng Công Kỳ không sao chống đỡ nổi, bị thua và bị bắt, sau đó bị giết. Một trong những tướng cao cấp nhất của Trịnh Doanh bị thiệt mạng! Tin đó nhanh chóng lan đi khắp nơi, khiến cho các lực lượng nổi dậy chống họ Trịnh rất hồ hởi. Thắng lợi này của Hoàng Công Chất có ý nghĩa rất lớn lao. Sau cái chết của Hoàng Công Kỳ, bẵng đi một thời gian khá dài, tướng sĩ của họ Trịnh không dám mạo hiểm đánh vào Khoái Châu nữa. Nghĩa quân Hoàng Công Chất có cơ hội để không ngừng củng cố và phát triển.
Năm 1748, Trịnh Doanh tổ chức một cuộc càn quét có quy mô rất lớn vào Khoái Châu. Các đạo quân thủy bộ do nhiều tướng lĩnh cao cấp của Trịnh Doanh chỉ huy cùng tiến vào khu căn cứ của Hoàng Công Chất. Các trận ác chiến liên tiếp xảy ra. Cuối cùng, do tương quan thế và lực hoàn toàn không cân xứng, để bảo toàn lực lượng, Hoàng Công Chất đã quyết định rút vào Thanh Hóa rồi từ Thanh Hóa, rút lên Hưng Hóa.
Gắn liền với cuộc rút lui này, địa bàn hoạt động và phương thức hoạt động của nghĩa quân Hoàng Công Chất cũng buộc phải thay đổi theo. Từ thói quen tổ chức những trận chiến đấu ở vùng đồng bằng sông nước, đến đây, Hoàng Công Chất phải xây dựng kế hoạch tấn công và phòng thủ sao cho thật phù hợp với điều kiện địa hình của vùng rừng núi Tây Bắc. Và, một khi đã đến với vùng Tây Bắc, vùng cư ngụ của đồng bào các dân tộc ít người, muốn tồn tại, trước hết phải lo thiết lập và củng cố khối đoàn kết giữa đồng bào các dân tộc anh em. Điều rất bất ngờ là Hoàng Công Chất đã thành công rất nhanh chóng. Tại Hưng Hóa, nghĩa quân Hoàng Công Chất đã được sự ủng hộ mãnh liệt của nhân dân, đặc biệt là sự hợp tác chiến đấu chống kẻ thù chung của các nghĩa sĩ Tây Bắc do một vị thủ lĩnh tên là Thành (chưa rõ họ) chỉ huy5.
Để đối phó với tình hình này, Trịnh Doanh hạ lệnh cho quan Trấn Thủ ở Hưng Hóa là Đinh Văn Thản6 phải lập tức đem quân đi trấn áp. Sử cũ chép:
“Trấn Thủ Đinh Văn Thản được lệnh đem quân tiến đánh nhưng (Đinh Văn) Thản có ý sợ, đóng quán ở nơi rừng sâu nước độc lâu ngày, nhiều người nhiễm chướng khí, mắc bệnh sốt rét rồi chết. (Đinh Văn) Thản bị triều đình vặn hỏi, quở trách nhiều lần, vì thế, hắn sợ đến phát chết. Triều đình hạ lệnh truy lột hết quan chức, tước vị của hắn, lại còn sai người đánh vào áo quan”7.
Một cuộc đàn áp mới hơn, nguy hiểm hơn được gấp rút tổ chức. Lần này, Trịnh Doanh giao trách nhiệm cho các tướng lĩnh sau đây:
- Lê Đình Châu8 được giao chức Đốc Chiến.
- Nguyễn Quốc Khuê9 được giao chức Tham Mưu.
- Phan Cảnh10 lúc bấy giờ đang là Đốc Đồng ở Tuyên Quang có nhiệm vụ đem quân bản bộ từ Tuyên Quang tới để phối hợp chiến đấu.
Cuộc tấn công đàn áp ác liệt này đã gây cho nghĩa quân Hoàng Công Chất không ít khó khăn. Thủ lĩnh Thành bị bắt và bị giết. Hoàng Công Chất buộc phải cho toàn bộ lực lượng của mình rút lui. Tuy nhiên, tướng sĩ của chúa Trịnh cũng bị tiêu hao không ít. Đốc Đồng Phan Cảnh vì quá mệt mỏi với những cuộc hành quân, đã lâm bệnh và chết ở Hưng Hóa.
___________________________________
1. Đỗ Xá là tên xã thuộc huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên.
2. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 39, tờ 35).
3, 4. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 39, tờ 36.
5. Theo ghi chép của Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 42, tờ 8 ) thì thủ lĩnh Thành là người đã phát động và lãnh đạo một cuộc nổi dậy khá lớn ở vùng Hưng Hóa. Nghĩa quân của thủ lĩnh Thành đã có lần đánh sang cả đất Trung Quốc. Quan Tổng Đốc Vân Nam phải hợp lực với Đinh Văn Thản đánh dẹp rất vất vả mà vẫn không sao thắng nổi.
6./color] Đinh Văn Thản người làng Hàm Giang, huyện Cẩm Bình (nay thuộc tỉnh Hải Dương), là dòng dõi của võ quan lừng danh Đinh Văn Tả.
7. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 42, tờ 10).
8. Lê Đình Châu người làng Liên Hồ, huyện Ngọc Sơn (nay thuộc huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa).
9. Nguyễn Quốc Khuê người làng Hoằng Liệt, huyện Thanh Trì (nay thuộc xã Hoằng Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội), đỗ Tiến Sĩ năm 1748, làm quan được thăng dần lên đến chức Giám Sát Ngự Sử.
10. Phan Cảnh (cũng tức là Phan Kính), người làng Lai Thạch, huyện La Sơn (nay thuộc xã Song Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh), đỗ Thám Hoa năm 1743, làm quan trải được phong dần đến chức Đốc Đồng.
Xây căn cứ Mãnh Thiên và từ Mãnh Thiên, liên tục tấn cỏng đến khắp các vùng lân cận
Thủ lĩnh Thành bị giết hại nhưng lực lượng của Hoàng Công Chất về cơ bản vẫn được bảo toàn. Ông rút về Mãnh Thiên1 và nhanh chóng biến Mãnh Thiên thành một khu căn cứ rất lợi hại. Sự kiện này xảy ra vào khoảng đầu năm 1761. Tại Mãnh Thiên, Hoàng Công Chất cho xây dựng thành lũy rất kiên cố, trong đó, lớn nhất là Tam Vạn Thành (có nghĩa là thành chứa được ba vạn quân). “Hiện nay ở xã Ba Man phía nam Lai Châu, trên thượng lưu sông Đà còn có dấu vết một thành lũy xưa của Hoàng Công Chất gọi là Tam Vạn Thành”2.
Từ Mãnh Thiên, Hoàng Công Chất liên tục tổ chức những trận đánh vào các địa phương lân cận. Tháng 10 năm 1767, nhân cơ hội chúa Trịnh Doanh vừa mới qua đời3, chúa Trịnh Sâm mới lên nối nghiệp và đang chú tâm lo củng cố địa vị của mình, nghĩa quân Hoàng Công Chất đã đánh bảy trận lớn4. Cụ thể như sau:
- Trận thứ nhất: đánh vào Mai Châu (nay thuộc tỉnh Hòa Bình, khu vực nằm sát với Mộc Châu của tỉnh Sơn La).
- Trận thứ hai: đánh vào Mộc Châu (nay thuộc tỉnh Sơn La, khu vực nằm sát với Mai Châu của Hòa Bình).
- Trận thứ ba: đánh vào Quan Gia (nay thuộc Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa).
- Trận thứ tư: đánh Cổ Lũng (nay thuộc Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa).
- Trận thứ năm: đánh Thiết Úng (nay thuộc Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa).
- Trận thứ sáu: đánh Ái Chử (nay thuộc Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa).
- Trận thứ bảy: đánh Bất Một (nay thuộc Lang Chánh, tỉnh Thanh Hóa).
Tin cáo cấp liên tiếp đưa về, Bá quan văn võ ai cũng lấy làm lo ngại. Trịnh Sâm vội vã hạ lệnh thành lập một guồng máy chỉ huy cuộc trấn áp gồm các nhân vật chủ chốt như sau:
- Thiếu Phó Phương Nghĩa Hầu Trịnh Phương5 làm tổng chỉ huy, đồng thời, trực tiếp cầm đầu đạo quân đi càn quét ở Hưng Hóa.
- Điển Vũ Hầu Nguyễn Trọng Điển6 chỉ huy đạo quân đi càn quét ở Thanh Hóa.
- Trấn Thủ Thanh Hóa, là Nguyễn Đình Diễn7 có nhiệm vụ đem hết quân bản bộ ra hợp sức chiến đấu với đạo quân của Nguyễn Trọng Điển.
Thực hiện chủ trương lánh chỗ mạnh, đánh vào chỗ yếu, Hoàng Công Chất đã nhanh chóng cho rút hầu hết lực lượng của mình khỏi đất Thanh Hóa và Hòa Bình ngày nay. Nhưng, một loạt các cuộc tấn công ồ ạt khác lại nhất loạt được tổ chức. Tháng giêng năm 1768, Hoàng Công Chất đã chiếm được đất của mười châu8. Điều này khiến cho Trịnh Sâm vô cùng tức tối. Một bộ chỉ huy đàn áp mới hơn được thành lập, gồm có:
- Nguyễn Đình Huấn9 làm Chánh Thống Lãnh.
- Phạm Ngô Cầu10 làm Hiệp Thống Lãnh.
- Hoàng Phùng Cơ11 làm Hiệp Thống Lãnh.
- Phan Lê Phiên12 làm Tán Lí.
- Nguyễn Xuân Huyên13 làm Hiệp Tán Lí.
Đến tháng 8 năm 1768, Đoàn Nguyễn Thục14 được điều động tới, giữ chức Giám Quân và tăng cường cho bộ chi huy cuộc đàn áp này. Tam Vạn Thành và căn cứ Mãnh Thiên phải chịu đựng một sức ép ngày càng dữ dội. Đúng vào lúc căng thẳng nhất ấy nghĩa quân Hoàng Công Chất lại phải chịu một tổn thất rất nặng nề: Hoàng Công Chất qua đời vì lâm bệnh nặng tại Mãnh Thiên. Người kế tục sự nghiệp của Hoàng Công Chất là con trai ông: Hoàng Công Toản. Hoàng Công Toản tuy là người có chí lớn, nhưng, xét về kinh nghiệm trận mạc thì chưa thể sánh với Hoàng Công Chất. Đó chính là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến thất bại của cuộc khởi nghĩa này.
Tam Vạn Thành bị phá vỡ, Mãnh Thiên nhuộm đỏ máu anh hùng
Nguyễn Đình Huấn là Thống Lãnh, nhưng chính Thống Lãnh Nguyễn Đình Huấn lại luôn tỏ ra dè dặt, thậm chí là có phần lo sợ khi cầm quân đánh vào các địa phương ở Hưng Hóa. Sai quân đi thu lương thực trong dân không được, hạ lệnh bắt thêm lính cũng không xong, Nguyễn Đình Huấn biết là lòng người đều đã hướng về căn cứ Mãnh Thiên, vì thế, cố sức nghĩ kế để rút quân. Các tướng dưới quyền, đặc biệt là Phạm Ngô Cầu, rất ủng hộ Nguyễn Đình Huấn, chỉ có Giám Quân Đoàn Nguyễn Thục là phản đối mà thôi. Sử cũ chép:
“Bọn (Nguyễn) Đình Huấn cho người phi ngựa về kinh đô, đệ tờ khải, đại ý nói rằng: Lương ăn của quân không được đầy đủ, tiến thoái đều khó cả. Vả chăng, quân sĩ có nhiều người mắc bệnh, vậy xin cho thêm thuốc thang để chữa.
Lúc ấy, (Đoàn) Nguyễn Thục cũng làm tờ khải trình lên theo, nói là (Nguyễn) Đình Huấn hiệu lệnh không nghiêm, đã thế lại còn khinh rẻ và lấn át chư tướng, thả lỏng cho binh lính đi cướp bóc, chần chừ không chịu tiến quân. Tóm lại có mười việc sai trái.
Nhận được tờ khải của (Nguyễn) Đình Huấn, đang đêm mà Trịnh Sâm cũng không bằng lòng, liền cho triệu các quan vào phủ để bàn định. (Trịnh Sâm) nghiêm trách Nguyễn Đình Huấn. Kế đó lại nhận được tờ khải của (Đoàn) Nguyễn Thục, Trịnh Sâm nổi giận nói:
- Ta vẫn biết (Nguyễn) Đình Huấn không thể dùng được, nay quả nhiên là đúng như thế.
(Nói rồi), lập tức hạ lệnh triệu (Nguyễn) Đình Huấn về và bổ (Đoàn) Nguyễn Thục kiêm chức Thống Lãnh các đạo, thay (Nguyễn) Đình Huấn. Vũ Huy Đĩnh15 được bổ làm Giám Quân và Nguyễn Trọng Hoành16 được bổ làm Tán Lí”17.
