Người đàn ông được coi trọng trong xã hội được gọi là bậc sĩ phụ Bậc sĩ phu trọng nhất là luân thường. Cho dù nghèo khổ như thế nào nhưng nếu trái luân thường thì sẽ bị người đời chê cườị Bên cạnh đó, người đàn ông còn có tính ưa nhàn hạ, lấy cảnh phong nguyệt, hoa, thảo mộc làm thú vuị Lấy cầm kỳ thi tửu làm phong lưụ Về phần những người nông dân tầm thường thì phần lớn là cần kiệm, an phận làm ăn, tuân giữ phép nước và quyến luyến trong gia đình là thú vui của ho.. Nếu bần cùng lắm thì họ mới đi làm ăn xạ
Dân chúng yên ổn, vui thú làm ăn cho gia đình, cho làng nước. Ai ai cũng biết trọng sự học hành, trừ khi nhà nghèo quá không thể cho con đi học được. Nhà dân thường thì con trai lên bảy tám tuổi cho đi học khoảng dăm ba năm rồi đi làm nghề. Con nhà phong lưu phú quí thì cho con đi học thành ngu8ời mới thôị
Mọi người đều lấy lễ nghĩa làm tro.ng. Nhiều khi chữ lễ được câu nệ từng ly, từng tí. Ai không có lễ nghĩa thì thiên hạ chê cười là người ngạo ngược.
Ngoài nhu8~ng tính trên, ai có những tính tình thật thà, cẩn thận, trung hậu, nhún nhường, hòa nhã, công liên, trầm tĩnh, khẳng khái, ngạnh trực, can đảm, quả quyết, kính bậc đạo đức, nhớ ơn nghĩa, trọng công nghiệp, giữ danh giá, có tư cách, có nghĩ khí, khoan dung, trọng ái tình, yêu nhân loại, giúp kẻ khốn, ghét sự ác, vui sự thiện không xa xỉ, khi cần thì hào hoa,v.v.v.. thì được coi là tính khí quân tử.
Những người bị coi là có tính khí thường nhân là có tính hồ đồ, ngờ vực, nhút nhát, lười biếng, ghen ghét, khoe khoang, hợm hĩnh, khép nép, câu nệ, sợ đầu sợ đuôi, nghĩ quanh nghĩ quẩn, không ác không thiện, không dở cũng không hay, ham sự cờ bạc, rượu chè, thích quây quần ăn uống, chẳng hại ai mà cũng không có ích gì cho ai, đua đòi, chỉ xuôi theo chiều gió, theo thiên ha..
Kẻ tiểu nhân có những tính gian giảo, kiêu ngạo, ương ngạch, phản trắc, tham lam, thô tục, cục cằn, hay xóc móc, kiện cáo, tranh giành, hay nịnh hót người quyền thế, hay khinh bỉ người hiền lành, hay nạt kẻ ngu hèn, hay theo kẻ bạo ác, hay sinh sự gây ra thù hằn, ăn trộm, ăn cướp, xỏ lá, đàng điếm, hoang tàn, ngông nghênh, đài các giả, phong lưu mược, tính ranh vặt, ích kỷ, hại người, phản bạn lừa thầy...
Tết Trung Thu
Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Rằm tháng tám âm lịch được gọi là Tết Trung Thụ Tết này dân ta thường coi là tết của trẻ con, nhưng ngày trước có nhiều nhà cũng chi phí vào các lễ cúng nhiềụ
Ba ngày làm mâm cỗ để cúng gia tiên (ông bà), tối đến bày mâm cỗ để thưởng nguyệt (trăng). Đầu cỗ là bánh mặt trăng, và dùng nhiều thứ bánh trái hoa quả, nhuộm các màu sắc sặc sỡ xanh, đỏ, trắng, vàng. Con gái thì thi nhau làm tài khéo léo như gọt đu đủ thành các thứ hoa nọ hoa kia, nặn bột làm con tôm, con cá coi thật là đẹp.
Đồ chơi của trẻ con trong Tết này toàn là các thứ làm bằng giấy: voi, ngựa, kỳ lân, sư tử, rồng hươu, tôm cá, bươm bướm, bọ ngựa, đèn cù, đèn xẻ rãnh, đình chùa, ông nghè đất, con thiềm thừ... Có nhà một mùa Tết này bán các đồ đó cũng lời nhiềụ
Trẻ con tối hôm Trung thu (có thể những ngày trước đó hay sau đó) dắt díu nhau từng đàn từng lũ, đám thì nhảy vô, đám thì kéo cô, đám thì rước đèn, rước sư tử, trống đánh vang cả đường, tiếng reo hò, tiếng đùa rầm rĩ. Lại nơi nọ trống quân, nơi kia hát trống quít. Tất cả những sinh hoạt này được gọi là Trung Thu thưởng nguyệt.
