Lương Sơn Bạc  
Trang chủ Lương Sơn Bạc  Lương Sơn Diễn Đàn  Nơi Lưu Trữ: Truyện Ngắn, Truyện Dài, Bài Viết, Nhân Vật, Sách Lịch Sử, Sách Dạy Võ Thuật...   Xem hình thành viên và hình các buổi giao lưu LSB   Nơi Lưu Trữ: Cổ Thi VN, Cổ Thi TQ, Thơ Mới & Các Tuyển Tập Thơ
Quay Lại   Lương Sơn Bạc > Kim Ngư Thành > Quảng Kiến Đài > Đông Tây Nhân Vật Chí
Thành viên
Mật khẩu
Những câu hỏi thường gặp Danh sách các thành viên LSB  Lương Sơn Thương Quán
Đông Tây Nhân Vật Chí Luận bàn về những nhân vật nổi tiếng và tai tiếng...

Trả lời
 
Tiện ích Chế độ hiển thị
Cũ 22-11-2002   #1
Ảnh thế thân của LSB-Huy_Aka
LSB-Huy_Aka
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
Gia nhập: 03-10-2002
Bài viết: 941
Điểm: 145
L$B: 42.799
Tâm trạng:
LSB-Huy_Aka đang offline
 
[center:2278bec582]Danh Nhân Nước Việt[/center:2278bec582]
Mục Lục
[target=http://www.thuyhu.com/forum/viewtopic.php?t=8481&postdays=0&postorder= asc&start=1]1. Lê Văn Hưu - Nhà sử học lỗi lạc.[/target]
[target=http://www.thuyhu.com/forum/viewtopic.php?t=8481&postdays=0&postorder= asc&start=2]2. Vua Trần Nhân Tông - Anh hùng dân tộc kiêm triết gia, thi sĩ.[/target]
[target=http://www.thuyhu.com/forum/viewtopic.php?t=8481&postdays=0&postorder= asc&start=3]3. Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn.[/target]
[target=http://www.thuyhu.com/forum/viewtopic.php?t=8481&postdays=0&postorder= asc&start=4]4. Thái Sư Trần Quang Khải.[/target]
[target=http://www.thuyhu.com/forum/viewtopic.php?t=8481&postdays=0&postorder= asc&start=5]5. Hoàng Hoa Thám.[/target]
[target=http://www.thuyhu.com/forum/viewtopic.php?t=8481&postdays=0&postorder= asc&start=6]6. Trương Vĩnh Ký.[/target]
[target=http://www.thuyhu.com/forum/viewtopic.php?t=8481&postdays=0&postorder= asc&start=7]7. Nguyễn Quán Nho.[/target]
[target=http://www.thuyhu.com/forum/viewtopic.php?t=8481&postdays=0&postorder= asc&start=8]8. Lê Nghĩa - Ông già chép sử trong viện hàn lâm.[/target]
[target=http://www.thuyhu.com/forum/viewtopic.php?t=8481&postdays=0&postorder= asc&start=9]9. Vũ Trí Thắng - Người chỉ huy việc đóng cọc sông Bạch Đằng ?[/target]
[target=http://www.thuyhu.com/forum/viewtopic.php?t=8481&postdays=0&postorder= asc&start=10]10. Mạc Đĩnh Chi đi sứ.[/target]
[target=http://www.thuyhu.com/forum/viewtopic.php?t=8481&postdays=0&postorder= asc&start=11]11. Tú Xương.[/target]
[target=http://www.thuyhu.com/forum/viewtopic.php?t=8481&postdays=0&postorder= asc&start=12]12. Cao Bá Quát[/target]
[target=http://www.thuyhu.com/forum/viewtopic.php?t=8481&postdays=0&postorder= asc&start=13]13. Phan Bội Châu.[/target]
[target=http://www.thuyhu.com/forum/viewtopic.php?t=8481&postdays=0&postorder= asc&start=14]14. Phan Châu Trinh.[/target]
[target=http://www.thuyhu.com/forum/viewtopic.php?t=8481&postdays=0&postorder= asc&start=15]15. Nguyễn Công Hoan.[/target]
[target=http://www.thuyhu.com/forum/viewtopic.php?t=8481&postdays=0&postorder= asc&start=16]16. Nguyễn Hữu Châu.[/target]
[target=http://www.thuyhu.com/forum/viewtopic.php?t=8481&postdays=0&postorder= asc&start=17]17. Nguyễn Trãi.[/target]
[target=http://www.thuyhu.com/forum/viewtopic.php?t=8481&postdays=0&postorder= asc&start=18]18. Phan Phu Tiên.[/target]
[target=http://www.thuyhu.com/forum/viewtopic.php?t=8481&postdays=0&postorder= asc&start=19]19. Lý Tử Tấn.[/target]
[target=http://www.thuyhu.com/forum/viewtopic.php?t=8481&postdays=0&postorder= asc&start=20]20. Ngô Sĩ Liên.[/target]
[target=http://www.thuyhu.com/forum/viewtopic.php?t=8481&postdays=0&postorder= asc&start=21]21. Vua Lê Thánh Tông.[/target]
[target=http://www.thuyhu.com/forum/viewtopic.php?t=8481&postdays=0&postorder= asc&start=22]22. Lê Quý Đôn.[/target]
[target=http://www.thuyhu.com/forum/viewtopic.php?t=8481&postdays=0&postorder= asc&start=23]23. Ngô Thì Sĩ.[/target]
[target=http://www.thuyhu.com/forum/viewtopic.php?t=8481&postdays=0&postorder= asc&start=24]24. Nguyễn Trường Tộ.[/target]
[target=http://www.thuyhu.com/forum/viewtopic.php?t=8481&postdays=0&postorder= asc&start=25]25. Nguyễn Gia Thiều.[/target]
[target=http://www.thuyhu.com/forum/viewtopic.php?t=8481&postdays=0&postorder= asc&start=26]26. Lê Đại Hành[/target]
[target=http://www.thuyhu.com/forum/viewtopic.php?t=8481&postdays=0&postorder= asc&start=27]27. Hồ Quý Ly[/target]
[target=http://www.thuyhu.com/forum/viewtopic.php?t=8481&postdays=0&postorder= asc&start=28]28. Hồ Xuân Hương[/target]

Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 12-01-2003   #2
Ảnh thế thân của LSB-ConCoBayLaBayLa
LSB-ConCoBayLaBayLa
-=[ Lâu La ]=-
Gia nhập: 14-09-2002
Bài viết: 34
Điểm: 99
L$B: 16.282
LSB-ConCoBayLaBayLa đang offline
 
[center:c8429f1bda]1.Lê Văn Hưu - Nhà sử học lỗi lạc [/center:c8429f1bda]

Lê Văn Hưu người làng Phủ Lý, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc xã Triệu Trung, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa).

