Truyện 1
Ai đưa Thành Thái lên ngôi?
Nguồn: thuyhu
Thu gọn nội dung
Sau ngày Kinh đô thành Huế thất thủ (1885), vua Hàm Nghi xuất bôn, Kinh thành Huế giặc Pháp canh giữ, ngai vàng bỏ trống. Cái ngai bỏ trống ấy trở thành một cuộc tranh chấp giữa hai ông đại thần có thế lực nhất là Nguyễn Hữu Độ và Phan Đình Bình. Ông Độ là nhạc gia của Ưng Kỵ (con nuôi vua Tự Đức) và ông Bình là ông ngoại của Bửu Lân (con vua Dục Đức). Người thì muốn chàng rể của mình làm vua, kẻ thì muốn cháu ngoại của mình được ngồi trên ngai vàng. Cuộc tranh chấp đó cuối cùng Độ đã thành công. Ưng Kỵ lên ngôi với niên hiệu là Đồng Khánh. Hậu quả của sự việc ấy đã đưa đến cái chết bi thảm của Phan Đình Bình dưới triều Đồng Khánh.
Không ngờ ngồi trên ngai vàng làm tay sai cho Pháp được ba năm thì Đồng Khánh ngọa bệnh chết. Nam triều và thực dân Pháp lại loay hoay tìm người kế vị. Một cuộc vận động được chọn làm vua diễn ra ráo riết.
Trong một ngôi nhà nhỏ trong Thành nội có một cặp uyên ương đang thì thầm đem chuyện tâm tình xen vào quốc sự: Chàng là một thanh niên Nam Bộ, nàng là một Công nữ đài các. Muốn làm xiêu lòng người yêu thỉnh thoảng cô Công nữ lại tô điểm cho những lời thỏ thẻ một cái thở dài buồn bã ;hay sau những nụ cười khuynh quốc bằng nét mặt ủ ê buồn chán. Vẻ kiều mỵ của người ngọc lúc vui hớn hở, lúc buồn tái tê, đã khích động đến tận đáy lòng chàng, chàng bị sắc đẹp thôi miên nên đã ngoan ngoãn theo mệnh lệnh hồng nhan. Nàng Công nữ trình bày hết mọi khúc nôi và liếc mắt đưa tình:
- "Em cậy yên đó nghe!"
Chàng gật đầu xúc động:
- "Được em cứ tin ở moa đi!"
Nàng? Và chàng? - Nàng là bà Công nữ Thiện Niệm, con Thoại Thai Vương, em vua Dục Đức, cô ruột của Bửu Lâm.
- Chàng là Diệp Văn Cương bí thư của lãnh sự Pháp Reina.
Thế rồi một toà lãnh sự đi qua Nam triều, ra vẻ một phái viên của Bảo hộ, Diệp Văn Cương hỏi các quan Nam triều về chuyện lựa người kế vị thay vua Đồng Khánh. Và chẳng để các quan Nam trả lời, Diệp Văn Cương thản nhiên nói:
- "Không hiểu ý kiến các cụ lớn thế nào còn quan lãnh sự hình như Ngài đã định chọn con Đức Dục Đức, con Đức Đồng Khánh còn nhỏ tuổi quá!"
Tuy rằng trong tâm đã ghi tên con Đồng Khánh nhưng được tin quan lãnh sự đã để ý đến con vua Dục Đức, các quan ai cũng dấu nỗi lòng và làm ra bộ vui vẻ nói:
- "Nếu quan lãnh sự đã quyết định như thế thì chúng tôi cũng vui lòng làm theo".
Diệp Văn Cương mừng thầm, và sau những câu chuyện thường Cương cáo từ trở về tòa lãnh sự.
Về toà, gặp Reina, Cương bắt ngay chuyện, nhưng vẫn giữ thái độ điềm tỉnh:
- "Về việc lập vua mới, tôi được tin rằng các quan An Nam định lựa con vua Dục Đức vì con vua Đồng Khánh hãy còn nhỏ tuổi".