Phong tục treo đèn bày mâm cỗ là do tục ở thời vua Đường Minh Hoàng bên Trung Hoa ngày xưạ Hôm đó là ngày sinh nhật của vua, ông truyền cho thiên hạ đâu đâu cũng treo đèn, bày tiệc ăn mừng, rồi dân ta cũng theo lệ đó mà thành phong tục.
Tục rước đèn thì do từ đời nhà Tống ở Trung Hoạ Trong đời vua Nhân Tôn, có con cá chép thành yêu tinh, cứ đêm trăng hiện lên là con gái đi hại ngườị Bấy giờ ông Bao Công mới ra sức cho dân gian làm nhiều đèn giống như con cá đó mà đem giong chơi ngoài đường, để cho nó sợ mà không dám đi hại người nữạ Chuyện này tuy nghe huyền thoại nhưng nay đã là phong tục.
Tục hát trống quân thì do từ đời Vua Nguyễn Huê.. Nguyên do là khi ông đem quân ra Bắc, quân sĩ lắm kẻ nhớ nhà. Ông ta mới bay ra một cách cho hai bên giả trai gái hát đối đáp với nhau để cho quân sĩ vui lòng mà đỡ nhớ nhà. Có trống làm nhịp theo nên gọi là trống quân.
Mồng chín thá ng chín gọi là Tết trùng cửụ Tết ngày ít được nhiều gia đình làm lễ, nhưng cũng có một số gia đình theo tục Tàu mà mừng lễ.
Tục truyền rằng từ đời nhà Hán, có người Hoàn Cảnh theo học ngườ Phí Tràng Phòng. Tràng Phòng một hôm kêu Hoàn Cảnh: mồng chín tháng chín nhà anh ta có nạn to, nên cho người nhà mỗi người may một cái túi lụa, đựng hoa phù du rồi buộc trên cánh taỵ Sau đó lên chỗ nào cao mà uống rược cúc thì mới hết nạn đó. Hoàn Cảnh nghe lời thầy, quả nhiên bữa đó những người trong nhà không bị gì nhưng gà chó trong nhà đều chết hết. Người Trung Hoa vì thế cứ đến ngày đó thì hái hoa phù du, uống rượu gọi là hưởng tết trùng dương.
Tết Trùng Thập
Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Mồng mười tháng mười là tết Trùng Thập. Tết đó phần nhiều là các nhà đồng cốt và các thầy thuốc hay ăn lễ nàỵ Ở nhà quê cũng có nhiều nơi ăn tết này, có nơi ăn to lắm, như ở vùng phủ Hoài có nơi làm bánh dầy, nấu chè kho, trước cúng thần, cúng gia tiên, rồi đem biếu những người quen thuộc.
Các thầy thuốc thì vì thu lễ thu tiền mà ăn Tết một là để cúng cấp, hai là để khoản đãi các đệ tử và các bạn hàng.
Vùng Thanh Trì ăn Tết Trùng Thập vào ngày 31 tháng 10. Lúc đó là lúc việc gặt hái đã xong, vì nhớ đến công tiên nông đã trao cho họ mùa vụ tốt đẹp, họ cúng tế và an ủi cho mọi sự khó khăn, cực nhọc đã quạ
Đối với phương Tây, ngày Noel là ngày lễ quan trọng nhất. Nhưng đối với dân Việt ta, ngày lễ tết Nguyên Đán là ngày trọng đại nhất trong năm.
Tết là dịp cho dân ta cám ơn trời đất đã ban phúc cho mỗi gia đình làm ăn khắm khá trong một năm vừa quạ Họ có những lễ cúng ông bà trời đất để cám ơn cũng như cầu cho mọi điều năm mới đều may mắn. Chuyện lành sẽ đến, chuyện dữ biến đị
Đó cũng là dịp cho mọi người cám ơn nhau trong suốt một năm trời sinh hoạt chia sẻ những vui buồn với nhaụ Anh em đến chơi với nhau, uống chén rượu sen, rượu cúc, hoặc chén nước trà tàu, trà sen, hút điếu thuốc lào, uống rượu sâm banh, hoà với vài ba hạt dưa, ăn vài miếng mứt.
Bạn bè thăm nhau, mỗi người đưa một danh thiếp đỏ đề mấy chữ tă.ng. Ngày xưa lễ bái thì nhiều, do xu hướng ngày một phát triển, lễ bái đã bị gạt bỏ hết.
Phần lớn các gia đình ăn Tết ba hôm, nhưng có gia đình chỉ mừng Tết một hôm, và cũng có những gia đình mừng Tết đến bảy hôm.
Các gia đình thì ngày Tết con cái sum vầy vui Tết, đem biếu Tết các món ngon vật lạ, nếu cha mẹ đã qua đời con thứ thường đến nhà con trưởng để góp phần làm mâm lễ cúng cha mẹ tổ tiên.