Tháng giêng năm 1769, Đoàn Nguyễn Thục dốc toàn lực ra đánh trận quyết định với Hoàng Công Toản. Trước khi xuất quân, Đoàn Nguyễn Thục tuốt gươm ra nói với quân sĩ rằng: “Kẻ nào không tuân theo mệnh lệnh thì hãy trông vào thanh kiếm này”.
Hoàng Công Toản đã chủ động bố trí nhiều trận mai phục rất lợi hại, nhưng, quân ít chẳng thể chống nổi đối thủ mạnh, nghĩa quân bị thua liên tiếp mấy trận liền. Cuối cùng, Hoàng Công Toản đành phải chạy sang Vân Nam (Trung Quốc). Số phận Hoàng Công Toản về sau ra sao thì không thấy thư tịch cổ ghi chép gì. Các tướng lĩnh và nghĩa sĩ của Hoàng Công Toản cũng mỗi người tản mác một nơi, không chịu đầu hàng, khuất phục.
Cuộc khởi nghĩa do Hoàng Công Chất phát động và chỉ huy, sau ba mươi năm chiến đấu ngoan cường, đến đó là chấm dứt. Hoàng Công Chất là biểu tượng của khí phách hiên ngang, của ý chí chiến đấu dẻo dai phi thường, của tài chỉ huy chiến đấu ở nhiều địa hình rất khác nhau. Hiện nay, ở Điện Biên Phủ vẫn còn đền thờ Hoàng Công Chất do nhân dân địa phương dựng lên.
____________________________________
1. Mãnh Thiên là tên động, động này thuộc châu Ninh Biên, trấn Hưng Hóa. Nay, động Mãnh Thiên thuộc địa phận tỉnh Lai Châu.
2. Hoàng Bình Chính: Hưng Hóa phong thổ lục. Dẫn lại của Phan Huy Lê - Chu Thiên - Vương Hoàng Tuyên - Đinh Xuân Lâm trong Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam (tập III), Nhà Xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 1960, trang 233.
3. Trịnh Doanh mất vào tháng 1 năm 1767. Chúa kế vị là Trịnh Sâm, ở ngôi chúa từ năm 1767 đến năm 1782.
4. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 43, tờ 14). Tư liệu ở đây là tư liệu tổng hợp, không phải là trích lục từ nguyên tác.
5. Theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 43, tờ 14) thì Trịnh Phương là người thuộc dòng họ của chúa Trịnh. Ngoài ra, các chi tiết khác về lai lịch cuộc đời Trịnh Phương hiện vẫn chưa rõ.
6. Nguyễn Trọng Điển còn có tên là Nguyễn Trọng Thân. người làng Quế Ổ, huyện Quế Dương (nay thuộc Bắc Ninh), con của Tạo Sĩ Nguyễn Trọng Uông.
7. Nguyễn Đình Diễn người làng Nội Duệ, huyện Tiên Du cũ (nay thuộc Bắc Ninh), xuất thân là hoạn quan.
8. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 48, tờ 16) chú thích rằng: “Mười châu đó gồm có Chiêu Tấn, Quỳnh Nhai, Lai Châu, Ninh Biên Quảng Lăng, Hoàng Nham, Hợp Phì, Lễ Tuyền, Khiêm Châu và Tuy Phụ. Nay bốn châu Chiêu Tấn, Quỳnh Nhai, Lai Châu và Ninh Biên đều thuộc Hưng Hóa. Hai châu Quảng Lăng và Hoàng Nham đều thuộc Vân Nam (Trung Quốc-NKT). Còn bốn châu Hợp Phì, Lễ Tuyền, Khiêm Châu và Tuy Phụ không khảo cứu được”.
9. Nguyễn Đình Huấn người làng Yên Thường, huyện Đông Ngàn (nay thuộc Bắc Ninh), xuất thân là hoạn quan.
10. Phạm Ngô Cầu hiện chưa rõ lai lịch, chỉ biết về sau được phong tới tước Quận Công. Năm 1786, Phạm Ngô Cầu bị Tây Sơn bắt giết.
11. Hoàng Phùng Cơ quê ở Vân Cốc, huyện Bạch Hạc (nay thuộc huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ). Lúc này: Hoàng Phùng Cơ đang giữ chức Lưu Thủ Sơn Tây.
12. Phan Lê Phiên (1735-1809) người làng Đông Ngạc, huyện Từ Liêm (nay là thôn Đông Ngạc, xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, Hà Nội), đỗ Tiến Sĩ năm 1757. Phan Lê Phiên chỉ giữ chức Tán Lí từ tháng giêng đến tháng 6 năm 1768. Từ tháng 7 năm 1768, Đốc Trấn Cao Bằng là Nguyễn Trọng Hoành (người làng Bột Thái, huyện Hoằng Hóa, nay thuộc Thanh Hóa) được cử đến thay Phan Lê Phiên.
13. Nguyễn Xuân Huyên (còn có tên là Nguyễn Diêu), người làng Hoàng Xá, huyện Thư Trì (nay là làng Nguyên Xá, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình), đỗ Tiến Sĩ năm 1752.
14. Đoàn Nguyễn Thục (còn có tên là Đoàn Duy Tĩnh: 1728 - 1783), người làng Hải An, huyện Quỳnh Côi (nay là xã Quỳnh Nguyên, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình), đỗ Hoàng Giáp năm 1752.
15. Vũ Huy Đĩnh (1730-1789) người làng Mộ Trạch, huyện Đường An, nay là thôn Mộ Trạch, xã Tân Hồng huyện Cẩm Bình, tỉnh Hải Dương, đỗ Tiến Sĩ năm 1754, làm quan được thăng dần lên đến chức Lễ Bộ Hữu Thị Lang, tước Hồng Trạch Hầu.
16. Nguyễn Trọng Hoành người làng Bột Thái, huyện Hoằng Hóa (nay thuộc Thanh Hóa).
17. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 43, tờ 21).
Quyển 03
Chương 01 - NHỮNG DANH TƯỚNG XUẤT THÂN ÁO VẢI ĐẦU TIÊN
LƯỢC TRUYỆN NHỮNG DANH TƯỚNG XUẤT THÂN ÁO VẢI ĐẦU TIÊN
Nguồn: quansuvn.net
Thu gọn nội dung
04. NGUYỄN DANH PHƯƠNG (? - 1751)
Trước năm 1740, ở trấn Sơn Tây có một cuộc khởi nghĩa khá lớn do thủ lĩnh Tế cầm đầu. Trong thành phần của lực lượng tham gia cuộc khởi nghĩa này, có một nhà Nho trẻ, đó là Nguyễn Danh Phương.
Nguyễn Danh Phương còn có tên là Nguyễn Danh Ngũ, tuy nhiên, người đương thời thường gọi ông một cách thân mật và trìu mến là Quận Hẻo. Ông người làng Tiên Sơn, huyện Yên Lạc, trấn Sơn Tây (nay quê ông thuộc huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc). Hiện vẫn chưa rõ Nguyễn Danh Phương sinh vào năm nào. Thư tịch cổ cũng như một số tài liệu dân gian cho biết rằng, thuở thiếu thời, ông từng dùi mài kinh sử để thử vận may khoa trường, nhưng rồi chán cảnh nhân tình thế thái ngày một đen bạc, ông đã hăng hái đi theo nghĩa binh của thủ lĩnh Tế. Nhờ có nghĩa khí và văn tài, ông được thủ lĩnh Tế trọng dụng, xếp vào hàng những người thân tín nhất.
Tháng 2 năm Canh Thân (1740), chúa Trịnh lúc đó là Trịnh Doanh đã phong cho Võ Tá Lý2 làm Chinh Tây Đại Tướng Quân, đồng thời, sai cầm quân đi đánh thủ lĩnh Tế. Trong trận ác chiến ở Yên Lạc3, thủ lĩnh Tế thua trận, Nguyễn Danh Phương liền đem tàn quân chạy về Tam Đảo để tính kế chiến đấu lâu dài. Từ đây, Nguyễn Danh Phương thực sự trở thành thủ lĩnh của một cuộc khởi nghĩa mới.
“Nguyễn Danh Phương vốn là dư đảng của Tế, chiếm núi Tam Đảo, lợi dụng địa thế hiểm trở để xây thành đắp lũy, chiêu mộ dân binh, quyên góp lương thực và rèn đúc khí giới, họp phe đảng ẩn náu trong núi rừng”4.
Theo Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái, chốn núi rừng mà Nguyễn Danh Phương cùng nghĩa sĩ của mình ẩn náu chính là ngọn Độc Tôn Sơn trong dãy Tam Đảo5. Từ Độc Tôn Sơn, Nguyễn Danh Phương liên tục tổ chức nhiều cuộc tấn công ra các vùng chung quanh, gây chấn động khắp cả hai trấn Tuyên Quang và Hưng Hóa.
Khi mới dựng cờ khởi nghĩa, do tương quan thế và lực rất chênh lệch, Nguyễn Danh Phương chủ trương kết hợp rất chặt chẽ giữa kiên quyết với mềm mỏng. Kiên quyết là kiên quyết trừng trị đích đáng những kẻ tham quan ô lại, những đơn vị quân đội nhỏ của chúa Trịnh dám hung hăng tiến sâu vào căn cứ của nghĩa quân. Mềm dẻo là mềm dẻo trong sách lược đối phó với âm mưu đàn áp đẫm máu của triều đình. Mục tiêu của Nguyễn Danh Phương là gây tiếng vang bằng những trận đánh hiểm hóc, giành hiệu quả lớn nhất với những tổn thất nhỏ nhất. Bấy giờ, hễ gặp cơ hội thuận tiện là Nguyễn Danh Phương tấn công không khoan nhượng, nhưng, nếu xét thấy điều kiện chưa cho phép thì thường là ông gửi thư giả vờ xin hàng.
“Nhiều lần (Nguyễn) Danh Phương vờ xin hàng để hoãn binh, Trịnh Doanh biết là mưu giả trá nhưng cũng đem ra bàn với bầy tôi. (Trịnh) Doanh cho rằng, việc đánh dẹp cần phải biết có lúc phải hòa hoãn. Nay, trước hết là phải bàn cho rõ, giặc nào cần diệt trước, giặc nào cần dẹp sau”6.
Giặc cần dẹp trước, theo Trịnh Doanh, chính là nghĩa binh của Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Cầu, Hoàng Công Chất… còn như giặc có thể dẹp sau chính là nghĩa binh của Nguyễn Danh Phương. Xuất phát từ nhận định đó, Trịnh Doanh chủ trương tập trung lực lượng đàn áp Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Cầu, Hoàng Công Chất, đồng thời, hạ lệnh cho Trấn Thủ Sơn Tây tạm chấp nhận đề nghị xin hàng của Nguyễn Danh Phương.
Bất ngờ đánh vào Bạch Hạc (1744), phá vòng vây của tướng Văn Đình Ức ở Nghĩa Yên và xây căn cứ mới ở Thanh Lãnh
Tháng 11 năm 1744, lợi dụng lúc chúa Trịnh Doanh đang phải lúng túng huy động lực lượng đối phó với nghĩa quân của Nguyễn Hữu Cầu và Hoàng Công Chất, Nguyễn Danh Phương đã táo bạo cho quân đánh chiếm Việt Trì7 và sau đó là tung hoành khắp cả vùng Bạch Hạc. Trước đó chỉ mấy ngày, Trịnh Doanh vừa nhận được tin Trương Khuông bị Nguyễn Hữu Cầu đánh cho tơi bời ở Ngọc Lâm8, kế tiếp là Đinh Văn Giai bị Nguyễn Hữu Cầu đánh cho đại bại tại Xương Giang9, cho nên, rất lấy làm tức tối. Tướng Văn Đình Ức10 lập tức được lệnh chiêu mộ thêm quân sĩ để đi bình định đất Bạch Hạc. Văn Đình Ức nắm quyền chỉ huy khoảng vài vạn quân, thanh thế rất hùng mạnh. Với quân số áp đảo như vậy Văn Đình Ức hi vọng sẽ nhanh chóng bóp nát lực lượng của Nguyễn Danh Phương. Nhưng, Văn Đình Ức đã lầm. Mới bày binh bố trận ở Nghĩa Yên11, chưa kịp ra tay thì Nguyễn Danh Phương đã khôn khéo dùng kế nghi binh rồi nhanh chóng dẫn hết quân sĩ về chiếm cứ Thanh Lãnh12.
Từ Thanh Lãnh, Nguyễn Danh Phương cho các tướng chia quân đi đánh hầu khắp các huyện thuộc trấn Sơn Tây cũ. Những vị trí quan trọng trong trấn này đều bị nghĩa quân Nguyễn Danh Phương chiếm giữ. Đánh giá về sai lầm của Văn Đình Ức trong trận Nghĩa Yên, sử cũ viết: “Từ đấy (Nguyễn Danh Phương) bố trí đồn lũy, chiếm cứ nơi hiểm yếu để kháng cự với triều đình. Tất cả đều do sai lầm (của Văn Đình Ức) ở trận này cả”13.
