Lương Sơn Bạc  
Trang chủ Lương Sơn Bạc  Lương Sơn Diễn Đàn  Nơi Lưu Trữ: Truyện Ngắn, Truyện Dài, Bài Viết, Nhân Vật, Sách Lịch Sử, Sách Dạy Võ Thuật...   Xem hình thành viên và hình các buổi giao lưu LSB   Nơi Lưu Trữ: Cổ Thi VN, Cổ Thi TQ, Thơ Mới & Các Tuyển Tập Thơ
Quay Lại   Lương Sơn Bạc > Kim Ngư Thành > Quảng Kiến Đài > Đông Tây Nhân Vật Chí
Thành viên
Mật khẩu
Những câu hỏi thường gặp Danh sách các thành viên LSB  Lương Sơn Thương Quán
Đông Tây Nhân Vật Chí Luận bàn về những nhân vật nổi tiếng và tai tiếng...

Trả lời
 
Tiện ích Chế độ hiển thị
Cũ 04-09-2009   #1
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.761.406
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
Danh Nhân Đất Quảng (Quảng Nam)

Phạm Phú Thứ

Phạm Phú Thứ (1820-1883) là một đại thần triều nhà Nguyễn. Ông cùng với Nguyễn Trường Tộ là những người có quan điểm canh tân đất nước trong những năm cuối thế kỷ 19.

Ông tên thật là Phạm Hào, tự là Giáo Chi, hiệu Trúc Đường, biệt hiệu là Giá Viên, Trúc Ân, người làng Đông Bàn, huyện Diên Phước, tỉnh Quảng Nam (nay thuộc xã Điện Trung, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam).

Xuất thân trong một gia đình Nho giáo, vốn có tiếng thông minh, học giỏi, ông đỗ Giải nguyên năm 1842 khi mới 22 tuổi, thi Hội đỗ Hội nguyên, Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ khoa Quý Mão (1843).

Sau khi thi đỗ, ông được bổ nhiệm làm Tri phủ Lạng Giang, thăng dần lên Tổng đốc Hải An hay Tổng trấn Hải Yên (gồm 4 tỉnh Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Yên). Sau đó về kinh, ông được sung chức Thương chính đại thần, Tham tri bộ Binh. Năm 1849, ông được chuyển qua Viện Tập hiền làm chức Khởi cư chú (thư ký ghi lời nói và hành động của vua) rồi sang tòa Kinh diên (phòng giảng sách cho vua). Vốn là người cương trực, năm 1850 ông đã dâng sớ can gián vua Tự Đức không nên ham mê vui chơi. Do việc này mà ông bị cách chức, đưa đi làm lính trạm ở Thừa Lưu (Thừa Thiên), một thời gian sau mới được phục chức trở lại làm Tham tri Bộ Hình.

Năm 1863, ông được bổ nhiệm chức Tham tri bộ Lại, hàm Tòng Nhị phẩm. Cùng năm đó, ông được cử làm phó sứ trong phái bộ Phan Thanh Giản sang Pháp chuộc 3 tỉnh miền đông Nam kỳ. Trong khi ở Pháp ông còn đi thăm các nước châu Âu khác như Anh, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha. Qua chuyến đi này, ông rút ra được nhận thức rằng, chỉ có con đường canh tân mới giúp đất nước thoát khỏi thảm họa lạc hậu.

Khi về nước ông có dâng lên vua Tự Đức và triều thần một số tài liệu chi chép trong chuyến công tác vừa qua và một số bài viết quan trọng, kiến nghị triều đình thay đổi chính sách mới có thể tồn tại được, cùng một số sách khoa học thực nghiệm và thơ văn trên đường công cán do ông ghi chép:

* Tây hành nhật ký (nhật ký đi Pháp) * Tây phù thi thảo (bản thảo thơ làm trong quá trình tham gia phái bộ đi Tây) * Bác vật tân biên (sách nói về khoa học) * Khai môi yếu pháp (phương pháp khai mỏ) * Hàng hải kim châm (cách đi biển) * Vạn quốc công pháp (cách thức giao thiệp quốc tế)

Tuy nhiên, hầu hết những đề nghị của ông đều bị vua Tự Đức và các đại thần bảo thủ bác bỏ.

Sau khi về nước, năm 1866 ông được thăng chức Thượng thư bộ Hộ. Sau khi Phan Thanh Giản mất, triều đình cử ông làm người đối thoại với Pháp. Tuy nhiên, các sĩ quan Pháp tỏ thái độ không hài lòng về cách xử sự cứng rắn của ông luôn bảo vệ quyền lợi quốc gia và không khuất phục trước vũ lực, lấy cớ đó để đưa cuộc thương lượng vào thế đổ vỡ bằng sức mạnh, buộc triều đình phải thay người đối thoại. Do triều đình vốn chủ hòa, lại sợ mất lòng Pháp nên ông bị Ngự sử đàn hặc và bị gọi về kinh "hậu cứu". Năm 1876, ông bị giáng xuống làm Tổng đốc Hải Dương.

Năm 1881, ông về trí sĩ tại quê nhà và biên soạn bộ Giá Viên thi tập gồm 26 quyển. Bên cạnh đó, trên cơ sở những kỹ thuật mà ông học hỏi được trong thời gian tham gia phái bộ, ông đã đưa vào ứng dụng một số cải tiến tại địa phương. Tương truyền, kiểu xe nước ngày nay còn thông dụng ở các tỉnh miền Trung (Quảng Nam, Quảng Ngãi...) là kiểu xe nước trâu kéo ở Ai Cập vào các thế kỷ trước do ông vẽ kiểu mang về áp dụng vào thời ấy.

Ông mất năm Nhâm Ngọ 1883, thọ 63 tuổi. Sau khi ông mất, triều đình truy tặng ông hàm Hiệp biện Đại học sĩ. Hiện nay, lăng mộ ông được chính quyền địa phương, con cháu dòng tộc Phạm Phú tôn tạo đặt tại quê nhà tại thôn Nam Hà, xã Điện Trung, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Lăng mộ ông được xếp hạng di tích lịch sử văn hoá.

Tài sản của LSB-Sun
Trả lời kèm theo trích dẫn
Thành viên sau đã gửi lời cám ơn đến LSB-Sun vì bài viết hữu ích này:
Dương Nghiệp (08-09-2009)
Cũ 04-09-2009   #2
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.761.406
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
Tiểu La - Nguyễn Thành

Đầu thế kỷ XX, Quảng Nam - miền đất địa linh nhân kiệt, đã khai sinh ra hai phong trào cách mạng cứu nước rất quan trọng trong lịch sử dân tộc đó là Duy Tân hội và phong trào Duy Tân.


Duy Tân hội thường gọi là "Ám xã", hoạt động bí mật, theo đường lối quân chủ, chủ trương "bài Pháp giành độc lập".

Phong trào Duy Tân thường gọi là "Minh xã", hoạt động công khai, theo đường lối dân chủ, chủ trương "ỷ Pháp tự cường" do Phan Châu Trinh khởi xướng cùng với Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quí Cáp lãnh đạo.

Nói đến Duy Tân hội và phong trào Đông Du, lâu nay sử sách chỉ đề cao Phan Bội Châu là người "lãnh đạo", "đề xướng thành lập", còn Tiểu La Nguyễn Thành chỉ được xem là một sáng lập viên (1). Thực ra, Tiểu La Nguyễn Thành mới là "ông tổ mở mối", là người đặt ra "kế hoạch vĩ đại" cho đường lối cứu nước những năm đầu thế kỷ XX của Phan Bội Châu như chính Phan Bội Châu đã thừa nhận (2).

Nguyễn Thành trước có tên là Nguyễn Hàm, sinh năm Quí Hợi (1863) tại làng Thạnh Mỹ, phủ Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam (nay là ấp Quí Thạnh, xã Bình Quí, huyện Thăng Bình, Quảng Nam).

Ông xuất thân trong một gia đình quan lại, thân phụ là Nguyễn Trường làm quan dưới triều Tự Đức, từng giữ chức Bố Chánh tỉnh Bình Định, sau sung chức Kinh lược sứ An Khê, hàm Tham tri. Ông là con trai thứ, được phong hàm Ấm tử nên người trong vùng thường gọi là Ấm Hàm, tự là Triết Phu, hiệu Nam Thịnh.

Thuở nhỏ ông học chữ Hán và luyện tập võ thuật, năm Ất Dậu (1885) ông ra Huế dự kỳ thi Hương nhưng sắp đến ngày thi thì xảy ra cuộc binh biến đêm mồng 4 rạng ngày mồng 5 tháng 7 năm 1885 do Phụ chính đại thần Tôn Thất Thuyết lãnh đạo, tấn công quân Pháp ở trấn Bình Đài (tức đồn Mang Cá Huế) và toà Khâm Sứ. Cuộc binh biến không thành công, Tôn Thất Thuyết đưa vua Hàm Nghi chạy ra Tân Sở, Quảng Trị phát hịch Cần vương. Kinh thành Huế thất thủ, con đường cử nghiệp của Ấm Hàm cũng chấm dứt, ông quay về quê hương, nuôi chí diệt thù cứu nước.

Tham gia Nghĩa Hội Cần Vương

Hịch Cần Vương vừa ban ra, khắp nơi đều hưởng ứng, nhưng Tôn Thất Thuyết cùng những quần thần theo phò vua không có chủ trương, đường lối để tổ chức, lãnh đạo cuộc kháng chiến nên các sĩ phu yêu nước phải tự động đứng ra chiêu mộ binh mã lập căn cứ chống Pháp ở từng vùng riêng lẻ, tự mình đảm đương mọi việc, không có sự trợ giúp và chỉ đạo chung.

Toàn thể các tỉnh, thành, phủ, huyện miền Trung, nơi nào cũng có căn cứ của Nghĩa Hội Cần Vương, Văn Thân.

Theo Nguyễn Thanh Dân, cháu nội đích tôn của Tiểu La Nguyễn Thành, Ấm Hàm lúc bấy giờ mới 22 tuổi, đã tận mắt chứng kiến những hành động ngang ngược vô nhân đạo của giặc Pháp xâm lược lúc kinh thành Huế thất thủ nên vô cùng căm phẫn, vì thế sau khi ông vượt đèo Hải Vân về đến quê nhà liền đứng ra tập hợp các thanh niên trai tráng trong vùng Thăng Bình, Quế Sơn ngày đêm luyện tập võ thuật, binh pháp đợi ngày xông pha chiến trận.

Tháng 9 năm Ất Dậu (1885), Tiến sĩ Trần Văn Dư, giữ chức Sơn phòng sứ Quảng Nam, hưởng ứng chiếu Cần vương, quyết định đánh chiếm thành tỉnh Quảng Nam, kêu gọi Ấm Hàm đem quân phối hợp. Ấm Hàm nhận nhiệm vụ chỉ huy đội quân đi tiên phong và họp kín với Trần Văn Dư đưa ra kế hoạch tác chiến. Cuộc tấn công chớp nhoáng, bất ngờ, quân địch không kịp chống trả nên nghĩa quân đã chiến thắng vẻ vang. Ấm Hàm ra lệnh cho quân của mình vào kho vũ khí thu hết súng đạn đem về trong lúc các tướng khác đua nhau lấy tiền bạc của cải.

Sau chiến thắng, Ấm Hàm bàn với Trần Văn Dư nên rút lực lượng về vùng núi để lập căn cứ kháng chiến, không nên chiếm giữ thành tỉnh vì thế nào quân Pháp cũng phản công và cần phải phát triển lực lượng nhiều thêm nữa mới có thể chiến đấu lâu dài với kẻ thù. Trần Văn Dư nghe theo thuộc hạ không chấp nhận ý kiến của Ấm Hàm, ông đành phải rút quân của mình về vùng núi Ô Gia thuộc huyện Đại Lộc, lập căn cứ.

Trần Văn Dư cùng các bộ tướng ngày đêm lo đắp luỹ, sửa thành, canh phòng nghiêm ngặt, quyết tâm chống giữ. Quân Pháp cùng với quân triều kéo vào tấn công, nghĩa quân chiến đấu hết sức anh dũng nhưng do vũ khí thô sơ, thiếu thốn nên phải rút lui khỏi tỉnh thành kéo về căn cứ để bảo toàn lực lượng. Đến tháng 10 năm 1885 Sơn phòng bị thất thủ, sau đó Trần Văn Dư bị bắt và bị sát hại vào tháng 12 năm 1885.

