1. Ngu Thuấn
Ðức đại thánh họ Ngu, vua Thuấn,
Buổi tiềm long gặp vận hàn vi,
Tuổi xanh khuất bóng từ vi,
Cha là Cổ Tẩu người thì ương ương
Mẹ ghẻ tính lại càng khe khắt,
Em Tượng thêm rất mực điêu ngoa .
Một mình thuận cả, vừa ba
Trên chiều cha mẹ, dưới hòa cùng em.
Trăm cay đắng, một niềm ngon ngọt,
Dẫu tử sinh không chút biến dời,
Xót tình khóc tối, kêu mai,
Xui lòng ghen ghét hóa vui dần dần.
Trời cao thẳm mấy lần cũng đến,
Vật vô tri cũng mến lọ người,
Mấy phen non lịch pha phôi,
Cỏ, chim vì nhặt, ruộng, voi vì cày .
Tiếng hiếu hữu xa bay bệ thánh,
Mệnh trung dung trao chánh nhường ngôi
Cầm thi, xiêm áo thảnh thơi,
Một nhà đầm ấm, muôn đời ngợi khen.
2. Văn Ðế
Kìa Văn Ðế vua hiền Hán đại
Vâng ấn phong ngoài cõi phiên vương
Quên mình chức cả, quyền sang,
Phụng thờ Bạc Hậu lễ thường chẳng sai.
Ðến khi nối ngôi trời trị nước,
Vẫn lòng này săn sóc như xưa.
Mẹ khi ngại gió, kinh mưa,
Ba năm hầu hạ, thường như mọi ngày.
Mắt chong bóng dám sai giấc ngủ,
áo luôn mình dám sổ đai lưng.
Thuốc thang mắt xét, tay nâng,
Có tường trong miệng, mới dâng dưới màn.
Tiếng nhân hiếu đồn vang thiên hạ,
Thói thuận lương hóa cả lê nguyên.
Hai mươi năm lẻ kiền khôn,
Ðã sau Tam Ðại, hãy còn Thành, Khang.
ấy hay vị đế vương đời trước,
Chữ hiếu dành đá tạc, vàng in,
Còn ra sĩ, thứ, đấng hiền
Ðếm xem mấy kẻ tiếng truyền đến nay.
3. Tăng Tử
Ðời Chu mạt có thầy Tăng Tử,
Thờ mẹ cha thời giữ chí thành,
Bữa thường rượu thịt ngon lành,
Cho ai, vâng cứ đinh ninh chẳng rời.
Nhà bần bạc thường vui hái củi,
Quãng mù xanh thui thủi non sâu,
Mẹ ngồi tựa cửa bóng sau,
Nhân khi khách đến, trông mau con về.
Rồi trong dạ nhân khi cùng túng,
Cắn ngón tay cho động lòng con.
Trong non bỗng chốc bồn chồn,
Quặn đau khúc ruột, bước dồn gót chân.
Quỳ dưới gối ghé gần thưa hỏi,
Lắng bên tai nghe giải nguồn cơn.
Cho hay từ, hiếu tương quan,
Non Ðồng khi lở, khôn hàn tiếng chuông.
4. Mẫn Tử Khiêm
Thầy Mẫn Tử rất đường hiếu nghĩa,
Xót nhà huyên quạnh quẽ đã lâu.
Thờ cha sớm viếng, khuya hầu,
Chẳng may gặp phải mẹ sau nồng nàn.
Trời đương tiết đông hàn lạnh lẽo,
Hai em thời kép áo, dày bông,
Chẳng thương chút phận long đong,
Hoa lau nỡ để lạnh lùng một thân.
Khi cha dạo, theo chân xe đẩy,
Rét căm căm nên xẩy rời tay,
Cha nhìn ngẫm nghĩ mới hay,
Nghiến răng rắp cắt đứt dây xướng tùy.
