Lương Sơn Bạc  
Trang chủ Lương Sơn Bạc  Lương Sơn Diễn Đàn  Nơi Lưu Trữ: Truyện Ngắn, Truyện Dài, Bài Viết, Nhân Vật, Sách Lịch Sử, Sách Dạy Võ Thuật...   Xem hình thành viên và hình các buổi giao lưu LSB   Nơi Lưu Trữ: Cổ Thi VN, Cổ Thi TQ, Thơ Mới & Các Tuyển Tập Thơ
Quay Lại   Lương Sơn Bạc > Kim Ngư Thành > Quảng Kiến Đài > Đông Tây Nhân Vật Chí
Thành viên
Mật khẩu
Những câu hỏi thường gặp Danh sách các thành viên LSB  Lương Sơn Thương Quán
Đông Tây Nhân Vật Chí Luận bàn về những nhân vật nổi tiếng và tai tiếng...

Trả lời
 
Tiện ích Chế độ hiển thị
Cũ 30-03-2009   #1
Ảnh thế thân của thuydaonguyen
thuydaonguyen
-=[ Lâu La ]=-
Gia nhập: 16-03-2009
Bài viết: 25
Điểm: 37
L$B: 4.552
thuydaonguyen đang offline
 
Nhớ danh sĩ Nguyễn Trọng Trì.


Nhớ danh sĩ Nguyễn Trọng Trì (1854 -1922).

- Thác mà điếu chi bằng điếu sống? Trước song đôi chén cùng nhau, cần gì mà vui mà tủi, kẻ khóc người cười, xác thịt một đời rồi bỏ hết
- Năm nay chăng hay đợi năm sau? Từ biệt ngàn thu không gặp, nghĩ lại lúc đạt lúc cùng, tài này cảnh ấy, bù nhìn cả lũ sống mà chi?
(Câu điếu sống của Hồ Sĩ Tạo)


Thân thế

Gần cuối thế kỷ 19 ở Bình Định, cụ Tú Nguyễn Khuê, một vị thầy đồ đức độ, tiết tháo, đào tạo nhiều thế hệ học trò làm nên danh phận, có bốn người con là Nguyễn Bá Huân, Nguyễn Trọng Trì, Nguyễn Thúc Mân, Nguyễn Quý Luân. Trong số ấy, ông Huân và ông Trì, nổi bật hơn cả.

Nguyễn Trọng Trì, hiệu là Tả Am, quê ở làng Vân Sơn, xã Nhơn Hậu, huyện An Nhơn, là nhà yêu nước chống Pháp tiêu biểu trong phong trào Cần Vương ở Bình Định.

Tại trường thi Bình Ðịnh khoa Bính Tý, Tự Ðức thứ 29 (1876), ông trúng cử nhân thứ 8. Nhưng trước cảnh nước nhà loạn lạc, nền nho học suy vi đã khiến ông cử nhân trẻ tuổi không còn muốn lập thân bằng khoa cử nữa, cho nên kỳ thi hội tiếp theo không có mặt ông.

Năm Mậu Dần (1878), triều đình Huế chọn những cử nhân đỗ cao bổ làm quan, trong đó có Nguyễn Trọng Trì. Thấy ông dùng dằng, bạn bè xúm lại khuyên, bất đắc dĩ ông phải đi nhậm chức.

Nhận làm tư vụ ở nội các, thấy công việc chỉ là chuyện hầu chữ và trình giấy, khiến Nguyễn Trọng Trì đâm ra ngao ngán. Và càng não lòng hơn khi thấy cảnh bè phái, cảnh vàng thau lẫn lộn ở nơi đây:

Tro mạt thương thay mấy chú nghè,
Biểu đừng bớn tớn biểu đừng khoe.
Ngày hai cơm quán ăn qua bữa,
Tháng một lương vua lãnh lấy lề.
Chỉ thắm đeo bài coi cũng lịch,
Tráp sơn hầu chữ nghĩ mà ghê.
Mặc dù lơ láo quan trên quở,
Cho nữa làm chơi chẳng nữa về. ..


