Đời là bến mê?
Theo thuyết nhà Phật thì cho đời là cảnh giả, sắc sắc không không, là Bến Mê. Người Phật tử lo tu để được giác ngộ mà tìm đường giải thoát, hay là càng mê hơn nữa? Làm sao mà phân biệt được chân/giả, thực/hư, mê/tỉnh? Nhưng dù sao, suy ra thì ý niệm ấy cũng là một sự an ủi cho cảnh sống trầm luân mà theo nhà Phật đã gọi "Trần ai bể khổ". Tuy chưa biết được thế nào là tỉnh, thế nào là mê, nhưng suy ra thì càng mê càng đỡ khổ hơn là khi mình tự ý thức rằng mình đang tỉnh. Vì cảm thấy như thế nên thi sĩ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu viết:
Giấc mộng mười năm đã tỉnh rồi
Tỉnh rồi lại muốn mộng mà chơi
Nghĩ đời lắm lúc không bằng mộng
Tiếc mộng bao nhiêu lại chán đời
Như vậy, theo nhà thơ này thì mê sướng hơn tỉnh. Nói đến mê, tôi liên tưởng nhớ đến hai câu chuyện người xưa để lại. Tôi không nhớ được nguyên văn, chỉ viết lại đại ý theo trí nhớ, như sau:
1- Chuyện người mắc bệnh quên: Xưa tại nước Sở, có một người mắc phải chứng bệnh quên. Ông ta quên tất cả những gì được nghe, thấy, biết. Đến cả người trong nhà mà ông cũng không nhớ được tên ai. Cả cái việc mới vừa ăn rồi cũng liền quên. Cái áo ông vừa mặc cũng không nhớ. Có người mách cho gia đình ông rằng, ở nước Lỗ, có một ông thầy chữa được bệnh quên. Người gia đình liền đến Lỗ để mời cho được vị danh y này. Khi ông đến xem bệnh, thầy bảo người nhà thử để cho người bệnh phải bị đói khát vài ngày, thì thấy bệnh nhân đòi ăn uống. Để anh ta bị lạnh, thì thấy anh ta biết đòi áo mặc. Ông thầy cho là bệnh còn chữa được. Rồi ông thầy để riêng người bệnh trong một phòng kín cùng với ông thầy để tiện việc chữa trị. Sau một tuần, thì bệnh nhân bình phục và nhớ lại tất cả như thường. Nhưng rồi bệnh nhân lại cầm dao đuổi theo ông thầy để chém. Người chung quanh xúm lại cản ngăn và trách rằng: "Vị lương y này có công chữa cho lành bệnh, đã không biết ơn mà còn đòi chém, thì thật là quá lắm." Người vừa lành bệnh nói rằng: "Lúc trước ta nhờ mắc bệnh quên nên đầu óc ta được yên ổn thoải mái biết dường nào. Nay ta hết bệnh, nên nhớ lại bao nhiêu ân oán tình đời đa đoan phiền toái. Ôi khổ ơi là khổ."
2- Chuyện người mắc bệnh mê: Xưa, cũng tại nước Sở, có một người mắc bệnh mê. Anh ta mê tít càn khôn, suốt đêm ngày bất tỉnh, không còn biết gì đến trời trăng mưa gió chung quanh. Có người mách người nhà của bệnh nhân nên qua nước Lỗ mời thầy về chữa trị là tất khỏi bệnh. Người anh của bệnh nhân liền khăn gói lên đường lần mò đến Lỗ. Nhưng vì không thạo đường đi, nên anh hỏi thăm một cụ già. Cụ già hỏi thăm đến nước Lỗ làm gì? Người đi đường thưa rõ sự tình, cụ già khuyên nên đi về là hơn, chứ việc đi tìm thầy như thế thật là uổng công vô ích. Ông cụ nói rằng, ông thầy ấy có xa lạ gì đâu. Đó chính là ông Khổng Tử đấy thôi. Ông ấy còn mê hơn ai hết, thì còn chữa được bệnh mê cho ai được nữa mà phải phí công đi mời.
Ông Khổng Tử suốt đời lo chu du liệt quốc, mong đem cái đạo Nhân mà thuyết thiên hạ, nhưng chỉ bị người đời lợi dụng cái ý tưởng ấy để làm một bộ áo đạo đức giả khoác bên ngoài, cho kẻ tà gian lợi dụng lòng chân thật, óc ngây thơ của người hiền mà bóc lột, chứ thật sự có ai làm theo đúng như giáo điều của ông Khổng này đâu, vì xét ra ông là người quá mơ tưởng. Thử xét khi ông lần mò đến nước Lương, tìm đến yến kiến vua Lương, thì lúc đầu vua Lương mừng rỡ đón tiếp rồi hỏi: "Người quân tử từ phương xa đến, chắc sẽ đem lại cho nước Trẫm nhiều điều lợi." Khổng Tử liền tâu: "Vua mà còn nói chi đến lợi." Rồi ông thuyết luôn rằng: "Vua nghĩ đến lợi, thì bề tôi cũng nghĩ đến lợi. Trăm quan nghĩ đến lợi, thì thứ dân cũng nghĩ đến lợi. Mọi người đều nghĩ đến lợi, thì nước nhà phải bị loạn mà thôi." Vua Lương nghe cũng có lý, nên hỏi thêm về cách trị nước. Khổng Tử tấu trình chiến sách (trước lo sửa chính mình, thứ đến lo xếp đặt việc nhà, sau đó mới lo sửa trị nước, làm cho thiên hạ được thái bình.) Nhưng chỉ vừa nghe đến tu thân tề gia, chưa nghe đến trị quốc thì vua Lương đã ngủ ngáy khò khò, thì đâu còn nghe được đến bình thiên hạ. Vì sao? Vì trong cái thời Xuân thu Chiến quốc, các vương bá lo dùng mưu thuật, quân lương, vũ khí, để tranh bá đồ vương, chia giành thiên hạ, thì vua chúa cần người đa mưu túc kế, cần giáo mác gươm dài, xe hay ngựa khỏe, đa binh dũng tướng, để lo sát phạt nhau theo luật cạnh tranh sinh tồn. Với lý khôn sống dại chết, mạnh được yếu thua, chứ họ đâu cần nghe chuyện đạo đức giáo dục mà ông Khổng Tử lo đi du thuyết về nhân nghĩa thì vua nào mà còn muốn nghe. Ông Khổng đang mơ tưởng với học thuyết đạo Nhân của mình, thì tất phải thua buồn, mà chính ông không tự biết. Vậy thì ông mê hay tỉnh?