Sau Văn Đình Ức, tướng Hoàng Ngũ Phúc cũng được điều đến Trấn Sơn Tây, nhưng tất cả các tướng lĩnh cao cấp này của chúa Trịnh đều bị sa lầy, suốt bốn năm trời (từ 1744 đến 1748) vẫn không đánh được một trận nào đáng kể. Trước diễn biến ngày một phức tạp của tình hình chung như vậy, Trịnh Doanh quyết định đưa tướng Đinh Văn Giai lên thay Hoàng Ngũ Phúc. Đinh Văn Giai được trao chức Trấn Thủ và phải chịu trách nhiệm tổ chức trấn áp cho bằng được lực lượng của Nguyễn Danh Phương. Trước khi ra đi, Đinh Văn Giai được Trịnh Doanh trực tiếp giao nhiệm vụ rất rõ như sau:
“Trấn Sơn Tây là phên giậu của nước nhà, thế mà phía Bắc thì bị (Nguyễn) Danh Phương (chiếm cứ), mặt Nam thì bị (thủ lĩnh) Tương và (Lê Duy) Mật chiếm cứ, giặc mạnh tràn lan, lòng người lo sợ. Vậy, cho phép ngươi được tùy ý làm việc, miễn sao ta đỡ lo nghĩ mặt Tây (kinh thành) là được”14.
Tháng 9 (nhuận) năm 1748, Đinh Văn Giai đến trấn Sơn Tây nhận chức. Nhưng, Đinh Văn Giai là kẻ khôn ngoan, thích sống để giữ quyền cao chức trọng, chẳng dại xông pha trận mạc quá mức để rồi có thể chết bất cứ lúc nào, bởi thế, bất đắc dĩ lắm Đinh Văn Giai mới cho quân ra đánh cho có đánh vậy thôi. Nghĩa quân Nguyễn Danh Phương nhờ đó vẫn ung dung đóng giữ ở hầu khắp các vị trí hiểm yếu của trấn Sơn Tây. Để có thêm cơ hội thuận tiện, nhằm xây dựng và củng cố lực lượng của mình, một lần nữa, Nguyễn Danh Phương lại giả vờ xin hàng. Sử cũ cho biết:
“Nguyễn Danh Phương dùng lễ vật rất hậu rồi mật sai người đến đút lót cho vợ của chúa Trịnh là Trịnh Thị (quê ở làng Thịnh Mỹ, huyện Lôi Dương)15 và hoạn quan là Đàm Xuân Vực16. (Đàm) Xuân Vực giúp (Nguyễn Danh Phương) dâng tờ biểu xin hàng. Trịnh Doanh đã y cho, nhưng khi xuống lệnh triệu vào thì (Nguyễn Danh Phương) không chịu vào nhận mệnh”17.
Cuối năm 1749, Nguyễn Danh Phương bất ngờ cho quân đi đánh ở huyện Tiên Phong18. Thành hình rất nguy cấp. Hiệp Trấn Sơn Tây là Hà Tông Huân19 phải dâng thư chạy gấp về triều đình. Trịnh Doanh phải hạ lệnh cho các tướng Bùi Trọng Huyến20 và Nguyễn Phan21 đưa quân đi cứu viện. Nhưng, rốt cuộc thì hàng vạn quân của chúa Trịnh, do những viên tướng được coi là tài ba nhất chỉ huy, vẫn không sao có thể đè bẹp được lực lượng của Nguyễn Danh Phương.
____________________________________
1. Lê Ngô Cát - Phạm Đình Toái: Đại Nam quốc sử diễn ca.
2. Võ Tá Lý người làng Hà Hoàng, huyện Thạch Hà (nay là 18 Thạch Môn, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh). Lúc này, Võ Tá Lý được phong tới tước Quận Công.
3. Yên Lạc nay thuộc huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc.
4, 6. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 38, tờ 28).
5. Đại Nam quốc sử diễn ca.
7. Việt Trì ở đây là tên thôn. Lúc này, thôn Việt Trì thuộc làng Bạch Hạc, huyện Bạch Hạc. Nay, đất này thuộc huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ.
8, 9. Xin vui lòng tham khảo thêm mục 2-Nguyễn Hữu Cầu (ở phần II,chươngthứ nhất).
10. Văn Đình Ức người làng Lạc Phố huyện Hương Sơn (nay là huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh), đỗ Tạo Sĩ (Tiến Sĩ võ). Ông sinh ra trong một gia đình nối đời là võ quan cao cấp: ông nội là Cổn Quận Công Văn Đình Nhân, chưa là Điều Quận Công Văn Đình Dẫn, bản thân ông cũng được phong là Quảng Quận Công. Con ông là Tạo Sĩ Văn Đình Cung.
11. Nghĩa Yên là tên một làng của huyện Bạch Hạc xưa (nay thuộc huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ).
12. Thanh Lãnh là tên một làng thuộc huyện Bình Xuyên cũ (nay thuộc tỉnh Vĩnh Phúc).
13. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 40, tờ 11).
14. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 40, tờ 29.
15. Huyện Lôi Dương nay thuộc Thanh Hóa.
16. Đàm Xuân Vực người làng Tương Trúc, huyện Thanh Trì (nay thuộc Hà Nội).
17. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 41, tờ 3).
18. Huyện Tiên Phong nay thuộc Hà Tây.
19. Hà Tông Huân cũng tức là Hà Huân (1697-1766) người làng Kim Vực, huyện Yên Định (nay thuộc huyện Thiệu Yên tỉnh Thanh Hóa), trước đã đỗ Sĩ Vọng, đến năm 1724 lại đỗ Bảng Nhãn. Ông làm quan được thăng dần lên đến chức Thượng Thư, quyền Tham Tụng, hàm Thái Bảo, tước Quận Công.
20. Bùi Trọng Huyến (1713-?) người làng Tiên Mộc, huyện Nông Cống, nay thuộc huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa, đỗ Tiến Sĩ năm 1739.
21. Nguyễn Phan người làng Hà Dương, huyện Hoằng Hóa, nay thuộc huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa, võ quan cao cấp.
Đặt đại bản doanh ở Ngọc Bội1, thành lập chính quyền và anh dũng chống trả cuộc đàn áp do đích thân Trịnh Doanh chỉ huy
Từ cuối tháng 9 (nhuận) năm 1748, sau khi từ chối việc về triều, Nguyễn Danh Phương bắt đầu tiến hành xây dựng một hệ thống căn cứ mới. Đại bản doanh của Nguyễn Danh Phương đặt tại núi Ngọc Bội. Ông cho gọi đó là Đại Đồn. Tại Đại Đồn, Nguyễn Danh Phương cho xây thành lũy kiên cố, đồng thời, bước đầu xây dựng chính quyền riêng. Theo sự mô tả của sử cũ thì: “Nguyễn Danh Phương xưng là Thuận Thiên Khải Vận Đại Nhân, lập cung điện, đặt quan chức, quy định cờ quạt, xe cộ và đồ dùng, tiếm lạm ngang với Thiên Tử”2.
Phía ngoài Đại Đồn, cách Đại Đồn không xa là đồn Hương Canh3. Đồn Hương Canh được gọi là Trung Đồn. Tuy không lớn và không kiên cố bằng Đại Đồn, nhưng, Trung Đồn cũng được xây dựng khá chắc chắn. Và, phía ngoài Trung Đồn, tại khu vực Úc Kỳ4, Nguyễn Danh Phương còn cho xây dựng thêm một hệ thống đồn lũy khác, gọi là Ngoại Đồn. Đại Đồn, Trung Đồn và Ngoại Đồn phối hợp rất chặt chẽ với nhau, sẵn sàng ứng phó một cách linh hoạt với mọi cuộc tấn công từ ngoài vào. Nguyễn Danh Phương cũng cho xây dựng rất nhiều đồn lũy ở các địa phương khác, tính ra, tổng số còn lớn gấp đôi Đại Đồn, Trung Đồn và Ngoại Đồn cộng lại. Theo ghi chép của sử cũ thì:
“Quân đóng ở đâu là làm ruộng, chứa thóc để làm kế lâu dài. (Nguyễn Danh Phương) lại còn tự tiện giữ mối lợi về sản xuất và buôn bán chè, sơn, tre, gỗ... Ở miền thượng du, chưa kể xưởng khai thác mỏ ở Tuyên Quang, do đó mà thóc gạo và của báu chất cao như núi. Hắn (chỉ Nguyễn Danh Phương - NKT) chia quân đóng giữ những nơi hiểm yếu để chống lại quan quân. Triều đình bao phen cất quân đánh nhưng hắn lại đem của đến đút lót, mà các tướng thì hám lợi, cứ dung túng cho giặc (chỉ nghĩa quân Nguyễn Danh Phương - NKT), cốt bảo toàn lấy tấm thân, vì thế, giặc càng ngày càng vững vàng. Trải hơn mười năm trời, (Nguyễn) Danh Phương nghiễm nhiên là vua một nước đối địch với triều đình vậy”5.
Tháng 12 năm 1750, các đạo quân của chúa Trịnh phối hợp đánh mạnh vào lực lượng của Nguyễn Danh Phương ở khu vực Thanh Lãnh. Bấy giờ, khu vực này do hai người em của Nguyễn Danh Phương là Nguyễn Văn Bì và Nguyễn Văn Quảng trông coi. Bởi quá bất ngờ, cả Nguyên Văn Bì và Nguyễn Văn Quảng đều bị bắt. Nhưng, quan quân của họ Trịnh chưa kịp vui mừng thì Nguyễn Danh Phương đã kịp thời đem binh sĩ tới. Từ chỗ chủ động đi tấn công và bao vây, các tướng lĩnh của chúa Trịnh buộc phải lâm vào thế bị tấn công, bị bao vây và có nguy cơ bị tiêu diệt hết. Chúng bèn thả Nguyễn Văn Bì và Nguyễn Văn Quảng để đổi lại là được tháo lui.
Sau trận Thanh Lãnh, Nguyễn Danh Phương mở rộng phạm vi hoạt động của nghĩa quân ra nhiều vùng lân cận. “Các huyện thuộc những phủ như Tam Đái, Lâm Thao và Đà Dương đều bị (Nguyễn Danh) Phương chiếm cứ”6. Lo sợ trước sự phát triển mạnh mẽ của nghĩa quân, Trịnh Doanh đã tự mình làm tướng, đem đại binh đi đánh dẹp. Trước khi xuất quân, Hoàng Ngũ Phúc và Đỗ Thế Giai7 cùng phối hợp với nhau, soạn ra 37 điều quân lệnh buộc tất cả tướng sĩ phải tuân thủ một cách nghiêm ngặt. Trịnh Doanh cũng thành lập một bộ chỉ huy hành quân, theo đó thì ngoài Trịnh Doanh ra, bộ chỉ huy này còn có:
- Hoàng Ngũ Phúc làm Giám Quân.
- Nguyễn Nghiễm8 làm Tán Lí.
- Đoàn Chú làm Hiệp Đồng.
Tất cả quân sĩ được chia làm bốn đạo, tiến thẳng vào khu căn cứ của Nguyễn Danh Phương. Nhưng, Trịnh Doanh cũng chẳng thể làm được gì hơn các tướng trước đó. Trải một năm chinh chiến gian nan mà chẳng thu được kết quả gì, Trịnh Doanh đành phải kéo quân về.
Mất Úc Kỳ và Hương Canh, Ngọc Bội Đại Đồn tan vỡ, Nguyễn Danh Phương thua trận và bị bắt (1751)
Hao công tốn của mà không diệt được nghĩa quân Nguyễn Danh Phương, Trịnh Doanh tuy buộc phải kéo quân về nhưng lòng vẫn rất lấy làm ấm ức. Sau tết Nguyên đán năm Tân Mùi (1751), một lần nữa, Trịnh Doanh lại cầm đại quân đi đánh Nguyễn Danh Phương. Lần này, để tạo bất ngờ lớn, Trịnh Doanh cho quân băng qua Kinh Bắc (vùng Bắc Ninh và Bắc Giang ngày nay), tiến thẳng đến Thái Nguyên rồi từ Thái Nguyên đánh ập xuống.