(Nội các còn gọi là nhà nghè, do vậy những người làm việc ở các được gọi là ông nghè; khác với danh xưng của người đậu tiến sĩ - người soạn ghi chú)
Năm Quí Mùi (1883), Tự Đức băng hà, Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết chuyên quyền phế lập. Triều đình Huế ký hoà ước nhận quyền bảo hộ của Pháp trên toàn lãnh thổ.
Làm quan giữa lúc vận nước ngửa nghiêng, hận vì tài sức mình không góp được gì cho cuộc cải biến, ông luôn nghĩ đến chuyện bỏ quan về làng. Ít lâu sau ông trốn về thật.

Cuối tháng 5 năm 1885, thực dân Pháp trắng trợn chiếm đóng nước Việt. Kinh thành Huế bị thất thủ, vua Hàm Nghi theo Tôn Thất Thuyết chạy ra Quảng Trị xuống chiếu Cần Vương. Đào Doãn Địch vốn người Bình Định đang làm quan tại Kinh, mang chiếu về quê tụ nghĩa. Sau trận Cần Úc, Đào công lâm bệnh rồi chết, trao binh quyền cho Mai Xuân Thưởng, anh hùng hào kiệt quy tụ dưới cờ Mai tướng công không ít. Cả ba anh em Nguyễn Bá Huân, Nguyễn Trọng Trì, Nguyễn Quý Luân cùng lúc lên đường đến Bình Khê ứng nghĩa.
Ông, các anh em ông và Nguyễn Duy Cung được Mai chủ tướng đặc biệt kính trọng, thường giữ ở bên, để cùng nhau bàn định kế sách và dự các trận đánh lớn ở Cẩm Văn, Thủ Thiện, Phú Phong…

Ðến khi lực lượng Cần vương của Xuân Thưởng bị liên quân Pháp - Trần Bá Lộc - Nguyễn Thân đánh tan rã, chủ tướng họ Mai phải ra nộp mình cho giặc (tháng tư năm Ðinh Hợi - 1887) để cứu mẹ và dân làng Phú Phong - Phú Lạc, rồi chịu lên đoạn đầu đài vào ngày rằm tháng tư nhuận Ðinh Hợi; thì ông và Nguyễn Phong Mậu ở vào số những người thoát khỏi sự truy bức của giặc. Hai người ẩn náu ở núi Thuận Ninh. Phong Mậu không chịu nổi gian khổ đã ra hàng giặc và được trọng dụng. Nguyễn Trọng Trì phải bỏ nơi ẩn cũ, tiếp tục đi trốn.

Tám năm sau, tức là năm 1895, sau khi lãnh tụ Phan Đình Phùng qua đời, triều Thành Thái bãi lệnh truy tầm dư đảng Cần Vương. Cho đến lúc ấy, Nguyễn Trọng Trì mới trở về .

Khi còn nương náu ở núi rừng, Nguyễn Trọng Trì vẫn ngầm nuôi chí phục thù báo quốc. Đến khi trở về nhà, ông mới hiểu rằng giấc mộng hưng quốc khó mà thực hiện được. Rất nhiều dư đảng Cần Vương đã quy thuận với chính quyền để mưu cầu hai chữ bình an. Có kẻ trở mặt hại đồng đội như Vũ Phong Mậu. Với những người có khí tiết như ông, tuy thực dân và tay sai không ra hạch hoẹ gì, nhưng chúng vẫn ngấm ngầm theo dõi.

Nguyễn Trọng Trì sum họp với gia đình chưa bao lâu thì có tang em là Nguyễn Thúc Mân, rồi tiếp đó lại tang cha. Nhà cửa sa sút, ông để anh cả Nguyễn Bá Huân trông coi từ đường, còn mình dẫn vợ con về quê mẹ ở Bình Đức mở trường dạy học. Học trò rất đông. Ông đem hết tâm huyết và sở học ra truyền thụ.

Năm Đinh Dậu 1897, cuộc tụ nghĩa ở Phú Yên do Trần Cao Vân và Võ Trứ lãnh đạo ảnh hưởng lan tới Bình Định. Nguyễn Trọng Trì phấn chấn vui mừng. Nhiều học trò của ông theo lời khuyên của thầy đã trốn vào Phú Yên ứng nghĩa. Nhà cầm quyền đánh hơi được, liền bắt ông xuống giam ở thành Bình Định để phòng ngừa hậu hoạ.