Đầu năm 1886 Nghĩa Hội Cần Vương Nam-Ngãi-Định chính thức thành lập tôn Nguyễn Duy Hiệu làm hội chủ, lập trụ sở gọi là Tân Tỉnh ở Trung Lộc thuộc huyện Quế Sơn để chỉ huy. Nguyễn Duy Hiệu viết thư mời Ấm Hàm tham gia và cử ông giữ chức Tán Tương quân vụ, kiêm Tham biện tỉnh vụ. Từ đấy nhân dân trong vùng gọi ông là Tán Hàm.

Tán Hàm tổ chức nghĩa quân thành cơ, đội, đề ra kỷ luật, thưởng phạt nghiêm minh, ngày đêm ráo riết luyện tập binh pháp, võ thuật. Để mở rộng địa bàn kháng chiến, ông đề nghị với Nguyễn Duy Hiệu lập thêm các căn cứ phía nam của tỉnh như căn cứ ở núi Gai, La Nga, Eo Gió, An Lâm, kho quân lương ở Dốc Trâm, các lò rèn đúc binh khí ở Đồng Linh, Phước Cang và một nơi chế hoả pháo, tạc đạn ở Phước Hà.

Đây là thời gian Nghĩa Hội Cần Vương Quảng Nam phát triển rầm rộ nhất, dân chúng các nơi hưởng ứng tham gia rất đông, các phú hào, tiểu nông, thương gia đóng góp lương thực, tiền của khá nhiều. Tuy thế do lập thêm căn cứ, quân sĩ đông, chi phí tăng nên các đóng góp của dân chúng vẫn không đủ, Tán Hàm phải xin bà đích mẫu cho bán gần 30 mẫu ruộng của gia đình để chi dùng vào việc quân (3).

Sau khi phát triển lực lượng, Tán Hàm liền mở các cuộc tập kích vào các đồn binh của Pháp và Nam triều làm cho quân địch bối rối phải lo phòng thủ. Tháng 11 năm Bính Tuất (1886), quân Pháp và quân Nam triều dưới sự chỉ huy của Đại tá Braxcini mở cuộc hành quân lên Ái Nghĩa, Đại Lộc để tiêu diệt nghĩa quân. Tán Hàm đem quân mai phục ở các địa thế hiểm trở, chờ lúc nửa đêm khi quân địch ngủ say bất ngờ tấn công, chúng phải mở đường máu chạy về Thu Bồn để phối hợp với quân Pháp đồn trú tại đây. Thừa thắng, Tán Hàm lại tiếp tục tấn công Thu Bồn, quân Pháp bại trận phải bỏ luôn Thu Bồn chạy về Đà Nẵng. Từ đó thanh thế của Nghĩa hội vang dậy, nghĩa quân đã làm chủ hầu hết các vùng nông thôn của Quảng Nam.

Từ khi thực dân Pháp dùng Nguyễn Thân đem quân tấn công Nghĩa Hội Cần Vương ở Quảng Ngãi và Đốc Phủ sứ Trần Bá Lộc mang đội quân lính tập từ Nam kỳ ra miền Trung đánh dẹp Cần Vương Bình Định, Phú Yên, thì lực lượng nghĩa quân ở đây lâm vào tình thế nguy khốn, Nguyễn Duy Hiệu cử Tán Hàm đem quân vào Quảng Ngãi rồi sau đó vào Bình Định tiếp cứu, đánh cho quân địch tổn thất nặng nề. Tuy quân Nguyễn Thân và Trần Bá Lộc thất trận phải rút lui, nhưng nghĩa quân Quảng Ngãi và Bình Định cũng bị suy yếu rất nhiều.

Qua hai mặt trận Quảng Ngãi, Bình Định, Nguyễn Thân đã đánh giá cao về tài quân sự của Tán Hàm nên căn dặn tướng sĩ của mình phải hết sức cẩn trọng đối với Nguyễn Hàm. Trong lúc giao chiến, cấm không được khinh suất chuốc lấy thảm bại vì: "Nam Ngãi dụng binh duy Hàm nhất nhơn" (Ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, về tài quân sự chỉ Nguyễn Hàm là số một).

Sau khi đặt Đồng Khánh lên ngôi, thực dân Pháp mở chiến dịch quân sự quyết liệt tấn công các căn cứ Cần Vương ở khắp nơi. Tại Quảng Ngãi, sau trận kịch chiến với Nguyễn Thân, lực lượng nghĩa binh suy yếu, thủ lãnh Nguyễn Bá Loan qua đời. Cần Vương Quảng Ngãi, Bình Định tuy chưa bị tan rã nhưng cũng không còn đủ sức tấn công quân giặc như trước.

Nguyễn Thân đem quân ra Quảng Nam phối hợp với quân Pháp và quân Nam triều tấn công vũ bão vào các căn cứ nghĩa quân, Tân Tỉnh bị đánh ác liệt. Tại trận kịch chiến ở Gò May, nghĩa quân đại bại, Tân Tỉnh bị đốt cháy, san bằng, Nguyễn Duy Hiệu và Phan Bá Phiến phải giải tán lực lượng. Phan Bá Phiến uống thuốc độc tự tử, Nguyễn Duy Hiệu tự trói mình nạp mạng cho quân thù để nhận lãnh hết trách nhiệm rồi chịu chết.

Lúc bấy giờ, nghĩa quân còn lại rất ít, phải thường xuyên lẫn quất ở vùng triền núi Quảng Ngãi, nhưng Tán Hàm và Hồ Học dùng mưu lược chiến đấu suốt cả năm trời mà Nguyễn Thân không tiêu diệt được. Tuy thế, tình hình đất nước ngày càng xấu đi, cuối năm 1888, vua Hàm Nghi bị Pháp bắt và đưa đi đày, tinh thần của nghĩa quân nao núng, nhiều người bỏ về quê, quân số chỉ còn khoảng mấy chục người, đa số là người Quảng Nam thuộc lực lượng đưa vào tiếp viện cho Quảng Ngãi và Bình Định năm trước. Trong tình thế đó, Tán Hàm phải rút quân về Eo Gió Quảng Nam bằng đường núi. Khi đoàn quân của ông đến đoạn đường hiểm trở, hai bên vách núi cheo leo tên là Cầu Cháy thuộc huyện Bình Sơn thì bị quân Nguyễn Thân phục kích vây đánh, tướng Hồ Học trúng đạn tử thương, còn ông thì bị bắt giam tại nhà lao Quảng Ngãi. Nguyễn Thân vì phục tài của ông nên đã ra lệnh cho thuộc hạ không được giết chết mà phải bắt sống hầu mua chuộc, dụ dỗ ông ra làm quan với Nam triều, nhưng ông đã khéo léo từ chối.

Ẩn nhẫn đợi thời

Lấy cớ phụng dưỡng mẹ già, Nguyễn Hàm xin được về quê cày cuốc làm ăn sinh sống, Nguyễn Thân bất đắc dĩ chấp thuận nhưng đồng thời lệnh cho nha phủ Thăng Bình quản thúc, theo dõi ông.

Về quê, ông xây dựng Nam Thịnh sơn trang ở làng Thạnh Mỹ, phủ Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Cũng theo Nguyễn Thanh Dân thì những năm đầu, ông chăm chú điều khiển công việc cày cấy, vui vẻ chuyện trò, nhắc nhở người làm, chứng tỏ thái độ an phận làm ăn để che mắt bọn mật thám của nha phủ, chỉ sau ba năm nông trang đã phát triển, người làm ra vào tấp nập. Ông thường đi thăm các gia đình nông dân nghèo khổ, hoà đồng với cuộc sống của họ, cùng ăn với họ củ khoai lang chấm muối, uống bát nước lá mồng năm, ai cũng vui sướng, hớn hở khi được ông ghé đến túp lều tranh của họ và nhờ đó ông hiểu thêm cuộc sống cũng như thân phận của họ.

Lúc bấy giờ, nhiều người thấy ông lúc nào cũng vui vẻ, không đá động gì đến chuyện đất nước nên lầm tưởng ông đã thoả mãn với cuộc sống ấm no của riêng mình mà lãng quên tổ quốc đồng bào, nhưng nào có ai biết, đêm đêm, khi mọi người đã ngon giấc, thì ông vẫn một mình đi lại trong vườn suy nghĩ đắn đo, tìm kiếm một hướng đi khác thích hợp để đánh đuổi quân thù. Con đường Cần Vương đã thất bại, mấy chục chàng trai năm xưa hăng hái theo ông phò vua cứu nước nay đã thành liệt tử cô thần, đất nước vẫn điêu linh mà hướng đi mới thì chưa ló dạng. Ông đem tâm sự đó gửi đến hai người đồng chí của mình là Đỗ Đăng Tuyển và Châu Thượng Văn.

Ít lâu sau, ông được Đỗ Đăng Tuyển trao cho văn bản Thiên hạ đại thế luận của Kỳ Am Nguyễn Lộ Trạch và sau đó ông còn nhận được các sách báo của Khang Hữu Vy, Lương Khải Siêu và của các tác giả khác như: Trung Quốc Hồn, Tân Văn Tùng Báo, Dinh Hoàn Chí Lược, Trung Đông Chiến Kỷ, Phổ Pháp Chiến Kỷ, các sách nói về nhân quyền, dân quyền, dân chủ của các nhà tư tưởng Âu Tây dịch sang Hán văn như: Dân ước luận, Vạn pháp tinh lý..., do các lái buôn người Hoa đến Hội An bằng thương thuyền đem bán mà ông Châu Thơ Đồng (Châu Thượng Văn) đã chọn mua. Nhờ nghiên cứu các tài liệu sách báo đó, ông đã hiểu rõ thực trạng nghèo đói, lạc hậu của Trung Quốc và Việt Nam lúc bấy giờ và thúc đẩy ông quyết tâm cứu nước theo quan điểm, tư duy mới. Từ đây ông huỷ bỏ tên Nguyễn Hàm mà thời tham gia Nghĩa Hội Cần Vương những người trong vùng quen gọi là Tán Hàm và thay bằng tên Nguyễn Thành, hiệu Tiểu La để bước sang một giai đoạn mới.

Thành lập Duy Tân hội

Từ lâu người ta chỉ nói đến Phan Bội Châu là người thành lập Duy Tân hội và lãnh đạo phong trào Đông Du mà không chú ý đến Tiểu La Nguyễn Thành. Sự thực chính Tiểu La Nguyễn Thành mới là người khai sáng Duy Tân Hội. Vai trò tổ chức, lãnh đạo của ông đã thể hiện rõ ràng qua những sự việc cụ thể do chính Phan Bội Châu kể lại trong hai tài liệu vô cùng quí giá là Ngục Trung Thư và Tự Phán:

* Tiểu La Nguyễn Thành gặp Phan Bội Châu, đưa ra những kế sách hành động:

Mùa xuân năm Quý Mão (1903), dưới sự hướng dẫn của Nguyễn Quýnh, Phan Bội Châu từ trường Quốc Tử Giám ở kinh đô Huế vào Quảng Nam đến nông trang Nam Thịnh gặp Nguyễn Thành. Thế là lửa đã gặp gió, Nguyễn Thành đã gặp được người đồng tâm đồng chí để mưu bàn đại sự, vì thế ngay từ đầu mới gặp Phan Bội Châu mà Nguyễn Thành vui thích như bạn quen đã lâu ngày, cùng nhau kể chuyện tâm phúc đến suốt đêm. Trong cuộc hội kiến này, mọi nhân tố đã được Nguyễn Thành chuẩn bị sẵn sàng, ông đưa ra 3 kế sách hành động mà ông đã dày công suy ngẫm bấy lâu nay khiến cho Phan Bội Châu vô cùng khâm phục. Trong Ngục Trung Thư, Phan Bội Châu kể lại:

"Tôi đem chí muốn ra phân trần. Cụ vỗ tay nói: "Hay dữ! Thuở nay, ai muốn mưu toan đại sự, trước hết phải cần ba điều này: một là thu phục lòng người, hai là góp số tiền lớn, ba là sắp đặt mua sắm quân khí cho đủ. Hễ lòng người đã chịu tin phục thì số tiền lớn có thể góp được. Có tiền thì vấn đề quân giới không khó giải quyêt đâu". (4, tr 279)

* Tiểu La Nguyễn Thành chủ trương Tôn phù nhà Nguyễn để thu phục nhân tâm:

Nguyễn Thành cho rằng: "...phải hiểu dân trí và tập quán của dân nước nhà, không thể nào bắt chước làm theo châu Âu cho được. Bọn ta muốn có cách kêu gọi nhân tâm cho dễ, nếu không mượn tiếng phò vua giúp chúa thì những nhà sang họ lớn kia, ai chịu phụ hoạ theo mình. Vậy thì ta dầu có bụng cứu nước mặc lòng, chẳng qua chỉ chết thân mình cho tròn được một tiếng vậy thôi, ngoài ra không ăn thua lợi ích gì cho việc lớn.