Tháng 2 năm 1751, Trịnh Doanh thúc quân, nhân đêm tối, đánh ồ ạt vào Ngoại Đồn Úc Kỳ. Do hoàn toàn bị bất ngờ, Ngoại Đồn Úc Kỳ không sao chống đỡ nổi. Toàn bộ lực lượng nghĩa quân Nguyễn Danh Phương đóng ở đây bị diệt. Trịnh Doanh lập tức hạ lệnh cho các tướng đánh thẳng đến Trung Đồn Hương Canh. Tại đây, lực lượng nghĩa quân của Nguyễn Danh Phương do đã biết Ngoại Đồn Úc Kỳ thất thủ nên chủ động đánh trả rất quyết liệt. Một trận ác chiến thực sự đã diễn ra. Sử cũ viết:
“Giặc (chỉ nghĩa quân Nguyễn Danh Phương - NKT) đem hết quân ra chống cự, tên đạn bay như mưa, quan quân không sao tiến lên được. Bấy giờ, trong hàng tướng lĩnh của chúa Trịnh chỉ có Nguyễn Phan được coi là vô địch. Trịnh Doanh trao thanh gươm cho Nguyễn Phan và nói:
- Nếu không phá được đồn này thì lập tức sẽ bị đem ra xử theo đúng quân pháp.
(Nguyễn) Phan dẫn quân tiến lên, cởi chiến bào, bỏ ngựa đi chân đất. Trước khi xông ra, y ngoảnh lại nói với thủ hạ của mình rằng:
- Quân sĩ đã có tên trong sổ, tất phải biết giữ quân pháp. Các ngươi đều là tôi tớ của ta, nay chính là lúc ta liều mình đền nợ nước, cũng chính là lúc các ngươi có dịp đền ơn ta. Vậy, những ai có cha mẹ già hoặc con thơ, không nỡ dứt tình riêng thì ta cho lui ra, còn thì hãy cùng ta quyết liều mình vì nước, chẳng nên sống uổng một kiếp mày râu.
Mọi người nghe lời (Nguyễn) Phan nói, không ai chịu lùi. (Nguyễn) Phan tự xông lên trước quân sĩ, cố sức đánh, phá tan được (đồn Hương Canh).
(Nguyễn) Danh Phương thu nhặt tàn quân, lui về giữ Đại Đồn Ngọc Bội. Ngọc Bội là sào huyệt của giặc, thế núi cao chót vót rất hiểm trở. Ở đây, giặc đã lấp hết các cửa ngõ và đường tắt từ trước, lại còn bố trí súng ở trên núi cao để cố thủ. Trịnh Doanh lại sai (Nguyễn) Phan tiến đánh. (Nguyễn) Phan sai quân cầm gươm giáo, cho phép ai cũng được tự ý đâm chém, đồng thời hạ lệnh rằng, hễ nghe tiếng súng nổ thì nằm phục xuống, bằng không thì phải trèo lên núi đá mà tiến. (Nguyễn) Phan đem quân tiến trước, ba quân ồ ạt theo sau, quân sĩ tràn lên núi, xa trông cứ như một đàn kiến. Giặc tan vỡ. (Nguyễn) Danh Phương chạy về Độc Tôn Sơn. Quan quân lại đuổi tiếp, (Nguyễn) Danh Phương thua trận, đành phải đốt đồn lũy rồi nhân đêm tối chạy trốn.
Quan quân đuổi theo, bắt được (Nguyễn) Danh Phương tại làng Tĩnh Luyện, huyện Lập Thạch”9.
Sau hơn mười năm chiến đấu ngoan cường và thông minh, đến đây, cuộc khởi nghĩa do Nguyễn Danh Phương lãnh đạo đã bị đè bẹp. Nguyễn Danh Phương bị bắt và bị giết cùng một ngày với Nguyễn Hữu Cầu.
Nguyễn Danh Phương là một trong những danh tướng xuất thân áo vải lừng danh nhất Đàng Ngoài. Cuộc đời oanh liệt của ông đã khiến cho không biết bao nhiêu tướng lĩnh cao cấp của Đàng Ngoài phải thất điên bát đảo. Ông chưa từng được học ở bất cứ một trường võ bị nào, nhưng, tài năng quân sự của ông thì các võ quan chuyên nghiệp đương thời chưa dễ đã sánh được. Nói khác hơn, ông chính là tướng tài trong số những tướng tài vậy.
_____________________________________
1. Ngọc Bội là tên dãy núi nằm tiếp giáp giữa hai huyện Tam Dương và Bình Xuyên xưa của Sơn Tây, nay cả hai huyện này đều thuộc địa phận tỉnh Vĩnh Phúc.
2. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 41, tờ 3).
3. Hương Canh là tên làng, thuộc huyện Yên Lãng xưa, nay thuộc tỉnh Vĩnh Phúc.
4. Úc Kỳ là tên làng. Làng này xưa thuộc huyện Tư Nông (nay thuộc tỉnh Thái Nguyên).
5. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 41, tờ 3 và 4).
6. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 41, tờ 4). Các phủ Tam Đái, Lâm Thao và Đà Dương nay thuộc các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc và Hà Tây.
7. Đỗ Thế Giai người làng Đông Ngạc, huyện Từ Liêm (nay thuộc huyện Từ Liêm, Hà Nội), tuy chỉ đỗ có Hương Cống (sau đổi gọi là Cử Nhân), nhưng rất có thế lực trong triều đình.
8. Nguyễn Nghiễm (1708-1775) người làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân (nay là xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh), đỗ Hoàng Giáp năm 1731. Ông là cha của Tiến Sĩ Nguyễn Khản và thi hào Nguyễn Du.
9. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 41, tờ 7 và 8 ) Làng Tĩnh Luyện thuộc huyện Lập Thạch, trong lời trích ở trên, nay thuộc huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc.
Quyển 03
Chương 01 - NHỮNG DANH TƯỚNG XUẤT THÂN ÁO VẢI ĐẦU TIÊN
LƯỢC TRUYỆN NHỮNG DANH TƯỚNG XUẤT THÂN ÁO VẢI ĐẦU TIÊN
Nguồn: quansuvn.net
Thu gọn nội dung
05. LÊ DUY MẬT (? - 1770)
“Lê Duy Mật là người chí thân của vua Lê, đau về nỗi nhà Lê không sao ngóc đầu lên được nên đã đem thân ra xa mãi chốn núi rừng để đánh giặc. Việc Lê Duy Mật làm có thể gọi là danh chính ngôn thuận, không thể ví như bọn giặc cỏ được. Dẫu rằng lòng trời chẳng còn muốn giúp nhà Lê, khiến cho việc của Lê Duy Mật không thể thành công,nhưng, nói về nghĩa lớn vua tôi thì không bao giờ mai một được”1
Chuyện bắt đầu từ trong hoàng cung
Tháng 4 năm Kỷ Dậu (1729), chúa Trịnh lúc bấy giờ là Trịnh Cương đã ép vua Lê Dụ Tông2 phải nhường ngôi cho con thứ là Lê Duy Phường3. Lê Dụ Tông sợ bị chúa Trịnh bức bách, cho nên đã lặng lẽ chấp nhận việc này. Lê Duy Phường ở ngôi được ba năm thì bị chúa Trịnh lúc đó là Trịnh Giang vu cho tội thông dâm với vợ của cha hắn là Trịnh Cương rồi phế làm Hôn Đức công. Tháng 9 năm 1732, Lê Duy Phường bị Trịnh Giang giết khi mới vừa 26 tuổi. Sự kiện này đã tạo ra một làn sóng phản kháng mạnh mẽ trong hoàng tộc cũng như bá quan văn võ.
Lợi dụng sự bất bình này, tháng 12 năm Mậu Ngọ (1738), Lê Duy Mật4, Lê Duy Chúc5 và Lê Duy Quy6 đã cùng với một loạt văn thần và võ tướng khác, như Phạm Công Thế7, Vũ Thước8, Lại Tế Thế9... v.v. đã bí mật họp bàn tính kế đốt kinh thành, lật đổ Trịnh Giang. Nhưng, kế lớn chưa kịp tiến hành đã bị bại lộ và Trịnh Giang đã thẳng tay đàn áp. Lê Duy Quy chạy đi Cẩm Thủy10 và sau đó thì lâm bệnh và mất. Lê Duy Mật và Lê Duy Chúc thì chạy đến Nghi Dương11. Ở Nghi Dương chưa được bao lâu thì Lê Duy Chúc cũng lâm bệnh mà qua đời. Lực lượng hoàng tộc nhà Lê quyết chí chống lại họ Trịnh, lúc ấy chỉ còn lại một mình Lê Duy Mật nữa mà thôi.
Từ đây, một cuộc khởi nghĩa lớn do Lê Duy Mật cầm đầu đã hình thành ở vùng thượng du phía Tây của Thanh Hóa. Khẩu hiệu đầu tiên của Lê Duy Mật là Phù Lê diệt Trịnh. Tuy không tạo được sức hút mạnh mẽ đối với toàn xã hội, nhưng chính khẩu hiệu này lại có tác dụng khá to lớn đối với đội ngũ trí thức Nho học đương thời. Có không ít Nho sĩ đã hăng hái tề tựu dưới ngọn cờ của Lê Duy Mật, một phần cũng bởi lí do quan trọng này.
Trước khi khởi sự, Lê Duy Mật đã cho phổ biến rộng rãi bài hịch của mình. Trong bài hịch đó, Lê Duy Mật vừa ca ngợi công đức của Lê Thái Tổ, ca ngợi cống hiến của các bậc tiên đế nhà Lê, vừa lên án sự chuyên quyền độc đoán của họ Trịnh, đồng thời, kêu gọi tất cả mọi người hãy đồng lòng vùng lên trừ khử họ Trịnh và trả lại quyền uy ngôi báu cho nhà Lê. Với nhân dân đang bị đọa đày, giềng mối chính thống của nhà Lê chẳng có ý nghĩa gì đáng kể nữa, nhưng, chí lớn và lời hịch khảng khái của Lê Duy Mật lại khiến cho họ rất cảm kích. Giữa họ và Lê Duy Mật, lúc đầu tuy địa vị và nếp nghĩ rất khác nhau, nhưng lại có chung một kẻ thù, đó là ách thống trị tàn bạo của tập đoàn họ Trịnh. Họ tập hợp và chiến đấu anh dũng dưới ngọn cờ của Lê Duy Mật, trước hết và chủ yếu cũng bởi sự trùng hợp tự nhiên này.
____________________________________
1. Lời cẩn án của các sử gia thời Nguyễn trong Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 37, tờ 25).
2. Tên thật là Lê Duy Đường, ở ngôi từ năm 1705 đến năm 1729, làm Thượng Hoàng từ năm 1729 đến năm 1731, mất vào tháng 1 năm 1731, thọ 51 tuổi.
3. Lê Duy Phường là con thứ của Lê Dụ Tông, cũng là cháu ngoại của chính Trịnh Cương. Lê Duy Phường tức Lê Đế Duy Phường, ở ngôi ba năm (1729-1732).
4. Lê Duy Mật là con thứ của vua Lê Dụ Tông (1705-1729)
5. Lê Duy Chúc là con thứ của vua Lê Hy Tông (1675-1705), tức là vai chú ruột của Lê Duy Mật và Lê Duy Quy.
6. Lê Duy Quy là con thứ của vua Lê Dụ Tông (1705-1729).
7. Phạm Công Thế người làng Hoàng Xá, huyện Đông Quan (nay là xã Phương Đông, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình), đỗ Tiến Sĩ năm 1727.
8. Hiện vẫn chưa rõ lai lịch của Vũ Thước.
9. Lại Tế Thế người làng Quang Lãng, huyện Tống Sơn, (nay thuộc tỉnh Thanh Hóa).
10. Cẩm Thủy là một trong những huyện của phủ Quảng Hóa (nay thuộc Thanh Hóa).
11. Nghi Dương là một trong những huyện của phủ Kinh Môn (nay thuộc Hải Dương). Lê Duy Mật và Lê Duy Chúc chỉ ở Nghi Dương một thời gian rất ngắn. Sau khi Lê Duy Chúc qua đời, Lê Duy Mật đã đem hết những người tùy tùng chạy vào Thanh Hóa và phát động khởi nghĩa tại vùng đất này.
Những thử thách và tổn thất đầu tiên
Ngay khi vừa phát hiện kế hoạch đốt cháy kinh thành của Lê Duy Mật, Trịnh Giang đã hạ lệnh vây bắt để trừng trị rất gắt gao. Như trên đã nói, Lê Duy Mật và những người đồng lòng hợp mưu đã phải vội vã trốn khỏi kinh thành Thăng Long. Trịnh Giang liền sai quân đuổi theo. Vũ Thước bị bắt và bị giam vào ngục tối. Sau dó không bao lâu, Vũ Thước bị đem ra xử tử.
Lê Duy Mật chạy đến Nghi Dương. Trong thế bức bách, ông thấy không thể nào ở lại đất Nghi Dương được. Rất may cho Lê Duy Mật, một viên thổ hào của huyện Nghi Dương là Ngô Hưng Tạo đã đưa ông vượt biển vào Nam, đến với đất tổ của nhà Lê là Thanh Hóa.