Các trò chơi trong đại hội
Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
1- Hát Bội: Hát bội có rạp, hoặc bắt màn dưới gốc cây to, hoặc hát nơi đình. Phường hát bội khoảng chừng mười một mười hai người, một vài anh chàng đánh trống đánh phách, một vài anh vẽ hề đóng tướng. Họ đóng các tuồng các tích và còn diễn hề làm cho người coi cười vui vẻ. Ở ngoài có một người cầm trống chầu, hễ hát câu nào hay pha trò câu nào thì gõ cắc một tiếng. Phường nào hát giỏi thì được thưởng nhiều, phường nào hát dở được thưởng ít, họ cũng có khi hát khoán là cứ tính theo mỗi buổi tối là bao nhiêu đồng thì hát.
2- Hát tuồng: Hát tuồng chỉ khác hát bội là hát tuồn là hát nghiêm chỉnh, người hát ít tán chuyện hài và thường dùng các điểm tích như Tam quốc, Bình Đông, Bình Tây...
3- Trò quỷ thuật: Đó là mục ảo thuật hay xiếc ngày trước. Những trò họ hay có như là thả một cần câu trong một chậu nước trống, đọc thần chú thì tự nhiên câu lên có cá. Hay một cái chén không, trùm mảnh vải lên cái chén đó khi mở ra là chén rượụ Một cái lồng không trùm lại mở ra là đầy cả một lồng chim. Khi leo dây múa rối, họ dùng một sợi dây to cột trên lưng chừng hai cây tre, căng từ đầu này đến đầu kia dài khoảng 10 thước tạ Sau đó một người tay cầm cái sào đi trên sợi dây vừa đi vừa múa hát, có khi còn tung hai ba con daọ
4- Các tuồng dưới nước: Họ treo màn và sạp dưới nước rồi thì hát trống, múa rối dước nước. Họ còn cầm máy làm cho các người rối đi trên mặt nước hoặc đánh nhau, hoặc làm hai con rồng chọi nhau, có khi làm ông Lã Vọng câu cá, cá nhảy đớp mồi thì giật lên được cá.
5- Hát quan họ: Hát quan họ là một bên trai và một bên gái, họ hát đối đáp với nhau như hát trống quần. Hát quan họ xuất thân từ vùng Bắc Ninh.
6- Bắt bài: Mười hai hoặc mười tám hoặc hai mươi bốn ả đầu mỗi người mặc một màu áo, xanh hoặc đỏ, đầu đội nón cài trâm, thắt lưng ngoài, mỗi vai có một cái đèn bóng, tay múa miệng hát, múa lượn theo nhịp.
Ngày nay câu nói này chúng ta rất ít nghe nói đến nhưng vào thời xưa khi ông cha ta vẫn còn coi trọng quan niệm nho giáo thì câu nói này là câu nói cửa miệng nhằm chỉ mối quan hệ nam nữ.
Ngày xưa khi hai người khác phái trao cho nhau vật gì hay nhận của nhau vật gì đều không trực tiếp tận tay vì sợ ra hiệu hay làm chuyện gì xấụ Hai người muốn mời nhau ăn trầu thì người chủ têm trầu xếp vào cơi trầu và đặt giữa bàn, khách tự lấy mà ăn. Lễ giáo phong kiến khắt khe cho nên việc tỏ tình cho nhau cũng khó thực hiện, họ chỉ có chăng là đôi mắt thầm lén nhìn nhaụ
Đối với người Á Đông nói chung, hay người Việt Nam nói riêng, việc nam nữ vô tình chạm vào da của người khác phái là coi như không có cử chỉ đứng đắn. Người đàn ông suồng sã sẽ bị đàn bà coi thường xa lánh nhưng vẫn còn được xã hội chấp nhận hơn khi một người phụ nữ bị xã hội dèm pha là gái lẳng lơ thì cô ta rất khó có tấm chồng cho mình. Vì vậy các nhà quyền quý thường nhốt con gái mình trong nhà không cho giao thiệp ngoài xã hộị Thời phong kiến xưa đã sớm hình thành các điểm khác nhau giữa nam và nữ. Chỉ có những người con gái trong gia đình có tư tưởng tân tiến mới được đi học, và có đi học thì con trai ngồi riêng, con gái ngồi riêng. Trai gái đi cùng nhau vui chơi cùng bạn bè trang lứa thì bị chế nhạọ Hội hè đình đám cũng phải phân biệt nam nữ.
Ở thành thị, vợ chồng nằm ngủ chung với nhau là chuyện thường tình, nhưng ở nông thôn đàn bà nằm nhà trong, đàn ông nằm nhà ngoàị Ngày xưa chuyện này rất phổ biến rộng rãi, đó là cái lệ ở nhiều vùng. Vì vậy, tác giả muốn cho các bạn chút lời khuyên nhỏ nếu các bạn về VN và về vùng nông thôn chơi thì đêm tối vợ chồng nên tránh nằm cùng giường kẻo các cụ phong kiến trong nhà lại thấy chướng mắt mà phiền lòng gây ra xích mích không đáng.