Theo lời các cố lão địa phương thì đất Triệu Trung vốn là trang trại của vị tổ khai sáng dòng họ Lê - quan Trấn quốc bộc xạ Lê Lương thời Đinh Tiên Hoàng, đến nay đã được hơn hai mươi đời. Lê Văn Hưu là ông tổ thứ bảy của dòng họ này. Cuốn Lê thị gia phả hiện còn được bảo tồn, ghi ông sinh năm Canh Dần (1230) là người khôi ngô tuấn tú, tư chất thông minh.

Một hôm đi ngang qua lò rèn, thấy người ta đang làm những cái dùi sắt, Lê Văn Hưu muốn xin một cái để làm dùi đóng sách. Bác thợ rèn thấy chú bé mới tí tuổi đầu đã chăm lo việc học hành, bèn ra một vế đối để thử tài:

Than trong lò, sắt trong lò, lửa trong lò, thổi phì phò đúc nên dùi vở.

Lê Văn Hưu liền đối:

Nghiên ở túi, bút ở túi, giấy ở túi, viết lúi húi mà đậu khôi nguyên.

Bác thợ rèn ngạc nhiên khen ngợi mãi rồi tặng luôn một cái dùi thật xinh, lại kèm theo ít tiền để mua giấy bút.

Năm Đinh Mùi, Lê Văn Hưu đi thi, đỗ Bảng Nhãn. Đây là khoa thi đầu tiên ở Việt Nam có đặt danh hiệu tam khôi (ba người đỗ đầu: Trạng Nguyên, Bảng Nhãn, Thám Hoa). Năm ấy, ông vừa tròn 18 tuổi.

Sau khi thi đỗ, ông được giữ chức Kiểm pháp quan (chức quan trông coi việc hình luật), rồi Binh bộ Thượng thư, rồi Hàn lâm viện học sĩ kiêm Quốc sử Viện giám tu. Ông cũng là thầy học của thượng tướng Trần Quang Khải, một trong những danh tướng của cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông.

Trong thời gian làm việc ở Quốc sử Viện, vào năm 1272, ông đã hoàn thành việc biên soạn Đại Việt sử ký - bộ quốc sử đầu tiên của Việt Nam, ghi lại những sự việc quan trọng chủ yếu trong một thời gian lịch sử dài gần 15 thế kỷ, từ Triệu Vũ đế (tức Triệu Đà 207 - 136 trước Công nguyên) (*) cho tới Lý Chiêu Hoàng (1224 - 1225), tất cả gồm 30 quyển, được Trần Thánh Tông xuống chiếu ban khen.

Đại Việt sử ký nay không còn, nhưng vẫn có thể thấy được thấp thoáng bóng dáng bộ quốc sử đầu tiên này trong Đại Việt sử ký toàn thư. Ngô Sĩ Liên, sử thần đời Lê, người khởi đầu việc biên soạn Đại Việt sử ký toàn thư, đã căn cứ vào Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu, tiếp đó là Đại Việt sử ký tục biên của Phan Phu Tiên để biên soạn những phần liên quan. Trong bài tựa Đại Việt sử ký ngoại kỷ toàn thư, Ngô Sĩ Liên viết: "Văn Hưu là người chép sử giỏi đời Trần, Phu Tiên là bậc cổ lão của thánh triều ta, đều vâng chiếu biên soạn lịch sử nước nhà, tìm khắp các tài liệu còn sót lại, tập hợp thành sách để cho người xem đời sau không có gì phải tiếc nữa, thế là được rồi". Tiếp đó, Ngô Sĩ Liên nói rõ, ông đã đem "hai bộ sách của tiên hiền" (tức là Đại Việt sử ký tục biên của Phan Phu Tiên) ra "hiệu chỉnh, biên soạn lại, thêm vào một quyển Ngoại kỷ, thành một số quyển, gọi là Đại Việt sử ký toàn thư". Như vậy, khó có thể phân định được đích xác đâu là nguyên văn Đại Việt sử ký trong bộ quốc sử lớn đời Lê này. Tuy vậy, rất may là trong Đại Việt sử ký toàn thư hiện đang lưu hành vẫn còn có 29 đoạn ghi rõ là lời văn của Lê Văn Hưu với mấy chữ " Lê Văn Hưu viết ". Qua nhưng trích đoạn đó, có thể thấy được phần nào khuynh hướng cũng như sắc thái ngọn bút chép sử của ông. Trân trọng công lao đánh giặc giữ nước của Tổ tiên, ông đã nhận định về cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng với những lời lẽ rất mực hào hùng: " Trưng Trắc Trưng Nhị... hô một tiếng mà các quận Cửu Châu, Nhật Nam, Hợp Phố cùng sáu mươi nhăm thành ở Lĩnh Ngoại đều hưởng ứng, việc dựng nước xưng vương dễ như trở bàn tay...". Đoạn ông ca tụng Ngô Quyền cũng thấm đượm lòng tự hào sâu sắc trước thắng lợi huy hoàng của dân tộc: " Tiền Ngô Vương có thể lấy quân mới họp của nước Việt ta mà đánh tan được trăm vạn quân của Lưu Hoằng Tháo, mở nước xưng vương, làm cho người phương Bắc không dám sang nữa. Có thể nói là một lần nổi giận mà yên được dân, mưu giỏi mà đánh cũng giỏi vậy... ". Quan tâm sâu sắc đến cuộc sống của nhân dân, ông cũng đã nghiêm khắc phê phán những hành vi bạo ngược, trái đạo lý của vua chúa, như đoạn nhận xét về cấm lệnh " không cho con gái nhà quan lấy chồng trước khi dự tuyển vào hậu cung" của Lý Thần Tông (1128 - 1137), chẳng hạn: "Trời sinh ra dân mà đặt vua để chăn dắt, không phải để cung phụng riêng cho vua. Lòng cha mẹ ai chẳng muốn con cái có gia thất; thánh nhân thể lòng ấy còn sợ kẻ sát phu sát phụ không được có nơi có chốn... Thần Tông xuống chiếu cho con gái các quan phải đợi xong việc tuyển người vào cung rồi mới được lấy chồng, thế là để cung phụng riêng cho mình, đâu phải là tấm lòng của người làm cha mẹ dân!".