Reina gật đầu nói:
- "Càng hay. Con vua Dục Đức. Tội nghiệp vua Dục Đức, tôi biết ngài nhiều khi còn là con con vua Tự Đức".
Những lời nói cua Reina như có một sức mạnh lạ lùng làm rung chuyển cả tâm hồn Diệp Văn Cương.
Thế là con vua Dục Đức là Bửu Lâm được tôn lên làm vua ngay trong những ngày tết. Từ Minh Ý hoàng hậu còn bị giam trong Khám đường cũng được tha và đưa vào ở bên cạnh Từ Dũ Thái hậu.
Thành viên sau đã gửi lời cám ơn đến Lăng Độ Vũ vì bài viết hữu ích này:
Hồi ở Huế, cố đạo Benigne Vachet thường được chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần (1648 - 1687) gọi vào Vương phủ (tại Kim Long) hỏi những công việc có liên quan đến Tây dương. Một hôm ông nhận được một cái đồng hồ báo thức ở bên Tây gửi qua, liền đưa vào kính biếu Chúa và hướng dẫn cách xử dụng cẩn thận.
Cách mấy tháng sau, người thợ bạc trong Vương phủ táy máy tháo tung đồng hồ ra xem, làm gãy mất một bánh xe răng cưa, thành ra đồng hồ không chạy được nữa. Chúa Hiền sai người bảo cố Vachet rằng đồng hồ tặng ông độ trước đã hỏng mất rồi. Vachet lấy đồng hồ ra nhà trọ xem hỏng chỗ nào để chữa lại. Chủ nhà trọ người Thuận Hóa, cũng làm nghề thợ bạc. Trước mắt anh ta, Vachet tháo đồng hồ ra xem, và chỉ bảo hư hỏng tại đâu:
- Ồ, gãy mất một cái răng cưa thế này, hèn gì đồng hồ chẳng chết!
Người thợ bạc xứ Huế cầm lấy cái bánh xe gãy răng cưa ngắm nghía giây lát rồi nói:
- Trời ơi, tưởng hỏng thế nào chứ thế này thôi thì tôi chữa được ngay !
- Anh chữa thế nào được? Vachet trố mắt hỏi.
- Chỉ làm một cái bánh răng cưa mới, giống hệt cái đã gãy thì khó khăn gì? Anh thợ bạc quả quyết đáp.
Vachet cho đó là một ý nghĩ dại dột. Ông đã hết sức bình tỉnh giải thích một cách cặn kẻ với người thợ bạc rằng:
- Chuyện máy móc đâu phải là một trò chơi. Phải biết ở bên Tây người ta có máy đúc, máy cưa, máy bào, máy tiện, bao nhiêu công phu mới làm nên cái bánh xe này. Anh nghĩ sao mà dễ dàng vậy, đừng có làm mất công, người ta cười cho!
- Vâng, tôi sẽ làm, ai cười thì cười! Anh thợ bạc nói dứt khoát.
Cuối cùng anh thợ bạc đã làm cho Vachet kinh ngạc. Ông đã tường thuật lại chuyện này như sau:
"Tôi mất công giảng giải vì những lẽ gì anh ta sẽ không làm được. Nhưng anh không nghe. Thật sự tôi không tin rằng một người thuở nay chưa bao giờ nói đến máy móc đồng hồ lại làm nổi cái bánh xe răng cưa.
Bảo rằng anh ta làm được thành công thì chưa hẳn đúng. Chẳng những anh làm được cái bánh xe răng cưa ấy thôi mà còn chế tạo được một cái đồng hồ mới nguyên vẹn mới kỳ.
Khoảng 23 hay 24 ngày sau, anh đặt vào tay tôi hai cái đồng hồ giống nhau như đúc, đến nổi mắt tôi nhìn không thể phân biệt được cái cũ với cái mới làm. Giá như không phải chính mắt trông thấy thì tôi tưởng chừng như mình nằm mộng, không thể nào tin được. Hai cái đồng hồ lại chạy đúng như nhau."
Cố Vachet cuối cùng phải nhìn nhận rằng người Việt Nam thật có tư chất tốt về kỹ thuật và khoa học.