Tháng 12 năm 1738, cuộc đụng độ đầu tiên giữa quân đội của chúa Trịnh Giang với lực lượng của Lê Duy Mật đã xảy ra. Trong cuộc đụng độ này, một nhân vật rất thân tín của Lê Duy Mật là Phạm Công Thế đã bị bắt và sau đó là bị giết. Sử cũ viết rằng:
“Lúc bấy giờ, Phạm Công Thế đang giữ chức Đông Các Hiệu Thư, theo (Lê) Duy Mật dấy quân, đánh nhau rồi bị bắt. Bầy tôi trong triều trách (Phạm) Công Thế rằng:
- Nhà ngươi là người khoa giáp, tại sao lại đi theo bọn phản nghịch?
(Phạm) Công Thế cười và nói:
- Danh phận không rõ đã từ lâu, thuận nghịch lấy đâu mà phân biệt?
Nói rồi vươn cổ chịu chém, không hề tỏ sự nao núng hay khuất phục”1.
Cái chết của Vũ Thước rồi kế đến là cái chết của Phạm Công Thế, thực sự là những tổn thất lớn của Lê Duy Mật và những người cùng chí hướng với ông. Trong bối cảnh đầy khó khăn như vậy, nếu không biết khôn khéo xây dựng và phát triển lực lượng mà lại công khai đối địch vũ trang với quân đội của chúa Trịnh là hết sức sai lầm. Xuất phát từ nhận thức đó, Lê Duy Mật đã lặng lẽ rút lui về miền thượng du ở phía tây Thanh Hóa và từng bước xây dựng căn cứ hoạt động cho mình tại đây.
Trong khoảng hai năm (từ năm 1738 đến năm 1740), Lê Duy Mật đã thực sự chung sống với nhân dân thượng du, có cơ hội để hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng cũng như những sở trường và sở đoản của họ. Đây là hai năm đầu tiên nhưng cũng là hai năm có ý nghĩa rất đặc biệt đối với Lê Duy Mật. Từ một người có địa vị cao sang trong hoàng tộc, ông đã đến với nhân dân, chịu sự cảm hóa mạnh mẽ của nhân dân để rồi dần dần trở thành một lãnh tụ thực sự của nhân dân. Nói khác hơn, tuy không phải xuất thân áo vải, nhưng, Lê Duy Mật cũng là một trong những thủ lĩnh xuất sắc của lực lượng nông dân áo vải trong cuộc đấu tranh xã hội quyết liệt đương thời.
Căn cứ đầu tiên của Lê Duy Mật ở Thanh Hóa là vùng huyện Thạnh Thành ngày nay. Tại đây, Lê Duy Mật đã cho xây dựng dinh lũy tại xã Ngọc Lâu. Ông xưng là Thiên Nam Đế Tử. Một guồng máy chỉ huy khởi nghĩa nhanh chóng được tổ chức và ngày càng được nâng cao. Thuận lợi đáng kể nhất của Lê Duy Mật lúc này là sự phân hóa và chia rẽ trong nội bộ cung vua và phủ chúa, sự sa đọa của Trịnh Giang và những cuộc vùng dậy của đồng bào các dân tộc ít người. Nhưng, cũng trong hai năm đầu tiên, khó khăn của Lê Duy Mật là phải chống trả hàng loạt những cuộc tấn công đàn áp đẫm máu của quân đội chúa Trịnh. Lúc này, các cuộc khởi nghĩa lớn do Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ và đặc biệt là do Nguyễn Hữu Cầu, Hoàng Công Chất và Nguyễn Danh Phương chỉ huy, hoặc chỉ vừa mới hình thành, hoặc đang trong thời kì chuẩn bị, cho nên, chưa thể góp phần phân tán sức mạnh quân sự của họ Trịnh, chưa thể “chia lửa” một cách tự nhiên đối với Lê Duy Mật.
Tháng 1 năm 1740, Trịnh Doanh đã khôn khéo thực hiện được cuộc phế truất Trịnh Giang và lên ngôi chúa. Trịnh Giang tuy được tôn làm Thượng Vương nhưng kì thực là đã bị mất hết mọi quyền hành. Về phần mình, ngay sau khi lên ngôi chúa, Trịnh Doanh đã ra lệnh đàn áp một cách khốc liệt đối với mọi phong trào đấu tranh của nhân dân. Nhưng, cũng đúng lúc Trịnh Doanh lên ngôi chúa, một loạt những cuộc khởi nghĩa lớn đã bùng nổ. Cơ hội để Lê Duy Mật tìm cách đẩy mạnh và mở rộng hoạt động đã hình thành. Và, Lê Duy Mật cũng đã không bỏ qua cơ hội thuận lợi đó.
Bình tĩnh chống trả âm mưu kết hợp giữa tấn công với mua chuộc của Trịnh Doanh
Cuối tháng giêng năm 1740, từ căn cứ Ngọc Lâu, Lê Duy Mật cho quân tràn ra, tấn công dồn dập vào các đồn lũy của quân đội chúa Trịnh ở hai huyện Phúc Lộc2 và Tiên Phong3. Khắp các địa phương của trấn Sơn Tây bị náo dộng. Trịnh Doanh vội vã trao cho Trần Đình Miên4 chức Đốc Lãnh Sơn Tây, cầm quân đi đánh dẹp. Trần Đình Miên cất quân chưa được bao lâu thì Trịnh Doanh lại sai tiếp quan giữ chức Bồi Tụng là Nguyễn Bá Lân5 đem cả bộ binh lẫn tượng binh lên tiếp ứng. Dù quân số đã rất đông, Trần Đình Miên và Nguyễn Bá Lân vẫn tiếp tục chiêu mộ thêm binh sĩ, quyết dùng lực lượng áp đảo để đàn áp cho bằng được nghĩa binh của Lê Duy Mật. Trước tình thế khó khăn này, Lê Duy Mật liền cho lui quân về Thanh Hóa. Trần Đình Miên và Nguyễn Bá Lân cũng không dám cho quân mạo hiểm đuổi theo.
Tháng 5 năm 1740, một biến cố chính trị khá lớn nữa lại xảy ra trong kinh thành Thăng Long. Bấy giờ, Trịnh Doanh đã ép vua Lê Ý Tông6 phải nhường ngôi cho cháu là Lê Duy Diêu7 để lên làm Thái Thượng Hoàng. Sử cũ viết rằng:
“Lê Duy Diêu là con trưởng (của vua Lê Thuần Tông), lẽ ra đã được lập làm vua từ trước, nhưng vì có chú ruột là (Lê) Duy Mật dấy quân cho nên, Trịnh Giang ghét mà truất đi đã lâu, lại còn giam vào ngục cấm. Đến đây, Trịnh Doanh sai người bí mật dời Lê Duy Diêu đến ở tại nhà Bính Quận Công Vũ Tất Thận8. Vũ Tất Thận không hề được báo trước chuyện này, nhưng một hôm, ông nằm mơ thấy một người ra vẻ “kẻ cả” đến nhà, cờ quạt, âm nhạc... nghi trượng hệt như là thiên tử. Hôm sau thì thấy (Lê) Duy Diêu đến. (Vũ) Tất Thận bèn đem chuyện nằm mơ nói với (Trịnh) Doanh. (Trịnh) Doanh cũng muốn nhờ cậy ở phúc đức của (Lê) Duy Diêu, bèn bàn với các đại thần tôn lập (Lê Duy Diêu) làm vua. Xong, xin vua (Lê Ý Tông) nhường ngôi cho (Lê) Duy Diêu. Trong tờ chiếu nhường ngôi của Lê Ý Tông có đoạn:
- Nghĩ bọn gian ngoan và ngu tối đang quấy rối ở chốn biên cương9, nên muốn kinh kì được yên, bốn biển được tĩnh, mới theo lẽ chính đáng, suy tôn người đích trưởng, cốt sao kính trọng giềng mối chính thống và thuận theo lòng dân”10.
Đây thực chất là một âm mưu mua chuộc của Trịnh Doanh. Thông qua việc đưa Lê Duy Diêu lên ngôi, Trịnh Doanh hi vọng sẽ làm lung lay ý chí của Lê Duy Mật, bởi vì một khi ngôi đích trưởng của họ Lê đã được xác lập, ngọn cờ phù Lê của Lê Duy Mật sẽ thật khó mà vững vàng. Lê Duy Diêu là cháu gọi Lê Duy Mật bằng chú ruột, nếu Lê Duy Mật chấp thuận bỏ vũ khí trở về với triều đình, ắt hẳn đặc quyền đặc lợi của Lê Duy Mật cũng sẽ được bảo vệ. Tóm lại, biến cố tuy xảy ra trong hoàng thành nhưng mối liên hệ thì vươn đến tận biên cõi xa xôi. Khác với tính toán của chúa Trịnh Doanh, Lê Duy Mật nhận ra rất rõ, rằng đó bất quá chỉ là đòn phủ đầu thường thấy của các chúa Trịnh đối với vua Lê mỗi khi nhà chúa muốn xác lập quyền uy lúc mới lên ngôi mà thôi. Và, Lê Duy Diêu nhiều lắm thì cũng chỉ là con bài tội nghiệp của chúa Trịnh, chẳng có thực lực hay quyền uy gì cả...
___________________________________
1. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 38, tờ 7).
2. Huyện Phúc Lộc cũng tức là huyện Phúc Thọ. Nay huyện này thuộc tỉnh Hà Tây.
3. Huyện Tiên Phong cũng tức là huyện Tân Phong. Nay huyện này thuộc tỉnh Hà Tây.
4. Trần Đình Miên cũng tức là Trần Đình Cẩm. Hiện chưa rõ lai lịch.
5. Nguyễn Bá Lân (1701-1786) người làng Cổ Đô, huyện Tiên Phong (nay là thôn Cổ Đô, xã Cổ Đô huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây), đỗ Tiến Sĩ năm 1731.
6. Lê Ý Tông tên thật là Lê Duy Thận, con thứ 11 của vua Lê Dụ Tông. Lê Ý Tông ở ngôi 5 năm (1735-1740).
7. Tức vua Lê Hiển Tông (1740-1786).
8. Vũ Tất Thận là em của Vũ Thái Phi (vợ Trịnh Cương).
9. Chỉ cuộc khởi nghĩa của Lê Duy Mật.
10. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 38, tờ 31).
Cuộc đụng độ với tướng Đặng Đình Mật ở Sơn Tây (9-1741)
Tháng 9 năm 1741, nghĩa là chẳng bao lâu sau các trận giáp chiến với Trần Đình Miên và Nguyễn Bá Lân, Lê Duy Mật lại táo bạo cho quân tấn công ra Bắc lần thứ hai. Lần này, nghĩa quân Lê Duy Mật men theo An Hóa1 và Phụng Hóa2, băng qua Mỹ Lương3 và Minh Nghĩa4 rồi đánh đến tận Hưng Hóa và Sơn Tây. Cuộc tấn công này khiến cho Trịnh Doanh rất lo ngại, vì vậy mới sai Đặng Đình Mật5 là một trong những viên tướng thân tín nhất đem quân đi đàn áp. Sử cũ viết:
“Trịnh Doanh thấy (Đặng) Đình Mật là con nhà thuộc dòng dõi thế thần, vừa là chỗ thân thích lại cũng vừa là kẻ có công, nên muốn đãi ngộ hơn các tướng khác. (Trịnh Doanh) liền cho triệu (Đặng Đình Mật) đến, trao cho thanh kiếm vàng lại còn ban cho cả cờ mao và phủ việt6 của tướng quân. Đã thế, (Trịnh Doanh) còn chọn ngày làm lễ bái yết cung miếu7 rồi mới sai đi đánh. Trước đó, triều đình sai tướng đem quân đi đánh dẹp, chưa bao giờ cử hành lễ này”8.
Đặng Đình Mật được Trịnh Doanh trao quyền Thống Lãnh, chỉ huy quân các đạo ở Thanh Hóa, An Sơn9 Mỹ Lương và Chương Đức10 trong trận đánh quan trọng này. Để tạo sự bất ngờ, nhân đêm tối, Đặng Đình Mật cho quân tấn công vào lực lượng của Lê Duy Mật. Nghĩa quân Lê Duy Mật tuy có bị lúng túng trong cuộc giao tranh đầu tiên, nhưng ngay sau đó đã nhanh chóng tìm được phương pháp đánh trả thích hợp. Một trận đồ nghi binh và mai phục được hình thành. Đặng Đình Mật tuy đã cố gắng hết sức vẫn không sao có thể đè bẹp được nghĩa quân. Tuy nhiên, do tình thế chưa cho phép đẩy mạnh và mở rộng hơn nữa những trận đụng độ với các đạo quân của Đặng Đình Mật, Lê Duy Mật đã hạ lệnh rút lui về Văn Lãng11, rồi từ Văn Lãng, tìm đường lui về với căn cứ Ngọc Lâu.