Trong tù, viên tổng đốc Bình Định thấy ông không chút gì tỏ ra sờn lòng thì căm tức lắm. Hắn nói cạnh nói khoé, bảo ông là giống cây đa vô dụng, nên đốn xuống để ma quái khỏi đến ở. Ông trả lời bằng một bài thơ :

Cây đa
Nhà cách xa chùa cũng cách xa,
Bên đường sừng sững một cây đa.
Đức dày trái mật yên lòng quạ,
Danh vút cung thiềm rạng bóng nga.
Cội cả dầu lòng thần ỷ cậy,
Tàng sum mặc ý khách lân la.
Một cành gánh biết bao nhiêu nặng,
Can cớ gì ai ức bửa ra?


Cuộc đấu trí còn diễn ra vài lần nữa, lần nào hắn đều đuối lý, đều tức giận, đều muốn hãm hại ông song không biết khép ông vào tội gì, nên cứ giam thế thôi.
Những người lính canh biết chuyện, họ vô cùng cảm phục, nên đối đãi ông rất tử tế. Ngày ngày ông uống rượu say rồi ngủ, ngủ dậy lại uống rượu ngâm thơ.
Tức sự là một trong nhiều bài thơ ông viết trong tù:

Hầm đá khen ai khéo ngại lòng,
Đem người làm biếng để ngồi không.
Thơ e quét sạch vào trong túi,
Rượu sợ tuôn tràn nước giữa sông.
Lăng líu mặc thây chim ở trọ,
Dòm hành kệ kiếp miểu quen chùng.
Dù ta ăn ngủ dù ta dậy,
Người có khi cùng đạo chẳng cùng.
Gần một năm, nhà cầm quyền mới thả ông.


Sau khi ra tù, ông càng uống rượu nhiều, rất ít khi ở nhà. Người ta thường gặp ông ở các đám hát bội. Có lẽ sau men rượu, những đêm hát là nơi ông khả dĩ tìm được nguồn an ủi, khi xem các vở tuồng phò chính diệt tà.
Trước đây, có lần ông nghe tin Đào Tấn về thăm quê ở Vinh Thạnh, Nguyễn Trọng Trì có đến tận nhà mời ông Đào gia nhập nghĩa quân. Đào Tấn lấy cớ nhà có đại tang, lánh mặt. Nguyễn Trọng Trì cho rằng Đào Tấn hèn nhát, từ đó mang nặng thành kiến với ông Đào.

Nhưng rồi qua những lần xem tuồng Đào Tấn, Nguyễn Trọng Trì mới hiểu ra Đào Tấn là một nhân sĩ lớn, khí tiết hơn người chứ không như bấy lâu ông vẫn lầm tưởng.

Và ông đã tự tìm đến Đào Tấn. Tình bạn của hai người bắt đầu từ đấy. Qua ông, Nguyễn Bá Huân cũng giao kết với ông Đào. Ba người kính yêu nhau chí tình. Dân chúng gọi họ là “Bình Định tam đại”. Chính trong thời gian lưu kết với Đào Tấn, Nguyễn Trọng Trì chăm chú sưu tầm tuồng cổ. Và bản thân ông cũng sáng tác nhiều bổn tuồng hay, như Phụng Hoàng Anh, Liệu đố… Năm Đinh Tỵ (1907), Đào Tấn qua đời. Tin muộn, không được đưa thi hài bạn về nơi an nghỉ cuối cùng, Nguyễn đến thắp hương trước bàn thờ khóc thống thiết.

Ông tìm quên trong rượu, nhưng rượu ngấm càng buồn hơn. Phần thì ray rứt vì tuổi già sức yếu, không tham gia được phong trào cách mạng do vua Duy Tân khởi xướng; phần thì, với vong hồn Mai nguyên soái, ông luôn bị ám ảnh bởi ý nghĩ mình chưa trọn nghĩa tình.
Bài thơ ghi sau đây thật trĩu nặng nỗi niềm trên.

Gởi chủ nhân quán cũ bên đường,
Quán cũ đây he!
Cớ sao chẳng quạt chè?
Thềm hè leo cỏ ống
Chái bếp thả bầu ve.
Rằng: Ta còn nợ nước,
Rồi cũng trả cho nghe.