Lê Văn Hưu mất ngày 23 tháng Ba năm Nhâm Tuất (1322), táng ở cánh đồng xứ Mả Giòm (thuộc địa phận xã Thiệu Trung, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa). Hiện nay ở đó vẫn còn phần mộ với tấm bia dựng năm Tự Đức thứ 20 (1867), khắc ghi tiểu sử và một bài minh ca tụng tài đức, sự nghiệp của ông.

Giáo sư Đặng Đức Siêu
--------------------------------------------------------------------
* Khoảng trước năm 179 trước Công Nguyên, Triệu Đà xâm lược nước Âu Lạc của dân tộc Việt rồi sáp nhập vào nước Nam Việt. Lê Văn Hưu, sau đó là các nhà sử học Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên đều cho rằng Triệu Đà là vua nước Việt, xếp "kỷ nhà Triệu" như một triều đại chính thống trong lịch sử Đại Việt. Đây là một sự nhầm lẫn. Đến thế kỷ 18, Ngô Thì Sỹ (1726-1780) trong cuốn "Việt sử tiêu án" mới bác bỏ sai lầm này, khẳng định Triệu Đà "thực chưa từng làm vua nước ta" vì "nước Việt ở miền Nam Hải, Quế Lâm" không ở vị trí nước Việt Nam ngày nay.

Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 12-01-2003   #3
Ảnh thế thân của LSB-ConCoBayLaBayLa
LSB-ConCoBayLaBayLa
-=[ Lâu La ]=-
Gia nhập: 14-09-2002
Bài viết: 34
Điểm: 99
L$B: 16.282
LSB-ConCoBayLaBayLa đang offline
 
[center:469ca94cdf]2.Vua Trần Nhân Tông - Anh hùng dân tộc kiêm triết gia, thi sĩ. [/center:469ca94cdf]

Trần Nhân Tông tên làm Khẩm, con trưởng Thánh Tông, sinh năm 1258, đúng năm Thái Tông và Thánh Tông đánh tan quân xâm lược Nguyên - Mông lần thứ nhất.

Nói đến Trần Nhân Tông trước hết là nói đến người anh hùng cứu nước. Ông làm vua 14 năm (1279 - 1293). Trong thời gian ấy, đất nước Đại Việt đứng trước thử thách ghê gớm: hiểm họa xâm lược lần thứ 2 và thứ 3 của giặc Nguyên-Mông.

Trong 2 lần kháng chiến, Trần Nhân Tông đã trở thành ngọn cờ "kết chặt lòng dân", lãnh đạo quân dân Đại Việt vượt qua bao khó khăn, đưa cuộc chiến đấu tới thắng lợi huy hoàng. Qua 2 cuộc kháng chiến, Trần Nhân Tông đã tỏ rõ ông vừa là nhà chiến lược tài giỏi, vừa là vị tướng cầm quân dũng cảm ngoài chiến trường. Chính vào giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến năm 1285, khi quân ta đang còn ở thế không cân sức với đối phương, Trần Nhân Tông đã viết lên đuôi chiến thuyền 2 câu thơ đầy khí phách và niềm tin vào sức mạnh tiềm tàng của quân ta:

Cối kê cựu sự quân tu ký,
Hoan diễn do tồn thập vạn binh.
(Cối Kê chuyện cũ ngươi nên nhớ,
Hoan Diễn đang còn chục vạn quân).

Hai câu thơ này cùng với hai câu Nhân Tông viết bên lăng Trần Thái Tông tại Long Hưng (Thái Bình) lúc làm lễ dâng tù binh mừng chiến thắng lần thứ ba:

Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã,
Sơn hà thiên cổ điện kim âu.
(Xã tắc hai lần lao ngựa đá,
Non sông nghìn thuở vững âu vàng.)

đã đi vào lịch sử như một ký ức bất diệt về chiến công bình Nguyên năm 1285 và 1288, trong đó Nhân Tông là vị chủ soái.

Khi nhìn nhận nguyên nhân thắng lợi nhà Trần đã giành được trong sự nghiệp cứu nước. Trần Nhân Tông đã đánh giá cao vai trò của nhân dân lao động (thời đó sử cũ chép là gia nô, gia đồng). Ông cho rằng chính họ mới là những người trung thành với đất nước khi có giặc ngoại xâm. Đại Việt sử ký toàn thư chép: "Vua (Nhân Tông) ngự chơi bên ngoài, giữa đường gặp gia đồng của các vương hầu tất gọi rõ tên mà hỏi: "Chủ mày đâu?" và dặn dò các vệ sĩ không được thét đuổi. Khi về cung, vua bảo các quan hầu cận rằng: "Ngày thường có kẻ hầu cận hai bên, lúc Nhà nước hoạn nạn thì chỉ có bọn ấy đi theo thôi".

Sau 14 năm làm vua, theo truyền thống của nhà Trần, Nhân Tông nhường ngôi cho con là Anh Tông, rồi làm Thái thượng hoàng và đi tu, trở thành Tổ thứ nhất phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử, một phái Thiền để lại dấu ấn đặc sắc trong lịch sử tư tưởng Việt Nam.

Xét trên bình diện triết học, Trần Nhân Tông có một vị trí quan trọng. Ông là một triết gia lớn của Phật học Việt Nam. Với phái Thiền Trúc Lâm mà Trần Nhân Tông là người đứng đầu, triết học Phật giáo Việt Nam thời Trần đã phát triển rực rỡ và thể hiện được đầy đủ trí tuệ Việt Nam, bản lĩnh Việt Nam. Nét đặc trưng nổi bật của tư tưởng triết học Trần Nhân Tông là tinh thần thực tiễn, chiến đấu, táo bạo. Sách Tam Tổ thực lục viết: "Một học trò hỏi Điều ngự Nhân Tông: "Như thế nào là Phật?" Nhân Tông đáp: "Như cám ở dưới cối". Hoặc, một lần học trò hỏi Nhân Tông: "Lúc giết người không để mắt thì như thế nào?" Đáp: "Khắp toàn thân là can đảm"...

Anh hùng cứu nước, triết nhân và thi sĩ, ba phẩm chất ấy kết hợp hài hòa với nhau trong con người Trần Nhân Tông. Về phương diện thi sĩ, ông là người có một tâm hồn thanh cao, phóng khoáng, một cái nhìn tinh tế, tao nhã, nhất là đối với cảnh vật thiên nhiên:

Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên,
Bán vô bán hữu tịch đương biên,
Mục đồng địch lý ngưu quy tận
Bạch lộ song song phi hạ điền.
(Trước xóm sau thôn tựa khói lồng,
Bóng chiền man mác có dường không,
Theo lời kèn mục trâu về hết,
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng).