Chỉ tiếc một điều là cố Vachet không ghi tên tuổi và nơi ở của người thợ tinh xảo ấy ở đâu.
Truyện 3
Cao Bá Quát gặp Nguyễn Hàm Ninh
Nguồn: thuyhu
Thu gọn nội dung
Năm Tân Mão (1831) Cao Bá Quát đỗ Á nguyên trường thi Hà Nội. Năm sau (1832) ông vào kinh đô Huế thi Hội.
Một thầy một trò quảy níp vào Kinh. Đường về xứ Nghệ quanh quanh, đường về xứ Huế như tranh họa đồ... Khi đi gần đến sông Gianh (Linh Giang), ông Quát sực nhớ vùng này có danh sĩ Nguyễn Hàm Ninh ( người làng Trung Ái, huyện Quảng Trạch, Quảng Bình) mới đỗ Giải nguyên trường Thừa Thiên khoa mới rồi. Ông có ý muốn gặp mặt nói chuyện cho biết sức học của nhà danh sĩ ấy đối với mình hơn kém thế nào. Trong lúc đó, chợt thấy một chàng thanh niên trạc độ 24, 25 tuổi cũng đang đi trên đường, ông bèn hỏi thăm:
- Xin hỏi nhờ bác, bác có biết làng ông thủ khoa Nguyễn Hàm Ninh cách đây bao xa không?
Người thanh niên nhìn ông Quát có vẻ dò xét rồi nói:
- Tôi biết, nhưng bác hỏi thăm làng ông ấy để làm gì?
- Vì tôi nghe ông ấy là danh sĩ - Ông Quát đáp - muốn được gặp mặt để xem có quả thật là danh sĩ không?
Người kia lại nhìn ông Quát hỏi:
- Bác hẳn là một vị tân khoa trên đường vào Kinh thi Hội?
- Chính thế - Ông Quát đáp một cách tự tin - tôi trông bác cũng có vẻ nho nhã, hẳn bác đã biết danh sĩ Bắc Hà là Cao Bá Quát, vừa đỗ Á nguyên trường Hà Nội mới rồi chứ?
- Mà danh sĩ ấy tức là người đang nói chuyện với tôi đây?
Ông Quát cười ha hả mà nói:
- Phải rồi đấy!
Người kia cũng cười mà nói:
- Rứa là hay quá. Ta cùng vào Kinh luôn thể. Bác muốn gặp ông Ninh không cần tìm đến nhà nữa mà cứ đi trên đường này, đi nhanh chân lên rồi sẽ gặp ông ta, vì ông ta cũng vào thi Kinh.
Ông Quát bèn đi nhanh chân, mong để gặp được người muốn gặp. Nhưng đi đã khá lâu, vẫn chẳng thấy ai là Nguyễn Hàm Ninh cả, ông Quát chợt hỏi người kia:
- À, tôi quên hỏi bác với Thủ khoa Ninh, có là chỗ quen biết gì không?
- Sao lại không! Ông Thủ khoa Ninh là thầy học của tôi!
- Thế à? Vậy chắc là bác có biết những thơ văn của ông Thủ khoa. Bác làm ơn thử đọc cho tôi nghe mấy bài!
- Thơ văn của thầy tôi nhiều lắm, nhưng xin thú thật, tôi chẳng nhớ được bài nào hết.
Ông Quát buồn bực:
- Lạ chưa! Học trò mà lại chẳng thuộc được một bài thơ nào của thầy!
- Thật đó mà! Vì tôi vô tâm. Bây giờ trên quảng đường xa, nếu chúng ta muốn lấy thơ văn làm vui bác nên ra đầu bài để cho tôi làm, rồi xin nhờ bác sửa chữa lại hộ.
Ông Quát liền ra đề thơ để người kia làm thì người kia làm rất nhanh và thơ rất xuất sắc khiến ônh Quát hết sức kinh ngạc. Ông thầm nghĩ: học trò đã giỏi nhu thế thì chắc chắn Nguyễn Hàm Ninh là người có thực tài. Từ đó hai người cùng làm thơ xướng họa quên cả những nhọc mệt qua truông nhà Hồ, qua đại trường sa của đường vô Kinh.