Theo tài liệu của Lộc Xuyên Đặng Quí Địch, khi chủ tướng họ Mai phải ra nộp mình cho giặc thì ông cũng bị giặc bắt, nhưng chỉ bị tước mất học vị cử nhân rồi đuổi về làng giao cho địa phương quản lý.
Ðến năm Mậu Thân (1908) Phong trào cự sưu kháng thuế nổi lên, dù ông không trực tiếp chỉ đạo như bạn ông là tiến sĩ Hồ Sĩ Tạo, ông vẫn bị bắt với tội danh Cần vương cựu đảng.
Ông mất ngày mười sáu tháng Giêng năm Nhâm Tuất (1922) thọ 68 tuổi, mộ táng tại thôn Tân Ðức, nay thuộc xã Nhơn Mỹ, huyện An Nhơn.
Cũng bởi ông bị tước mất học vị cử nhân, nên trên mộ chí chỉ thấy ghi hai chữ tú tài.

Văn nghiệp

Sự nghiệp văn học của Nguyễn Trọng Trì, do thời gian và hoàn cảnh chiến tranh đã không thể tìm lại đủ. Những gì người đời sau còn nhớ và giữ được thật ít ỏi so với thành quả văn chương một đời ông sáng tạo.

Tác phẩm chữ Hán của ông gồm có:
Tả Am thi tập, Tây Sơn danh tướng chinh Nam, Tây Sơn lương tướng ngoại truyện và hai tập ký do ông và Nguyễn Bá Huân chép lại các giai thoại phường hát bội.

Cũng như anh ông là danh sĩ Nguyễn Bá Huân, ngay trong thời buổi triều đình Huế còn thâm thù nhà Tây Sơn đến cùng cực, vậy mà ngòi bút của cả hai dám viết và truyền bá đề tài này nhằm cổ vũ, nuôi dưỡng ý chí quật cường của nhân dân, thì rõ ràng là hành động quá đổi dũng cảm.

Nhắc lại đôi chút về vương triều Tây Sơn.
Ở đây, người soạn đồng ý với ông Nguyễn Khắc Thuần là:
Trong lịch sử Việt Nam, có lẽ không mấy ai phải chịu nhiều thiệt thòi như các danh tướng nhà Tây Sơn. Họ có một đời xông pha với hàng loạt những võ công kiệt xuất…để cứu dân, cứu nước.
Nhưng ngay sau đó, rất nhiều người trong số ấy, thân thể họ bị triều đại mới hành hình một cách dã man, sách vở biên chép về họ bị đốt sạch, sự nghiệp của họ bị quá nhiều những sử quan thù nghịch tìm mọi cách xuyên tạc và dòng tộc họ bị giết chết hoặc phải phiêu dạt; nên giờ đây ta thấy, năm sanh của họ thường là dấu hỏi và cuộc đời họ thường có những dấu hỏi để nói lên sự mơ hồ…(Tại bãi chém An Hoà, ngoại ô Huế, khoảng 200 tướng lĩnh của nhà Tây Sơn đã hiên ngang ra pháp trường.)

Bởi vậy, người hôm nay nên biết ơn ngòi bút Nguyễn Trọng Trì, vì nhờ ông mà ta biết được khá chi tiết về cuộc đời, về sự nghiệp của 15 danh tướng nhà Tây Sơn. Và người soạn cũng thật sự khâm phục vì ở vào triều đại có tiếng là “nhiều nghị kỵ, ít bao dung” mà ông dám viết lời ngợi khen các “đô đốc của ngụy triều”.

Thiển nghĩ, nếu ông không nặng lòng với những phận đời oanh liệt, bất hạnh thuở xưa kia, và ông không có đủ cái “dũng” của một sử quan (dù ông không phải là một sử quan, nhưng qua tác phẩm vừa nêu, ta thấy ông đã hơn hẳn nhiều kẻ chỉ biết khom lưng và uốn cong ngòi bút của mình); thì giờ đây ta không thể nào bắt gặp những lời nhận xét rất có lý tình, những lời cảm vịnh vừa hùng tráng lại vừa man mác một nỗi niềm sâu kín:

Tướng quân chiến mã kim hà tại?
Dã thảo nhàn hoa mãn địa sầu.
(Chiến mã của tướng quân giờ ở nơi đâu?
Khiến cỏ hoa đồng nội đất đầy sầu).