"Vua Hàm Nghi trốn tránh ở chốn nào, đã lâu không nghe tin tức ra sao. Còn vua Thành Thái hiện tại thì ở trong tay người Pháp kiềm chế, anh em ta không làm cách gì ra vào thân cận bên mình ngài đặng. Sẵn có dòng dõi của đức Đông Cung Cảnh là đích tự Cao Hoàng, hiện nay đang còn. Chúng ta khởi nghĩa nên trước hết tôn ngài lên làm cung chủ, có thế thì danh nghĩa mới thuận, hiệu lệnh được chuyên, mỗi khi ta cất tiếng kêu gào, thuận theo chiều gió, tất nhiên có tiếng vang bóng sâu xa lắm vậy" (4, tr 279).

Để thực hiện kế sách này, ông giới thiệu với Phan Bội Châu một người trong hoàng tộc đã từng âm mưu quang phục bị thất bại, trốn vào Quảng Nam được ông lo liệu, giúp đỡ, ẩn thân tại đây 5, 6 năm rồi. Đó là Tôn Thất Toại, nhưng Phan Bội Châu không vừa ý, muốn tìm một người khác có tài trí hơn.

Trong Tự Phán Phan Bội Châu đã nói rõ chủ trương này của Nguyễn Thành: "Tiểu La nói với tôi rằng: "Món ta khỉ sự, trước hết phải thu lòng người. Hiện những người nước ta bây giờ, ngoài tôn quân thảo tặc ra còn chưa có tư tưởng gì lạ. Sở Hoài Vương, Lê Trang Tôn, chẳng qua là một thủ đoạn. Vả lại sắp tính việc lớn, tất phải trù có món tiền thật to. Kim tiền nước ta là ở Nam kỳ, mà khai thác ra Nam kỳ là công đức triều Nguyễn làm. Vua Gia Long lấy lại nước rặt là nhờ tài lực ở trong ấy. Bây giờ nếu ta tìm được chính giòng Gia Long, đặt làm minh chủ, hiệu triệu Nam kỳ tất ảnh hưởng mau lắm" (4, tr 36).

Đối với Tiểu La Nguyễn Thành, trong hoàn cảnh nước ta lúc bấy giờ, chủ nghĩa tôn quân vẫn còn đắc dụng, nó là nước cờ để thu phục nhân tâm, tập hợp quần chúng, vận động tài chánh, điều vô cùng quan trọng mà Phan Bội Châu chưa hề nghĩ đến. Trong Ngục Trung Thư, chính Phan Bội Châu đã xác nhận:

"Tôi với hai ông Đặng (Đặng Tử Kính) , Lê (Lê Võ), ban đầu thật chúng tôi chưa hề suy tính tới việc tôn người dòng dõi nhà vua. Tới đây nghe Nguyễn Quân, chúng tôi cho là phải lẽ lắm (4, tr 279).

Phan Bội Châu tán đồng chủ trương tôn quân của Tiểu La Nguyễn Thành vì nó là một "biện pháp" hữu hiệu đối với hoạt động cách mạng cứu nước lúc bấy giờ, nhất là ở Nam kỳ, dân chúng vẫn còn nhớ triều đại cũ, nên muốn thu hút sự hợp tác của họ, cần phải xướng lên việc "phù trợ quân vương" để kêu gọi lòng người.

Về vấn đề này nhà Sử học Nhật Bản Shiraishi Masaya cũng nhận định: "Như vậy tuy Phan và các đồng chí của ông ủng hộ lập người trong hoàng tộc làm minh chủ, nhưng điều đó không có nghĩa là họ thừa nhận ông vua bù nhìn hiện thực, mà họ có ý đồ phủ nhận ông ta, đặt vị vua "chính thống" đối lập với ông ta. Hơn nữa mục đích của họ không phải là để khư khư bám lấy hệ tư tưởng trung quân, mà suy cho cùng, chỉ là để lấy đó làm một "phương tiện" tập hợp người và tiền của mà thôi" (5, t1, tr 155, 156).

Để kế hoạch khỏi bị bại lộ, Nguyễn Thành giao cho Phan Bội Châu lo tìm người trong hoàng tộc, nhất là dòng chính vua Gia Long, tức là con cháu Đông Cung Cảnh, vì lúc này Phan Bội Châu đang ở Quốc Tử Giám tại kinh đô Huế, rất thuận lợi cho việc tìm kiếm, còn Nguyễn Thành vốn là người của Nghĩa Hội Cần Vương, đang bị theo dõi, mọi hành động của ông đều dễ bị phát hiện.

Sau khi bàn bạc với Tiểu La Nguyễn Thành, Phan Bội Châu bắt tay vào thực hiện những kế hoạch do Nguyễn Thành đề ra và thường xuyên báo cáo với ông kết quả việc làm của mình.

Trước tiên, Phan Bội Châu lo tìm người trong dòng tộc nhà vua, ông đã tìm được Kỳ Ngoại Hầu Cường Để là đích tự tôn của Đông Cung Anh Duệ Hoàng Thái Tử. Lấy cớ xem tướng số, ông vào nhà Kỳ Ngoại Hầu dùng chuyện tướng mệnh để dò la, biết được Kỳ Ngoại Hầu sẵn có chí lớn, ông mới đem những lời của Tiểu La giải bày với Kỳ Ngoại Hầu, Kỳ Ngoại Hầu đồng thuận, hai người cùng ăn thề đính ước với nhau nguyện xả thân vì đất nước, rồi ông gấp rút vào Quảng Nam báo cáo với Tiểu La và hẹn Tiểu La ra Huế gặp Kỳ Ngoại Hầu. (4)

* Tiểu La Nguyễn Thành gặp Kỳ Ngoại Hầu Cường Để:

Tháng 10 năm Quý Mão (1903), Nguyễn Thành với hành trang của một lái buôn bí mật đến kinh thành Huế gặp Kỳ Ngoại Hầu Cường Để tại tư gia quan Bố Chánh Phạm Quý Thích, ông trình bày với Cường Để những kế sách chống Pháp và ngỏ ý mời Cường Để tham gia với vai trò đứng đầu để có danh nghĩa hiệu triệu người trong nước, huy động kim tiền, và để liên kết với nước ngoài. Cường Để rất phấn khởi và hứa với ông sẽ vào Quảng Nam dự họp bất cứ lúc nào nhận được tin của ông và Phan Bội Châu.

* Tiểu La Nguyễn Thành sắp đặt cho Phan Bội Châu đi Nam kỳ:

Tháng 12 năm Quý Mão (1903) Nguyễn Thành thúc giục Phan Bội Châu lên đường vào Nam kỳ, Nguyễn Thành nói với Phan Bội Châu: "Anh bây giờ Nam hành được rồi "(4, tr 38). Ông lo liệu cho Phan Bội Châu rất chu đáo, từ việc mua sẵn giấy thông hành, đưa tiền lộ phí đến việc phái người nhà là Tư Doãn đi theo giúp đỡ Phan Bội Châu, do đó cuộc Nam du của Phan Bội Châu chẳng những đạt được những mục đích là gặp Trần Thị, một nhà tu hành yêu nước ẩn cư tại Thất Sơn thuộc tỉnh Châu Đốc để bàn việc, tìm tin tức của dư đảng nghĩa quân Nam kỳ và giới thiệu ông Kỳ Ngoại Hầu Cường Để với Nam kỳ Nghĩa dân, mà còn mang lại những lợi ích vô cùng to lớn cho phong trào Đông du về sau.

Phan Bội Châu trở về đến Quảng Nam, vào nhà Nguyễn Thành báo cáo những việc Nam hành, ở lại một hôm rồi trở về kinh.

* Tiểu La Nguyễn Thành lập Duy Tân hội:

Nam Thịnh sơn trang, nơi ở của Nguyễn Thành là địa điểm tụ họp thường xuyên của tổ chức hội.

Tháng 3 năm Giáp Thìn (1904), Nguyễn Thành đã tiếp đón ông Trần Thị ở tỉnh Châu Đốc cùng vài đồng chí khác từ Nam kỳ đến Nam Thịnh sơn trang, và Phan Bội Châu ở Huế vào họp bàn để định ước ngày khai hội.

Ngày 8 tháng 4 năm Giáp Thìn (1904), Tiểu La Nguyễn Thành tổ chức cuộc hội nghị bí mật tại Nam Thịnh sơn trang. Cuộc họp qui tụ hơn 20 nhân vật trọng yếu để quyết định thành lập Duy Tân hội và bầu Cường Để làm Hội trưởng. Sự kiện lịch sử quan trọng này đã được Phan Bội Châu ghi lại trong Tự Phán:

"Đến ngày kỳ ước chính là thượng tuần tháng tư, tôi vào nhà Tiểu La, có cả ông Kỳ Ngoại Hầu tới. Giữa hội chỉ là người trọng yếu hơn hai chục người...

Bắt đầu khai hội từ buổi sáng qua chính trưa tan hội. Tên hội chỉ người trong hội biết, không lập sổ sách, không biên chép họ tên, chương trình kế hoạch chỉ miệng trao lòng nhớ mà thôi. Đặt Kỳ Ngoại Hầu làm Hội chủ, hễ lúc xưng hô chỉ gọi bằng ông chủ, cấm không được hở chữ "Hội" ra. Hội viên trọng yếu lúc ấy thì có những người như: Nguyễn Hàm, Phan Bội Châu, Trình Hiền, Lê Võ, Đặng Tử Kính, Đặng Thái Thân và các người khác nữa. Những tiếng xưng hô nhau, chỉ gọi bằng anh em, tuyệt không đặt ra danh mục gì. (4, tr 43)

Cuộc họp đã quyết định tổ chức triển khai kế hoạch hoạt động,chủ yếu có ba điểm:

1) Mở rộng lực lượng của Hội. Muốn vậy phải nhanh chóng kết nạp đảng viên, thu được nhiều đảng phí, trù tính cho đủ các món tài liệu
2) Sau khi khởi phát bạo động, phải lo gấp các tài liệu để tiếp tục tiến hành hoạt động.
3) Xác định phương châm ra nước ngoài cầu viện và phương thức làm việc đó.

Hai khoản trên giao cho toàn thể đảng viên đảm đương, còn khoản thứ ba thì uỷ thác cho Nguyễn Thành và Phan Bội Châu bàn kín và thực hiện, các đảng viên khác không được biết để bảo đảm bí mật tuyệt đối. Ngoài 3 điều trên, hội nghị chưa đề ra thể chế chính trị.

Đối với việc tập hợp đồng chí và quyên mộ quỹ có thể giải quyết được, nhưng khó nhất lúc này là vấn đề quân giới. Trong Ngục Trung Thư, Phan Bội Châu đã viết rõ:

"Phải chi mình ở vào những thời Đinh, Lý, Lê, Trịnh thuở xưa, thì chỉ vung tay mà kêu lên một tiếng, tức thời sóng dậy sấm vang chỉ là việc thành trong giây lát mà thôi. Nhưng đời nay thì khác hẳn. Từ lúc đời có súng đạn phát minh ra, bao nhiêu khí giới gọi là gươm giáo đao thương đã hoá ra đồ bỏ. Cái thứ để chặt cây làm mác kia, đời xưa người ta vác đi đánh Tần đuổi Sở được, chứ đời nay có dùng nó làm nên trò vè gì! Phải biết vũ khí của người Pháp tinh nhuệ hơn của người mình muôn lần ngàn lần". (4, tr 285,286)

Phan Bội Châu đã thấy rằng tuy dân tộc ta vốn có truyền thống kháng chiến anh dũng chống ngoại xâm, nhưng Thực dân Pháp ngày nay không giống với thế lực phong kiến Trung Quốc thuở xưa vì họ có vũ khí hiện đại do đó đã áp đảo được chúng ta.