(Thiên trường vãn vọng - Bản dịch của Ngô Tất Tố)

Thơ Trần Nhân Tông, ngoài vẻ đẹp của một âm điệu hồn hậu, còn bao hàm một ý vị Thiền, gợi mở một thế giới tinh thần thanh khiết. Trong lịch sử thi ca Việt Nam, cây sáo thơ Trần Nhân Tông để lại một tiếng ngân trong đến thẳm sâu.

Trần Nhân Tông qua đời năm 1308 tại am Ngọa Vân, núi Yên Tử, Đông Triều, Quảng Ninh.

Giáo sư Đặng Đức Siêu

Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 12-01-2003   #4
Ảnh thế thân của LSB-ConCoBayLaBayLa
LSB-ConCoBayLaBayLa
-=[ Lâu La ]=-
Gia nhập: 14-09-2002
Bài viết: 34
Điểm: 99
L$B: 16.282
LSB-ConCoBayLaBayLa đang offline
 
[center:25cc2c10ec]3.Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn [/center:25cc2c10ec]

Sinh năm 1228, Trần Quốc Tuấn ra đời khi họ Trần vừa thay thế nhà Lý làm vua trong một đất nước đói kém, loạn ly. Trần Thủ Độ, một tôn thất tài giỏi đã xếp đặt bày mưu giữ cho thế nước chông chênh thành bền vững. Bấy giờ Trần Cảnh còn nhỏ mới 11 tuổi, vợ là Lý Chiêu Hoàng, vị vua cuối cùng của dòng họ Lý. Vì nhường ngôi cho chồng nên trăm họ và tôn thất nhà Lý dị nghị nhà Trần cướp ngôi. Trần Thủ Độ rất lo lắng. Bấy giờ Trần Liễu, anh ruột vua Trần Cảnh lấy công chúa Thuận Thiên, chị gái Chiêu Hoàng đang có mang. Trần Thủ Độ ép Liễu nhường vợ cho Cảnh để chắc có một đứa con cho Cảnh. Liễu nổi loạn. Thủ Độ dẹp tan nhưng tha chết cho Liễu. Song điều này không dẹp nổi lòng thù hận của Liễu. Vì thế Liễu kén thầy giỏi dạy cho con trai mình thành bậc văn võ toàn tài, ký thác vào con mối thù sâu nặng. Người con trai ấy chính là Trần Quốc Tuấn.

Thuở nhỏ, có người đã phải khen Quốc Tuấn là bậc kỳ tài. Khi lớn lên, Trần Quốc Tuấn càng tỏ ra thông minh xuất chúng, thông kim bác cổ, văn võ song toàn. Trần Liễu thấy con như vậy mừng lắm, những mong Quốc Tuấn có thể rửa nhục cho mình. Song, cuộc đời Trần Quốc Tuấn trải qua một lần gia biến, ba lần quốc nạn và ông đã tỏ ra là một bậc hiền tài. Thù nhà ông không đặt lên trên quyền lợi dân nước, xã tắc. Ông đã biết dẹp thù riêng, vun trồng cho mối đoàn kết giữa tông tộc họ Trần khiến cho nó trở thành cội rễ của đại thắng. Bấy giờ quân Nguyên sang xâm chiếm Việt Nam. Trần Quốc Tuấn đã giao hảo hòa hiếu với Trần Quang Khải. Hai người là hai đầu mối của hai chi trong họ Trần, đồng thời một người là con Trần Liễu, một người là con Trần Cảnh, hai anh em đối đầu của thế hệ trước. Sự hòa hợp của hai người chính là sự thống nhất ý chí của toàn bộ vương triều Trần, đảm bảo đánh thắng quân Nguyên hung hãn.

Chuyện kể rằng: thời ấy tại bến Đông, ông chủ động mời Thái sư Trần Quang Khải sang thuyền mình trò chuyện, chơi cờ và sai nấu nước thơm tự mình tắm rửa cho Quang Khải... Rồi một lần khác, ông đem việc xích mích trong dòng họ dò ý các con, Trần Quốc Tảng có ý khích ông cướp ngôi vua của chi thứ, ông nổi giận định rút gươm toan chém chết Quốc Tảng. Do các con và những người tâm phúc xúm vào van xin, ông bớt giận dừng gươm nhưng bảo rằng: Từ nay cho đến khi ta nhắm mắt, ta sẽ không nhìn mặt thằng nghịch tử, phản thầy này nữa! Trong chiến tranh, ông luôn hộ giá bên vua, tay chỉ cầm cây gậy bịt sắt. Thế mà vẫn có lời dị nghị, sợ ông sát vua. Ông bèn bỏ luôn phần gậy bịt sắt, chỉ chống gậy không khi gần cận nhà vua. Và sự nghi kỵ cũng chấm dứt. Giỏi tâm lý, chú ý từng việc nhỏ để tránh hiềm nghi, yên lòng quan để yên lòng dân, đoàn kết mọi người vì nghĩa lớn dân tộc. Một tấm lòng trung trinh son sắt vì vua, vì nước.

Vua giao quyền tiết chế cho Trần Quốc Tuấn. Ông biết dùng người tài như các anh hùng Trương Hán Siêu, Phạm Ngũ Lão, Yết Kiêu, Dã Tượng... đều từ cửa tướng của ông mà ra. Ông rất thương binh lính, và họ cũng rất tin yêu ông. Đội quân cha con ấy trở thành đội quân bách thắng.

Trần Quốc Tuấn là một bậc tướng cột đá chống trời. Ông đã soạn hai bộ binh thư: Binh thư yếu lược, và Vạn Kiếp tông bí truyền thư để dạy bảo các tướng cách cầm quân đánh giặc. Trần Khánh Dư, một tướng giỏi cùng thời đã hết lời ca ngợi ông :... "Lấy ngũ hành cảm ứng với nhau, cân nhắc cửu cung, không lẫn âm dương...". Biết dĩ đoản binh chế trường trận, có nghĩa là lấy ngắn chống dài. Khi giặc lộ rõ ý định gây hấn, Trần Quốc Tuấn truyền lệnh cho các tướng, răn dạy chỉ bảo lẽ thắng bại tiến lui. Bản Hịch tướng sĩ viết bằng giọng văn thống thiết hùng hồn, mang tầm tư tưởng của một bậc "đại bút".