Trích hai đoạn trong bài thơ dài Bùi phu nhân ca, để chúng ta vừa thưởng thức tài nghệ của ông, vừa cảm nhận được những gì ông thầm gửi gắm (vừa đề cao bậc nữ lưu anh hùng, vừa trách cứ tinh thần quá đổi hèn yếu, chủ bại của vua quan nhà Nguyễn, khiến đất đai của tổ tông mất dần vào tay thực dân Pháp):

Xuân hàn lãnh khí như tiễn đao,
Xuân phong xuy huyết nhiễm chinh bào.
Hoàng hôn thành dốc bi già động,
Hữu nhân diện tỷ phù dung kiều.
Phu cổ trợ chiến Lương Hồng Ngọc,
Mộc Lan tòng quân Hoàng Hà Khúc.
Thùy ngôn cân quắc bất như nhân?
Dĩ cổ phương kim tam đinh túc.

Tạm dịch :
Khí xuân lạnh như khí lạnh nơi lưỡi dao bén thoát ra,
Gió xuân thổi máu bay đẫm tấm chinh bào.
Nơi góc thành tiếng tù và lay động bóng hoàng hôn,
Có người dung nhan kiều diễm như đóa hoa phù dung.
Thật chẳng khác Lương Hồng Ngọc đánh trống trợ chiến cho ba quân.
Và nàng Mộc Lan xông trận nơi sông Hoàng Hà
Ai bảo khăn yếm không bằng người ?
Từ xưa đến nay vững vàng thế ba chân vạc.


Và:
Cổ kim bất phạp chân anh hùng,
Năng ngự ngoại hồi vi thượng công.
Tráng tai Thị Xuân kì nữ tử,
Thống suất tì hưu biến tây đông.
Tổ tông cương thổ bất dung vong,
Nam nhi tử tất tại sa trường.
Nam nhi bất hướng sa trường tử,
Cao ca nhất khúc khán Thị Xuân.

Tạm dịch:
Xưa nay chẳng thiếu các bậc thật sự anh hùng,
Có thể ngăn giặc ngoài làm nên công lao.
Mạnh thay Bùi Thị Xuân, người con gái lạ lùng,
Cầm quân vùng vẫy khắp tây đông.
Đất đai tổ tông không thể để mất,
Nam nhi hẳn nhiên phải chết ở chốn sa trường.
Nếu nam nhi mà không dám hướng về sa trường để chết,
Hãy hát lớn một khúc ca mà xem gương Bùi Thị Xuân.


Thêm nữa, qua những lời kể, lời bình phẩm dành cho các danh tướng của nhà Tây Sơn; ta dễ dàng hiểu ông muốn đề cao nhiều phẩm chất vượt trội của những vị này so với đám quan tướng nhu nhược, thoái hóa, biến chất thời bấy giờ:
-Ông chép lời của Đô đốc Nguyễn Văn Tuyết (? - 1789):
Ra sức trừ khử sự đau khổ cho dân, vì cả cõi đời này mà tiêu diệt hết mọi bất bình, đó là sở nguyện của ta…”
- Đánh giá về Đại tư mã Ngô Văn Sở (? - 1975), Đô đốc Phan Văn Lân (? - ?) và Đô đốc Đặng Xuân Bảo (? -1802, ông bị bắt rồi nhịn ăn để chết sau trận Nguyễn Phúc Ánh đánh lấy Thanh Hóa). Nguyễn Trọng Trì viết:

- “ Ngô Văn Sở làm quan không cầu danh lợi tiếng tăm, lúc nào cũng muốn tránh quyền thế và yêu kính người quân tử.Ông cùng với Trần quang Diệu, Võ Văn Dũng và Bùi Thị Xuân đều là danh tướng, người đương thời gọi là Tứ kiệt…”

- “Phan Văn Lân trí dũng hơn người, đánh giặc rất giỏi, hễ được ban thưởng là đem hết ra để khao quân và không mấy khi nhắc đến chuyện nhà. Ông vào ra giản dị chẳng khác chi người hầu. Quân Thanh kinh sợ Văn Lân nên gọi ông là “Phi tướng quân”, nghĩa là tướng từ trên trời bay xuống”.

-Đặng Xuân Bảo ít đọc sách nhưng rất trung liệt và giàu mưu lược hơn người. Ông thường dùng đức để trị nên ai cũng vui theo….