Nguyễn Lộ Trạch trong cuốn Thời vụ sách cũng bàn về tương quan lực lượng giữa ta và Pháp: "Tây dương (Pháp) là nước có binh lực lớn mạnh chưa từng thấy, hơn nữa quân đội của họ lại cơ động tự do trong phạm vi 70 nghìn dặm. So sánh địch ta, chúng ta không có cả binh thuyền vững chắc, súng ống mạnh mẽ lẫn tài năng quân sự. Tàu thuỷ, súng cối, binh khí của phương Tây từ xưa đã trác việt, trong khi đó chúng ta về mọi mặt đều kém cỏi. Phía ta chỉ có thể ra xa bờ biển một thước, trong khi chiến thuyền của địch đi lại trên mặt biển. Trong các trận chiến ở Hà Nội, Ninh Bình trước đây (trận Pháp đánh Bắc kỳ lần thứ nhất năm 1873), binh lính của chúng chỉ có mấy mươi tên mà chúng ta không thể đối phó đầy đủ được. Nếu chúng dùng mấy mươi chiếc tàu thuỷ tiến công thì tuy có chiều dài mấy nghìn dặm, nước ta vẫn không thể trụ lại được. (6,tr 18, 19)

Vậy muốn đánh đổ thực dân Pháp cần phải có vũ khí hiện đại. Ở Việt Nam lúc bấy giờ không có khả năng kiếm được những vũ khí đó vì bị người Pháp độc chiếm, quản lý và kiểm soát gắt gao.

Trong Ngục Trung Thư, Phan Bội Châu viết: "Còn khẩu súng nào ở trong tay người mình, thì ngày đêm có tướng tá Pháp gìn giữ coi chừng hoài. Trong hàng quân ngũ, từ chức cai đội trở lên cũng không có người mình được làm. Nếu muốn dỗ họ trở súng cộng sự với mình, lúc bình thường không phải là chuyện dễ, trừ ra khi nào có phát sinh đại chiến, họa chăng sự mưu tính mới được thực hiện. Các ông sách sĩ (người chuyên nghĩ mưu tính kế) trong đảng chúng tôi lúc ấy, gặp phải một vấn đề to lớn khó khăn mà không sao giải quyết được, ấy chính là vấn đề quân giới.

Trong nước ta có sở chế tạo quân giới nào, đều có binh lính Pháp chiếm giữ, canh gác cẩn mật, nếu bà con mình đi qua hơi liếc mắt dòm mấy nơi đó cũng bị tội nặng lập tức. Như vậy thì chúng tôi có nhúng tay vô chỗ nào mà lấy khí giới được đâu!

Muốn mua khí giới ở ngoại quốc chở vào cho mình lại cũng không được. Là vì bao nhiêu cửa biển trong nước, cửa nào cũng có nhà chuyên trách của Bảo hộ cắt đặt, khám xét dò la hết sức nghiêm ngặt. Dầu cho mình mua ở ngoài được, nhưng một số quân giới rất nhiều, mình có phép tiên, chước quỷ gì mà vận tải nó lọt vô xứ này cho nổi?" (4, tr 286)

Con đường tìm kiếm vũ khí đã bị bế tắc, bàn tính mãi, cuối cùng chỉ còn cách xuất dương cầu viện. Vấn đề khó khăn này cũng đã được Tiểu La Nguyễn Thành tiên liệu.

* Nguyễn Thành tổ chức cho Phan Bội Châu xuất dương:

Để việc xuất dương cầu viện có kết quả, cần phải có hai yếu tố:

- Hành phí
- Người có tài ngoại giao và người dẫn đường.

Tiểu La đã tính trước và trù bị mọi việc một cách chu đáo, từ lo kinh phí, cử người xuất dương và người dẫn đường đến phân tích thời cuộc rạch ròi để tìm nước nào có thể giúp đỡ mình một cách hiệu quả. Trong Tự phán Phan Bội Châu đã thuật lại rất đầy đủ:

"Tiểu La mới bàn với tôi rằng: "Về việc kinh phí chỉ mình (Tiểu La) với Sơn Tẩu (Ô Gia Đỗ Đăng Tuyển) biện được xong, ngoại giao nhân tài hiện nay thật khó, đã không người khác, tất phải anh (Phan Bội Châu) thân đi, còn hướng đạo viên thì tôi tính sẵn đã lâu ngày. Tôi tưởng tình thế liệt cường bây giờ, nếu không phải nước đồng chủng đồng văn, tất không ai chịu giúp ta: Nước Tàu đã chịu nhượng nước Việt Nam cho Pháp, huống gì hiện nay quốc thế suy hèn, cứu mình không xong mà cứu được ai? Duy Nhật Bản là nước tân tiến ở trong nòi giống vàng, vừa mới đánh được Nga, dã tâm đương hăng hái lắm, qua tới đó đem lợi hại bày tỏ, tất có hiệu quả, dầu họ không xuất binh mã, mà mượn tư lương, mua khí giới tất có thể dễ dàng. Vậy nên chúng ta muốn đứng khóc sân Tần, không chi bằng Nhật Bản là phải.

Ông Tăng Bạt Hổ từ ngày Cần Vương thất bại, từng chạy khắp Quảng Đông Quảng Tây, lại có mang quốc thư đi qua Lữ Thuận thông hiếu với Nga sứ, việc đó bất thành chuyển qua Đài Loan, dựa Lưu Vĩnh Phúc. Nhật lấy Đài Loan, Vĩnh Phúc thua chạy. Tăng quay sang Xiêm, mượn đường về nước, hiện nay núp giấu ở Hà Nội, tấm lòng báo quốc càng kiên lắm. Tôi từng viết thư kêu anh về, chẳng rày thì mai, Tăng quân tất về đây. Gánh cái gánh người đưa đường, anh không phải không có xe chỉ nam nữa" (4,tr 45,46).

Ngày 20 tháng giêng năm Ất Tỵ (1905), Phan Bội Châu, Tăng Bạt Hổ và Đặng Tử Kính xuống tàu thuỷ tại Hải Phòng ra đi. Từ đó theo phân công, ba ông sẽ đảm đang những việc ở nước ngoài (Nhật Bản) còn Tiểu La Nguyễn Thành và Ngư Hải Đặng Thái Thân điều hành đảng và các hoạt động trong nước.

Đến Nhật Bản, Phan Bội Châu đã gặp được Lương Khải Siêu và các yếu nhân trong chính giới Nhật như Khuyển Dưỡng Nghị, Bá tước Đại Ôi để nhờ Nhật Bản giúp cho binh lính, vũ khí, lương thực, nhưng bị Nhật khước từ. Theo sự góp ý của Lương Khải Siêu về sách lược chống Pháp, Phan Bội Châu viết "Việt Nam vong quốc sử" với lời lẽ vô cùng thống thiết kêu gọi thanh niên xuất dương cầu học để đào tạo nhân tài, làm nền tảng hưng dân khí, khai dân trí.

Tháng 6 năm Ất Tỵ (1905), Phan Bội Châu và Đặng Tử Kính mang một số sách ấy bí mật về nước với mục đích:

- Đưa Kỳ Ngoại Hầu Cường Để sang Nhật
- Chọn một số du học sinh sang Nhật để mở đường cho công cuộc du học sau này
- Gặp Tiểu La để báo cáo tình hình bên Nhật, nhưng Phan Bội Châu không gặp được vì bị thực dân Pháp niêm yết truy nã khắp nơi, ông phải gấp rút trở lại Nhật Bản đem theo 3 du học sinh đầu tiên, còn việc đưa Kỳ Ngoại Hầu xuất dương và tuyển chọn nhân tài đi du học, Tiểu La cùng Ngư Hải lo liệu sau.

Vậy là sau khi bị Nhật Bản từ chối giúp đỡ binh lực cho ta, Phan Bội Châu đã chuyển hướng "cầu viện" sang "cầu học" tạo nên phong trào Đông Du, do đó Nguyễn Thành cùng các đồng chí trong nước phải tập trung vào việc tìm nhân tài đưa đi du học và đẩy mạnh công tác kinh tài. Để có số tiền lớn gởi sang Nhật, Nguyễn Thành đã khéo léo phối hợp với các sĩ phu yêu nước của phong trào Duy Tân tổ chức các hội học, hội nông, hội công, hội thương... ở các tỉnh, chăm lo sản xuất, kinh doanh, thu lợi tức, quyên góp tiền bạc. Theo tài liệu của sở Mật thám Pháp, Nguyễn Thành có quan hệ chặt chẽ với 72 cơ sở "thương hội" trong toàn miền (7, tr 31). Ông còn góp cả cổ phần kinh doanh lấy tiền gởi cho Phan Bội Châu chi phí cho du học sinh.

Phong trào Đông Du được giới trẻ hưởng ứng rầm rộ, nhất là thanh niên Nam kỳ, trong vòng một năm đã có 200 học sinh xuất dương và số tiền gởi sang Nhật lên đến 12.000 đồng. Trong cuộc vận động này, Nguyễn Thành đã giữ một vai trò rất quan trọng.

Năm 1908, phong trào "cự sưu khất thuế" nổi lên rầm rộ ở Quảng Nam rồi nhanh chóng lan ra các tỉnh miền Trung, thực dân Pháp đàn áp dã man, các chí sĩ cách mạng kẻ bị tử hình, người bị giam cầm, khổ sai, Nguyễn Thành bị bắt đày đi Côn đảo và mất tại đó năm 1911.

Từ khi Tiểu La bị bắt, lưu học sinh bên Nhật cũng lao đao, phần thì thiếu tiền phần thì thực dân Pháp bắt tay với Nhật yêu cầu trục xuất lưu học sinh Việt Nam, Phan Bội Châu rồi Cường Để cũng lần lượt phải rời đất Nhật, Duy Tân hội tan rã, phong trào Đông Du kết thúc.

Những đóng góp to lớn của Tiểu La Nguyễn Thành chứng tỏ ông là người khai sáng và lãnh đạo Duy Tân Hội, đảng cách mạng cứu nước đầu tiên trong lịch sử Việt Nam. Phan Bội Châu chỉ là người thực hiện và được giao trách nhiệm lãnh đạo ở hải ngoại, do đó trở thành linh hồn của phong trào Đông Du. Cho đến khi Tiểu La Nguyễn Thành hy sinh tại Côn đảo thì Duy Tân hội và phong trào Đông Du cũng bị khai tử theo ông. Năm Nhâm Tý (1912) Phan Bội Châu thành lập Việt Nam Quang Phục hội thay đổi đường lối từ chủ nghĩa quân chủ sang chủ nghĩa dân chủ để "khôi phục Việt Nam, kiến lập Việt Nam Cộng hoà Dân quốc" (4, tr 178), đáp ứng tình hình chuyển biến mới trên trường quốc tế.

Từ khi thành lập Duy Tân hội (1904) cho đến khi bị đày ra Côn đảo (1908), Tiểu La Nguyễn Thành là một nhà lãnh đạo xuất sắc đã tiên liệu và trù bị mọi việc của đảng một cách tài tình, chu đáo nhờ thế Phan Bội Châu mới có điều kiện vận dụng tài năng xuất chúng và nhiệt tình cứu nước của mình để hoàn thành những nhiệm vụ được giao, cho nên trong những năm đó bất cứ làm việc gì Phan Bội Châu cũng báo cáo và thỉnh ý Nguyễn Thành. Chính vì vậy, khi nghe tin Tiểu La Nguyễn Thành đã vĩnh viễn ra đi, Phan Bội Châu vô cùng đau xót, hụt hẩng và cô đơn. Trong bài Văn tế ông đã khóc Nguyễn Thành bằng những lời thống thiết xuất phát tự tâm can:

"Nghĩ một người đã tạo ra em, thành tựu cho em, mà nay kẻ mất người còn, hồn trời phách đất!
Mây Hải Vân mờ mịt bóng gươm vàng
Bể Đà Nẵng chập chờn cơn sóng bạc".


và tuyên bố với đồng chí và quốc dân: "Tiểu La tiên sinh mất, Việt Nam mất một trang đại quốc sĩ".

Tài lãnh đạo của Nguyễn Thành cũng được Huỳnh Thúc Kháng đánh giá một cách đầy đủ trong câu đối điếu Tiểu La:

"Mấy mươi năm giống trái vẫn còn, nào kinh tế gia, nào quân lữ gia, nào bí mật vận động gia. Trăm lần uốn chẳng cong, đời cựu, buổi tân vị trí nghiễm nhiên giành một chiếu".