Khi phần lớn lực lượng của Lê Duy Mật đã trở về căn cứ Ngọc Lâu, tình hình Thanh Hóa ngày một trở nên căng thẳng. Trịnh Doanh cho rằng, muốn đàn áp được Lê Duy Mật, muốn làm dịu lòng dân ở miền đất đặc biệt này, trước hết phải biết khôn khéo tìm cách phủ dụ và trấn an. Xuất phát từ nhận định đó, Trịnh Doanh đã sai hai văn thần rất tin cậy là Lê Hữu Kiều12 và Hà Tông Huân13 đến Thanh Hóa. Bấy giờ, Lê Hữu Kiều đang giữ chức Bồi Tụng trong phủ chúa được điều đến Thanh Hóa giữ chức Lưu Thủ, còn Hà Tông Huân là Binh Bộ Thượng Thư, quyền Tham Tụng. Đưa một nhân vật quê Thanh Hóa, rất có danh vọng với đời như Hà Tông Huân, về ngay chính đất Thanh Hóa để phủ dụ nhân dân, Trịnh Doanh hi vọng sẽ cô lập được Lê Duy Mật. Nhưng, mưu sâu này của Trịnh Doanh cũng không thu được kết quả gì. Căn cứ Ngọc Lâm nhìn chung vẫn được giữ vững, đất Thanh Hóa vẫn chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của Lê Duy Mật.
_____________________________________
1. An Hóa là tên huyện, xưa thuộc phủ Thiên Quan, nay thuộc tỉnh Ninh Bình.
2. Phụng Hóa là tên huyện, xưa thuộc phủ Thiên Quan, nay thuộc tỉnh Ninh Bình.
3. Mỹ Lương là tên huyện. Huyện này xưa thuộc trấn Sơn Tây, nay thuộc tỉnh Hà Tây.
4. Minh Nghĩa là tên huyện. Huyện này xưa thuộc trấn Sơn Tây, nay thuộc tỉnh Hà Tây.
5. Đặng Đình Mật người làng Lương Xá, huyện Chương Đức (nay thuộc huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây). Ông là con của Huân Quận Công Đặng Đình Gián và là cháu của Ứng Quận Công Đặng Đình Tướng.
6. Phủ việt là cái búa có sắc vàng, vua dùng khi đi đánh dẹp. Đây ban cho tướng là tỏ sự đặc biệt trọng vọng.
7. Cung miếu là nơi thờ các chúa Trịnh.
8. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 39, tờ 17).
9. An Sơn cũng tức là Ninh Sơn hay Yên Sơn, là tên một huyện thuộc trấn Sơn Tây xưa, nay thuộc Hà Tây.
10. Chương Đức là tên huyện, nay thuộc tỉnh Hà Tây.
11. Văn Lãng là tên huyện, nay thuộc tỉnh Thái Nguyên.
12. Lê Hữu Kiều (1691-1760) người làng Liêu Xá, huyện Đường Hào, nay là thôn Liêu Xá, xã Liêu Xá, huyện Mỹ Văn, tỉnh Hưng Yên, đỗ Tiến Sĩ năm 1718. Ông là con út của Hoàng Giáp Lê Hữu Danh, em của Tiến Sĩ Lê Hữu Hỷ, và Tiến Sĩ Lê Hữu Mưu, chú của Tiến Sĩ Lê Trọng Tín và Tiến Sĩ Lê Hữu Dung.
13. Hà Tông Huân (1697-1766) cũng tức là Hà Huân, người làng Kim Vực huyện Yên Định, nay thuộc huyện Thiệu Yên, tỉnh Thanh Hóa, đỗ Bảng Nhãn năm 1724.
Trận Thịnh Mỹ (10-1742) và trận Kinh Lão (3-1749)
Trong khi Lê Hữu Kiều và Hà Tông Huân đang ra sức tìm cách để phủ dụ nhân dân Thanh Hóa thì Lê Duy Mật đã cho quân đánh vào Nghệ An. Nghĩa quân Lê Duy Mật chiếm được Cổ Nam1 và nhanh chóng biến Cổ Nam thành một căn cứ mới của mình. Khoảng giữa năm 1742, Lê Duy Mật bất ngờ đưa quân tiến ra Lôi Dương2, đánh bại quân đội của chúa Trịnh đóng ở thành Bái Thượng3. Nhân đà thắng lợi, Lê Duy Mật còn định cho quân vượt đò Lương Giang4 để ra An Trường5.
Tháng 10 năm 1742, Trịnh Doanh hạ lệnh cho Đặng Đình Mật phải gấp rút đem quân đi đánh trả. Hà Tông Huân và Nguyễn Nghiễm6 cũng được điều đến để giúp sức cho Đặng Đình Mật. Đại binh của họ Trịnh do tướng Đặng Đình Mật cầm đầu đã đánh một trận khá lớn với nghĩa quân Lê Duy Mật tại Thịnh Mỹ7. Với ưu thế áp đảo về quân số, Đặng Đình Mật quyết tiêu diệt hoàn toàn lực lượng của Lê Duy Mật ngay tại Thịnh Mỹ và các vị trí khác thuộc huyện Lôi Dương. Rất tiếc là viên tướng khét tiếng mưu dũng hơn người này đã không thể nào thực hiện được tham vọng đó. Lê Duy Mật vừa tổ chức đánh trả một cách ngoan cường, vừa khôn khéo tìm cách bố trí lui quân để bảo toàn lực lượng. Khi Đặng Đình Mật vào được Thịnh Mỹ thì nghĩa quân Lê Duy Mật đã rút về Lang Chánh8 rồi.
Tại Lang Chánh, Lê Duy Mật vừa xây căn cứ mới, vừa tổ chức cho quân khai khẩn đất hoang, sản xuất và tích trữ lương thực, đồng thời, không ngừng chiêu mộ thêm lực lượng. Sau bảy năm (1742-1749), sức mạnh của nghĩa quân chẳng những đã được hồi phục mà còn phát triển hơn trước. Lang Chánh trở thành đầu não của nghĩa quân trong một thời gian khá dài.
Tháng 3 năm 1749, từ Lang Chánh, Lê Duy Mật đã cho quân bất ngờ vượt đường xa, đánh thẳng vào Kinh Lão9. Đây là một vị trí cách kinh thành Thăng Long không xa, vì thế, Trịnh Doanh rất lấy làm lo lắng. Đã vậy, phối hợp chặt chẽ với Lê Duy Mật, đạo quân do thủ lĩnh Tương10 chỉ huy cũng tình nguyện đánh mạnh vào Kiệt Sơn11 nhằm tạo ra thế thanh viện lẫn nhau, không dễ gì đàn áp được. Trước tình hình nguy cấp đó, Trịnh Doanh đã có hai quyết định quan trọng. Một là sai Văn Đình Ức12 và Mai Thế Chuẩn13 đem quân đánh chặn bước tiến của Lê Duy Mật và Thủ Lĩnh Tương. Hai là mật sai Lân Trung Hầu14 đem quân vào Thanh Hóa, đánh ồ ạt vào căn cứ của Lê Duy Mật. Văn Đình Ức và Mai Thế Chuẩn đánh trả rất quyết liệt nhưng vẫn không thu được thắng lợi nào đáng kể. Lân Trung Hầu dốc sức đánh vào Ngọc Lâu. Lúc này, Ngọc Lâu không còn là căn cứ đầu não nữa, nhưng, cuộc tấn công vào Ngọc Lâu quả thật là một đòn rất hiểm của Trịnh Doanh. Tin cáo cấp đưa ra, Lê Duy Mật buộc phải đình chỉ cuộc tấn công để kéo quân về Thanh Hóa.
__________________________________
1. Cổ Nam xưa thuộc châu Quy Hóa, nay là Quỳ Châu (Nghệ An).
2. Lôi Dương nay thuộc tỉnh Thanh Hóa.
3. Bái Thượng là tên làng ở huyện Lôi Dương (nay thuộc tỉnh Thanh Hóa).
4. Lương Giang cũng tức là Ngu Giang, tên một chi lưu của sông Mã ở huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
5. An Trường là tên làng ở huyện Thụy Nguyên (nay thuộc Thanh Hóa).
6. Nguyễn Nghiễm người làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân (nay thuộc Hà Tĩnh), đỗ Hoàng Giáp năm 1731. Ông là cha của Tiến Sĩ Nguyễn Khản và thi hào Nguyễn Du.
7. Thịnh Mỹ là tên làng. Làng này thuộc huyện Lôi Dương xưa, nay thuộc tỉnh Thanh Hóa.
8. Lang Chánh là tên châu, nay thuộc Thanh Hóa.
9. Kinh Lão là tên làng. Làng này thuộc huyện Mỹ Lương xưa, nay thuộc tỉnh Hà Tây.
10. Xin tham khảo thêm mục 3-Bốn phương rầm rộ khởi binh thuộc phần I của chương thứ nhất.
11. Kiệt Sơn là tên làng. Làng này thuộc huyện Mỹ Lương xưa, nay thuộc tỉnh Hà Tây.
12. Văn Đình Ức người làng Lạc Phố, huyện Hương Sơn. Nay đất này thuộc địa phận tỉnh Hà Tĩnh. Văn Đình Ức đỗ Tạo Sĩ (Tiến Sĩ võ).
13. Mai Thế Chuẩn (1703-1761) người làng Thạch Tuyền, huyện Nga Sơn, nay thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, đỗ Tiến Sĩ năm 1731. Ông làm quan văn được phong tới Hữu Thị Lang, sau chuyển sang ngạch quan võ, được phong tới Hữu Hiệu Điểm, quyền Phủ Sự.
14. Lân Trung Hầu hiện chưa rõ họ tên và lai lịch.
Đánh Quỳ Châu và Trà Long (5-1763), tướng giữ chức Đốc Suất ở trấn Nghệ An là Văn Đình Ức thua trận và bị Trịnh Doanh lột hết chức tước
Sau trận đụng độ với Lê Duy Mật ở Kinh Lão, tướng Văn Đình Ức được bổ làm Đốc Suất ở trấn Nghệ An. Văn Đình Ức là một kẻ tham lam, “bòn rút của dân, chính lệnh hà khắc, lại còn hay nhũng nhiễu dân lành, bị thuộc hạ nhiều phen tố cáo”1. Suốt thời gian giữ chức Đốc Suất ở Nghệ An, ngoài việc bòn rút và vơ vét của dân, Văn Đình Ức hầu như không làm được bất cứ một việc gì. Nhân lòng căm giận của dân, đầu tháng 5 năm 1763, Lê Duy Mật cho quân đánh vào Trấn Ninh2 và Cao Châu3. Thấy tình hình nguy cấp, viên tù trưởng của Trấn Ninh là Lư Cầm sai người đi cấp báo cho Văn Đình Ức. Thay vì đem quân đến Trấn Ninh, Văn Đình Ức đã bắt giam người của Lư Cầm!
Trấn Ninh và Cao Châu nhanh chóng bị nghĩa quân Lê Duy Mật khống chế và kiểm soát. Tướng dưới quyền của Văn Đình Ức là Võ Tá Đoan4 xin xuất quân mãi mà không được, bèn dâng thư tố cáo Văn Đình Ức về triều đình. Trong khi đó, Lê Duy Mật cũng không bỏ qua cơ hội hiếm hoi, tung quân đánh vào Quỳ Châu5 và Trà Long6. Lần này, Văn Đình Ức mới quyết định đưa quân đi đánh trả, nhưng, tất cả đã muộn màng. Những vị trí then chốt ở Quỳ Châu và Trà Long đều đã bị nghĩa quân Lê Duy Mật chiếm lĩnh. Văn Đình Ức thua trận, bị đem ra xét xử. Triều đình đương thời luận tội rằng: “Văn Đình Ức dối trên lừa dưới, phải khép vào án tử hình, nhưng Trịnh Doanh lấy cớ rằng Văn Đình Ức là người từng có công lao, cho nên, chỉ lột hết quan chức, cho về làm dân”7.
Sau trận đánh quan trọng này, Lê Duy Mật biến toàn bộ những vùng đất mới chiếm được ở Nghệ An thành căn cứ mới của mình. Đại bản doanh của Lê Duy Mật đặt tại động Trình Quang8. Bao quanh đại bản doanh Trình Quang là Nội Phủ và Ngoại Phủ (tức là những cơ quan trực thuộc của Lê Duy Mật). Án ngữ phía ngoài Nội Phủ và Ngoại Phủ là cả một hệ thống đồn lũy. Sử cũ cho biết có tất cả 16 đồn lũy với đầy đủ thành cao, hào sâu, đài quan sát và điếm canh từ xa để bảo vệ một cách cẩn thận9. Từ đây, hàng loạt những cuộc tấn công xuống đồng bằng Nghệ An và đồng bằng Thanh Hóa liên tiếp được tổ chức.