Vào đến Kinh cũng không thấy ông Ninh. Lúc cáo biệt ông Quát hỏi ông Ninh đâu, người kia bảo ông Quát chiều hôm sau đến phố ấy, nhà ấy sẽ gặp cả mình và cả tôn sư Nguyễn Hàm Ninh, vì nơi ấy là nơi mỗi lần vào Kinh ông Ninh đều đến ở trọ.
Đúng hẹn chiếu hôm sau tìm đến nơi hẹn thì mới vỡ lẽ rằng ông Thủ khoa Nguyễn Hàm Ninh chính là người bạn đồng hành của mình đã xướng họa với nhau suốt mấy hôm nay.
Hai ông ôm nhau cười rũ rượi và từ đó kết nên một đôi bạn thân.
Truyện 4
Cao Bá Quát Gia nhập thi xã Mạc Vân của Tùng Thiện Vương
Nguồn: thuyhu
Thu gọn nội dung
Bấy giờ ở Huế, Tùng Thiện công (sau là Tùng Thiện Vương) cùng với nhiều thi bá đã dựng lên Thi xã Mạc Vân. Tùng Thiện làm minh chủ, nhà Tùng Thiện bên bờ sông Lợi Nông là trụ sở của Thi xã. Những người có chân trong Thi xã đều là những hoàng thân quốc thích, danh công, cự danh nổi tiếng có tài thi ca như Tuy quốc công Miên Trinh (Sau được phong Tuy Lý Vương), Tương an công Miên Bửu, Thọ xuân công Miên Mịnh, Hàm thuận công Miên Thủ, Hoằng Hoá công Miện, Phan Thanh Giản, Hà Tôn Quyền, Trương Đăng Quế, Nguyễn Đăng Giai, Nguyễn Văn Siêu v.v... Thỉnh thoảng các thi ông lại hội họp để cùng nhau xướng hoa. thơ từ. Thơ văn truyền đi, tiếng tăm của Thi xã vang lừng cả bắc nam. Có thể sánh Mạc Vân với hội Tao Đàn dưới thời Lê Thánh Tông.
Từ sau ngày được phục chức trở lại đất kinh kỳ, một hôm ông Quát được người ta đưa cho xem những bài thơ xướng họa ở trong Thi xã, ông liếc mắt đọc qua và bắt đầu bịt mũi lia lịa, miệng trọ trẹ ngâm hai câu:
Ngán cho cái mũi vô duyên,
Câu thơ Thi xã, con thuyền Nghệ An.
Đem cái mùi thơ của Thi xã mà ví với mùi hôi nước mắm của con thuyền Nghệ An thì thật là quá quắt. Nghe chuyện ấy các nhà thơ trong Thi xã căm giận Quát biết chừng nào! Thế nhưng hai ông Tùng, Tuy là những người có độ lượng và biết trọng tài vẫn không trách ông Quát. Không những thế hai ông còn tìm đến nhà ông Quát để mời ông gia nhập vào Thi xã. Song nhiều lần đến mà ông Quát không tiếp bằng cách thác lời là đi vắng. Mãi đến một hôm Tùng Thiện đến bất chợt vào lúc ông Quát đang cặm cụi làm những việc lặt vặt trong nhà (Vì ông nghèo không nuôi được người giúp việc). Từ gặp Tùng, ông Quát nhận thấy đó là người có phẩm cách và tài ba nên ông tiếp đãi ân cần. Từ đó hai người thường đến chơi nhà nhau trò chuyện và kết thân. Thấy ông Quát túng thiếu, hai ông Tùng, Tuy thường đem tiền bạc đến giúp, nhiều khi hai ông còn tặng cho bạn những hàng tơ lụa vua ban phát cho hai ông.
Trước thái độ lễ hiền hạ sĩ (Lễ trọng bậc hiền, nhún nhường kẻ sĩ) của hai ông Tùng Tuy, chu thần Cao Bá Quát sinh lòng cảm mộ, từ ấy cùng hai ông đi lại thân mật và nhận lời mời gia nhập vào Thi xã Mạc Vân.