Phan Bội Châu, người đồng chí, đồng sự với Tiểu La Nguyễn Thành đã xác nhận: "Từ Duy Tân hội đến phong trào Đông Du, chính Tiểu La tiên sinh là ÔNG TỔ mở mối, vạch đường khai sinh ra tất cả".

Hậu thế lẽ nào lại không công nhận những điều xác nhận của Phan Bội Châu.


(1) Uỷ ban KHXHVN, Lịch sử Việt Nam, T2, NXB KHXH, 1985
(2) Phan Bội Châu Toàn tập, T4, NXB Thuận Hoá Huế 1990
(3) Nguyễn Thanh Dân, Tiểu La Nguyễn Thành nhà ái quốc và cách mạng VN cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20.
(4) Phan Bội Châu, Tự Phán và Ngục Trung Thư, NXB Văn hoá Thông tin
(5) Shirashi Masaya - Phong trào dân tộc VN và quan hệ của nó với Nhật Bản và châu Á -Tư tưởng của Phan Bội Châu về cách mạng và thế giới
(6) Anh Minh, Nguyễn Lộ Trạch, tr 18,19
(7) Dẫn theo Chương Thâu, 100 năm thành lập Duy Tân hội - Thân thế và sự nghiệp Tiểu La Nguyễn Thành, kỷ yếu hội thảo




Tài sản của LSB-Sun
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 04-09-2009   #3
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.761.406
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
Lê Trọng Nguyễn


Lê Trọng Nguyễn (1926-2004) là một nhạc sĩ Việt Nam nổi tiếng, tác giả ca khúc Nắng chiều.

Nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn sinh ngày 1 tháng 5 năm 1926 tại Điện Bàn, Quảng Nam. Cha mất sớm, mẹ ông nuôi hai con đến tuổi trưởng thành. Em gái lập gia đình và sớm qua đời, Lê Trọng Nguyễn và mẹ nuôi ba đứa cháu nhỏ.



Ông từng học ở Hà Nội trong khoảng 1942 đến 1945, thời gian đó ông có làm bạn với nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát. Trước 1954, Lê Trọng Nguyễn từng phụ trách âm nhạc cho toàn thể Liên khu Năm (Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên), nhưng sau đó ông rời bỏ và về cư trú tại Hội An.

Lê Trọng Nguyễn có dạy âm nhạc tại trường trung học Nguyễn Duy Hiệu. Sau khi theo học hàm thụ trường Ecole Universelle của Pháp, ông tốt nghiệp và trở thành hội viên của SACEM - Hội Nhạc sĩ Pháp (La Société des auteurs, compositeurs et éditeurs de musique) với một số tác phẩm, trong đó được biết đến nhiều hơn cả là bản Sóng Đà giang (Đà giang trong bài hát là dòng sông Thu Bồn ở Quảng Nam).

Tuy là một nhạc sĩ, nhưng Lê Trọng Nguyễn không sống bằng âm nhạc. Năm 1965, ông làm Giám đốc công ty Centra Co., một công ty thương mại của Pháp. Từ năm 1968, ông là Giám đốc điều hành của công ty Sealand tại Đà Nẵng. Năm 1970 sau khi lập gia đình với bà Nguyễn Thị Nga, ông từ bỏ chức vụ Giám đốc công ty SeaLand về sống tại Sài Gòn. Năm 1973, ông làm Giám đốc nhà máy Dầu hỏa Cửu Long. Sau biến cố 1975, ông mở lớp dạy nhạc tại nhà và tự chế tạo các loại đàn do chính tay ông làm để sinh sống.

Lê Trọng Nguyễn đến Hoa Kỳ vào tháng 3 năm 1983, định cư tại Rosemead cùng vợ và bốn người con. Ông mất ngày 9 tháng 1 năm 2004 tại bệnh viện City of Hope, Rosemead vì bệnh ung thư phổi.

Lê Trọng Nguyễn viết ca khúc đầu tay Ngày mai trời lại sáng năm 1946. Ông sáng tác không nhiều, nhưng các nhạc phẩm của ông đều giá trị nghệ thuật cao, với giai điệu và lời ca trau truốt, nhiều hình ảnh đẹp. Trong những tác phẩm của Lê Trọng Nguyễn, nổi tiếng hơn cả là bản Nắng chiều, được ông sáng tác vào năm 1952. Nhạc phẩm này không chỉ nổi tiếng ở Việt Nam mà nó còn được biết tới nhiều ở Nhật Bản, Đài Loan và ở Hồng Kông với tên Bản tình ca Việt Nam. Nắng chiều cũng là ca khúc trong bộ phim cùng tên năm 1971 của đạo diễn Lê Mộng Hoàng với sự tham gia diễn xuất của diễn viên nổi tiếng Thanh Nga.

Trong một cuộc phỏng vấn, Lê Trọng Nguyễn đã nói: "Tôi viết bản đó ở Huế, thời gian sau khi bỏ vùng kháng chiến về thành... Tâm sự tôi trong bài Nắng chiều nó như thế này, kể anh nghe cho vui. Sau cuộc đảo chính của Nhật vào đêm 9 tháng 3 năm 45, có một gia đình công chức Nam triều từ Quy Nhơn chạy ra tạm trú ở Hội An, mà tôi cũng ở Hội An lúc đó. Gia đình đó có một người con gái. Tôi yêu người con gái ấy!"

Lê Trọng Nguyễn không chỉ là một nhạc sĩ, ông còn là một học giả uyên bác về âm nhạc, như lời nhận xét của Phạm Đình Chương, người bạn thân của ông.

Tài sản của LSB-Sun
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 04-09-2009   #4
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.761.406
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
Trần Quý Cáp

Trần Quý Cáp sinh năm 1870, tự Dã Hàng, Thích Phu, hiệu là Thái Xuyên. Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình nông dân nghèo ở thôn Thái La, làng Bát Nhị, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.Nay là thôn nhị dinh1, xã điện phước, huyện điện bàn, tỉnh quảng nam. Lúc tuổi trẻ, ông đã nổi tiếng là một trong sáu học trò lỗi lạc của cụ Đốc học Mã sơn Trần Đình Phong tại trường Thanh Chiêm cùng với Phạm Liệu, Nguyễn Đình Hiến, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, và Phan Quang.

Mặc dù ông thông minh, học giỏi nhưng lại lận đận trong khoa trường. Năm 1903 ông vẫn còn Tú tài trong khi các bạn đồng môn: người thì Tiến sĩ, kẻ thì Phó bảng, hay Cử nhân. Mãi đến năm 1904 ông mới được đặc cách cho thi Hội rồi thi Đình, đỗ Tiến sĩ cùng khoa với Huỳnh Thúc Kháng.

Người làng Bất Nghị, thuộc tỉnh Quảng Nam (Trung Phần), hiệu là Thái Xuyên thi đỗ khoa Giáp Thìn (1904). Là một người cầu tiến và vì chịu ảnh hưởng của các học giả Trung Hoa là Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vi, ông cực lực đả kích lối từ chương khoa cử, đề nghị một lối học mới có tinh thần cứu quốc. Năm 1905, ông cùng với các đồng chí là Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng định vào Nam hô hào công cuộc Duy tân. Tới Bình Định gặp lúc quan tỉnh mở kỳ thi khảo hạch, ra đầu bài thơ là Chí thành thông thánh và bài phú Danh sơn Lương Ngọc, cả 3 ông định nhân dịp cổ động việc nước, liền nộp quyển làm bàị Những bài của 3 ông khiến quan tỉnh phải điên đầu, báo cáo về triều đình Huế để quyết định. Vào đến vịnh Cam Ranh, nhân có chiến hạm Nga vào đó lánh nạn, 3 ông thuê thuyền ra tận nơi xem.

Năm 1907, ông làm Giáo thọ ở phủ Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam, ông mở một lớp chữ Pháp trong trường, rước thầy về dạy học sinh. Bọn quan lại cựu học không ưa, liền tìm cách đổi ông vào Khánh Hòa. Năm 1908, xảy ra cuộc kháng thuế ở Quảng Nam, phần lớn thân sĩ trong tỉnh bị bắt. Việc này làm chấn động các giới trong nước. Tại Khánh Hòa, Trần Quý Cáp làm một bức thư gửi cho các bạn hữu tại Quảng Nam, trong đó có những lời lẽ dí dỏm như sau:Cận văn ngô châu cử nhứt khoái sự, ngô văn chi, khoái nhậm, khoái thậm Nghĩa là: Gần đây nghe trong tỉnh nhà làm một việc rất thú, tôi nghe tin lấy làm thích lắm. Sau đó ông bị bắt giam và bị khép vào tội mưu phản, lãnh án bị chém ngang lưng tại Khánh Hòa. Trước cái chết của trang liệt sĩ Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng có làm bài thơ khóc như sau:

Thư kiếm tiêu nhiên độc xuất môn Nhứt quan thác lạc vị thân tồn Trực lương tân học khai nô lũy Thùy tín dân quyền chủng họa côn. Bồng đảo xuân phong huyền viễn mộng, Nha Trang thu thảo khấp anh hồn Khả liên nhứt biệt thành thiên cổ Đà Nẵng phân trầm tửu thượng ôn.

Dịch:

Gươm xách xăm xăm tách dặm miền Làm quan vì mẹ há vì tiền Quyết đem học mới thay nô kiếp Ai biết quyền dân nảy họa nguyên. Bồng đảo gió chưa đưa giấc mộng, Nha Trang cỏ đã khóc hồn thiêng, Chia tay chén rượu còn đương nóng, Đà Nẵng đưa nhau lúc xuống thuyền.

Tài sản của LSB-Sun
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 04-09-2009   #5
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.761.406
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
Bùi Giáng

Bùi Giáng (1926-1998) là một nhà thơ, dịch giả và nghiên cứu văn học của Việt Nam, ông nổi tiếng từ thập niên 1960 như một hiện tượng dị thường riêng biệt.

Ông sinh ngày 17 tháng 12 năm 1926 tại làng Thanh Châu thuộc xã Vĩnh Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.

Bố của Bùi Giáng là ông Bùi Thuyên, thuộc đời thứ 16 của dòng họ Bùi ở Quảng Nam. Do người vợ cả qua đời sớm nên ông lấy người vợ kế là bà Huỳnh Thị Kiền. Bùi Giáng là con thứ hai của Bùi Thuyên với Huỳnh Thị Kiền nhưng là con thứ 5 nếu tính tất cả các anh em. Khi vào Sài Gòn, ông được gọi theo cách gọi miền Nam là Sáu Giáng.

Cuộc đời của Bùi Giáng được bao phủ bởi nhiều giai thoại ly kỳ, những thông tin hư hư, thực thực. Ông còn nổi tiếng bởi tốc độ sáng tác rất nhanh: tập thơ Mười hai con mắt được ông sáng tác chỉ trong 1 đêm noel năm 1992.

Từ năm 1962, Bùi Giáng liên tục cho ra đời nhiều đầu sách. Mỗi năm đều đều vài ba cuốn. Ông là một tác giả có tác phẩm in ra đứng vào hàng kỷ lục ở miền Nam Việt Nam trước giải phóng. Sách của ông có thể chất thành chồng cao cả mét, thơ thì phải kể bằng đơn vị nghìn bài.

Tài sản của LSB-Sun
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 04-09-2009   #6
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.761.406
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
Lê Cơ

Lê Cơ sinh năm 1859 ở làng Phú Lâm, huyện Lễ Dương ( nay là xã Tiên Sơn, huyện Tiên Phước, Quảng Nam ) trong một gia đình trung nông. Do gia đình khá giả nên ông được ăn học chu đáo, nhưng vì sống ở vùng quê nên chỉ học đến trường Ba, từ đó ông không đi thi tú tài, chỉ ở làng làm nông. Đầu thế kỷ XX, tư tưởng dân chủ, dân quyền ở các nước Nhật, Trung Quốc và Châu Âu thâm nhập vào giới sĩ phu Việt Nam. Năm 1903, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng và Trần Quý Cáp khởi xướng cuộc vận động Duy Tân, lúc này tại làng Phú Lâm, Lê Cơ ra nhận chức lý trưởng, ông suy nghĩ " Túng bất năng hành chi thiên hạ, do khả nghiệm chi nhất hương "( Nếu không làm được việc lớn cho thiên hạ thì cũng làm những việc đúng trong một làng )".