Trịnh Doanh vội vã bổ dụng Bùi Thế Đạt10 nắm giữ các việc ở Nghệ An, kiêm giữ chức Đốc Suất, “được tùy ý lo xếp đặt mọi việc”11. Tháng 7 năm 1764, Trịnh Doanh lại bổ dụng viên hoạn quan thân tín là Đàm Xuân Vực12 làm Thống Suất cả hai trấn Thanh Hóa và Nghệ An. Nhưng, thêm Bùi Thế Đạt rồi thêm cả Đàm Xuân Vực, tình hình Thanh Hóa và Nghệ An vẫn không thay đổi. Nghĩa quân Lê Duy Mật vẫn tồn tại và hoạt động rất mạnh mẽ.
_________________________________
1. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 42, tờ 16).
2. Trấn Ninh nguyên là đất Bồn Man, vua Lê Thánh Tông đổi làm phủ, quản lĩnh bảy huyện. Đại để, phủ này tương ứng với vùng phía Tây của Nghệ An.
3. Cao Châu tức Trịnh Cao là một huyện của phủ Ngọc Ma, nay, phủ này thuộc Nghệ An.
4. Võ Tá Đoan người làng Hà Hoàng, huyện Thạch Hà, nay thuộc xã Thạch Môn, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh.
5. Quỳ Châu là tên phủ, nay phủ này thuộc tỉnh Nghệ An.
6. Trà Long cũng tức là Trà Lân, sau đổi là Tương Dương. Phủ này nay thuộc tỉnh Nghệ An.
7, 11. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 42, tờ 17).
8. Động Trình Quang thuộc phủ Trấn Ninh, nay thuộc tỉnh Nghệ An.
9. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 42, tờ 22).
10. Bùi Thế Đạt người làng Tiên Lý, huyện Đông Thành (nay thuộc tỉnh Nghệ An).
12. Đàm Xuân Vực người làng Tương Trúc, huyện Thanh Trì, nay thuộc Hà Nội. Bấy giờ, có rất nhiều người vốn dĩ là hoạn quan nhưng được chuyển sang ngạch quan võ.
Trận Hương Sơn (4-1767)
Khi Lê Duy Mật đang chiếm được nhiều vùng đất rộng lớn của Thanh Hóa và Nghệ An thì ở Thăng Long, chúa Trịnh Doanh qua đời1. Tin này truyền đến Trình Quang khiến cho Lê Duy Mật và toàn thể lực lượng của ông rất hồ hởi. Một kế hoạch tấn công cấp tốc được thông qua. Lần này, Lê Duy Mật chủ trương kết hợp giữa việc mở rộng phạm vi ảnh hưởng ở vùng đồng bằng Nghệ An với việc đánh mạnh xuống khu vực phía nam sông Lam.
Ở Nghệ An, mục tiêu chính của Lê Duy Mật là đất Thanh Chương2. Ở phía nam sông Lam, mục tiêu chính của Lê Duy Mật là đất Hương Sơn3. Ngoài lực lượng chủ yếu là bộ binh, khá nhiều voi chiến cũng được huy động vào cuộc tấn công bất ngờ này. Tháng 4 năm 1767, quân Lê Duy Mật đồng loạt ra trận. Tướng chỉ huy quân đồn trú của họ Trịnh tại Nghệ An là Hà Lãm4 không sao chống đỡ nổi, liền bỏ chạy thục mạng. Tại phía nam sông Lam, nghĩa quân Lê Duy Mật cũng nhanh chóng chiếm được Hương Sơn. Tin thua trận liên tục truyền về Thăng Long, chúa mới lên nối nghiệp là Trịnh Sâm5 rất lo lắng.
Để cứu nguy, Trịnh Sâm liền sai Nguyễn Nghiễm đến Nghệ An, giữ chức Hiệp Đốc Suất, cùng với quan giữ chức Đốc Suất đã có mặt ở Nghệ An trước đó là Bùi Thế Đạt để cùng nhau bàn định kế sách đánh dẹp. Bùi Thế Đạt và Nguyễn Nghiễm vừa dốc hết lực lượng, vừa cưỡng bức dân đi lính và làm dân phu, vất vả trong một thời gian khá dài mới tạm đẩy lùi được các đạo quân của Lê Duy Mật. Nghĩa quân rút về Trấn Ninh, tiếp tục chiếm đóng và khống chế Trấn Ninh, Cao Châu, Quỳ Châu và Trà Long như cũ.
Bị con rể là Lại Thế Thiều phản phúc, anh hùng ôm hận tự thiêu (1-1770)
Tại Trình Quang, thanh thế của Lê Duy Mật ngày một lên cao. Ảnh hưởng của nghĩa binh Lê Duy Mật không phải chỉ dừng lại ở Nghệ An và Thanh Hóa mà còn lan sang tận cả đất Lào. Một khối đoàn kết chống tập đoàn họ Trịnh ngày càng được mở rộng và củng cố. Điều này khiến cho chúa mới nối nghiệp là Trịnh Sâm rất tức tối. Tháng 8 năm Kỷ Sửu (1769), Trịnh Sâm sai viên quan lúc ấy đang giữ chức Tham Nghị ở Nghệ An là Nguyễn Mậu Dĩnh6 đem thư tới phủ dụ, nhưng Nguyễn Mậu Dĩnh không được vào Trình Quang. Trước tình thế đó, Trịnh Sâm quyết chí dùng đại binh để đàn áp. Kế hoạch của Trịnh Sâm là đồng thời đưa cả ba đạo quân lớn, nhất loạt đánh vào Trấn Ninh mà mục tiêu quan trọng nhất ở Trấn Ninh là thành Trình Quang. Ba đạo quân đó gồm có:
- Đạo thứ nhất là tất cả quân sĩ Nghệ An, đặt dưới quyền chỉ huy chung của Thống Lãnh Bùi Thế Đạt.
- Đạo thứ hai bao hàm tất cả quân sĩ ở Thanh Hóa, do Nguyễn Phan7 cầm đầu.
- Đạo thứ ba gồm toàn bộ quân sĩ ở Hưng Hóa, do Đốc Lãnh Hoàng Đình Thể8 điều khiển.
Nghe tin đại binh của họ Trịnh kéo đến, Lê Duy Mật đã bình tĩnh bố trí trận địa, sẵn sàng đánh trả. Ba đạo quân lớn, vũ khí đầy đủ, lương thực dồi dào, nhưng phải đánh mãi từ tháng 8 năm 1769 đến tháng 1 năm 1770 mới tiến đến được ở phía ngoài của Ngoại Phủ Trình Quang mà thôi.
Trình Quang là một vị trí rất hiểm yếu. Ngoài 16 đồn lũy bảo vệ rất chắc chắn cho Ngoại Phủ và Nội Phủ, ngoài thành cao, hào sâu được xây dựng rất kiên cố, nơi đây còn có vách núi cheo leo, không dễ gì vượt qua được. Bấy giờ, Lê Duy Mật chủ trương cố thủ trong thành, không vội động binh. Các tướng của chúa Trịnh sợ mắc mưu của Lê Duy Mật nên cũng không dám tiến.
Thấy đại quân bị sa lầy, Trịnh Sâm vội điều thêm tướng Hoàng Ngũ Phúc9 tới Nghệ An. Hoàng Ngũ Phúc không vội đem quân đi đánh mà sai người bắt và tìm cách dụ hàng mẹ của Lại Thế Thiều10. Đối với Lê Duy Mật, Lại Thế Thiều vừa là tướng tâm phúc, lại cũng vừa là con rể, cho nên rất được tin cậy. Biết rõ điều ấy, Hoàng Ngũ Phúc đã kết hợp giữa hù dọa với dụ dỗ và mua chuộc để mẹ của Lại Thế Thiều chịu viết thư cho con, xúi giục Lại Thế Thiều chống Lê Duy Mật, làm nội ứng cho quân sĩ họ Trịnh. Và, Lại Thế Thiều đã đồng ý. Sử cũ chép rằng:
“Lại Thế Thiều là con rể của (Lê) Duy Mật. Khi nhận được thư của mẹ, hắn bỗng hóa thành kẻ ăn ở hai lòng, ngầm sai đồ đảng là Lê Văn Bản mở cửa thành cho quan quân (chỉ quân đội họ Trịnh - NKT) tiến vào. Khi quan quân đã vào rồi, hắn bèn cho dựng thang trèo lên cao mà bắn. Lê Duy Mật biết rõ biến loạn đã bắt đầu ngay từ trong nhà mình, vì thế, tụ tập hết vợ con lại rồi phóng lửa đốt mà tự thiêu”11
Cuộc khởi nghĩa do Lê Duy Mật phát động và lãnh đạo, sau hơn ba mươi năm chiến đấu anh dũng và ngoan cường, đến đó đã bị đè bẹp. Tuy xuất thân không phải là nông dân áo vải, nhưng, trải hơn ba mươi năm đồng cam cộng khổ với nhân dân bị đọa đày dần dần, Lê Duy Mật đã thực sự trở thành một trong những thủ lĩnh xuất sắc của phong trào chiến tranh nông dân thế kỷ thứ XVIII. Cuộc trường chinh chống tập đoàn họ Trịnh đã biến Lê Duy Mật từ một nhân vật bình thường của hoàng tộc nhà Lê thành một bậc danh tướng, thành một trong những biểu tượng của khí phách hiên ngang.
____________________________________
1. Trịnh Doanh mất vào tháng 1 năm Đinh Hợi (1767) sau 27 năm ở ngôi chúa (1740-1767).
2. Thanh Chương trước đó có tên là Thổ Du. Nay đất này thuộc tỉnh Nghệ An.
3. Hương Sơn trước đó còn có tên là Đỗ Gia. Nay đất này thuộc tỉnh Hà Tĩnh.
4. Hà Lãm là võ tướng, hiện nay chưa rõ lai lịch.
5. Trịnh Sâm là con của Trịnh Doanh, nối nghiệp chúa từ tháng 1 năm Đinh Hợi (1767), ở ngôi chúa được tất cả 15 năm (1767-1782).
6. Lai lịch Nguyễn Mậu Dĩnh hiện chưa rõ.
7. Nguyễn Phan người làng Hà Dương, huyện Hoằng Hóa (nay thuộc tỉnh Thanh Hóa).
8. Hoàng Đình Thể người làng Hà Thượng, huyện Hậu Lộc (nay thuộc tỉnh Thanh Hóa). Ông đỗ Tạo Sĩ (Tiến Sĩ võ).
9. Hoàng Ngũ Phúc người làng Phụng Công, huyện Yên Dũng (nay thuộc tỉnh Bắc Giang), xuất thân là hoạn quan.
10. Lại Thế Thiều người làng Quang Lãng, huyện Tống Sơn (nay thuộc Thanh Hóa). Hiện chưa rõ Lại Thế Thiều đến với Lê Duy Mật rồi trở thành tướng và con rể của Lê Duy Mật từ lúc nào.
11. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 43, tờ 28). Nhân vật Lê Văn Bản trong đoạn trích nói trên người làng Xuân Dương, huyện Yên Khánh (nay huyện này thuộc tỉnh Ninh Bình).
Quyển 03
Chương 02 - NGUYỄN NHẠC, NGUYỄN HUỆ và NGUYỄN LỮ
BA LÃNH TỤ CỦA PHONG TRÀO TÂY SƠN, BA DANH TƯỚNG KIỆT XUẤT NHẤT CỦA THẾ KỶ THỨ XVIII
QUÊ HƯƠNG, DÒNG HỌ VÀ GIA ĐÌNH
Nguồn: quansuvn.net
Thu gọn nội dung
01. ĐÔI LỜI VỀ NGUỒN GỐC
Từ năm 1627 đến năm 1672, hai bên họ Trịnh và họ Nguyễn đã xua quân đánh nhau tất cả bảy trận lớn. Trong số bảy trận đánh lớn ấy, chỉ có trận thứ năm2 là trận duy nhất họ Nguyễn chủ động đem quân vượt sông Gianh, tấn công vào khu vực lãnh thổ do họ Trịnh cai quản. Quân đội của chúa Nguyễn đã chiếm được một vùng đất rộng lớn từ Nghệ An trở vào. Nhưng rồi năm năm sau, thấy không thể nào giữ được, họ Nguyễn lại rút quân về. Và khi rút quần về như vậy, họ Nguyễn đã cưỡng bức rất nhiều người di cư vào Nam. Trong số những người bị cưỡng bức di cư ấy, có người họ Hồ ở Hưng Nguyên (Nghệ An). Người họ Hồ được đứa đến ấp Tây Sơn Nhất3, trải bốn đời thì đổi thành họ Nguyễn, đó là Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ.... v v 4. Hiện nay, ở khu vực chân núi Đài Phong, gần với núi Đại Hải, thuộc làng Thái Lão, xã Hưng Thái, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An, còn có một khu đất bằng phẳng, tương truyền là khu mộ tổ của anh em Tây Sơn5.
Trong lịch sử nước ta, họ Hồ là một trong những cự tộc. Theo những tài liệu hiện còn lưu giữ được thì người đầu tiên của họ Hồ định cư tại trấn Nghệ An xưa là Hồ Hưng Dật. Ông đến Nghệ An vào năm 960 và chẳng bao lâu thì đã có sản nghiệp lớn. Vào thời Lý, hậu duệ của Hồ Hưng Dật đã có người được cưới Công Chúa của vua Lý, trở thành Phò Mã của nhà Lý.