Trần Quốc Tuấn là một bậc tướng tài có đủ tài đức. Là tướng nhân, ông thương dân, thương quân, chỉ cho quân dân con đường sáng. Là tướng nghĩa, ông coi việc phải hơn điều lợi. Là tướng chí, ông biết lẽ đời sẽ dẫn đến đâu. Là tướng dũng, ông sẵn sàng xông pha vào nơi nguy hiểm để đánh giặc, lập công, cho nên trận Bạch Đằng oanh liệt nghìn đời là đại công của ông. Là tướng tín, ông bày tỏ trước cho quân lính biết theo ông thì sẽ được gì, trái lời ông thì sẽ bị gì. Cho nên cả ba lần đánh giặc Nguyên Mông, Trần Quốc Tuấn đều lập công lớn.

Hai tháng trước khi mất, vua Anh Tông đến thăm lúc ông đang ốm, có hỏi:

- Nếu chẳng may ông mất đi, giặc phương Bắc lại sang xâm lấn thì kế sách làm sao?

Ông đã trăng trối những lời cuối cùng, thật thấm thía và sâu sắc cho mọi thời đại dựng nước và giữ nước:

- Thời bình phải khoan thư sức dân để làm kế sâu gốc bền rễ, đó là thượng sách giữ nước.

Mùa thu tháng Tám, ngày 20, năm Canh Tý, Hưng Long thứ 8 (1300) "Bình Bắc đại nguyên soái" Hưng Đạo đại vương qua đời. Theo lời dặn lại, thi hài ông được hỏa táng thu vào bình đồng và chôn trong vườn An Lạc, giữa cánh rừng An Sinh miền Đông Bắc, không xây lăng mộ, đất san phẳng, trồng cây như cũ...

Khi ông mất (1300), vua phong ông tước Hưng Đạo đại vương. Triều đình lập đền thờ ông tại Vạn Kiếp, Chí Linh, ấp phong của ông thuở sinh thời. Công lao sự nghiệp của ông khó kể hết . Vua coi như bậc trượng phu, trăm họ kính trọng gọi ông là Hưng Đạo đại vương.

Trần Hưng Đạo là một anh hùng dân tộc, một danh nhân văn hóa Việt Nam.


Hà Ân - Trần Quốc Vượng

Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 26-01-2003   #5
Ảnh thế thân của LSB-ConCoBayLaBayLa
LSB-ConCoBayLaBayLa
-=[ Lâu La ]=-
Gia nhập: 14-09-2002
Bài viết: 34
Điểm: 99
L$B: 16.282
LSB-ConCoBayLaBayLa đang offline
 
[center:173c16bee0]4.Thái Sư Trần Quang Khải[/center:173c16bee0]

Trần Quang Khải sinh năm 1240, mất năm 1294, là con trai thứ ba của vua Trần Thái Tông.

Dưới triều Trần Thánh Tông (1258 - 1278). Trần Quang Khải được phong tước Chiêu minh đại vương. Năm 1274, ông được giao giữ chức Tướng quốc Thái úy. Năm 1282, dưới triều Trần Nhân Tông, Trần Quang Khải được cử làm Thượng tướng Thái sư, nắm giữ quyền nội chính. Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ hai (1285) và thứ ba (1288), Trần Quang Khải là vị tướng chủ chốt thứ hai, sau Trần Quốc Tuấn, có nhiều công lao lớn trên chiến trường.

Trong sự nghiệp quân sự của Thượng tướng Trần Quang Khải, thì trận ông chỉ huy đánh tan quân Nguyên ở Chương Dương và Thăng Long, khôi phục kinh thành vào cuối tháng 5-1285 "là chiến công to nhất lúc bấy giờ", như sử sách từng ca ngợi.

Trần Quang Khải còn là một nhà ngoại giao giỏi. Năm 1281, khi nhà Nguyên chuẩn bị xâm lược Việt Nam lần thứ hai, chúng cho Sài Thung đem 1.000 quân đưa bọn Trần Dĩ ái về nước. Khi tới biên giới, quân Nguyên bị nhà Trần phục đánh. Trần Dĩ ái bỏ chạy. Sài Thung được "rước" về Thăng Long để dùng vào kế hoãn binh để có thêm thời gian chuẩn bị đối phó với giặc. Lúc Sài Thung về Trung Quốc, Trần Quang Khải làm bài thơ tiễn tặng rất thân, nhã, đoạn kết có câu viết:

Vị thẩm hà thời trùng đỗ diện,
Ân cần ác thủ tự huyên lương.
(Chưa biết ngày nào lại cùng gặp mặt,
Để ân cần nắm tay nhau hàn huyên).


Đối với viên sứ giả hống hách của một nước sắp tràn quân sang xâm lược, thái độ Trần Quang Khải vẫn ung dung, niềm nở như vậy, đó cũng thể hiện một nghệ thuật ngoại giao khôn khéo của ông và con người Việt Nam thời ấy.

Trong văn học sử Việt Nam, Trần Quang Khải là một nhà thơ có vị trí không nhỏ. Thơ ông sáng tác có tập Lạc đạo, nay đã thất truyền, chỉ còn lưu được một số bài. Là một vị tướng cầm quân xông pha khắp trận mạc đánh giặc, song thơ ông lại "thanh thoát, nhàn nhã", "sâu xa, lý thú" (Phan Huy Chú). ấy cũng là cốt cách phong thái của các vua Trần, của người Việt Nam ngàn đời nay. Hãy đọc bản dịch bài thơ Vườn Phúc Hưng của Trần Quang Khải để thấy rõ hơn tâm hồn ông:

Phúc Hưng một khoảnh nước bao quanh,
Vài mẫu vườn quê đất rộng thênh.
Hết tuyết chòm mai hoa trắng xóa,
Quang mây đỉnh trúc sắc tươi xanh.
Nắng lên mời khách pha trà nhấp,
Mưa lạnh sai đồng dỡ thuốc nhanh,
Báo giặc ải Nam không khói lửa,
Bên giường một giấc ngủ êm lành.

(Theo Hoàng Việt thi văn tuyển).

Tâm hồn Trần Quang Khải vừa thoáng đạt, vừa gần gũi, gắn bó với cuộc sống bình dị của đất nước và con người:

Nhất thanh ngưu địch thanh lâu nguyệt,
Kỷ phiến nông soa bích lũng vân.
(Tiếng sáo mục đồng dưới ánh trăng bên lầu xanh, Mấy chiếc áo tơi dưới mây trên ruộng biếc)
(Chùa Dã Thự).