-Làm thơ ca ngợi Đô đốc Võ Văn Dũng:
Võ công dũng quán quân
Bách chiến khởi Tây thùy
(Võ công anh dũng vào hàng bậc nhất
Trăm trận đánh nổi lên từ bờ cõi phía tây).


Bên trên tất cả, ông đã dành nhiều tình cảm để chia sẻ, để xót xa cho đôi phận bạc của vợ chồng Thiếu phó Trần Quang Diệu - Bùi Thị Xuân:
Vô đoan hữu lục anh hùng phổ,
Túy mặc lâm li bất tự cầm…
(Nào phải vô cớ mà chép chuyện anh hùng,
Bởi quá thương cảm, mực say không thể ngăn lại được
…)
Và như để tổng kết lại sự nghiệp của vương triều lắm oai hùng mà ngắn ngủi này, ông viết:

Kinh quá Tây Sơn di chỉ cảm hoài
Loạn thế anh hùng sản xuất đa
Bắc Nam dược mã dự huy qua
Thập niên huyết chiến thành hà sự,
Không thính ngư tiều túy tửu ca.

Tạm dịch:
Cảm xúc khi qua dấu tích Tây Sơn
Đất loạn anh hùng xuất hiện đông,
Bắc Nam giục ngựa, giáo gươm vung
Mười năm máu đổ đâu thành bại,
Nghe tiếng ca say khắp núi rừng.


Kết
Ban đầu, người soạn chỉ muốn chép vần thơ cảm hoài trên, rồi trích dẫn thêm vài câu day dứt, phiền muộn cũng của một con người nhiều tài năng mà “Sinh bất phùng thời” để kết thúc là vừa.
Nhưng trong khi tra tìm thêm tư liệu, người soạn bắt trên net một giai thoại buồn viết về ông như sau:
Nợ nước là nỗi sầu tư khiến anh em ông cùng ôm nặng. Sau khi Nguyễn Bá Huân chết uất giữa gò, Nguyễn Trọng Trì càng bi quan yếm thế. Tình trạng buông thả rượu chè cùng với những mối muộn phiền, đã làm sức khoẻ ông ngày càng suy cạn.

Lâm trọng bệnh, biết mình không qua khỏi, ông nhắn bạn bè yêu cầu điếu sống để ông còn đọc trước lúc ra đi. Câu đối gửi đến rất nhiều. Trong số đó có hai câu chữ Hán mà ông tâm đắc nhất. Một là của tiến sĩ Hồ Sĩ Tạo, đã trích dẫn ở phần đầu; và đây là câu đối của phó bảng Đào Phan Duân, người soạn chép luôn ra đây để thay cho lời kết (dịch nghĩa):
- Đường cùng còn biết nói sao, từng dạo chơi cây cảnh Vân Sơn, ngâm khúc ngư tiều ta (cùng) bạn,
- Nghiệp trần thôi đừng hỏi nữa, đã hát bài hát buồn Yên Triệu, chìm lấp bao hào kiệt xưa nay.


Bùi Thụy Đào Nguyên, soạn
Đầu tháng 1/2008.

Tài liệu tham khảo:
-Bài viết về Nguyễn Trọng Trì của Trần Thị Huyền Trang (báo Bình Định, ra ngày 8 tháng 3 năm 2004).
-Danh tướng Việt Nam, tập 3, Nguyễn Khắc Thuần soạn, Nxb Giáo Dục, năm 2005.

Trả lời kèm theo trích dẫn
2 thành viên đã gửi lời cám ơn đến thuydaonguyen vì bài viết hữu ích này:
Anh Nguyên (15-06-2009), __Phi*Tuyết__ (03-04-2009)
Trả lời


Quyền sử dụng
Huynh đệ không được phép tạo chủ đề mới
Huynh đệ không có quyền gửi bài trả lời
Huynh đệ không được phép gửi file-gửi-kèm
Huynh đệ không được phép sửa bài của mình

BB code is Mở
Smilies đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt
Chuyển nhanh đến:

 
Copyright © 2002 - 2010 Luongsonbac.club
Thiết kế bởi LSB-TongGiang & LSB-NgoDung
Loading

Múi giờ tính theo GMT +7. Hiện giờ là 00:37
vBCredits v1.4 Copyright ©2007 - 2008, PixelFX Studios
Liên hệ - Lương Sơn Bạc - Lưu trữ  
Page generated in 0,06616 seconds with 15 queries