Qua mối cảm tình gắn bó đó mà Cao Bá Quát đã đề bạt cho tập thơ Thương Sơn của Tùng Thiện Miên Thẩm, bài đề bạt ấy là một bản Tuyên ngôn về thơ rất giá trị Lịch sử Văn học Việt Nam.
Hồng Bảo là con trưởng của vua Thiệu Trị. Năm 1842 Hồng Bảo được tháp tùng vua Thiệu Trị Bắc tuần nhằm mục đích giúp Hồng Bảo có cơ hội hiểu rõ dân tình ở miền Bắc để sau này lên ngôi trị vì, trước khi vua Thiệu Trị mất, Hồng Bảo sinh hạ được Ưng Đạo, nhà vua rất mừng, cho tổ chức lễ Đại Khánh ngũ đại đồng đường. Trong dịp này vua Thiệu Trị đã ẳm Ưng Đạo trình với Thuận Thiên Thái Hoàng Thái Hậu (vợ vua Gia Long). Việc ấy khiến Hồng Bảo thêm hy vọng sẽ được kế vị sau này Hồng Bảo nghĩ rằng thế nào mình cũng sẽ được lên ngôi nên sinh ra kiêu ngạo. Nhân tết Nguyên đán, sứ Tàu vào chầu, vua Thiệu Trị bèn ra cho Hồng Bảo và Hồng Nhậm câu đối:
- "Bắc sứ lai triều".
Không cần suy nghĩ dài dòng. Hồng Bảo đối ngay:
- "Tây sơn phục quốc".
Câu đối rất chỉnh nhưng không ngờ làm cho vua Thiệu Trị nổi giận đùng đùng. Oâng trợn mắt lớn tiếng rầy la Hồng Bảo:
- "Tây sơn phục quốc thì còn gì nhà Nguyễn nữa để cho mày làm vua".
Hồng Bảo cúi đầu nhận cái tội thiếu suy nghĩ chín chắn của mình. Nhưng chứng nào tật ấy. Trong những ngày Thiệu Trị đau yếu sắp từ giã cõi đời. Hồng Bảo vẫn luôn vắng mặt. Có hôm nhà vua cho người đi tìm thì thấy Hồng Bảo còn ngồi trong sòng bạc. Vì thế cuối cùng vua Thiệu Trị đã để di chúc lại cho các đại thần rằng:
- "Trong các con ta, Hồng Bảo tuy lớn nhưng vì thứ xuất, ngu độn, ít học, chỉ ham vui chơi, không thể nối nghiệp lớn được. Hoàng tử thứ hai là Hồng Nhậm thông mẫn, ham học, rất giống ta, đáng nối ngôi vua".
Hôm triều thần họp nhau ở điện Cần Chánh (1847) đọc di chiếu, Hồng Nhậm được nối ngôi, nghe thế Hồng Bảo phẫn uất thổ huyết hơn một đấu, nằm vật vả giữa điện đình. Lúc làm lễ đăng quang cho Hồng Nhậm (Tức vua Tự Đức) mấy người phải đỡ Hồng Bảo dậy, lúc ấy nghi lễ mới hoàn tất.
Về sau Hồng Bảo tìm mọi cách liên lạc các cố đạo và người Tây phương giúp sức để "đảo chánh" Tự Đức, nhưng việc không thành, cuối cùng Hồng Bảo bị giết.