Cuộc đời Trần Quang Khải là một cuộc đời sung mãn, khí phách dọc ngang. Vào tuổi 50, Trần Quang Khải vẫn còn viết những câu thơ đầy khát vọng anh hùng:

Linh bình đởm khí luân khuân tại,
Giải đảo đông phong phú nhất thi.


(Chí khí dũng cảm lúc còn trẻ vẫn ngang tàng, hăng hái. Muốn quật ngã ngọn gió đông, ngâm vang một bài thơ).

Ngoài bài Tụng giá hoàn kinh sứ, Lưu Gia độ (Bến đò Lưu Gia) cũng là một bài thơ nổi tiếng của Trần Quang Khải, có thể xếp vào trong số những bài thơ hay của thơ cổ Việt Nam.

Lưu Gia độ khẩu thụ tham thiên,
Hỗ tụng đông hành tích bạc thuyền.
Cựu tháp giang đình lưu thủy thượng,
Hoang tử cổ trùng thạch lân tiền.
Thái bình đồ chí kỷ thiên lý,
Lý đại quan hà nhị bách niên.
Thi khách trùng lai đầu phát bạch,
Mai hoa như tuyết chiếu tình xuyên.

(Bến đò Lưu Gia cây cao ngất trời,
Xưa phò giá sang đông từng đỗ thuyền nơi đây.
Tháp cũ, đình xưa dựng trên sông thu,
Đền hoang, mộ cổ trước mấy con lân đá.
Bản đồ thái bình ghi mấy ngàn dặm,
Non sông nhà Lý trải hai trăm năm.
Khách thơ nay trở lại đầu đã bạc,
Hoa mai như tuyết chiếu xuống sông trong).

Những vần thơ Trần Quang Khải để lại là những ánh hào quang, ghi dấu ấn của một sự nghiệp lớn trong cuộc đời vị Thượng tướng nhà Trần - vừa làm thơ, vừa đánh giặc.

Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 26-01-2003   #6
Ảnh thế thân của LsB-DuongGiaDeNhatBao
LsB-DuongGiaDeNhatBao
-=[ Lương Sơn Hảo Hán ]=-
Gia nhập: 06-09-2002
Bài viết: 88
Điểm: 105
L$B: 13.335
LsB-DuongGiaDeNhatBao đang offline
 
[center:cfea0b2121]5.Hoàng Hoa Thám [/center:cfea0b2121]
[center:cfea0b2121]Trương Văn Thám [/center:cfea0b2121]
[center:cfea0b2121](Mậu ngọ 1858 - Quí sửu 1913) [/center:cfea0b2121]

Anh hùng kháng Pháp, tức Hoàng Hoa Thám. Thuở trẻ còn có tên là Trương Văn Nghĩa, con Trương Văn Thân và Lương Thị Minh, quê làng Dị Chiến, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên (nay thuộc Hải Hưng).

Ông lập chiến khu ở vùng Yên Thế thuộc Bắc Giang (nay là Hà Bắc) nghiễm nhiên là vị Đề lĩnh kiệt hiệt trong phong trào Cần vương, nên tục gọi là Đề Thám với hỗn danh là Hùm xám Yên Thế.

Từ năm 1886, ông trở thành lãnh tụ nghĩa quân Yên Thế với chiến khu và địa bàn hoạt động quanh vùng Bắc Giang - Thái Nguyên - Hưng Hóa, khiến giặc Pháp kinh hoàng. Giặc Pháp phối hợp với Tổng đốc tay sai Lê Hoan một mặt đàn áp một mặt chiêu hàng, nhưng chúng vẫn không dẹp được ông. Đến năm 1894 chúng chịu điều đình và cắt nhượng cho ông 6 tổng gồm 22 làng ở Phồn Xương để ông lập đồn điền, lập khu tự trị đưa đến giải trừ quân bị.

Nhưng thật sự ông chỉ trá hàng chứ không buông vũ khí. Năm 1905 sau khi tiếp xúc với Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Phạm Văn Ngôn (Tú Nghệ) ông lại vùng lên kháng chiến chống Pháp quyết liệt hơn trước, địa bàn hoạt động cũng mở rộng hơn với tổ chức" Đảng Nghĩa Hưn"g và" Trung chân ứng nghĩa đạ"o do ông làm lãnh tụ, từ đấy suốt 8 năm ông tiếp tục chiến đấu, gay tổn thất nặng cho quân Pháp và toán quân tay sai do Lê Hoan cầm đầu.

Cuối cùng đêm 10-2 năm Quí sửu (18-3-1915) ông bị thuộc hạ là Lương Tam Kì phản bội ám sát ông tại một nơi cách chợ Gồ 2 cây số, hưởng dương 55 tuổi.

Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 26-01-2003   #7
Ảnh thế thân của LsB-DuongGiaDeNhatBao
LsB-DuongGiaDeNhatBao
-=[ Lương Sơn Hảo Hán ]=-
Gia nhập: 06-09-2002
Bài viết: 88
Điểm: 105
L$B: 13.335
LsB-DuongGiaDeNhatBao đang offline
 
[center:c73094fb4b]6.Trương Vĩnh Ký[/center:c73094fb4b]

Tháng 7-1867, tờ báo Việt Nam đầu tiên ra mắt độc giả lấy tên là Gia Định công báo do Tiên hiền Trương Vĩnh Ký làm chủ nhiệm. Ông Trương Vĩnh Ký, hay còn gọi là Pétrus Ký, sinh ngày 6-12-1836 tại thôn Cái Mơn, xã Vĩnh Thành, huyện Tân Minh, tỉnh Vĩnh Long. Từ nhỏ ông đã học chữ Nho, chữ Quốc ngữ, sau đó được một linh mục đưa đến Cái Nhum trên đất Campuchia học chữ Latinh. Từ năm 1851 - 1858, ông học ở trường đạo Pinang trên đảo nhỏ Pulo-Pinang thuộc ấn Độ Dương rồi qua Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Đức và ý.