Một lần khác, Khổng Tử đến nước Tề, thuyết về Lễ. Nhưng lại rủi cho ông bị mang tiếng về vụ bà Khương Thị, vợ Tề vương. Vì cảm anh chàng quân tử Nho đẹp trai, ăn nói lưu loát, lại đàn hay mà mê. Đám học trò đi theo biết ý, đâm ra lo sợ nguy nan cho cả thầy trò, nên lo tỏ bày mong thầy xét lại. Khổng Tử lấy làm oan ức mà thề thốt rằng, nếu ta có lòng nào thì trời bỏ ta.
Trên đường chu du của ông Khổng còn bị lắm nỗi lao đao, như lúc bị tuyệt lương khi vào nước Trần, thầy trò đói nhăn, trò Do phải đi xin gạo vì ông đã quen nghề đội gạo nuôi mẹ lúc nhỏ, nên việc xin gạo giao cho ông là hợp lý.
Ông Khổng còn một lần suýt bị giết lầm tại nước Khuông, vì dân ở đây thấy ông có hình dáng giống một tên tướng cướp bị kết án tử hình đang tại đào. Sự vụ sau đó được sáng tỏ, tai qua nạn khỏi. Ông tin vào số mệnh. Rốt cuộc, đến tuổi thất tuần, Khổng Tử quay về nước Lỗ dạy học trò, còn hơn là ôm mộng chu du thuyết giáo vua chúa về việc trị quốc an bang.
Lời cụ già làm người đi tìm thầy chữa bệnh nản chí mà đành trở về.
Chuyện mê với tỉnh còn có chuyện Khuất Nguyên buồn đời mà tự vẫn. Xưa Khuất Nguyên nổi danh là một nhà thơ có tài, lại là một vị trung thần đời Đường bên Tầu. Vì hết lòng lo việc nước, hết mực thanh liêm. Vì vua, với nghĩa vụ của chức quan tại triều, mà ra sức can vua khi vua Đường mê say tửu sắc bỏ bê việc nước. Bị bọn nịnh thần sàm tấu khiến vua Đường ghét bỏ mà lưu đày ông đến vùng Giang Nam. Ôm dạ hận đời, nhưng vẫn thương dân, ông lo vào rừng tìm lá làm thuốc trị bệnh cho dân để tạm vui qua ngày tháng, nên được dân trong vùng thương mến lắm. Nhưng lòng uất hận vẫn khôn nguôi. Một hôm ông ra bờ sông Mịch La tự vẫn cho thoát khỏi cảnh đời ô trọc. Trước khi trầm mình, ông ngâm nga bài thơ tuyệt mệnh do ông cảm tác. Một ngư phủ, có lẽ là một nhà trí thức ẩn cư, đang chèo thuyền thư thả, chợt nghe có tiếng ngâm thơ có giọng bi ai. Ngư ông này chèo thuyền đến gần mà hỏi: "Đại quan có gì buồn mà ngâm nga ai oán như thế?". Khuất Nguyên tỏ bày tâm sự rằng: "Vì đời say cả mà mình ta tỉnh. Đời đục cả mà mình ta trong, nên ta nghĩ mà ta buồn. " Ngư ông nói: "Đời say cả thì sao ta không uống cả bình, nuốt cả bã, để cùng say luôn với đời? Đời đục cả mà sao ta lại không khuấy cho đục luôn. Như An Lộc Sơn, đem lòng yêu Dương Quý Phi, người mà vua Đường Minh Hoàng mê đắm đến bỏ bê việc nước, khiến nịnh thần nhũng nhiễu, bá tánh điêu linh, mà An Lộc Sơn dấy loạn. Nói xong, ngư phủ từ giã, vừa chèo thuyền vừa nghêu ngao hát: "Sông Tương nước chảy trong veo, thì ta xuống giặt một lèo mũ ta. Sông Tương nước đục phù sa, thì ta xuống đó để mà rửa chân." Ý muốn nói rằng, theo thời mà xử, như gặp nước trong thì giặt giải mũ, gặp nước đục thì rửa chân. Chứ biết thế nào mà phân biệt đục với trong, mê với tỉnh. Như vậy ta cho là đời mê hay Khuất Nguyên mê? Có lẽ tất cả đều là mê, vì đời chìm ngập trong bến mê chăng? Đã cùng trong cõi mê thì làm sao phân biệt ai tỉnh ai mê? Về chuyện Khuất Nguyên, để lại cho đời những vần thơ hay, và cái tục ngày Tết Đoan Ngọ (mùng năm tháng năm) mà người đời lưu niệm ngày bạc mệnh của một vị quan triều bị đày, còn lo vào rừng hái lá làm thuốc cho dân, là việc của ông thầy thuốc, chứ không phải công trạng của một vị đại thần đã khuyên được vua lo trị quốc an bang đâu nhé! Ai có thể thức tỉnh ai được?
|