Gạt nước mắt, chân quỳ, miệng gửi:
Lạy cha, xin xét lại nguồn cơn,
Mẹ còn, chịu một thân đơn,
Mẹ đi, luông để cơ hàn cả ba .
Cha trông xuống cũng sa giọt tủi.
Mẹ nghe lời cũng đổi lòng xưa,
Cho hay hiếu cảm nên từ,
Thấm lâu như đá cũng rừ lọ ai?
5. Tử Lộ
Thầy Tử Lộ cùng người nước Lỗ,
Thờ hai thân từng bữa canh lê
Thường khi đội gạo đi về,
Xa xôi trăm dặm, nặng nề hai vai.
Ðỉnh Hoa biểu từ khơi bóng hạc,
Gót Nam Du nhẹ bước tang bồng,
Xe trăm cỗ, thóc muôn chung,
Ngồi chồng đệm ghép, ăn chồng vạc cao.
Thân phú quý ngắm vào thêm tủi,
Ðức cù lao chạnh tới lòng đau,
Nào khi đội gạo, canh rau,
Muốn còn như cũ, dễ hầu được ru?
Lòng thắc mắc nghìn thu vẫn để,
Biết bao giờ cam chỉ đền công.
Cho hay dạ hiếu khôn cùng,
Dẫu Tam Công chẳng đổi lòng thần hôn.
6. Diễm Tử
Chu Diễm Tử làm con rất thảo,
Chiều hai thân tuổi lão, niên cao,
Mắt trần khuất nguyệt, mờ sao,
Sữa hươu, người những ước ao từng ngày.
Vật khó kiếm khôn thay thường đổi,
Phải lo phương tìm tõi cho ra.
Hươu khô tìm lấy lột da,
Mặc làm sắc áo để hòa lẫn theo.
Chốn non thẳm tìm vào bầy lứa,
Sẽ dần dà lấy sữa nuôi thân,
Bỗng đâu gặp lũ đi săn,
Rắp buông cung bắn, khôn phân vật, người.
Ðem tâm sự tới nơi bày tỏ,
Chút hiếu tình nghe rõ không thôi,
Cho hay chung một tính trời,
Mảnh son cũng động được người vũ phu.
7. Lão Lai Tử
Lão Lai Tử đời Chu, cao sĩ,
Thờ hai thân chẳng trễ ngọt bùi,
Tuổi già đã đúng bảy mươi.
Nói năng chẳng chút hở môi rằng già.
Khi thong thả, mẹ cha ngồi trước,
Ghé gần vào bắt chước trẻ thơ,
Thấp cao điệu múa nhởn nhơ,
Xênh xoang màu áo, bạc phơ mái đầu .
Chốn đường thượng, khi hầu bưng nước,
Giả làm điều ngã trước thềm hoa,
Khóc lên mấy tiếng oa oa,
Tưởng chừng lên bảy, lên ba thuở nào.
Trên tuổi tác trông vào vui vẻ
áng đình vi, gió thụy mưa xuân
Cho hay nhân tử sự thân,
Trong trăm năm được mấy lần ngày vu.
8. Ðổng Vĩnh
Ðời Hậu Hán có người Ðổng Vĩnh,
Nhà rất nghèo mà tính rất thành,
Thấu chăng, chẳng thấu trời xanh,
Phụ tang để đó, nhân tình còn chi.
Liều thân thể làm thuê công việc,
Miễn cầu cho thể phách được yên.
Cực cười thay! nhẽ đồng tiền,
Ðem thân hiếu tử, băng miền phú gia.
Bỗng gặp kẻ đàn bà đâu đó,
Xin kết làm phu phụ cùng đi.
Lụa, ba trăm tấm dệt thuê,
Trả xong nợ ấy mới về cùng nhau.
Tới chốn gặp bỗng đâu thoắt biến,
Là tiên cô, Trời khiến giúp công.
Mới hay Trời vốn ở lòng,
Há rằng cao thẳm, nghìn trùng mà xa.
|