Trương Vĩnh Ký là người thông minh, uyên bác, có thể đọc và nói giỏi 15 thứ tiếng phương Tây và 12 thứ tiếng phương Đông, tổng cộng 27 thứ tiếng nước ngoài. Ông là hội viên các hội khoa học: Hội nhân chủng và khoa học miền Tây nước Pháp, Hội chuyên nói các tiếng phương Đông, Hội chuyên khảo văn hóa á Châu, Hội địa lý học Paris... Đường thời, Trương Vĩnh Ký được báo chí và giới học giả nước ngoài liệt vào hàng thứ 17 trong danh sách "Toàn cầu thập bát văn hào". Cuộc đời và sự nghiệp nghiên cứu khoa học, sáng tác văn thơ, làm báo, hoạt động xã hội... của Trương Vĩnh Ký vẫn còn nhiều điều chưa được làm rõ. Vì sao ông đang ở trong Viện Cơ mật Nam triều, làm giám quan cố vấn cho Vua Đồng Khánh lại bỗng nhiên bị bạc đãi, bỏ rơi, phải về sống ở Chợ Quán - Sài Gòn trong cảnh nghèo túng với tâm trạng bi quan, tuyệt vọng? Ông mất ngày 1-9-1898, thọ 62 tuổi, nhưng có tài liệu nói do chết bệnh, có tài liệu nói tự tử, thậm chí có tài liệu còn nghi ông bị ám hại (?). Khối lượng tác phẩm đồ sộ của ông để lại khoảng 118 bộ sách đã xuất bản và rất nhiều công trình còn đang dở dang. Những sách biên soạn, khảo cứu hay sưu tầm, phiên âm của ông đã đóng góp không nhỏ vào nhiều ngành khoa học xã hội, đặc biệt là ngôn ngữ và lịch sử. Phần văn thơ sáng tác của ông đáng chú ý nhất là tập bút ký bằng chữ Quốc ngữ Chuyến đi Bắc Kỳ năm ất Hợi (1878) được xem như kinh điển cho các nhà báo tham khảo sau này về thể loại ký, phóng sự bằng chữ Quốc ngữ. Đáng tiếc, rất nhều trước tác của Trương Vĩnh Ký nay đã bị thất lạc, không còn đầy đủ hoặc nằm ở thư viện nước ngoài.

Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 26-01-2003   #8
Ảnh thế thân của LsB-DuongGiaDeNhatBao
LsB-DuongGiaDeNhatBao
-=[ Lương Sơn Hảo Hán ]=-
Gia nhập: 06-09-2002
Bài viết: 88
Điểm: 105
L$B: 13.335
LsB-DuongGiaDeNhatBao đang offline
 
[center:deb20e13b0]7.Nguyễn Quán Nho[/center:deb20e13b0]

Nguyễn Quán Nho, sinh năm 1637, mất năm 1708, quê ở làng Vạn Hà, huyện Thuỵ Nguyên (nay là xã Thiệu Hưng, huyện Thiệu Yên). Ông là một danh thần xuất sắc của triều Lê, cuối thế kỷ 17, (đời Lê Huyền Tông). Đời hoạt động chính trị của ông được mọi người công nhận là mẫn cán, liêm khiết và nhất là giản dị, khoan dung. Ông quan tâm đến dời sống nhân dân, thường lo lắng sinh hoạt của quần chúng. Sau khi đỗ tiến sĩ năm 1667, ông được bổ làm quan ở các tỉnh ngoài Bắc, rất được mọi người quí mến. Đến nỗi, có lần ông được nghỉ phép về quê lâu năm, vùng Bắc đã truyền tụng câu ca dao lưu luyến:

Chàng về Vạn, Vạc chàng ơi
Con chàng bỏ đói ai nuôi cho chàng?


Nhân dân xưng mình là "con" vì họ coi quan có đức là quan phụ mẫu. Vạn là làng Vạn Hà (nay là xã Thiệu Hưng). Vạc nay là xã Thiệu Đô. Câu ca dao tưởng như lời tâm sự của người vợ xa chồng, nhưng chính là chỉ vào Nguyễn Quán Nho khi tạm biệt nhiệm sở, để lại cho dân chúng cả một niềm nuối tiếc.

Khi được thăng chức, làm việc ở triều đình Nguyễn Quán Nho dù có chức vị cao, vẫn giữ nguyên phong cách bình dị và đôn hậu của mình. Ông đã trải qua các chức ngự sử, thị lang, rồi lên đến Thượng thư bộ Binh, thượng thư bộ Lễ, đứng vào hàng tham tụng (tể tướng). Ở vị trí nào, Nguyễn Quán Nho cũng giành được cảm tình tốt đẹp của nhân dân.

Lúc này, cùng làm quan đồng triều với ông có Lê Hy, người xã Thạch Khê (nay thuộc xã Đông Hoàng, Đông Sơn, Thanh Hoá). Lê Hy là nhà sử học danh tiếng, nhưng lại là người quá khắc nghiệt. Ông cũng giữ chức tham tụng, phụ trách thượng thư bộ Hình. Dư luận thường so sánh Lê Hy với Nguyễn Quán Nho, đã có câu ca :

Tể tướng Lê Hy, thiên hạ bi sầu
Tể tướng Vạn Hà, thiên hạ âu ca

Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 26-01-2003   #9
Ảnh thế thân của LsB-DuongGiaDeNhatBao
LsB-DuongGiaDeNhatBao
-=[ Lương Sơn Hảo Hán ]=-
Gia nhập: 06-09-2002
Bài viết: 88
Điểm: 105
L$B: 13.335
LsB-DuongGiaDeNhatBao đang offline
 
[center:5cab7340d0]8.Lê Nghĩa - Ông già chép sử trong viện hàn lâm [/center:5cab7340d0]
[center:5cab7340d0]
(truyện lịch sử)
[/center:5cab7340d0]

Đời Lê Thánh Tông có viên sử quan tên Lê Nghĩa. Ông già, người gầy guộc, nhỏ thó. Mái đầu bạc trắng, lưa thưa vài sợi tóc, râu cằm cứng bết lại thành một đám vểnh nhọn lên như cái mũi mác. Chẳng hiểu ông có gia đình vợ con gì không, hay nhà xa, suốt ngày chỉ quanh quẩn trong Hàn lâm viện, biên biên chép chép. Chiều đến, khi hoàng hôn xuống, tím ngắt kinh thành, ông ngồi lặng tờ như cái bóng, nhâm nhi chén rượu suông. Những lúc như thế, có cảm tưởng ông già mảnh khảnh, như sắp tan hoà vào không gian bảng lảng, u tịch của chiều hôm.