Truyện 6
Chuyện ông phò mã Thân Công ra đi
Nguồn: thuyhu
Thu gọn nội dung
Vua Hàm Nghi rời Kinh thành Huế được ba ngày thì có hai người học trò tên là Nguyễn Văn Mai và Hoàng Thông tìm ra Quãng Trị đi theo vua. Đến Quãng Trị mới rõ Tôn Thất Thuyết đã phò vua lên Tân Sở rồi. Lại nghe ngày mai quân Pháp lại cho tàu thủy ra ngược sông Vĩnh Định đóng đồn chặn đường hoạt động của quân Cần vương. Hai anh học trò thất vọng phải lui về. Khi đi ngang qua Trạm Diên Sanh trời đã đứng bóng hai anh học trò gặp một ông lão, tay cầm gậy tre, mình mặc áo đà, đầu đội nón sơn, vai mang một cái ruột tượng cùng vài ba người phụ nữ vừa đi vừa nói chuyện. Hai người nhìn kỹ thì được biết ông lão là phò mã Thân Văn Di, chồng bà công chúa Lại Đức - một nhà thơ nổi tiếng xứ Thần Kinh. Hoàng Thông chạy ra vái chào và hỏi:
- "Thưa bác, bác đi đâu mà trưa nắng dữ vậy? mời bác vào quán nghỉ chân một chút!"
Ông lão cáo từ mấy người đồng hành rồi vào quán. Vừa ngồi xuống ghế ông đã hỏi:
- "Hai anh cũng đi mô mà nắng non rứa?"
- "Nghe vua ra Quãng Trị chúng cháu đi theo, không ngờ ông tướng đã đưa vua lên Thượng du rồi! buồn quá!"
Ông liền bảo:
- "Hai anh buồn cũng phải. Nhưng không sao. Hai anh còn trẻ tuổi, chưa mang ơn nước ở nhà lại có mẹ già. Người ta lập thân duy trung với hiếu, không được hết đạo làm tôi thì hay hết đạo làm con. Nhà ta mấy đời mang ơn nước, không phải như các anh. Nay vua đi ra mà không một ai đi theo thì lấy gì bảo ban thiên hạ. Ta là gia trưởng, tuổi đã 56 rồi, không còn ư ớc vọng gì nữa. Sở dĩ trì hội đến nay là vì có hai con dại, lo gởi cho nhà ngoại nuôi nấng, sau khôn lớn đi làm ruộng mà ăn. Ta không còn mong chi nữa nên ta đi!"
Hai anh học trò cảm động rơi nước mắt. Một anh nói giọng lo lắng:
- "Vua đã lên Thượng du rồi, sợ bác tuổi già đi không kịp!"
Ông khoát tay nói dứt khoát:
- "Thân già há còn bôn tẩu được sao. Sự thể ngày nay há có thể hiệu triệu người trung nghĩa mà mưu khôi phục sao? Mất cả 13 tỉnh, há có thể lấy lại được một thành, một tỉnh mà phụng sự xã tắc sao"? Ta cứ từ từ đi, để cho khỏi phải phụ lương tâm ta, tìm một cái chết có ý nghĩa là đủ. Hai anh cứ lui về chớ có nghĩ sai lầm".
Nói xong ông từ biệt ra đi. Hai anh học trò chạy theo đưa ông lên đường và hỏi "Trong ruột tượng đựng gì?" Ông nói "Vài ba cái áo cũ", "Trong ống tre đựng gì" Ông nói: "Muối rang".
Một trong hia người học trò ấy sau này trở thành nhà văn. Viết lại chuyện xưa ông đã kết luận: "Những bậc trung thần nghĩa sĩ thuở xưa ta thường nghe nói mà chưa thấy người. Nay mới thấy một.
Gia Long lên ngôi phải lo đối phó nhiều việc nên chưa nghĩ đến việc xây lăng. Mãi đến tháng 2-1814 bà vợ cả của ông mất, ông mới sai đại thần Tống Phúc Khuông và Thương thư bộ binh Phạm Như Đăng đưa thầy địa lý Lê Huy Thanh (con trai Lê Qúy Đôn - một học giả nổi tiếng) đi tìm cát địa. Cơm đùm gạo bới đi khắp cả vung Thừa Thiên mới tìm được phúc địa. Lê Duy Thanh thấy long mạch chạy từ núi Thiên Thọ nhưng thế đất mấp mô lên xuống đến năm cuộn, ông phân vân không biết nên chọn chỗ nào.
Sau bảy lần tính toán, Thanh quyết lấy nổng gò bên kia hồ. Tin tìm được phúc địa bay về Kinh, Gia Long mừng rỡ chọn ngày lên tại chỗ xem xét lại.