Từ đây, Lê Cơ được nhân dân gọi là Cụ Xã Sáu. Trong bối cảnh nước nhà bị nô lệ, nạn cường quyền áp bức làm cho đời sống nhân dân cơ cực, Lê Cơ nhận thấy việc cải cách xã hội, làng xã là việc cần thiết trước hết là để tự cường, sau đó là xây dựng nền dân chủ để cứu nước. Lê Cơ đã hưởng ứng phong trào Duy Tân và ông đã thực hiện công cuộc cải, lập trường tân học, mở mang dân trí. Ngày 25/12/1903, Lê Cơ đưa đơn lên tri phủ Thăng Bình xin mở tiệm buôn tạp hóa và trường dạy chữ quốc ngữ. Ông hô hào nhân dân trong xã đóng góp tiền của, công sức xây dựng một trường học ở làng Phú Lâm. Ngày 30/4/1904, trường quốc ngữ Phú Lâm khai giảng dạy nam giới học, ban ngày dạy thanh niên, tối dạy trung niên, ngày chủ nhật dân trong làng và các vùng lân cận đến nghe diễn thuyết, nghe thơ, nghe nói vè, đánh cờ... Năm 1915, số người trong làng và vùng xung quanh xin học quá đông, Lê Cơ lập thêm 4 trường dạy nam giới học chữ quốc ngữ, trường cũ chuyển sang dạy nữ thanh thiếu niên. Chương trình học lúc bấy giờ gồm nhiều môn như lịch sử, địa lý, hát, vẽ, toán đố. Dần dần một số thanh niên được học tiếng Pháp và tiếng Nhật, đặc biệt trường Phú Lâm còn dạy quân sự, rèn luyện sức khoẻ cho học sinh dưới hình thức thể thao, luyện võ. Các trường có trên 100 học sinh nam, nữ. Trường Phú Lâm trở thành trường tân học đầu tiên của phong trào Duy Tân và cũng là trường đầu tiên ở Quảng Nam và cả nước dạy nữ học sinh. Ngoài việc thành lập trường Phú Lâm, Lê Cơ tham gia cùng với các nhân sĩ Hồ Tá Bang, Nguyễn Trọng Lợi, Nguyễn Quý Anh vận động thành lập trường Dục Thanh ( trường tân học ở Phan Thiết ) và Công ty Liên Thành vào năm 1906.

Tại làng Phú Lâm, Lê Cơ cũng tích cực thực hiện cải cách xã hội. Ông tổ chức họp dân để diễn thuyết, nghe những bài thơ cổ súy tinh thần yêu nước, vận động mọi người mặc áo tây, cắt tóc ngắn. Tháng 5 năm 1904, ông kêu gọi nhân dân góp cổ phần thành lập Thương hội bình dân, phân công người đem nông sản đi bán các nơi và mua hàng hóa về bán lại cho dân trong vùng, riêng các loại hàng giấy mực chỉ bán một số ít, chủ yếu cấp không cho dân nghèo đi học. Khi trường tân học Phú Lâm hoạt động ổn định, Lê Cơ cho người vừa đi mua bán vừa liên lạc tiếp xúc với các sĩ phu yêu nước để vận động cho phong trào Duy Tân. Trước thực trang người nông dân bị thực dân phong kiến bóc lột, sưu cao thuế nặng, không có ruộng cày phải đi làm thuê, Lê Cơ đã nghĩ ra phương cách sản xuất tập thể với tên gọi Nông đoàn, Hợp xã. Để khuyếch trương công nghệ, ông thành lập lò rèn, lò gạch, lò gốm), xưởng mộc trong làng để sản xuất phục vụ nhân dân và trao đổi buôn bán với bên ngoài.

Thời kỳ này, Phú Lâm thực sự trở thành trung tâm điểm thực hành cải cách ở Việt Nam, làng Phú Lâm như một đơn vị kinh tế độc lập, phát triển mạnh về sản xuất, kinh doanh buôn bán, nghề thủ công và trình độ dân trí, dân quyền được nâng lên rất nhiều so với trước, làng Phú Lâm như là một đơn vị hành chính riêng lẽ không bị phụ thuộc chính quyền thực dân phong kiến, mọi công việc trong làng đều do Lê Cơ và những sĩ phu yêu nước điều hành hoạt động, người dân thực sự sống trong xã hội dân chủ, no ấm và hạnh phúc.

Mặc dù việc làm cải cách trong làng theo chủ thuyết Duy Tân, nhưng tư tưởng của Lê Cơ vẫn âm thầm chuẩn bị cho bạo động. Để bảo vệ làng xã và tránh sự can thiệp của thực dân phong kiến, Lê cơ cho dân làng cắm biển yết thị giờ giấc ra vào tại các cổng ngõ, dựng điếm canh bên trong đặt cùm sắt để răn đe kẻ phi pháp. Ông thành lập một đội tuần đinh lấy tên là Đoàn Kiết, chia thành nhiều tổ, mỗi tổ 10 người để tuần phòng làng xã vào ban đêm, lúc rổi ông còn đến thăm công việc sản xuất, việc ăn ở vệ sinh theo đời sống mới, việc luyện tập võ nghệ, quân sự của các gia đình trong làng. Công việc cải cách tại làng Phú Lâm đang tiến triển thì một số kẻ ganh ghét báo với thực dân Pháp rằng ông mưu đồ chống chính phủ bảo hộ, Tri phủ Lê Bá Đằng đến Phú Lâm định thu giấy phép mở trường học, nhưng Lê Cơ phản đối quyết liệt, kiện tòa công sứ Pháp tại Hội An. Tại tòa sứ, trước lý lẽ thuyết phục của Lê Cơ về dân sinh, dân quyền, mở mang dân trí cho nhân dân, thực dân Pháp buộc phải cho phép ông tiếp tục thực hiện công việc. Phong trào cải cách ở Phú Lâm phát triển mạnh, trong nước đều nghe tiếng, các nhà yêu nước ở các nơi đến Phú Lâm học tập. Từ mô hình trường tân học và công cuộc cải cách ở Phú Lâm, lần lượt cho ra đời nhiều trường tân học ( tỉnh Quảng Nam có thêm 40 trường tân học, sau đó là trường Dục Thanh, Phan Thiết thành lập năm 1906, trường Đông Kinh Nghĩa Thục, Nghệ An thành lập năm 1907 ).

Trước tình hình phát triển của trường tân học và công cuộc cải cách thực nghiệp ở Phú Lâm và các nơi khác trong nước, thực dân Pháp lo sợ bắt đầu chú ý đề phòng. Đầu năm 1908, cuộc biểu tình kháng thuế nổ ra ở Đại Lộc, lan xuống Điện Bàn, Hội An; tại Tiên Phước, Lê Cơ cùng Lê Tiệm, Lê Vĩnh Huy, Phan Quang, Trần Thuyết... tổ chức họp kín ở Phú Lâm, vận động học trò làm đơn, cổ động nông dân kéo xuống phủ đường Tam Kỳ xin giảm sưu thuế. Ngày 21/2/1908, gần 500 nông dân Hà Đông kéo đến phủ đường Tam Kỳ đưa đơn. Có sự liên kết từ trước, khi nông dân Đại Lộc biểu tình, ngày 26 -28/3/1908, nông dân các làng thuộc tổng Vinh Quý, Phước Lợi, Chiên Đàn và các tổng khác tổ chức họp dân diễn thuyết và bàn việc bao vây phủ đường Tam Kỳ. Sáng 30/3/1908, Lê Cơ lãnh đạo hàng nghìn nông dân tập trung tại các đình làng hô hào chống sưu thuế, bắt cường hào, rồi kéo xuống bao vây phủ Tam Kỳ ba ngày đêm, đề đốc Trần Tuệ là tên cai phu gian ác hoảng sợ, hộc máu chết. Sáng 4/4/1908, thực dân Pháp giải vây, bắt Lê Cơ, Trần Thuyết, Lê Vĩnh Huy giam ở nhà lao Hội An và đàn áp khốc liệt cuộc biểu tình ở Đại Lộc cũng như ở Hà Đông. Làng Phú Lâm bị lính canh giữ, triệt phá các cơ sở cải cách, bắt trên 500 người về phủ Tam Kỳ. Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng bị bắt đày biệt xứ đi Côn Đảo. Lê Cơ, Lê Tiệm, Lê Kiều, Lê Vĩnh Huy và nhiều người khác bị kết án 5 năm khổ sai tại nhà lao Hội An. Năm 1913, Lê Cơ ra tù về lại Phú Lâm. Lúc này một số sĩ phu yêu nước chuyển sang tham gia hoạt động trong phong trào Đông Du, chuẩn bị cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quang Phục Hội. Lê Cơ bí mật tiếp xúc các chí sĩ yêu nước ở Quảng Nam đứng đầu là Thái Phiên. Tháng 8/1915, các tổng Vinh Quý, Phước Lợi, Chiên Đàn ở Hà Đông đã thành lập Ban chỉ huy khởi nghĩa. Lê Cơ được cử vào Ban chỉ huy của tổng Vinh Quý, ông bí mật rèn vũ khí ở làng Phú Lâm, may trang phục, quân dụng và lên Đại Lộc, cùng Đỗ Đăng Tuyển rèn thêm vũ khí, tích trữ lương thực. Ngày 1/5/1916, cuộc khởi nghĩa nổ ra, Lê Cơ được giao nhiệm vụ cùng Thái Phiên chỉ huy tấn công cửa Nhà Đồ, Huế. Tại Quảng Nam, lực lượng khởi nghĩa được chuẩn bị trước kéo xuống bao vây phá phủ Tam Kỳ. Tuy nhiên, cuộc khởi nghĩa bị lộ, Pháp đàn áp dữ dội, Thái Phiên, Trần Cao Vân bị chém tại An Hoà, Huế; Trần Huỳnh bị chém ở chợ Cũi, Vĩnh Điện. Lê Cơ, Lê Tiệm, Lê Vĩnh Huy, Đỗ Đăng Tuyển... bị tuyên án 10 năm khổ sai đày đi Lao Bảo. Lê Tiệm, Lê Vĩnh Huy chết trong ngục, Đỗ Đăng Tuyển tự vận. Cuối năm 1916, tại nhà tù Lao Bảo, Lờ Cơ bị bắt đi làm phục dịch, đang vót tre, ông thấy một người tù bị kiết lỵ ngồi trong đám cỏ mà bọn lính tàn ác dùng báng súng đánh đập, ông cầm rựa xông đến can thiệp thì bị bắn chết. Lê Cơ hy sinh lúc 57 tuổi.

Tài sản của LSB-Sun
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 04-09-2009   #7
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.761.406
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
Phan Châu Trinh

Phan Châu Trinh, tự Hy Mã, hiệu Tây Hồ; sinh năm 1872 tại làng Tây Lộc, huyện Hà Đông (trước thuộc xã Tam Lộc, Tam Kỳ, nay thuộc huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam). Ông vốn có tư chất thông minh, cần cù, ham học. Thuở niên thiếu của Ông trong bối cảnh đất bị nô lệ, tại Quảng Nam, phong trào Nghĩa hội nổ ra, là một trong những tổ chức hoạt động chống Pháp rất kiên cường và anh dũng, trong đó cha ông là PhanVăn Bình tham gia, giữ chức Tán tương quân vụ.

Lúc này, Phan Châu Trinh theo học võ nghệ với nghĩa quân Nghĩa hội đến năm 1887, cha mất, phong trào Nghĩa hội bị dàn áp trong biển máu, Phan Châu Trinh về quê đi học lại. Năm 1892, Phan Châu Trinh kết bạn với Huỳnh Thúc Kháng và Trần Quý Cáp khi theo học với Đốc học Mã Sơn - Trần Đình Phong. Năm 1900, Phan Châu Trinh thi đỗ cử nhân, năm sau đỗ phó bảng nhưng phải về nhà vì đám tang anh ruột và ở lại quê nhà dạy học. Năm 1903, Phan Châu Trinh được bổ làm Thừa biện Bộ lễ, trong thời gian ở Huế, ông có điều kiện đọc các sách về công cuộc duy tân ở Nhật Bản, tiếp cận chủ thuyết " Tam dân: Dân tộc độc lập - Dân quyền tự do - Dân sinh hạnh phúc " của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, cùng với xu hướng dân chủ tư sản của các nhà dân chủ Pháp và những kế sách cải cách của Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch, Phạm Phú Thứ... đã tác động mạnh mẻ trong tư tưởng của Phan Châu Trinh,. Ông từ quan trở về quê và năm 1904, tại làng Thạnh Bình, huyện Tiên Phước, Quảng Nam, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp, Phan Bội Châu gặp nhau để bàn việc cứu nước.

