Để hiểu rõ cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng cần xem địa bàn của cuộc khởi nghĩa này. Như trên ta đã rõ "
Bà Trưng quê ở châu Phong", tức là ở Phong Châu hay đất Giao Chỉ. Giao Châu thời Hán có thể gồm cả một phần Quảng Tây.
Đai Việt sử ký toàn thư phần về khởi nghĩa Hai Bà Trưng:
"
Các quận Nam Hải, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều hưởng ứng, lấy được 65 thành ở Lĩnh Nam, tự lập làm vua, mới xưng là họ Trưng. "
Như vậy các quận hưởng ứng cuộc khởi nghĩa này là:
- Nam Hải: vẫn được công nhận là Quảng Đông ngày nay
- Nhật Nam: được xác định là miền Trung Việt Nam ngày nay. Nhưng Nhật Nam có thể chính là Hồ Nam, nơi có nhiều đền thờ vua Bà. Cũng vì lầm lẫn tỉnh Nhật Nam này mà cột đồng Mã Viện lúc thì được cho là ở miền Trung VN, lúc lại ở Quảng Tây TQ.
- Cửu Chân: được coi là vùng Thanh Nghệ ngày nay. Nhưng có thể là Quí Châu (Cửu là 9, Quí là số 4-9 trong thập can).
- Hợp Phố: được coi là ở Quảng Đông, nhưng Quảng Đông đã là Nam Hải rồi. Phải là Hợp Phì, thủ phủ của tỉnh An Huy ngày nay.
Xem vậy thì khởi nghĩa Hai Bà đã nổ ra trên toàn bộ vùng Nam sông Dương Tử.
Xem bản đồ 9 quận của Nam Việt khi Tây Hán chiếm:
Đại Việt sử ký cũng cho biết Hai Bà Trưng làm vua được 3 năm, nhưng lại không thấy nói gì đến quốc hiệu cả, không rõ là vua của nước nào? Chắc chắn không phải Đại Cồ Việt vì Đại Cồ Việt là tên nước thời Đinh Lê sau này. Chẳng nhẽ lại vẫn gọi là nước Nam Việt như thời Triệu Đà?
Một cách lý giải khác là tuy xưng vương nhưng Hai Bà chưa làm chủ trọn vẹn lãnh thổ quốc gia họ Hùng xưa. Vì thế chưa đặt tên nước. Thế mới biết nước Việt xưa rộng lớn như thế nào.