Hậu duệ đời thứ mười hai của Hồ Hưng Dật là Hồ Liêm đã di cư từ Nghệ An ra Thanh Hóa. Tại Thanh Hóa, Hồ Liêm trở thành con nuôi của quan Tuyên úy là Lê Huấn, vì thế, chi họ Hồ ở Thanh Hóa cũng có một thời mang họ Lê. Cháu bốn đời của Hồ Liêm là Hồ Quý Ly - người đã lật đổ triều Trần và lập ra triều Hồ (1400-1407).
Tổ tiên đời thứ nhất và đời thứ hai của ba anh em Tây Sơn tại xứ Đàng Trong tên là gì, hiện vẫn chưa được rõ, chỉ biết đời thứ ba, tức thân sinh của Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ là Hồ Phi Phúc. Hồ Phi Phúc không ở ấp Tây Sơn Nhất nữa mà di cư về ấp Kiên Thành6. “Ở đây còn di tích Gò Lăng, theo nhân dân địa phương là vườn ở và nền nhà cũ của ông bà Hồ Phi Phúc - Nguyễn Thị Đồng”7. Bấy giờ, ấp Kiên Thành có nhiều thôn, nơi Hồ Phi Phúc định cư đầu tiên là thôn Phú Lạc. Ở Phú Lạc một thời gian ngắn, Hồ Phi Phúc lại di cư đến quê vợ - bà Nguyễn Thị Đồng - là thôn Kiên Mỹ (cũng thuộc ấp Kiên Thành). Khu đất xưa kia là nhà của ông bà Hồ Phi Phúc ở thôn Kiên Mỹ, ấp Kiên Thành, nay chính là khu đất đại để tương ứng với Bảo Tàng Tây Sơn (huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Nơi đây còn có một cây me và một giếng nước cổ là hai chứng tích vườn xưa của ông bà Hồ Phi Phúc - Nguyễn Thị Đồng.
Như vậy, dòng dõi Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ từ Đàng Ngoài vào Đàng Trong, trải bốn đời, đã định cư ở bốn địa chỉ khác nhau như sau:
Trong bốn địa chỉ nói trên, địa chỉ thứ tư chính là nơi chôn rau cắt rốn của Nguyễn Huệ.
________________________________
1. Thủ bút Vịnh sử của tác giả.
2. Trận này bắt đầu từ năm 1655 và kéo dài cho đến hết năm 1660.
3. Xưa, Tây sơn có hai ấp là Tây Sơn Nhất và Tây Sơn Nhì. Ấp Tây Sơn Nhất sau đổi gọi là ấp An Khê còn ấp Tây Sơn Nhì thì sau đổi gọi là ấp Cửu An. Hai ấp này, xưa thuộc huyện Quy Ninh, sau đổi gọi là huyện Hoài Nhơn, phủ Quy Nhơn.
4. Đại Nam chính biên liệt truyện (Sơ tập, quyển 30).
5. Phan Huy Lê: Quang Trung Nguyễn Huệ - Con người và sự nghiệp. Sở Văn hóa Thông Tin Nghĩa Bình xuất bản, 1986, trang 5.
6. Nay thuộc xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định.
7. Phan Huy Lê: Quang Trung Nguyễn Huệ - Con người và sự nghiệp. Sở Văn hóa Thông Tin Nghĩa Bình xuất bản, 1986, trang 6
02. QUÊ HƯƠNG VÀ GIA ĐÌNH
Thôn Kiên Mỹ, ấp Kiên Thành là vùng nằm giáp ranh giữa cao nguyên Gia Lai với đồng bằng Bình Định ngày nay. Nơi đây có dòng sông Côn, tuy không lớn nhưng cũng rất thuận tiện cho việc giao thông buôn bán. Kinh tế Kiên Mỹ nhờ đó mà khá phát đạt. Trước hết, ruộng đồng Kiên Mỹ rất tươi tốt, cho nên, hầu như gia đình nào cũng tương đối no đủ. Ngoài trồng trọt, dân Kiên Mỹ còn có khá nhiều nghề thủ công khác nhau, mỗi nghề tập trung vào một số cụm gia đình nhất định, gọi là xóm, ví dụ:
- Xóm Ươm: chuyên nuôi tằm, ươm tơ.
- Xóm Rèn: chuyên về nghề rèn.
- Xóm Mía: chuyên ép mía lấy mật, làm đường ăn.
- Xóm Đậu: chuyên làm bánh đậu và nấu chè đậu.
- Xóm Bún: chuyên làm bún.
- Xóm Chợ: nơi có chợ Kiên Mỹ.
- Xóm Trầu: chuyên buôn bán trầu.
- Xóm Giấy: chuyên sản xuất giấy bản.
Kiên Mỹ có chợ Kiên Mỹ (Xóm Chợ) buôn bán khá tấp nập, tạo cho Kiên Mỹ sự giao lưu kinh tế rộng rãi với nhiều địa phương khác nhau. Bản thân Nguyễn Nhạc cũng có thời từng tham gia vào hoạt động buôn bán tại quê nhà.
Đất Hoài Nhơn xưa là nơi định cư của khá nhiều thành phần dân tộc khác nhau. Lâu dời hơn cả vẫn là đồng bào các dân tộc ít người mà đặc biệt là người Bana. Người Việt đến lập nghiệp muộn hơn và như trên đã nói, trong số những người Việt đến vùng này vào khoảng giữa thế kỷ thứ XVII, có tổ tiên của Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ. Tây Sơn Nhất và Tây Sơn Nhì1 là hai ấp người Việt cổ nhất của vùng này.
Quê hương Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ rất nổi danh với truyền thống thượng võ. Nơi đây có hai lò võ được gần xa biết đến, đó là Thuận Truyền và An Thái. Dân gian có câu: “Roi Thuận Truyền, quyền An Thái” là để chỉ đặc trưng riêng của hai lò võ nức tiếng này.
Trên miền đất trù phú và có truyền thống thượng võ ấy, gia đình Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ là một trong những gia đình khá giả. Cả ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ đều được cha là ông Hồ Phi Phúc và mẹ là bà Nguyễn Thị Đồng tạo điều kiện cho ăn học và để lại cho một sản nghiệp cũng tương đối lớn. Họ tuy xuất thân là nông dân nhưng không phải là nông dân nghèo khổ, càng không phải là nông dân “không một tấc đất cắm dùi”.
Thuở thiếu thời, ba anh em Tây Sơn được gửi đến Bàng Châu để học võ với võ sư Đinh Văn Nhưng. Bàng Châu nay thuộc xã Đập Đá, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Võ sư Đinh Văn Nhưng là một người giàu nghĩa khí, tính ngang tàng, dân địa phương đương thời thường gọi ông là Ông Chảng. Dân Bình Đình có câu “Ngang quá Ông Chảng” và câu “Chảng ngang thiên” là để chỉ khí khái ngang tàng kiểu võ sư Đinh Văn Nhưng. Nghĩa khí của thầy dạy võ có ảnh hưởng rất lớn đối với phẩm cách của ba anh em Tây Sơn sau này. Về chữ nghĩa văn chương, ba anh em Tây Sơn cũng có gia sư riêng. Gia sư của cả ba anh em Tây Sơn thường được sử cũ chép là Thầy giáo Hiến2. Thầy giáo Hiến từng là một trong số những môn khách của quan Nội Hữu Trương Văn Hạnh3. Khi Nội Hữu Trương Văn Hạnh bị tên quyền thần Trương Phúc Loan giết hại, thầy giáo Hiến chạy về dạy học tại An Thái4. Sau, ông về hẳn Tây Sơn và trở thành gia sư của ba anh em Tây Sơn. Thầy giáo Hiến cũng là người giàu lòng yêu nước thương dân và chính lòng yêu nước thương dân đó đã có ảnh hưởng không nhỏ tới cả ba anh em Tây Sơn. Nhưng, điều rất quan trọng mà ba anh em Tây Sơn thụ bẩm được ở thầy giáo Hiến không phải chỉ là văn chương chữ nghĩa và lòng yêu nước thương dân. Vốn dĩ là môn khách của quan Nội Hữu Trương Văn Hạnh, từng sống và làm việc ở ngay trong phủ chúa Nguyễn, thầy giáo Hiến còn cung cấp cho ba anh em Tây Sơn những thông tin đầy đủ và chính xác về nội tình thối nát của tập đoàn thống trị họ Nguyễn đương thời. Đây chính là cơ sở thực tiễn để về sau, ba anh em Tây Sơn có thể căn cứ vào đó mà nêu lên được khẩu hiệu phân hóa kẻ thù một cách rất lợi hại.
Như trên đã nói, thân phụ của ba anh em Tây Sơn là Hồ Phi Phúc, còn thân mẫu là Nguyễn Thị Đồng. Nơi định cư của hai ông bà là thôn Phú Lạc, ấp Kiên Thành (nay thuộc xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Nơi đây, ngoài di tích Gò Lăng còn có di tích được nhân dân địa phương gọi là Hai hố Nguyệt. Di tích này nằm ở dưới chân nói Ngang, tương truyền, đó là mộ của hai ông bà Hồ Phi Phúc và Nguyễn Thị Đồng. Mộ đã bị triều Nguyễn khai quật vào đầu thế kỷ thứ XIX nên chỉ còn hai cái hố mà thôi.
Ông bà Hồ Phi Phúc và Nguyễn Thị Đồng sinh hạ được ba người con trai và một người con gái5. Sử cũ nói: “Con trưởng là Nhạc, con thứ là Lữ và con thứ nữa là Huệ”6, nhưng, xét hành trạng cụ thể của từng người trong toàn bộ quá trình tham gia phát động và lãnh đạo phong trào Tây Sơn, đặc biệt là xét hàng loạt những chuyện kể dân gian vùng Tây Sơn nói riêng và Bình Định nói chung, thì thứ bậc trước sau của ba anh em Tây Sơn có khác, theo đó thì con trưởng là Nguyễn Nhạc, kế đến là Nguyễn Huệ và sau cùng mới là Nguyễn Lữ.
Nguyễn Nhạc còn có tên là ông Hai Trầu và tên khác nữa là ông Biện Nhạc. Sở dĩ có tên là ông Hai Trầu vì Nguyễn Nhạc từng có một thời đi buôn trầu và với người miền Nam, thứ hai chính là con trưởng. Sở dĩ còn có tên khác là Biện Nhạc, bởi lẽ Nguyễn Nhạc cũng từng có một thời làm Biện Lại, tức là làm một viên chức hành chánh bậc thấp ở địa phương.
Nguyễn Huệ còn có tên là anh Ba Thơm hoặc Nguyễn Văn Bình. Nguyễn Nhạc thường hay gọi Nguyễn Huệ là chú Bình. Với người miền Nam, anh ba, chị ba... là từ dùng để chỉ người con kế ngay sau con trưởng và điều ấy đã xác nhận rằng, Nguyễn Huệ là em kế của Nguyễn Nhạc.
Nguyễn Lữ còn có tên là thầy tư Lữ. Sở dĩ gọi là thầy vì Nguyễn Lữ từng có một thời đi tu, còn như thứ tư (thầy tư Lữ) cũng có nghĩa là Nguyễn Lữ ở vai em Nguyễn Huệ (thứ ba) và Nguyễn Nhạc (thứ hai).
Hiện tại, chúng ta chỉ mới biết năm mất của ba anh em Tây Sơn, còn như năm sinh, thì ngoài Nguyễn Huệ, chưa ai rõ Nguyễn Nhạc và Nguyễn Lữ sinh năm nào. Tuy nhiên, căn cứ vào nhiều cơ sở khác nhau, một số nhà nghiên cứu đã đoán định rằng, Nguyền Nhạc lớn hơn Nguyễn Huệ chừng 10 tuổi, tức là sinh vào khoảng năm 1743, còn như Nguyễn Lữ thì có lẽ chỉ nhỏ hơn Nguyễn Huệ một vài tuổi, tức là sinh vào khoảng từ năm 1754 đến 1756.
_______________________________________
1. Tây Sơn Nhì nay thuộc huyện An Khê, tỉnh Gia Lai.
2. Hiện vẫn chưa rõ họ và lai lịch của thầy giáo Hiến.
3. Hiện vẫn chưa rõ lai lịch của Trương Văn Hạnh.
4. An Thái nay thuộc xã An Nhơn, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Trường học do thầy giáo Hiến mở tại An Thái chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn mà thôi. Khi thầy giáo Hiến về Tây Sơn, trường này cũng không còn nữa.
5. Tên và lí lịch cuộc đời của người con gái này hiện vẫn chưa rõ.
6. Đại Nam liệt truyện (Chính biên, sơ tập, quyển 30), mục Ngụy Tây truyện.