Năm 1905, Phan Châu Trinh cùng Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp lên đường vào Nam, tại trường thi Bình Định, Phan Châu Trinh viết bài thơ "Chí thành thông thánh ", bài xìch lối học, khoa cử từ chương. Tiếp tục vào Nam, Phan Châu Trinh đến Cam Ranh tìm hiểu sự tiến bộ của kỹ thuật văn minh phương Tây. Khi vào Bình Thuận, Phan Châu Trinh cùng các nhân sỹ hô hào duy tân, cải cách, thành lập công ty Liên Thành và trường Dục Thanh. Tại Phan Thiết, mậc dù bị bệnh, ông vẫn gắng sức tuyên truyền những tư tưởng mới về dân chủ, tự cường. Sau đó, Phan Châu Trinh về Quảng Nam, đầu năm 1906, lại ra Bắc, chuẩn bị thành lập cơ sở duy tân tại Hà Nội, rồi lên Yên Thế, tìm hiểu hoạt động chống Pháp của lãnh tụ nông dân Hoàng Hoa Thám, rồi sang Trung Quốc, Nhật Bản gặp Phan Bội Châu, đồng thời tìm hiểu chính sách duy tân của nước Nhật.

Phan Châu Trinh không ngừng truyền bá tư tưởng dân chủ, dân quyền, cổ xúy phong trào cắt tóc ngắn, dùng hàng nội, mặc đồ âu, học chữ quốc ngữ, bài trừ mê tín dị đoan... Ông vận động thành lập nhiều thương hội để tập hợp những người yêu nước, lo cho dân giàu, nước mạnh; trong đó Quảng Nam là nơi đầu tiên thực nghiệm chủ trương này của ông: Hiệp thương Công ty ở Hội An, Thương học Công ty ở Tiên Phước, nhiều đồn điền khai khẩn ở Điện Bàn, Đại Lộc, Quế Sơn... được thành lập . Về dân trí, các trường học duy tân được tổ chức, trong đó tập trung nhiều nhất tại Quảng Nam như ở Diên Phong, Phước Bình, Phú Lâm, Đại Lộc... Những năm tiếp theo, nền tảng tư tưởng dân chủ, dân sinh được bén rể ở nông thôn và dưới ảnh hưởng hoạt động của Phan Châu Trinh; không thể chịu nỗi áp bức, cường quyền, cuộc sống lầm than cơ cực, nhân dân đã nhất tề vùng lên; phong trào xin xâu, chống thuế là hiệu quả tất yếu của phong trào Duy Tân do Phan Châu Trinh khởi xướng, điều đặt biệt là phong trào có quy mô lớn nhất được khởi phát từ chính quê hương Quảng Nam vào năm 1908. Thực dân Pháp và tay sai đàn áp dã man, hàng nghìn nông dân bị giết, bị tra tấn, bị tù đày; các chí sĩ như Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng bị bắt đày đi Côn Đảo. Ba năm sau, thực dân Pháp buộc phải trả tự do, nhưng lại giam lỏng ông ở Mỹ Tho; bị phản đối quyết liệt, thực dân Pháp phải cho ông ra nước ngoài cùng con trai là Phan Châu Dật vào cuối năm 1911. Đến nước Pháp, Phan Châu Trinh tiếp tục đấu tranh, tố cáo chính sách bóc lột của thực dân Pháp ở Đông Dương. Năm 1914, Phan Châu Trinh bị bắt giam vào ngục Santé. Tháng 7 năm 1915, ra tù, cũng như mọi người dân mất nước nơi đất khách quê người, Phan Châu Trinh phải lao động khổ nhọc để kiếm sống và tìm điều kiện hoạt động. Với sự đồng cảm của người dân nô lệ, Phan Châu Trinh đã gặp Nguyễn Ái Quốc - sau này là Chủ tịch Hồ Chí Minh - Phan Châu Trinh nhìn thấy tương lai rộng mở ở người cách mạng trẻ tuổi có nhiệt huyết này, ông đã giúp đỡ anh Nguyễn lúc cơ cực, cung cấp nhiều tư liệu cho Nguyễn Aí Quốc. Hoạt động của Phan Châu Trinh trong thời gian ở Pháp rất phong phú, ông giao tiếp với nhiều Việt kiều, nhà yêu nước, nhân sĩ tiến bộ như luật sư Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh... và cùng các nhân sĩ trí thức thành lập " Hội đồng bào thân ái " tại Pháp. Chính tấm lòng lo cho dân, cho nước ấy mà Phan Châu Trinh được mọi người yêu mến, kính trọng kể cả mối quan hệ với lãnh tụ Nguyễn Aí Quốc. Trong quảng thời gian này, chiêm nghiệm lại sự thành bại của mình và nhận thấy con đường cứu nước đối với nhân dân Việt Nam không thể theo khuynh hướng dân chủ tư sản, với tri thức nhạy cảm của nhà yêu nước tiền bối và qua kết thân với Nguyễn Aí Quốc, Phan Châu Trinh đã tiếp cận với chủ nghĩa Mác - Lênin và đã có tầm nhìn xa về tương lai của Nguyễn Aí Quốc, kỳ vọng vào anh Nguyễn mà sau này Phan Châu Trinh nói:" Độc lập của nước Nam ta sẽ trông cậy vào Nguyễn Aí Quốc ". Tuy Phan Châu Trinh ở ngoài nước, nhưng tấm lòng hướng về tổ quốc vẫn không nguôi, ông tìm mọi cách để về nước hoạt động nhưng không được. Năm 1925, chính sách thuộc địa có thay đổi, đặc biệt tình hình cách mạng Việt Nam có nhiều chuyển biến mạnh mẻ. Phan Châu Trinh về quê hương sau 14 năm ở Pháp. Nhưng do lao tâm, lao lực quá nhiều, bệnh cũ tái phát, ngày 24 tháng 3 năm 1926, Phan Châu Trinh vĩnh viễn ra đi tại Sài Gòn trong vô vàn tiếc thương của nhân dân cả nước.

Hơn 20 năm hoạt động cứu nước, Phan Châu Trinh đã cống hiến trọn cuộc đời mình cho nhân dân, cho dân tộc, ông chịu hy sinh tất cả bản thân và gia đình, từ bị giam cầm trong lao tù, vất vả lao động kiếm sống nơi đất khách quê người đến ly tán gia đình và lúc trở về cõi vĩnh hằng nhưng trong lòng vẫn mong sao cho dân tộc được độc lập, nhân dân được ấm no, hạnh phúc. Với tấm lòng yêu nước, thương dân ấy, nhân dân Việt Nam đã ghi tạc hình ảnh nhà yêu nước đi tiên phong trong phong trào dân sinh, dân chủ. Ngày Phan Châu Trinh qua đời, cả nước để quốc tang, trong đó tình cảm của nhân dân Quảng Nam cũng tràn đầy tình sâu nghĩa nặng. Đám tang Phan Châu Trinh là sự kiện chính trị nổi bật nhất lúc bấy giờ, đã trở thành cuộc vận động và tiền đề cho phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng, trong đó nhiều lãnh tụ của Đảng ta đã tham gia và được tôi luyện, trưởng thành trong phong trào này. Nó có ý nghĩa và tác dụng tích cực đối với trong phong trào cứu nước do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo sau này. Tại Quảng Nam, lễ truy điệu Phan Châu Trinh tại Hội An đã thu hút đông đảo học sinh, công nhân, nông dân, trí thức yêu nước tham gia. Đăc biệt, tại quê hương ông ( Tam Kỳ, nay là Phú Ninh ) có trên 1.000 người dự, đồng bào đeo băng tang và để tang 3 ngày.

Tài sản của LSB-Sun
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 04-09-2009   #8
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.761.406
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
Nguyễn Duy Hiệu

Nguyễn Duy Hiệu (1847–1887) là người làng Thanh Hà, quận Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Để hưởng ứng hịch Cần Vương, ông đã cùng với Trần Văn Dự, Phan Bá Phiến thành lập "Nghĩa Hội Quảng Nam", chiêu mộ và huấn luyện nghĩa quân, lập căn cứ chiến lược Trung Lập, rồi tiến đánh khắp đồn trại của quân Pháp, từ La Qua (Điện Bàn), Trà Kiệu, Phú Thượng, Bãi Chai, Gò Muống đến Hòa Vang, Phú Trạch, Viêm Minh, Duy Xuyên... Cuộc khởi nghĩa đã bị triều đình Đồng Khánh và quân Pháp đàn áp dã man.



Ngày 13 tháng 12 năm 1885, Trần Văn Dự bị bắt và bị quân Pháp xử tử tại Điện Bàn, nhưng vẫn đem xác ông ra chém đầu lần nữa. Công cuộc khởi nghĩa vẫn tiếp tục không ngừng. Đồng Khánh cử Nguyễn Thân cùng với quân Pháp bao vây các căn cứ của nghĩa quân. Đến ngày 21 tháng 9 năm 1887, vì thế cùng lực kiệt và muốn bảo toàn sinh lực của tổ chức, Phan Bá Phiến uống thuốc độc tự vận. Còn Nguyễn Duy Hiệu bị bắt và xử tử tại Huế ngày 15 tháng 10 năm 1887.

Tài sản của LSB-Sun
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 04-09-2009   #9
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.761.406
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
Hoàng Diệu


Hoàng Diệu (1829 - 1882) là một quan nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam, người đã quyết tử bảo vệ thành Hà Nội khi Pháp tấn công năm 1882, khi ông làm Tổng đốc Hà Ninh - Hà Nội và Ninh Hải (Hải Phòng).

Ông tên thật là Hoàng Kim Tích, sau mới đổi là Hoàng Diệu, tự là Quang Viễn, hiệu Tỉnh Trai, sinh ngày 10 tháng 2 năm Mậu Tý (1829), trong một gia đình có truyền thống nho giáo tại làng Xuân Đài, huyện Diên Phước, tỉnh Quảng Nam (này là huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam[1]. Gia đình ông có 7 anh em và họ đều nổi tiếng là những người thông minh trong vùng. Sử chép rằng gia đình Hoàng Diệu có một người đỗ Phó Bảng, ba người đỗ Cử Nhân, hai người Tú Tài trong các kỳ thi dưới thời vua Tự Đức.

Hoàng Diệu là người nổi bật nhất trong số các anh em trong gia đình. Năm 20 tuổi ông đã đồng đỗ Cử nhân với anh trai Hoàng Kim Giám (khi ấy 23 tuổi) khoa Mậu Thân 1848 trong khoa thi hương tại Thừa Thiên, năm 25 tuổi đỗ Phó bảng khoa Quý Sửu (1853). Năm 1851 ông được vua Tự Đức bổ nhiệm làm Tri huyện Tuy Phước rồi Tri phủ Tuy Viễn (Bình Định). Một thời gian sau ông bị giáng, đổi về Tri huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên, rồi lại thăng làm Tri phủ tại Đa Phúc (Phúc Yên), Lạng Giang (Bắc Giang), tiếp tục thăng làm Án sát Nam Định, rồi Bố chánh Bắc Ninh. Hoàng Diệu được đánh giá là một vị quan thanh liêm chính trực, vì nước vì dân. Suốt 30 năm làm quan nhiều nơi, cảnh nhà vẫn thanh bạch, nghèo túng. Tuy nhiên, tại các nơi ông cai quản trật tự xã hội rất nghiêm minh, không có tình trạng trộm cướp, áp bức dân lành. Vua Tự Đức đã khen Hoàng Diệu rằng: "Chăm lo cho dân Bắc Hà, ngoài Hoàng Diệu ra không ai hơn". Ông rất được vua Tự Đức tin dùng.

Năm 1864, xảy ra vụ nổi dậy của Hồng Tập, con hoàng thân Miên Áo, em chú bác của Hồng Nhậm (tức vua Tự Đức), cùng với một số người khác. Bại lộ, Hồng Tập và Nguyễn Văn Viện bị án chém. Hoàng ng Diệu đến nhậm chức tri huyện Hương Trà thay Tôn Thất Thanh bị đổi đi nơi khác, bấy giờ có mặt trong lúc hành nh quyết đã nghe Hồng Tập nói: "Vì tức giận về hòa nghị mới bị tội, xin chớ ghép vào tội phản nghịch". Sau đó các quan Phan Huy Kiệm, Trần Gia Huệ và Biện Vĩnh tâu lên Tự Đức, đề nghị nhà vua nên theo gương Hán Minh Đế, thẩm tra lại vụ án. Tự Đức phán là vụ án đã được đình thần thẩm xét kỹ, nay nghe Phan Huy Kiệm nói Hoàng ng Diệu đã kể lại lời trăn trối của Hồng Tập, bèn quyết định giáng chức Phan Huy Kiệm, Trần Gia Huệ, Biện Vĩnh và Hoàng Diệu[1].