Quan quân được lệnh dọn sạch cây cối ở quanh vùng. Gia Long cưỡi voi đến.
Xem xét thực địa và nghe Lê Duy Thanh thuyết minh, Gia Long không bằng lòng chỗ đất đã chọn, ông thúc voi lên đồi Chánh Trung ngắm nghía rồi mắng rằng:
- "Thầy lựa nơi kia, còn nơi này thầy để thầy chôn ông thân thầy phải không?".
Duy Thanh quỳ lạy xin tha tội. Gia Long quyết định xây lăng tại đồi Chánh Trung và lăng được khởi công ngày 22 tháng 3 năm Gia Long thứ 13(1844). Duy Thanh bị đuổi về Bắc kỳ. Một người có công lại hóa ra là người mắc tội.
Truyện 8
Cuộc đời của một ông tướng lừng danh bắt đầu từ một bài văn nhỏ
Nguồn: thuyhu
Thu gọn nội dung
Nguyễn Văn Chương (1800-1874) xuất thân trong một gia đình làm ruộng và thợ mộc ở làng Chí Long huyện Phong Điền (cũ). Tuy cha mẹ nghèo nhưng ông cũng được theo học liên tiếp với ba thầy mà thầy nào trong một thời gian cũng "hết chữ". Chương có óc thông minh và trí nhớ khác thường. Khi các thầy đã hết chữ, ông tự học một mình, ngày đêm miên man đọc sách, nhất là sách Luận Ngữ, Tả Truyện. Ông đọc cả sách dạy võ, ham luyện võ thuật, nghiên cứu binh thơ đồ trận cùng những sách có thể ứng dụng được cho đời. Thấy ông có một sự hiểu biết uyên bác, một lối suy luận sâu sắc chưa ai từng có (ở Phong Điền), cho nên người đương thời cứ nghĩ rằng ông gặp được dị nhân truyền dạy cho những điều kiện tuyệt ấy chứ người đời dễ gì có thể dạy cho ông được như thế.
Ông không thích lối học văn cử nghiệp. Nhân khi vua Minh Mạng có chiếu chỉ chiêu mộ những người có học thức vào làm nha lại tại các phủ, huyện, ông xin vào giữ một chân thơ lại nhỏ ở huyện Phong Điền. Lúc ấy ở huyện có xảy ra một vụ án khá bí ẩn khiến các quan lại không ai có thể khám phá ra được. Nghe nói Nguyễn Văn Chương có óc thông minh tuyệt vời, trí xảo thần diệu, họ bèn gọi ông đến giao cho ông xét vụ án. Quả nhiên ông đã tìm ra thủ phạm. Văn Chương đã dùng một lối văn sắc bén, khúc chiết minh bạch để viết bản án. Đám quan lại đã trải qua nhiều trường ốc cũng phải tấm tắc khen ngợi. Bản án đó được đưa lên Tỉnh rồi Tỉnh chuyển qua Bộ. Bộ xem qua thấy giá trị cái bản án này tương đương với một văn bằng đại học cho nên tác giả bản án được bổ làm thơ lại ngay tại bộ Hộ Ở Kinh thành. Ở Bộ Ông học chưa đầy ba tháng ông lại đã tinh thông cả toán tinh, toán diền.
Vua Minh Mạng vốn là người học rộng, biết trọng nhân tài nghe tin các quan đồn đại tài đức của Chương, nhà vua liền goiï vào bệ kiến. Mới trông thấy Chương thân hình tráng kiện, mặt mũi khôi ngô, Minh Mạng mừng rỡ khen rằng:
- "Người này coi bộ phẩm cách hơn người khen cho ai đã có mắt xét được hiền tài, tiến cử cho ta một người xứng đáng".
Vua truyền đem giấy bút bảo Văn Chương làm một tờ sớ ngay trước mặt vua. Văn Chương hí hoáy viết một lúc là xong ngay, rồi dâng trình ngự lâm. Minh Mạng là người rất nghiêm khắc thế mà khi xem xong tờ sớ cũng phải buộc miệng khen rằng:
- "Chữ tốt, văn hay, dù bậc đại khoa cũng không hơn được".