Vào một buổi chiều thu, ông già chép sử một mình cặm cụi trước một trang sách ố vàng đầy bụi bặm. Dường như tất cả nhãn lực, cùng trí não, tâm hồn ông đều tập trung vào nội một chữ "Trần" hình thành bởi hai chữ Đông và A ghép lại. Cái mẫu tự có cấu trúc kỳ lạ, có thể viết thành một cuốn sách ngõ hầu bổ sung và mở mang thêm kiến văn cho các bậc thức giả vốn đã uyên thâm, lịch duyệt.

Ông làm việc say mê đến nỗi không biết có một người từ trong cung đi ra và đang thẳng bước tới Viện. Khách cũng đã dặng hắng ba lần, kính cẩn chào tới ba lần, nhưng đều không được đáp lại, còn lúc này đã đứng sát ngay trước mặt mà ông già vẫn chưa hay biết.

- Kính chào sử quan!

Nghe tiếng chào, ông già giật mình ngẩng lên.

- Tôi là nội quan hầu cận Hoàng thượng. Hoàng thượng sai tôi đến Hàn lâm viện để mượn "Thực lục".

- Thực lục! - Lê Nghĩa khẽ kêu lên, ngạc nhiên, không dấu được vẻ sợ sệt, hốt hoảng - Sách Thực lục là sách sử gia ghi chép các công việc của vua làm hàng ngày, không ai được xem.

Nội quan nói:

- Nhưng đây là lệnh vua. Vua sai tôi...

- Vua càng không được tuỳ tiện - Lê Nghĩa cắt ngang lời nội quan, giọng dứt khoát - Tôi là sử quan trong Viện hàn lâm không thể không giữ nghiêm quy chế đã ban hành, ông về lựa lời tâu vua như thế.

Xem thái độ và lời nói cương quyết của ông già sử quan, viên nội quan đành phải rút lui ra khỏi Viện.

Việc đến đó tưởng là xong. Không ngờ hôm sau đích thân vua Lê Thánh Tông vào Viện tìm gặp Lê Nghĩa:

- Hôm qua ta sai nội quan đến hỏi mượn sách, sao nhà ngươi từ chối là nghĩa thế nào? Có phải vì không có tín bài chăng?

- Tâu Hoàng thượng, phải thế mà cũng chẳng phải thế. Việc hệ trọng, quan được vua sai đi làm mà không có tín bài, ai dám tin. Vả lại dẫu Hoàng thượng có trao tín bài cho nội quan thì thần cũng không dám làm việc khinh suất. Lệ đã định...

Không để Lê Nghĩa tâu trình tiếp, vua Thánh Tông đã gạt đi:

- Ta biết rồi. Nhà ngươi biết giữ gìn phép nước. Khá khen đấy. Nhưng ta chỉ muốn xem qua, không có ý định can thiệp vào những công việc của sử thần thì có hề gì.

- Hoàng thượng là bậc minh quân, từ ngày lên ngôi làm nên bao công nghiệp rỡ ràng được bốn phương hướng về. Ngoài, giữ yên bờ cõi. Trong, dân tình no đủ, văn học chưa thời nào phồn thịnh như bây giờ, khiến cho kẻ sĩ hết thảy đều hớn hở, nức lòng. Thần tin yêu Hoàng thượng nhưng càng tin yêu chúa mình bao nhiêu, các bề tôi càng phải giữ mình, không được một mảy may sai sót.

Vua Thánh Tông căng trán, nhíu mày. Đoạn nhà vua hỏi:

- Này Lê Nghĩa! Ta hỏi thực nhé! Sử cũ chép: Trước kia Phòng Huyền Linh làm sử quan. Đường Thái Tông muốn xem Thực lục, Huyền Linh không cho xem. Nay ngươi với Huyền Linh thì ai hơn?

Lê Nghĩa kiêu hãnh đáp:

- Sự kiện ở cửa Huyền Vũ, Đường Thái Tông giết Kiến Thành và Nguyên Cát, Phòng Huyền Linh chỉ dám chép qua loa mập mờ, chung chung là "sự kiện ngày mồng 4 tháng 6" thôi. Thế mà khi Đường Thái Tông xem, bắt phải viết lại cho rõ ràng. Như vậy thì thần cho rằng Huyền Linh cũng vẫn chưa phải là hiền thần!

- Ta hiểu rồi. Như vậy là nhà ngươi tự coi mình còn hơn Huyền Linh, còn ta thì không được như Đường Thái Tông. Ta không thể bắt bẻ được những điều ông nói. Nhưng sao ông vẫn không hiểu được thiện ý của ta. Ta chỉ cốt xem lại những ghi chép hàng ngày của các sử gia để còn biết trước đây có lỗi gì để còn sửa được.

Lê Nghĩa thấy vua đã nhận ra lẽ phải, nhưng vì vẫn chưa vượt qua được thói thường tò mò, nên cố nài thêm đó thôi. Viên sử quan già dịu giọng tâu lên:

- Muôn tâu chúa thượng! Thánh chúa mà muốn sửa bỏ lỗi lầm, đó là phúc lớn vô hạn của xã tắc. Ngoài ra nếu bệ hạ suốt ngày chỉ lo điều hay thôi thì cần gì phải để mắt đến quốc sử. Còn nếu như bệ hạ quyết xem thì cho phép thần được ghi một câu: "Ngày... tháng... năm... này, đức vua vào Hàn Lâm viện đòi Lê Nghĩa cho xem Thực lục. Sử quan họ Lê quyết một lòng bảo vệ phép nước nhưng không được. Đành phải tuân theo".

Lê Thánh Tông lâm vào tình thế tiến thoái lưỡng nan. Vua nhìn viên sử quan già nua mảnh khảnh bé như cái tăm, bộ râu cằm cứng đờ vểnh cong lên ra tuồng cao ngạo, mà vừa yêu vừa ghét.

Trả lời kèm theo trích dẫn
Trả lời


Quyền sử dụng
Huynh đệ không được phép tạo chủ đề mới
Huynh đệ không có quyền gửi bài trả lời
Huynh đệ không được phép gửi file-gửi-kèm
Huynh đệ không được phép sửa bài của mình

BB code is Mở
Smilies đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt
Chuyển nhanh đến:

 
Copyright © 2002 - 2010 Luongsonbac.club
Thiết kế bởi LSB-TongGiang & LSB-NgoDung
Loading

Múi giờ tính theo GMT +7. Hiện giờ là 10:37
vBCredits v1.4 Copyright ©2007 - 2008, PixelFX Studios
Liên hệ - Lương Sơn Bạc - Lưu trữ  
Page generated in 0,11612 seconds with 14 queries