Được phục chức sau vụ "tẩy oan" Hồng Tập, Hoàng Diệu lần đầu ra bắc năm 1868, làm Tri phủ Đa Phúc, rồi Tri phủ Lạng Giang (Bắc Giang), Án sát Nam Định, Bố chánh Bắc Ninh. Trong chín năm ấy, ông lập nhiều quân công, dẹp trộm cướp và an dân, ở đâu ông cũng được sĩ dân quý mến.

Năm 1873 ông được triệu về kinh đô Huế giữ chức Tham tri Bộ Hình rồi Tham tri Bộ Lại, kiêm quản Đô Sát Viện, dự bàn những việc ở Cơ Mật Viện. Năm 1878, đổi làm Tuần vũ Quảng Nam, thăng Tổng đốc An Tịnh (Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay), nhưng vì nguyên Tổng đốc Nguyễn Chính vẫn lưu nhiệm nên ông ở lại Huế, làm Tham tri Bộ Lại (Thực lục của Cao Xuân Dục). Chẳng bao lâu sau, ông được sung chức Phó Toàn quyền Đại Thần đàm phán với Sứ thần Tây Ban Nha một hiệp ước giao thương. Năm 1880, ông làm Tổng đốc Hà Ninh, lãnh chức hàm Thượng thư bộ Binh[2], kiêm quản cả việc thương chính.

Đầu năm 1880, Hoàng Diệu nhận chức tổng đốc Hà Ninh kiêm trông coi công việc thương chánh.

Biết rõ dã tâm xâm lược của thực dân Pháp lúc bấy giờ, Hoàng Diệu bắt tay ngay vào việc chuẩn bị chiến đấu, kinh lý, biên phòng. Như Đại Nam chính biên liệt truyện đã nêu, tổng đốc Hà Ninh đã "cùng với tổng đốc tỉnh Sơn Tây Nguyễn Hữu Độ dâng sớ nói về việc bố phòng, lại cùng với Nguyễn Đình Nhuận mật tâu về chước phòng vị sẵn". Vua Tự Đức khen. "Nhưng sau đó - như trong di biểu nêu - vua lại trách cứ lưu binh... vì sợ giặc"... "chế ngự không đúng cách" (?)

Một mặt khác, Hoàng Diệu quan tâm ổn định đời sống của dân chúng trong công bằng và trật tự. Ngày nay, ở Ô Quan Chưởng, đầu phố Hàng Chiếu, còn áp ở mặt tường cổng ra vào một phần tấm bia Lệnh cấm trừ tệ (Thân cấm khu tệ), niêm yết năm 1881, của Tổng đốc Hà Ninh Hoàng Diệu và Tuần phủ Hà Nội Hoàng Hữu Xứng, nhằm ngăn chặn các tệ nhũng nhiễu đối với nhân dân trong các dịp ma chay, cưới xin cũng như nạn vòi tiền, cướp bóc trên sông và ở các chợ, kèm theo các quy định cụ thể cần thi hành đến nơi đến chốn. Một di tích quý hiếm nói lên tấm lòng ưu ái của người công bộc mãi mãi còn giá trị của nó.

Từ 1879 đến 1882, Ông làm Tổng đốc Hà Ninh quản lý hai vùng trọng yếu nhất của Bắc Bộ là Hà Nội và Ninh Hải (Hải Phòng). Ông đã chỉ đạo quân dân Hà Nội tử thủ chống lại quân đội Pháp, bất chấp triều đình Huế đã chấp nhận đầu hàng. Ngày 25 tháng 4 năm 1882 (tức ngày 8 tháng 3 năm Nhâm Ngọ), thành Hà Nội thất thủ, Hoàng Diệu đã tự vẫn tại Võ Miếu để không rơi vào tay giặc.

Người Hà Nội vô cùng đau đớn trước cái chết của ông, ngay hôm sau, nhiều người họp lại, sắm sửa mền nệm tử tế, rước quan tài của Hoàng Diệu từ trong thành ra, tổ chức khâm liệm và mai táng tại khu vườn Dinh Đốc học (nay là địa điểm khách sạn Royal Star ở đường Trần Quý Cáp cạnh chợ Ngô Sĩ Liên, sau ga Hà Nội).

Hơn một tháng sau hai người con trai ông ra Hà Nội lo liệu đưa thi hài thân sinh về an táng ở quê quán vào mùa thu năm ấy.

Khu lăng mộ Hoàng Diệu, theo quyết định ngày 25 tháng 1 năm 1994 của Bộ Văn hóa Thông tin, được công nhận là một di tích lịch sử - văn hóa của Việt Nam.

Năm 1873, sau khi chiếm được Nam Bộ, Pháp chuẩn bị tiến ra Bắc Bộ. Vua Tự Đức giao phó cho Hoàng Diệu làm Tổng đốc Hà Ninh quản lý hai vùng trọng yếu của Bắc Bộ là Hà Nội, Ninh Hải (Hải Phòng). Ngay khi tới Hà Nội Hoàng Diệu đã chú tâm tới việc xây dựng thành lũy chuẩn bị lực lượng để chống Pháp. Từ năm 1880 đến 1882, ông đã hai ba lần dâng sớ xin triều đình chi viện để củng cố phòng tuyến chống giặc tại Hà Nội, nhưng không nhận được hồi âm từ Huế.

Đầu năm 1882, lấy cớ Việt Nam không tôn trọng hiệp ước năm 1873 mà lại đi giao thiệp với Trung Hoa, dung túng quân Cờ Đen (một nhánh quân của Thái Bình Thiên Quốc) ngăn trở việc giao thông trên sông Hồng của người Pháp, Đại tá Henri Rivière của Hải quân Pháp cho tàu chiến cùng 4.000 quân đóng trại tại Đồn Thủy (trên bờ bắc sông Hồng, cách thành Hà Nội 5 km) nhằm uy hiếp Hà Nội. Hoàng Diệu đã hạ lệnh giới nghiêm tại Hà Nội và bố cáo các tỉnh xung quanh sẵn sàng tác chiến, đồng thời yêu cầu viện binh từ triều đình Huế.

Tuy nhiên phái chủ bại của triều đình Huế đã thuyết phục vua Tự Đức chấp nhận mất miền Bắc để giữ an toàn cho ngai vàng. Vua Tự Đức đã hạ chiếu quở trách Hoàng Diệu đã đem binh dọa giặc và chế ngự sai đường. Nhưng Hoàng Diệu đã quyết tâm sống chết với thành Hà Nội. Các quan xung quanh ông Hoàng Diệu lúc bấy giờ có Tuần phủ Hoàng Hữu Xung, Đề đốc Lê Văn Trinh, Bố chánh Phan Văn Tuyển, Án sát Tôn Thức Bá và Lãnh binh Lê Trực đã cùng nhau uống rượu hòa máu tỏ quyết tâm sống chết với Hà thành.

Rạng ngày 25 tháng 4 năm 1882, tức ngày mồng 8 tháng 3 năm Nhâm Ngọ, Henri Rivière cho tàu chiến áp sát thành Hà Nội, đưa tối hậu thơ, yêu sách 3 điều:

* Phá các tao tác phòng thủ trong thành,

* Giải giới binh lính.

* Đúng 8 giờ các vị tổng đốc tuần phủ, bố chính, án sát và chánh, phó lãnh binh phải thân đến trình diện tại dinh đại tá. Sau đó, quân Pháp sẽ vào thành kiểm kê. Xong sẽ giao trả thành lại.

Hoàng Diệu tiếp tối hậu thư, liền sai Tôn Thất Bá đi điều đình. Nhưng không đợi trả lời, lúc 8 giờ 15, Rivière với 4 tàu chiến là La Fanfare, La Massue, La Hache, La Surprise (tàu này không kịp tới, vì mắc cạn dọc đường Hải Phòng đi Hà Nội) bắn vào thành yểm trợ cho số quân 450 người và một ít thân binh đổ bộ hòng chiếm thành Hà Nội[3].

Ngay trong những phút đầu tiên, hoàng thân Tôn Thất Bá chạy trốn vào làng Mọc (Nhân Mục) ở phía Đông Nam Hà Nội theo giặc và thông báo tình hình trong thành Hà Nội cho Pháp. Đồng thời, Bá cũng dâng sớ lên vua Tự Đức đổ tội cho Hoàng Diệu và xin với Pháp cho Bá thay làm Tổng đốc Hà Ninh.

Tuy vậy, quân Pháp vẫn vấp phải sự kháng cự quyết liệt của quân dân Hà thành dưới sự chỉ huy của Hoàng Diệu[4]. Quân Pháp bị thiệt hại nặng và phải rút ra ngoài tầm súng để củng cố lực lượng.

Nhưng trong lúc chiến sự diễn ra khốc liệt thì kho thuốc súng của Hà Nội nổ tung[5], dẫn tới đám cháy lớn trong thành làm cho lòng quân hoang mang. Quân Pháp thừa cơ phá được cổng Tây thành Hà Nội và ùa vào thành. Bố chính Nguyễn Văn Tuyển, Đề đốc Lê Văn Trinh và các lãnh binh bỏ thành chạy, còn Tuần phủ Hoàng Hữu Xứng trốn trong hành cung.

Trong tình thế tuyệt vọng, Hoàng Diệu vẫn tiếp tục bình tĩnh dẫn đầu quân sĩ chiến đấu chống lại quân Pháp dù lực lượng ngày càng yếu đi, không thể giữ được thành nữa. Cuối cùng, Hoàng Diệu đã ra lệnh cho tướng sỹ giải tán để tránh thương vong. Một mình Hoàng Diệu vào hành cung, thảo tờ di biểu, rồi ra trước Võ miếu dùng khăn bịt đầu thắt cổ tự tử, hưởng dương 50 tuổi.

Tờ di biểu, ông cắn ngón tay lấy máu viết di biểu tạ tội cho vua Tự Đức:

Thành mất không sao cứu được, thật hổ với nhân sĩ Bắc thành lúc sinh tiền. Thân chết có quản gì, nguyện xin theo Nguyễn Tri Phương xuống đất. Quân vương muôn dặm, huyết lệ đôi hàng...[6].

Ông mất ngày 25 tháng 4 năm 1882, thọ 54 tuổi.

-----------------------------------------------------

1. Theo phả họ Hoàng thì Hoàng Diệu gốc từ Huệ Trì, huyện Quang Minh, phủ Nam Sách, đạo Hải Dương. Cụ tổ vào lập nghiệp ở vùng Kỳ Lam truyền được mười đời, gốc họ Mạc. Ông là đời thứ 7 [8]
2. Đây chỉ là chức hàm, không phải chức vụ.
3. Xem "Corresponance politique du Commanant Henri Riviere au Tonkin", tác giả André Masson
4. Hoàng Diệu trực tiếp chỉ huy quân sĩ chống cự tại cửa Bắc
5. Các sử liệu không thống nhất nhau. Có tài liệu cho rằng Pháp thuê Việt gian đốt. Tài liệu khác lại ghi là chính Tôn Thất Bá đã làm nội tuyến cho Pháp.
6. Xem "Việt Sử Toàn Thư" , tác giả Phạm Văn Sơn. tr 658
7. Xem "Việt Sử Toàn Thư" , tác giả Phạm Văn Sơn. tr 658

Tài sản của LSB-Sun
Trả lời kèm theo trích dẫn
Trả lời


Quyền sử dụng
Huynh đệ không được phép tạo chủ đề mới
Huynh đệ không có quyền gửi bài trả lời
Huynh đệ không được phép gửi file-gửi-kèm
Huynh đệ không được phép sửa bài của mình

BB code is Mở
Smilies đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt
Chuyển nhanh đến:

 
Copyright © 2002 - 2010 Luongsonbac.club
Thiết kế bởi LSB-TongGiang & LSB-NgoDung
Loading

Múi giờ tính theo GMT +7. Hiện giờ là 20:05
vBCredits v1.4 Copyright ©2007 - 2008, PixelFX Studios
Liên hệ - Lương Sơn Bạc - Lưu trữ  
Page generated in 0,19063 seconds with 15 queries