Từ đó Văn Chương được bạt thọ hàm Điển bộ lãnh chức biên tu (Chánh thất phẩm cùng một trật với giáo tho, kinh lịch) tại Nội các tức Văn phòng của vua ở Nội điện, không bao lâu sau ông được thăng lên đến Hồng Lô Tự Khanh (Chánh tứ phẩm cùng một trật với phủ thừa án sát) và vẫn làm việc ở Nội các. Đến năm ông 35 tuổi ông được chuyển từ văn qua võ, ông phục vụ ba triều Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức... và trở thành một người anh hùng chống thực dân Pháp tuy không may mắn nhưng đáng cho lịch sử vô cùng tín ngưỡng. Vì tài trí và công lao của Nguyễn Văn Chương nên đến năm 1850, vua Tự Đức đã chuẩn phê cải tên cho ông là Nguyễn Tri Phương. Đổi tên dựa theo câu "Dõng thả tri phương" có nghĩa là dõng mãnh và còn lắm mưu lược.
Một công trình nhỏ của một người tài có giá trị hơn một mảnh bằng lớn của một kẻ bất tài.
Trước giờ tấn binh ra Bắc tiêu diệt 29 vạn quân xâm lược Mãn Thanh, Nguyễn Huệ cho thiết lập đàn tại núi Bân ở Kinh đô Phú Xuân làm lễ đăng quan và tế trời đất.
Đứng trước ba quân đội ngũ chỉnh tề, gươm đao sáng lóa, Nguyễn Huệ bước lên đất Nam Giao nói lớn:
- Hỡi ba quân tướng sĩ! Lần này ta đem quân ra Bắc Hà hỏi tội giặc Thanh đem lại yên vui cho trăm họ. Nếu điềm trời cho đại binh ta thắng trận, trời sẽ báo cho 200 đồng tiền này sấp cả. Nhược bằng tiền có đồng ngửa, ấy là nghiệp lớn của quân ta còn nhiều trắc trở. Vậy ba quân hãy cùng ta coi cho tường điềm thắng bại đó.
Nói rồi Nguyễn Huệ sửa lại lễ phục, bước xuống bãi cỏ rộng. Quân hộ vệ khiêng tới một hương án khói trầm nghi ngút và mâm tiền đồng nặng trĩu. Nguyễn Huệ chắp tay khấn vái rồi bưng mâm tiền, cung kính dâng cao lên đầu, hất tung trên bãi cỏ xanh.
Tướng lĩnh, quân sĩ đứng ở hàng đầu chăm chú nhìn những đồng tiền lớn bằng miệng chén rơi tung tóe. Rồi họ cùng kinh ngạc reo lên:
- Sấp! Sấp! Sấp cả! Đại thắng rồi...Đại thắng...
- Quang Trung vạn tuế!...
Nhiều người muốn tới gần, lật hẳn lên coi cho tường tận, nhưng e phạm vào quân lệnh bất nghiêm, nên đành đứng im.
Nguyễn Huệ tươi cười, hướng xuống quân sĩ nói lớn:
- Hỡi ba quân! Các người: 200 đồng tiền đều sấp. Thế là trời đã phù hộ, báo điềm thắng trận cho ta. Vậy quân sĩ hãy nức lòng cùng ta đánh giặc. Chắc chắn giặc Thanh sẽ bị quét sạch trong nay mai. Hãy nổi trống, truyền lệnh xuất quân...
Quân sĩ reo hò dậy đất, cơ nào đội ấy, rùng rùng tiến binh. Ai cũng vững một niền tin chiến thắng.
"Điềm trời" ấy, thực ra chỉ là một mẹo nhỏ của Quang Trung Nguyễn Huệ. Thuở ấy mọi người còn nặng tin ở trời, phật, thần thánh... Người Huệ dựa vào đó bí mật cho đúc 200 đồng tiền một mặt (toàn mặt sấp) xin âm dương trong buổi lễ đăng quang nhằm cỗ vũ ba quân xong lên giết giặc.